Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 65

July 4, 2018

Phan Chính: “Giếng Nguồn Chung” (*)

 


“Giếng Nguồn Chung” (*)


Có lẽ thời tiết trong khu vực biển này từ cuối giêng đều êm ả, dịu dàng. Mặt biển phẳng lặng không một gợn sóng và trong suốt có thể thấy được lớp cát dưới nước. Biển ngày nào hung hãn nổi sóng, tung bọt trắng xóa đập vào bờ nay lại mượt mà, phẳng lặng của “mặt nước hồ thu”. Phải thức với biển cùng lúc mặt trời vừa nhô lên ở hướng mũi điện Kê Gà mới cảm nhận được sức quyến rũ của một không gian biển trời kỳ diệu. Mặt trời đỏ hửng như chầm chậm lăn tròn không thể lẫn lộn với gam màu nào từng có ở những bức tranh tuyệt tác. Đường chân trời giữa mặt biển khơi xa với vầng mây lấp lánh sắc màu đang tan loãng vào lòng đại dương vô tận.


Từ rất sớm khi mặt trời chưa lên, nhiều người đã rải rác trên bãi cát với những động tác vươn vai, hít thở như sợ cạn đi cái không khí quý giá của ban sớm trong lành. Tôi lẩn trong tốp người dẫm lên bờ nước đang rút, hướng về ngảnh Tam Tân để nghe cái cảm giác của đôi bàn chân trần ngập bởi lớp cát mềm mát rượi. Bãi biển ở đây trải rộng phẳng phiu chạy dọc dài theo đồi cát trắng hoang sơ, đôi chỗ là bãi vỏ chang chép như tấm khảm xà cừ của thiên nhiên thời sơ nguyên còn sót lại. Từ Đồi Dương đi chừng 2 cây số, tôi nhận ra bụi dứa cô đơn đã bị cát bồi lấp đến nửa thân cây trên động cát trắng cuối dự án Khu du lịch Sài Gòn-Hàm Tân xây dở dang trông như ngôi đền cổ hoang phế. Bụi dứa vẫn còn xanh lá nhưng khe nước ngọt ngày xưa chắc chắn chỉ ngầm chảy dưới lớp cát vô tình. Tôi chợt nhớ đến câu thơ của Ngu Í Nguiễn Hữu Ngư : “Nằm đây mà ngó lên trời/ Lá cây dứa đã mấy đời đong đưa/ Nằm đây mà nhớ mơ hồ/ Những xanh tóc ấy bây giờ về đâu…” Theo bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc gọi tác giả là cậu ruột, kể rằng năm 1960 cậu Ngu Í về quê Tam Tân cải táng mộ song thân, khi đến Nước Nhỉ nằm nghỉ dưới tàng cây dứa sum suê bóng mát, bên cạnh đống gạch xây giếng đã vỡ vụn mà hồi tưởng thời tuổi thơ và thân phận đời người rồi có những câu thơ lục bát đến bàng hoàng.


Bài thơ viết về Giếng “Nguồn Chung” của Nguiễn Ngu Í trong tập …”QÊ HƯƠNG”… 1969


 


Bìa tập “…QÊ HƯƠNG”…
(Saigon, 1969)


Thuở xưa, người dân La Gi đi lên Tam Tân, Tân Thành hoặc trên đường ra Phan Thiết thì bờ biển là con đường bộ duy nhất. Nguồn nước ngọt chỉ có trong đất liền rừng rú bên kia động cát có nhiều thú dữ, cho nên chỗ mạch Nước Nhỉ này trở nên quý hiếm cho khách bộ hành và họ đã tạo thành giếng nước cạn. Chỉ dùng hai bàn tay bụm nước hay dùng chiếc nón lá múc lên để uống. Được gọi là giếng từ khi nhóm thanh niên Hướng đạo các làng La Gi, Phong Điền, Tam Tân cùng nhau dùng xe bò chở gạch đi xây giếng để giữ mạch nước trong trẻo và đầy tràn hơn. Năm đó vào khoảng 1944 và được đặt tên là giếng Nguồn Chung. Cảnh quan ở đây rất đẹp bởi có đồi cát cao chập chùng đan xen những mảng xanh rau muống biển và hoa nắng cỏ long chong. Giếng nằm cuối dãy rừng dương xanh chạy dài tít tắp đến tận làng chài Tân Long.


Người xưa thấy mạch nước ngọt xuất lộ ngay bờ biển dưới chòm cây dứa um tùm là một hiện tượng lạ lùng vì cạnh đó khi moi xuống lớp cát sâu chỉ toàn là nước mặn của biển cho nên nghĩ có gì đó bí ẩn khác thường. Có người liên tưởng đến Hòn Bà đang sừng sững trên sóng biển mênh mông với huyền thoại ly kỳ lại càng thêm cảm nhận cái hồn thiêng thấp thoáng trong dòng nước ngọt ngào tuôn chảy từ chân động cát trắng. Nay với cách giải thích về địa lý, bên kia động cát có một bàu nước tên gọi Bàu Giòi, nay thuộc xã Tân Tiến (La Gi) tích tụ nguồn nước từ núi Đất, Lồ Ồ chảy xuống và tạo thành mạch nước ngầm xuyên qua động cát trổ ra, đó là giếng Nguồn Chung.


Cũng liên quan đến giếng Nước Nhỉ này, năm 1917 có một chiếc bè chở 6 người tù Côn Đảo vượt biển sau 6 ngày lênh đênh, đói khát tấp vào đây. Nhờ mạch nước ngọt trong chân động cát nhỉ ra mà lấy lại sức, tỉnh táo tìm đường ra xóm Tam Tân. Cũng tại đây họ gặp hương sư Nguyễn Hữu Hoàn, cha của Ngu Í người quê Hà Tĩnh lánh nạn vào Tam Tân và làm nghề dạy học. Nhận ra người đồng hương, ông giáo Hoàn đã cứu thoát khỏi sự truy lùng của hương chức làng, trong số đó có Hy Cao Nguyễn Đình Kiên, tức Tú Kiên là nhà cách mạng trong phong trào Đông Du có những hoạt động ảnh hưởng tốt đến phong trào cách mạng tỉnh Bình Thuận.


Ngày nay, không còn mấy ai nhớ đến con đường “bộ hành” men theo bờ biển để đi lại nữa. Nhưng địa danh Nước Nhỉ vẫn còn dù nằm lẩn khuất dưới một dự án đồ sộ với tên gọi sang trọng hơn. Cái ý nghĩa rất nhân văn khi mạch nước ngọt thiên nhiên ngày nào đã hiện diện một cách khiêm nhường trong đời thường của người dân vùng biển La Gi.


PHAN CHÍNH


(nguồn: báo Bình Thuận)


(*) Tựa www.dohongngoc.com


 


Viết thêm: Đây là bài thơ Đỗ Hồng Ngọc viết tặng Nguiễn Ngu Í, 1990


 


Tác giả: Đỗ Hồng Ngọc (trong Thơ Ngắn Đỗ Nghê)


 


Bãi biển LaGi. Đi dọc biển về hướng Bắc chừng 2km là khu vực Nước Nhỉ (nơi có Giếng Nguồn Chung).
Tranh: Đỗ Hồng Ngọc (12.1997)


 


 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 04, 2018 19:13

July 2, 2018

Chương trình Phật Học & Đời Sống đợt I.

 


Chương trình PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG


Thân gởi các anh chị, các bạn,


Trước hết, chúng ta phải cảm ơn nvquyen và bà xã (Nga) đã tự nguyện bỏ công sức quay toàn bộ Video clip cho các buổi sinh hoạt của chúng ta vào mỗi chiều Thứ bảy tại Chùa Xá Lợi và post lên để  chúng ta được dịp xem kỹ lại cũng như để chia sẻ cùng bè bạn khắp nơi, (nvquyen cho biết đã có hơn 1500 bạn ‘tham dự’ từ xa).


Trước khi Chương trình “Phật học & Đời sống” chuyển qua Đợt II vào Thứ bảy ngày 7.7.2018 sắp tới, nvquyen lại có sáng kiến tổng hợp tất cả các video clip theo trình tự để post lên hôm nay.


Tất cả có 26 video clips đã được tổng hợp dưới đây ( riêng 3 buổi sinh hoạt cuối tháng 6 dành để chia sẻ, trao đổi, giải đáp thắc mắc nên không quay clip).


nvquyen cũng chia sẻ nơi đây một vài comments như một cách “động viên” nhóm thực hiện cố gắng tiếp tục Chương trình Phật học & Đời sống này.


Trong Đợt I, chúng ta đã học những vấn đề cơ bản (Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, Duyên Khởi, Từ Bi Hỷ Xả, Nghiệp, Phước…) thì ở Đợt II, chúng ta sẽ mở rộng, thảo luận các lời dạy trong Kinh sách, chú trọng phần Ứng dụng trong đời sống hàng ngày.


Nhắc lại, Đợt II vào ngày Thứ bảy, 7.7.2018 lúc 15-16h30 nhé.


Mời các bạn tham dự.


Thân mến,


BS Đỗ Hồng Ngọc.


……………………………………………………………………………………………………………..


 


Chương trình Phật Học & Đời Sống đợt I.


Từ ngày 7.10.2017 đến 30.6.2018


Mỗi Thứ bảy từ 15-16h30 tại Chùa Phật học Xá Lợi Saigon,


89 Bà Huyện Thanh Quan, Quận 3, Tp HCM


Phụ trách: Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, Cư sĩ Tô Văn Thiện, Cư sĩ Minh Ngọc


Video clip: nvquyen.


 


Kỳ 1: Dẫn nhập chương trình Phật học và đời sống:



Kỳ 2 :Phật học và đời sống:



Kỳ 3: Tứ Diệu Đế



Kỳ 4: Tứ Diệu Đế (tt)



Kỳ 5: Tứ Diệu Đế (tt)



Kỳ 6: Tứ Diệu Đế (tt)



Kỳ 7: Tứ Diệu Đế (tt)



Kỳ 8: Bát Chánh Đạo



Kỳ 9: Bát Chánh Đạo(tt)



 


Kỳ 10: Bát Chánh Đạo: Tứ Niệm Xứ



Kỳ 11: Bát Chánh Đạo (tt)



Kỳ 12: Bát Chánh Đạo (tt)



Kỳ 13: Bát Chánh Đạo (tt)- Anapanasati “An-ban thủ ý”



Kỳ 14: Duyên khởi (Thập nhị nhân duyên)



Kỳ 15: Duyên khởi (Thập nhị nhân duyên)-tt



Kỳ 16: Duyên khởi (Thập nhị nhân duyên)-tt



Kỳ 17: Tứ vô lượng tâm  (Từ-Bi-Hỷ-Xả)



Kỳ 18: Tứ vô lượng tâm (Từ-Bi-Hỷ-Xả)-tt



Kỳ 19: Tứ vô lượng tâm (Từ-Bi-Hỷ-Xả)-tt



Kỳ 20: Từ bi với chính mình



Kỳ 21: Từ bi với chính mình (tt)



Ky 22: Từ bi với chính mình (tt)



 


Kỳ 23 Hô hấp và 16 hơi thở Thân-Thọ-Tâm-Pháp



Kỳ 24: Nghiệp



Kỳ 25: Chuyển Nghiệp



Kỳ 26: Phước và tu Phước



 


……………………………………………………………………………………………………………………..


Một vài comments:


 


Lâm Hoàng 18 hours ago


Vừa là bs vừa là tu sĩ,tuyet diệu.. cam on bs.


Thưa bs … bản chất của thiền mà bs đã trình bày rât đồng ý… và đã thưc tap. cam ơn tât cả


Mong rằng chương trình này có hàng ngày….


Đung đo.. thở bằng bụng ap dụng đươc cho tu thiền đinh… cac ban thử đi.. tôi dùng no đc 8 năm..co hiêu quả cao.


Lâm Hoàng 3 days ago


Rât vui, rât hay, rât thú vị..


Ngoài kien thưc thế trí biên thông… còn có thêm tâm niêt bàn ,tâm này có sẵn trong mọi người.. đo là tâm Phât của mỗi người…..


Nghe khg chỉ để nghe, mà phải nghe như thế nào, khg đơn thuần nghe như sự giải trí!..


Lâm Hoàng 3 days ago


Môt vi sư ẩn tu.. nhận đinh theo giáo pháp của đưc phat rât khoa học ,rat đươc trân trọng,..


Hoàng Tuấn Anh 1 week ago


con cảm ơn


Thuận Đinh 2 weeks ago


ko biết sử dụng ngôn từ như thế nào để diễn tả những xúc cảm đang chảy trong con.vô cùng xúc động


Lap Tran 1 week ago


Cảm ơn những bạn upload Video này. Phước Báu Vô Cùng. Vì những lời giải thích của Bs Đỗ Hồng Ngọc về giáo lý Đất Phật dễ hiểu,vì phần lớn kinh Phật đa phần là từ Hán Việt chỉ những vị Thầy có học Hán Việt mới hiểu, với Tôi ,khi nghe BS ĐHN giảng về hơi thở và Thiền là một…..tôi đã thực tập 1 tuần …..kết quả ngoài sức tưởng tượng .Tôi có Hạnh Phúc và sự Bình An trong suốt thời gian Thiền và Thở. Xin Trân trọng cảm ơn Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc.


Thuận Đinh 3 weeks ago


cảm ơn bác sĩ, cảm ơn thầy Minh Ngọc, cảm ơn những buổi sinh hoạt của các quý cô chú đã làm nảy nở trong lòng con những hạt giống thiện lành khiến một kẻ ngoại đạo như con vô cùng yêu mến Phật pháp khát khao được bước chân vào con đường đạo mà chẳng biết bắt đầu từ đâu.nếu có duyên lành được bác chỉ dạy con mong bác hãy giúp con


evangeline S 4 weeks ago


Con cảm ơn Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, Bác Vquyen, Bác Minh Ngọc, Ban tổ chức vì thêm một bài giảng về karma – một chủ đề con thấy thật khó ạ


evangeline S 1 month ago


Con xin thật cảm ơn Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, Bác Vquyen , và ban tổ chức đã quay clip lại buối ” Học Phật” giúp con hiểu hơn về Phật Giáo. Con có thể hỏi những câu hỏi sau: Khóa học đã kết thúc chưa ạ? Liệu sẽ còn những khóa học tiếp theo không ạ? Con có thể tham gia không ạ? Nếu được, cách đăng kí như thế nào ạ?


Hung Nguyen 2 months ago


Con xin cảm ơn Thầy ! Một vị Thầy,một vị Bác sỹ có tấm lòng từ bi bác ái thông thái vô cùng…!!!


evangeline S 2 months ago


Cảm ơn bạn @vquyen đã cho mình nghe Idol của mình giảng giải về chủ đề mình yêu thích


Thuận Đinh 2 months ago


cảm ơn bạn đã mang đến những vi deo vô cùng quý giá vô cùng nhân văn


Tiến Thành Đinh 2 months ago


bác sĩ có một năng lượng rất bình an! khiên người khác dễ chịu, tu giỏi quá


Trần Đình Nguyên Phúc 2 months ago


bác sĩ thuyết rất hay và rất khoa học


Hung Nguyen 3 months ago


Bồ tát sửa Tâm, Bác sỹ sửa Thân. Thầy Ngọc sửa cả Tâm và Thân.xin chân thành cảm ơn Thầy !


 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 02, 2018 21:56

Nhớ Nguyễn Hiến Lê

 


Nhớ Nguyễn Hiến Lê


Đỗ Hồng Ngọc


 


“Hà Nội mùa thu, cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ, nằm kề bên nhau, phố xưa nhà cổ, mái ngói thâm nâu… Hà Nội mùa thu… Mùa thu Hà Nội…Nhớ dến một người… ”


(Hà Nội mùa thu- Trịnh Công Sơn).


Tạp chí Văn Hóa Phât Giáo, Số 300, ngày 1.7.2018


“Nhớ đến một người” đó, với tôi, là nhớ Nguyễn Hiến Lê, một người Hà Nội, một học giả, một nhà trí thức chân chính ngày nay được cả nước biết đến. Nhưng nói Nguyễn Hiến Lê người Hà Nội chỉ đúng… một phần ba, vì tuy sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, lúc mới 22 tuổi, ra trường Công chánh, ông đã khăn gói vào Nam nhận nhiệm sở để rồi sống luôn ở đó suốt nửa thế kỷ cho đến ngày mất, năm 1984, khi vừa 72 tuổi. Nửa thế kỷ dằng dặc đó của một đời người, ông đã chẳng lúc nào nguôi quên Hà Nội của tuổi thơ ông.


Còn nhớ năm 1978, tôi có dịp lần đầu tiên ra Hà Nội dự một hội nghị về y học. Hà Nội không hề xa lạ với tôi. Tôi như thuộc lòng từng ngõ ngách, từng phiến đá, từng mái tranh gốc rạ, từng phố xá thân quen… cũng nhờ từ nhỏ đã sống với tác phẩm của Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Nhất Linh, Khái Hưng… những buổi chiều vàng, những gánh hàng hoa, những anh phải sống… rồi với cả những người xa Hà Nội như Mai Thảo, như Vũ Bằng… Hà Nội với tôi còn là “Cùng ngước mắt về phương Thăng Long thành cao đứng…” rồi “Hà Nội ơi, hướng về thành phố xa xôi, ánh đèn giăng mắc muôn nơi, áo màu tung gió chơi vơi…” …


Tôi lẻn khỏi hội nghị đến thăm Văn Miếu, lòng lâng lâng như đi giữa ngàn xưa và bỗng nhớ Nguyễn Hiến Lê, nhớ một câu ông viết từ những năm 50  rằng bằng cấp không phải là thước đo giá trị của một con người. Có những người có tên trong văn bia tiến sĩ ở Văn Miếu mà chẳng mấy ai còn nhớ, trong khi những Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Chu Manh Trinh, Tản Đà, Tú Xương… luôn được người đời nhắc đến…


Tôi đến Bưu điện Hà Nội gởi ngay cho ông một tấm bưu thiếp. Chỉ viết mấy dòng vắn tắt. Cũng chẳng hy vọng gì nó đến được trong thời buổi đầy khó khăn này. Vậy mà hơn một tháng sau, Nguyễn Hiến Lê nhận được bưu thiếp và ông trả lời:


Saigon 3/11/78

Thân gởi cháu Ngọc,

Hôm qua tôi được bưu thiếp cùa cháu gởi từ Hà Nội ngày 29/9. Cảm động nhất là câu: “Cháu đến thăm Văn miếu , nghĩ đến bác nhiều”. Tôi hiểu rồi chắc cháu nhớ một đoạn cuối tập Bí quyết thi đậu của tôi. Cảm ơn cháu nhiều lắm. Cháu hiểu tôi. Cháu làm tôi nhớ hồi trẻ tôi học ở trường Bưởi (Chu Văn An) ngoài đó quá. Cháu có xem Hồ Tây, chùa Quan Thánh, đường Cổ ngư (nay là đường Thanh Niên?) không? Trường Bưởi của tôi ở bên bờ Hồ Tây đấy. Mà trường Yên Phụ (tiểu học) của tôi ở trên bờ hồ Trúc Bạch trông ra đường Cổ ngư đấy.


Đứng trên đường này nhìn về phía Bắc sẽ thấy núi Tản Viên, quê tôi ở gần chân núi đó. Nhớ quá đi. Cháu có đi thăm đền Ngọc Sơn, đền Voi Phục, chùa Láng … không? Toàn những cảnh mà hồi trẻ tôi mê.


Mê nhất là cái sắc trời, cái không khí trong trẻo, những làn sương lam nhẹ là là mặt đât, ngọn gió hây hẩy, những lá vàng, làn nước xanh, hương lúa của mùa thu ngoài đó. Toàn là những teintes douces, gợi những tình cảm buồn buồn mà nên thơ, nên thơ lắm. (…)


Nhớ lại trước đó nữa, đầu năm 1974, tôi gởi ông bài thơ mới viết: Đi cho đỡ nhớ, ghi lại cảm xúc của mình trong ngày đầu tiên trên chuyến xe lửa nối liền Saigon- Biên Hòa mà mơ một chuyến tàu Nam-Bắc… Ông trả lời:


Saigon 30/1/74

Cháu Đỗ Hồng Ngoc,

Tôi mới ở Long Xuyên lên. Bài “Đi cho đỡ nhớ” cảm hứng mới mẻ đấy, mà thú. Đọc hoài thơ yêu nhau và nhớ nhau, với thơ chiến tranh, ngán quá rồi. Nhưng cháu làm cho tôi thèm đi quá. A, bao giờ Saigon mới được nối với Hà Nội bằng xe lửa đây? Lúc đó tôi sẽ bỏ hết các công việc, nhờ cháu làm revision générale cho bộ máy của tôi, rồi lên xe lửa thăm non sông Nam, Trung, Bắc một lần cuối cùng. Sẽ uống dừa Tam Quan, ăn cam Xã Đoài, rồi ăn nhãn Hưng Yên, hồng Bạch Hạc, cốm Vòng v.v.. Thèm không cháu?(…)



 


Ông thường nhắc trong thư cảnh núi Tản hùng vĩ, cảnh ngã ba Bạch Hạc mênh mông mùa nước lớn, cảnh đồng ruộng văng vẳng tiếng sáo diều và thoang thoảng hương lúa, cảnh chợ quê lèo tèo mấy gian cột tre mái rạ với những quán chè tươi… làm tôi cũng nhớ quá!


Cơ hội đã đến với ông. Năm 1979, ông được mời đi dự Hội nghị khoa học toàn quốc về vấn đề Giữ gìn sự trong sáng trong tiếng Việt tại Hà Nội, thế nhưng lần đó ông không đi được vì bệnh. Rồi thôi, không còn dịp nào nữa!


22.10.79

Cháu Ngọc,

Tôi đã bỏ ý ra Hà Nội rồi. Cơ hội tốt, đáng tiếc thật. Nhưng ngại chỗ ở và ăn lắm, cũng ngại cuối Oct. thời tiết lạnh đau bao tử và rhinite trở lại. Cũng còn li do: ông Trương Văn Chình không được mời ra, không hiểu tại sao. Đi một mình, buồn.


(Ghi chú: Trương Văn Chình là người cùng hợp soạn với ông cuốn Khảo luận về Ngữ pháp Việt Nam. NXB Đại học Huế, 1963).


Rồi ông về ở hẳn Long Xuyên, quê hương thứ hai của ông ở miền Nam, ráng viết cho xong các tác phẩm triết học Trung Quốc mà ông nói là “hy vọng còn có giá trị trong vài mươi năm nữa”- và “cũng để bắt đầu óc phải làm việc” cho nó đừng sớm “lão hóa”. Cũng trong thời gian này, ông nói ông băn khoăn không biết có nên viết hồi ký hay không, và, nếu có viết thì sẽ viết những gì. Trong các thư riêng gởi tôi, ông tâm sự như thế và nghĩ rằng có lẽ cũng nên viết chút gì đó chừng vài trăm trang… Thế rồi Hồi ký Nguyễn Hiến Lê cũng như 120 tác phẩm của ông đã hình thành như ta được biết hôm nay.


Những năm cuối đời, ông thường ưu tư buồn bã, mà vẫn khôn nguôi nỗi nhớ quê xưa:


Nhớ lại hồi đó, mới đây thôi mà đã đúng như câu thơ cổ: ”Vạn sự tan như mây khói” cả rồi. Cả cái mộng đi một tua thăm Nam Trung Bắc cũng tan luôn nữa.

Tôi chưa về thăm ngoài đó….

(Long Xuyên 30.7.79)


 


Ông thường về Long Xuyên, quê hương thứ hai của ông, bùi ngùi nghe lại câu hò ngày xưa:


… chèo vô Núi Sập lựa con cá khô sặt cho thiệt ngon,

lựa trái xoài cho thiệt giòn,

đem ra Long Xuyên lựa gạo cho thiệt trắng, thiệt thơm,

em về em dọn một bữa cơm

để cho người quân tử

hò ơ… để cho người quân tử ăn còn nhớ quê…” [1]


Với tấm lòng như vậy, dễ hiểu tại sao mặc dù ông có điều kiện để đi xa – vợ con ông ở Pháp từ nhiều năm trước– nhưng ông chọn ở quê nhà, chết ở quê nhà (ngày 22/12/1984), và được hoả táng tại Thủ Đức.


***


Mười lăm năm trước đây (2003), nhóm chúng tôi có Trần Văn Chánh, Đỗ Hồng Ngọc, Lê Anh Dũng, Nguyễn Duy Chính, Trần Huiền Ân, Nguyễn Hướng Dương, Lê Ký Thương… đã làm một cuốn sách về Nguyễn Hiến Lê: Nguyễn Hiến Lê, Con người và Tác phẩm. Sách đã tuyệt bản từ lâu. Mới đây, Nhà xuất bản Tổng hợp Tp.HCM đã quyết định cho tái bản cuốn sách này với bổ sung từ các bài viết, phỏng vấn Nguyễn Hiến Lê của Nguiễn Ngu Í, Lê Phương Chi, Châu Hải Kỳ, Lê Anh Minh…


Đã có những nghiên cứu về sự nghiệp của Nguyễn Hiến Lê như luận văn thạc sĩ về “Vấn đề lao động nhà văn trong các trước tác của Nguyễn Hiến Lê” của Nguyễn Ngọc Điệp,  do GS Huỳnh Như Phương hướng dẫn và gần đây luận văn ghiệp nghiên cứu văn hóa, văn học của Nguyễn Hiến Lê” v.v…


Ảnh hưởng Nguyễn Hiến Lê ngày càng thấm sâu trên đất Bắc. Sáu năm trước (2012), tôi nhận được email của một bạn trẻ không quen biết từ Hà Nội, cho biết về chuyến “Hành trình Xuyên Việt vượt 2200km bằng xe máy tri ân thầy Nguyễn Hiến Lê”. Các bạn trẻ đi xuyên Việt bằng xe máy, từ Hà Nội vào thẳng chùa Phước Ân tại Lấp Vò, Đồng Tháp “để thắp hương tri ân tới thầy Nguyễn Hiến Lê”. Email viết: “sách của thầy Nguyễn Hiến Lê viết giản dị, chân thành, là thầy mà cũng như là bạn, chúng con rất vui là đã lan tỏa được sách của thầy tới anh em thanh niên, vì trước đây sách của thầy ngoài Bắc cũng hiếm ạ”. 


“…thực ra đối với thanh niên ở ngoài Bắc có thiệt thòi hơn trong Nam nhiều, là ít được tiếp xúc với sách của cụ Lê(…), chân thành mong muốn tri thức Nguyễn Hiến Lê đến gần hơn, giúp đỡ cho thanh niên được nhiều hơn (…).


Saigon, Tp HCM hiện nay cũng đã có một con đường mang tên Nguyễn Hiến Lê. Một cách ghi nhận công lao của một “người Hà Nội” đã sống và làm việc miệt mài suốt nửa thế kỷ ở miền Nam và đã để lại một di sản đáng quý góp một phần không nhỏ vào nền văn hóa nước nhà.


Và với riêng tôi, Nguyễn Hiến Lê còn để lại biết bao niềm trân trọng và trìu mến để tôi được “Nhớ đến một người” giữa “mùa hoa sữa về thơm từng ngọn gió” của Hà Nội hôm nay.


(ĐHN)


…………………………………………….


(1)   Hồi ký Nguyễn Hiến Lê


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 02, 2018 00:43

June 24, 2018

Thư gởi bạn xa xôi

 


Thư gởi bạn xa xôi: Chuyện sách,


Cảm ơn bạn đã gởi cho bài viết giới thiệu về mấy cuốn sách gần đây của mình trên VnExpress. Mình vẫn đọc tờ báo mạng VnExpress hằng ngày nhưng không để ý. Các bài viết tuy ngắn gọn, nhưng khá súc tích, nêu được những điểm cốt lõi của cuốn sách.


Xin chân thành cảm ơn.


Thân mến,


Đỗ Hồng Ngọc.


 


VnExpress Thứ hai, 3/9/2012


Đỗ Hồng Ngọc viết tùy bút về lời Phật dạy


Quyển ‘Thấp thoáng lời kinh’ vừa ra mắt của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc gửi gắm nhiều điều ông ‘ngộ’ từ Phật giáo.


Độc giả từng quen thuộc với Đỗ Hồng Ngọc qua các ấn phẩm như: Thư gửi người bận rộn, Nhớ đến một người, Gió heo may đã về, Già ơi chào bạn… Ở lần ra sách mới, vị bác sĩ viết văn tiếp tục chia sẻ với mọi người những điều ông suy nghiệm và thực hành trên chính cuộc sống của mình khi tiếp cận với Phật giáo.


 “Thấp thoáng lời kinh” viết về những lời Phật dạy dưới dạng như tùy bút. Cuốn sách thể hiện trải nghiệm của một bác sĩ thích đọc sách Phật, thích chiêm nghiệm quan sát cuộc đời dưới cái nhìn tích cực, được viết bằng lời văn nhẹ nhàng, ngôn từ giản dị. Mỗi trang sách mang đến cho bạn đọc cảm xúc về những điều giản đơn, đầy ý nghĩa trong cuộc sống.


Lý giải về việc ra mắt tác phẩm, Đỗ Hồng Ngọc kể: “Vào tuổi bảy mươi, một hôm giữa đêm khuya khoắt, loay hoay, bứt rứt, thấy phải nhanh tay ghi chép lại đôi điều thấp thoáng bấy nay… Sẵn cuốn tập bằng giấy dó trước mặt, rào rào viết không kịp thở, mỗi trang một lõm bõm, như một ghi chú cho riêng mình. Lần kia, người bạn ở tòa báo đòi bài gấp, bí quá, thử trích vài đoạn, ai ngờ bạn kêu tiếp đi, nhiều người đang đợi. Vậy là Thấp thoáng lời kinh xuất hiện… lai rai. Đôi người bạn không quen từ phương xa tình cờ đọc được, khuyên in đi, làm một món quà nhỏ…”


Chính vì sự tình cờ này, Đỗ Hồng Ngọc chỉ dám xem Thấp thoáng lời kinh như là những cảm nhận riêng tư, chủ quan về “đạo và đời” mà ông muốn chia sẻ đến mọi người.


…………………………………………………………………………………………………..


VnExpress Thứ ba, 24/6/2014


Đỗ Hồng Ngọc mỉm cười tự tại với ‘Ghi chép lang thang’


Soạn tâm thế an nhiên khi bước vào tuổi già, nhẹ nhàng đón đợi niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống… là điều mà trang viết của vị bác sĩ viết văn đem đến cho độc giả.


Đúng như tên gọi của tập sách, Ghi chép lang thang là tập hợp những bài viết ghi chép những điều mắt thấy, tai nghe, những cảm nhận chân thực, chia sẻ chân thành của Đỗ Hồng Ngọc trên đường “lang thang” với đời, với nghề.


Đó có thể chỉ là một buổi ông tìm kiếm băng đĩa ở một cửa tiệm nào đó để rồi thích thú phát hiện ra những tên gọi mới cho loại nhạc mà mình yêu thích: “Sến Già Nam”, “Sến Già Nữ”. Từ đó tác giả nói dài, nói rộng ra và hoài niệm về những bài hát, những tác phẩm âm nhạc nổi tiếng một thời mà bây giờ bị giới trẻ đóng mác là “sến”.


Với góc nhìn của một bác sĩ cũng như một người nghiên cứu, người làm văn hóa, tác giả giúp người đọc hiểu được sự quan trọng của việc một sinh linh bé bỏng hình thành trong cơ thể của người mẹ. Việc thay đổi tâm lý, tu tâm dưỡng tính của người mẹ để chuẩn bị đón đứa con sắp chào đời để rồi mới có câu “Con vào dạ, mạ đi tu”.


Tác giả cũng chia sẻ về những kỷ niệm, dấu mốc quan trọng trong cuộc đời mình, về cuốn sách của Nguyễn Hiến Lê đã làm thay đổi cuộc sống ông như thế nào. Cuốn sách đó giúp một cậu bé mười lăm tuổi, thất học, phụ mẹ bán hàng xén vượt qua mọi khó khăn, quyết tâm học hành và trở thành một bác sĩ, một nhà văn, nhà thơ, nhà văn hóa của ngày hôm nay. Từ chia sẻ ấy, con đường văn hóa của Nguyễn Hiến Lê được nối dài, “những hạt mầm đã vươn lên”.


Hay đó chỉ là những cảm xúc về vở kịch Thiên Thiên của Việt Linh. Những cảm nhận của bạn đọc cũng như suy nghĩ của tác giả về cuốn Già ơi… Chào bạn! của ông. Hoặc những bài viết thú vị về Thiền, vận dụng “Kim Cang” vào cuộc sống hàng ngày.


Tuổi già và nhận thấy mình già có lẽ là điều không vui vẻ gì so với nhiều người. Nhưng Đỗ Hồng Ngọc lại khác. Ông nhìn trực diện vào tuổi già, viết nhiều về tuổi già, từ những ghi chép ngắn cho đến cả quyển sách về tuổi già. Những bài viết ấy cho thấy một Đỗ Hồng Ngọc chấp nhận mình đã già, hiểu luật sinh tử, phân tích về tuổi già, xét trên nhiều góc độ như y học, văn hóa, tôn giáo… nhưng với cái nhìn hoài niệm của người già nhớ lại những chuyện xưa, người cũ nhưng vẫn hài hước, lạc quan:


“Lá cứ rụng rồi lá cứ xanh. Hoa cứ nở rồi hoa cứ tàn. Trăng cứ tròn rồi trăng cứ khuyết… Cho nên, chỉ già thêm chút nữa, rồi già thêm chút nữa… nữa với mỗi người, thế thôi”.


Ông cũng bắt đầu những chuyến đi, những ghi chép lang thang về cảnh, về người, chuyện mình, chuyện người. Từ La Gi đến Phan Thiết, núi Tà Cú, xuống Vũng Tàu rồi ngược lên Đà Lạt, leo lên Bà Nà rồi về Đà Nẵng, ra Huế, đi Sa Đéc… những chuyến “giang hồ… vặt” của tác giả mang lại cho ông bao nhiêu kỷ niệm.


Cuốn sách còn ghi lại nhiều cảm xúc, suy nghĩ của tác giả về những ngày làm việc, những ngày đang sống của mình. Từ những buổi sinh hoạt văn nghệ, những ghi chép vội vã về những chuyến đi, những ngày lang thang Sài Gòn để nhớ chuyện cũ, người xưa… mới thấy tác giả đi nhiều, gặp nhiều và “cảm” nhiều chuyện mình, chuyện người.


Tác giả, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc sinh năm 1940 tại Lagi, Hàm Tân, Bình Thuận và hiện sinh sống tại Sài Gòn. Ông nguyên là bác sĩ khoa nhi, bệnh viện Nhi Đồng 1 TP HCM, nguyên là giám đốc Trung tâm Truyền thông & Giáo dục Sức khỏe TP HCM. “Một bác sĩ mà lại là một thi sĩ thì luôn luôn làm cho người ta ngạc nhiên một cách thú vị” là lời nhận xét của cố học giả Nguyễn Hiến Lê khi viết về Đỗ Hồng Ngọc.


Đỗ Hồng Ngọc viết sách dành cho độc giả mọi lứa tuổi. Một số cuốn sách đã xuất bản của ông như: Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng, Thầy thuốc và bệnh nhân, Viết cho tuổi mới lớn, Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò, Thư gởi người bận rộn, Nghĩ từ trái tim, Nhớ đến một người, Như thị…


…………………………………………………………………………………..


VnExpress Thứ ba, 4/8/2015


Đỗ Hồng Ngọc tiết lộ bí quyết ‘Già sao cho sướng’


Giọng văn dí dỏm của tác giả 76 tuổi mang đến cái nhìn thong dong, mới mẻ về tuổi già. Từ đó mỗi người có thể nhìn lại và mở ra trang mới cho cuộ.c sống


Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc là tác giả của nhiều đầu sách chia sẻ kinh nghiệm, kỹ năng và nâng cao giá trị sống. Người trẻ, người già, các bà mẹ… và nhiều đối tượng độc giả có thể tìm thấy trong trang viết của ông nhiều bài học cuộc sống thú vị. Các cuốn sách của Đỗ Hồng Ngọc như: Thấp thoáng lời kinh, Gió heo may đã về, Già ơi chào bạn, Thư cho bé sơ sinh và những bài thơ khác, Thiền và sức khỏe… luôn khơi mở những góc nhìn mới mẻ về cuộc sống qua góc nhìn trẻ trung và trí tuệ.


Cuốn sách mới nhất – Già sao cho sướng – tiếp tục đi theo mạch chủ đề về chia sẻ kinh nghiệm sống. “Tôi nay đã 76 tuổi – tuổi ta – có lúc thấy mình cũng hơi già nhưng nhớ lại tuổi Tây thì mình mới 75, hãy còn quá trẻ. Tập sách mỏng này dành cho các bạn U80, những người đã có thể gọi nhau là ‘lão hữu’. Dĩ nhiên, những bạn trẻ dưới tuổi 70 cũng có thể đọc được. Nhưng, thỉnh thoảng mà thấy có bài này bài nọ quen quen thì cũng đừng ngạc nhiên. Già nó lẩm cẩm chút vậy thôi”, ông viết.


Những chia sẻ, trao đổi và kinh nghiệm để có được một tuổi già an nhiên, hạnh phúc của Đỗ Hồng Ngọc mang đến cho độc giả không ở đâu xa, mà chính từ bản thân ông, từ bạn bè, từ những gì ông quan sát, trải nghiệm. Sự sướng hay khổ của tuổi già thực chất là do thái độ sống và cách nhìn nhận của mỗi người. Và Đỗ Hồng Ngọc chọn niềm vui sướng để nói về độ tuổi như “ngọn đèn trước gió”.


Và để có thể thấy “sướng”, thấy hạnh phúc với tuổi tác, không gì khác hơn mỗi người phải biết chấp nhận quy luật của tạo hóa và nương theo quy luật ấy để tìm niềm vui cho cuộc sống mỗi ngày, tạo chất lượng cuộc sống cho bản thân.


Khái niệm chất lượng cuộc sống (Quality of Life) là khái niệm thường được nhắc nhiều đến trong các đầu sách của Đỗ Hồng Ngọc. Đây là một khái niệm quan trọng để mỗi người nhìn lại cuộc sống của mình đang ở thang độ cảm xúc và tình trạng thế nào. Một cuộc sống chất lượng, dù ở tuổi già hay tuổi trẻ, không chỉ phụ thuộc vào số tài sản vật chất mỗi con người sở hữu mà còn được định nghĩa là: “những cảm nhận của cá nhân về cuộc sống của họ trong bối cảnh văn hóa và các hệ thống giá trị mà họ đang sống, liên quan đến các mục đích, nguyện vọng, tiêu chuẩn và các mối quan tâm của họ”. (WHO, Tổ chức Sức khỏe Thế giới).


Qua những trang viết, phân tích, dẫn chứng và so sánh từ thực tế của Đỗ Hồng Ngọc, độc giả càng cảm nhận tuổi già không phải là sự chấm hết mà là sự khởi đầu cho hành trình mới trong cuộc đời mỗi con người. Tác giả luôn cảm nhận được sự trẻ trung, đầy nhiệt huyết với cuộc đời, công việc ngay cả ở những nhân vật “thất thập cổ lai hy” như: bác sĩ – họa sĩ Dương Cẩm Chương, giáo sư âm nhạc Trần Văn Khê, nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương… Ông hài hước đùa, khi nhìn vào những nhân vật này, ông thấy mình còn “quá trẻ”. Trong cuốn sách Gió heo may đã về của Đỗ Hồng Ngọc, Trịnh Công Sơn từng viết: “Không có già không có trẻ. Nói với một người trẻ tôi già rồi em ạ là vô lễ”.


Qua cuốn sách của mình, Đỗ Hồng Ngọc chỉ ra: “Nghiên cứu cho thấy tuổi già thường có được hạnh phúc khi:


Biết từ bi với mình, chấp nhận mình, hiểu luật vô thường của cuộc sống;


Có ký ức tốt về tuổi thơ và tuổi thanh xuân;


Được tự tại sắp xếp cuộc sống theo ý riêng, không bị áp đặt;


Duy trì tốt các mối quan hệ gia đình, hồn”.    bè bạn…;


Sức khỏe thể chất tương đối tốt, không mong lúc nào cũng như xưa được;


Tài chánh được tự chủ;


Gần gũi với thiên nhiên,


Giữ ngọn lửa nhiệt tình, niềm an lạc, thanh thản trong tâm./.


 


(Theo vnexpress.net)


……………………………………………………………………….


Cũng ở trên mạng thấy có nhà sách Khai Tâm giới thiệu một số hình ảnh bìa sách của Đỗ Hồng Ngọc. Cảm ơn nvquyen đã chuyển cho bác Ngọc.


Nghe nói bây giờ mua sách cũng không cần tới nhà sách làm chi cho mệt, chỉ cần bấm bấm mấy cái nút, tự nhiên có sách chạy tới nhà!  Thiệt lạ!


 



 


 


 


 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 24, 2018 22:58

June 23, 2018

Kỳ 26: Phật Học & Đời Sống (ngày 9.6.2018)

 


Kỳ 26: Phật Học & Đời Sống


Ngày 9.6.2018 tại Chùa Phật học Xá Lợi Saigon


(89 Bà Huyện Thanh Quan, Quận 3, Tp.HCM


“PHƯỚC và TU PHƯỚC” 


Trước hết xin lỗi các bạn vì Video clip Phật Học & Đời Sống kỳ 26 này đã được post lên đây quá trễ, do nvquyen bận nhiều ở Tu Viện Khánh An và chúng tôi cũng bận trong mùa Trường Hạ của quý vị tu sĩ về “An cư kiết hạ” tại chùa Xá Lợi.


Riêng tôi còn bận một số việc gia đình nên các ngày Thứ bảy trong tháng 6 đã do Cư sĩ Minh Ngọc và Cư sĩ Tô Văn Thiện phụ trách. Các buổi sinh hoạt “ngoại khóa” này tập trung thảo luận và hỏi-đáp về các chủ đề đã trao đổi trong thời gian qua,  không ghi hình, mong các bạn thông cảm.


Hy vọng tháng tới, các buổi sinh hoạt của “Lớp lỏng lẻo” PH & ĐS của chúng ta sẽ được tiếp tục như cũ.


Cảm ơn nvquyen.


Trân trọng,


Đỗ Hồng Ngọc.


 



Ghi chú: Thứ bảy 30/6 vẫn có buổi thảo luận do Cư sĩ Tô Văn Thiện và Minh Ngọc phụ trách. Thân mời các bạn tham dự.


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 23, 2018 07:29

June 15, 2018

Nguyễn Thị Khánh Minh: ĐÊM. NHỚ CHA

 


(Internet)


Nguyễn Thị Khánh Minh


ĐÊM.NHỚ CHA


Đêm. Con nhìn lên trời

Những vì sao rất nhỏ…

Những vì sao rất xa…

Xin một vì sao tỏ

Thắp mừng sinh nhật cha


Đêm. Con nhìn lên trời

Trời quen mà thăm thẳm

Muốn quay về, một nơi

Bên lòng cha đầm ấm…


Đêm. Con nhìn xuống đất

Đất lạ. Níu con đi

Bóng quen chừng đã khác

Đường xa chừng như lạc


Đêm. Con nhìn quẩn quanh

Gió phương này rất lạnh

Nhớ lòng mẹ biển xanh

Thương cha chiều xế nắng


Tìm trong đêm, mây trắng

Hỏi xem nhà ta đâu

Đêm cúi nhìn im lặng

Cả ba buồn như nhau…


23.5.2010 (sinh nhật cha)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 15, 2018 22:47

June 14, 2018

Bs Phạm Đức Thành Dũng: “Những điều lưu tâm trong phép ăn uống”

 


Những điều lưu tâm trong phép ăn uống


Bs P h ạm  Đức Thành Dũng


 


Từ trái: Bs Phạm Đức Thành Dũng, thầy Thích Không Nhiên, Đỗ Hồng Ngọc.
(Trung tâm Liễu Quán Huế, ngày 27.4.2018)


Cách ăn còn quan trọng hơn cả thực phẩm chọn lựa để ăn. Chúng tôi muốn trình bày những nguyên tắc ăn uống mà bản thân trải nghiệm, nếu tuân thủ thì thức ăn tốt đưa vào cơ thể sẽ tốt lên nhiều lần, và thức ăn độc hại đưa vào sẽ bớt đi phần độc hại. Trong nhiều năm tìm tòi, suy nghĩ, chiêm nghiệm và thực nghiệm, và đã 30 năm không dùng thuốc cho bản thân (tất cả các loại thuốc!), chúng tôi có đôi chút kinh nghiệm và thấy ra được một số điều và lấy đó làm nguyên tắc của bản thân trong ăn uống, xin được sẻ chia:


1.Không đưa vào cơ thể quá nhiều


Quân bình mới quan trọng! Hiện nay, đa phần con người ăn uống quá nhiều so với nhu cầu của cơ thể. Trong bản năng tự nhiên, một phần do lòng tham lam cố hữu tự trong tiềm thức, con người ăn uống thường quá đà như một cảm giác “tích lũy của cải” vào cho cơ thể. Người ta hiểu rất rõ vai trò quan trọng của các loại protein, glucid, lipid có trong thức ăn, nhưng rất ít người chịu đặt câu hỏi nếu ăn uống thừa mứa những loại chất này quá nhiều và trường diễn thì chuyện gì sẽ xảy đến? Trong kiến thức sinh hóa, ai cũng hiểu protein, glucid, lipid trong thức ăn qua quá trình chuyển hóa để tạo ra năng lượng và sản phẩm cuối cùng là CO2 và nước thì phải biến đổi qua bao nhiêu sản phẩm trung gian, và hầu hết các sản phẩm trung gian đều là sản phẩm độc hại cho cơ thể. Nếu cơ thể khỏe mạnh thì có cơ may “oằn mình” chịu đựng để chuyển hóa cho bằng được thì cũng tạo ra những thứ dư thừa, rồi tùy vào cơ địa của mỗi người, những loại này tạo ra những bất thường: tạo ra những chất cặn bã hoặc chất mỡ tích tụ ở các mô, ở phủ tạng, mỡ máu, đường máu… rồi tiếp tục là những bệnh sinh ra từ những sự tích tụ ấy. Việc thừa mứa trường diễn ảnh hưởng vô cùng xấu cho cơ thể.


Ăn bao nhiêu là đủ? Phải biết lắng nghe cơ thể! Con người chịu đựng một thói quen hết sức vô lý từ tấm bé, đó là luôn luôn bị ép buộc phải ăn theo những công thức hình thành từ hiểu biết về khoa học dinh dưỡng. Quá ít những bà mẹ ngày nay chịu lắng nghe cơ thể con mình nuốn gì. Cứ tiếp diễn như thế, ngày ngày theo những công thức ăn uống gọi là phù hợp với lứa tuổi, và càng ngày các phụ huynh lại tìm cách để cho con em ăn uống vượt “chuẩn” số lượng thức ăn của khoa học dinh dưỡng. Điều này thường dẫn đến 2 kết quả: hoặc là, đứa trẻ “thích nghi” được với cách ép buộc, chúng sẽ dung nạp vô tội vạ những thức bổ béo, và vì cơ thể chúng trở nên u tối trước một lượng vật chất quá lớn không kiểm soát được, dần dà dẫn đến thừa cân, béo phì và những hệ quả của nó; hoặc là, đứa trẻ bị “phản ứng dội”, chúng sợ hãi thức ăn, chống đối ăn uống, dẫn đến gầy còm suy dinh dưỡng. Ngày nay, một hiện tượng cũng không hiếm gặp, là phụ huynh còn bơm thẳng thức ăn vào dạ dày con trẻ bất chấp nhu cầu của cơ thể chúng. Đây là một lối hành xử quá sức thô bạo, phi khoa học, trái đạo lý.


Phải biết lắng nghe cơ thể! Nói thì dễ song thực tế không dễ. Ăn uống quá nhiều, dần dà cơ thể dung nạp hỗn loạn mất kiểm soát, lại dẫn đến một sự thèm ăn giả tạo, càng thừa lại càng thèm, càng ăn lại càng thừa càng bệnh, cái vòng xoắn bệnh lý ấy phải gỡ từ từ, lần ra từ gốc ngọn…!


2. “Phục dược bất như giảm khẩu”


Uống thuốc không bằng giảm bớt ăn là một quan điểm truyền thống khá phổ biến ngày trước. Hiện nay, con người luôn luôn ăn uống cho thật thỏa mãn, thừa mứa, cơ thể hầu như thường xuyên trong trạng thái no đủ, kể cả những lúc ốm đau khi mà cơ thể đã phản ứng bằng một trạng thái không thèm ăn! Đó là những sai lầm rất lớn trong ăn uống, đó cũng là nguyên nhân làm cho cơ thể không còn sáng suốt để phân lập thức ăn ở mức hoàn hảo nhất.


Quan sát một con vật khi ốm, nó sẽ không ăn, có đem thức ăn đặt trước mặt ó cũng từ chối. Bản năng mách bảo cho nó biết sẽ rất độc hại nếu ăn vào trong trạng thái sức khỏe như thế, càng nhiều chất bổ dưỡng đưa vào càng độc hại.


Quan sát những con mãnh thú trong thiên nhiên khi bị thương tích, thường nằm chịu đói khát cho đến khi lành bệnh, xương da liền lặn, mới tiếp tục đi kiếm thức ăn, ít khi thấy nhiễm khuẩn huyết, hay nhiễm khuẩn hoại tử… Nhưng những con thú cưng của con người thì khác, chúng được chăm sóc bằng những công thức ăn uống nghiệt ngã: quá đúng giờ giấc, thừa mứa dưỡng chất, dần dà cơ thể nó trở nên u tối mất đi bản năng diệu kỳ của nó, rồi cuối cùng cũng đau ốm dễ dàng và kéo dài khó hồi phục.


Trạng thái “đói” rất cần thiết mà quá ít người lưu tâm. Nó giúp cơ thể loại bỏ những tế bào chết, loại bỏ các mô bệnh, loại bỏ độc tố, loại bỏ những chất gây nguy hại, đặc biệt là cơ thể trong trạng thái này sẽ đốt cháy những chất liệu dư thừa thành năng lượng cho cơ thể, hoặc chuyển hóa chúng thành vật chất có ích. Trạng thái đói giúp cơ thể tự “dọn dẹp” mình, làm thuần khiết cơ thể, sau khi ăn uống lại đầy đủ chúng ta cảm thấy mới mẻ, trẻ trung, sạch sẽ hơn, nhẹ nhàng hơn, yên bình hạnh phúc hơn, và cơ thể vận hành tốt hơn, không nặng nề ì ạch bởi sự dư thừa.


3.Ăn thức uống và uống thức ăn


Ăn thức uống là đối xử với thức uống như thức ăn, chậm rãi đưa vào, nhai súc cẩn thận, để nhiệt độ của thức uống được tăng lên (hoặc hạ xuống) gần bằng nhiệt độ cơ thể trước khi nuốt vào, sẽ tránh được sự chênh lệch nhiệt độ của khối thức uống với dạ dày gây tổn thương nó; đồng thời uống càng chậm thì thông tin đến bộ phận tiếp nhận càng đầy đủ cho sự chuẩn bị sẵn sàng.


Uống thức ăn đơn giản là biến thức ăn thành một chất lỏng như nước trước khi nuốt vào cơ thể. Muốn vậy chúng ta phải nhai thật tích cực, nhai càng lâu miếng cơm càng ngọt, nhai được cả trăm lần thì thứ không ngon cũng thành ngon, thức không bổ cũng thành bổ dưỡng, loại có độc cũng sẽ bớt đi tác dụng độc của nó.


Theo lý luận của Y học cổ truyền thì thức ăn nếu đưa vào vội vàng thì cơ thể chỉ hấp thu được phần “tinh”, còn nếu được nhai kỹ thì cơ thể sẽ hấp thu thêm được phần “khí”. Khi nhai nhiều thì lượng nước bọt sẽ tiết ra càng nhiều, và đó là thứ nước hết sức quý giá, được gọi là “kim tân, ngọc dịch”, có công năng nhuận trạch, tư dưỡng tạng phủ, đồng thời lọc sạch các chất dơ uế, rồi sau chuyển về thận mà hóa ra tinh khí của thận. Trong đạo Dưỡng sinh, nếu tập nuốt nước bọt nhiều lần và số lượng nhiều, dần dần chân thủy được sức sẽ thăng lên, chân hỏa hụt sức buộc phải giáng xuống, đó là tác dụng “tư âm giáng hỏa”, mà muốn được vậy con người phải dùng bao nhiêu dược liệu quý mới đạt được. Các vị theo trường phái Tiên gia xưa cũng rất xem trọng nước bọt, không bao giờ nhổ đi vì sợ tổn khí, họ còn dùng nước bọt để luyện linh dược.


Với Y học hiện đại, nhai kỹ hết sức quan trọng trong chuyển hóa. Các men tiêu hóa chỉ tác dụng trên bề mặt của các phần tử thức ăn. Khi thức ăn được nghiền càng nhỏ với nước bọt thì vận chuyển càng dễ dàng. Với các loại rau quả, việc nhai kỹ có thể phá vỡ màng cellulose bọc chung quanh để giải phóng thành phần dinh dưỡng bên trong để cơ thể tiêu hóa và hấp thu.


Thành phần quan trọng nhất của nước bọt là men ptyalin (amylase) để phân giải tinh bột thành đường maltose, maltotriose và dextrin. Nhai càng nhiều thì dưới tác dụng cơ học của việc nhai, phản ứng phân giải tinh bột xảy ra càng hoàn hảo, giảm đi gánh nặng tiêu hóa cho cơ thể.


Việc nhai kỹ có một tác dụng đặc biệt nữa là vệ sinh răng miệng hoàn hảo nhất. Nhai càng kỹ nước bọt tiết càng nhiều sẽ cuốn đi hết thảy những vi khuẩn gây bệnh và các loại thức ăn của các loại vi khuẩn này; mặt khác trong nước bọt có chứa một số chất diệt khuẩn hiệu quả như ion thiocyanat, lysozym… và có chứa những kháng thể đặc thù của cơ thể có thể tiêu diệt vi khuẩn ngay trên miệng (kể cả các loại vi khuẩn gây sâu răng)…


Nhai kỹ còn ức chế cảm giác thèm ăn một cách tự nhiên, giảm lượng thức ăn đưa vào, tiết kiệm được lượng enzyme, sẽ duy trì cân bằng nội môi, giúp cơ thể giải độc, phục hồi sức khỏe, cung cấp năng lượng cho cơ thể, tăng sức đề kháng, tăng khả năng miễn dịch. Thực phẩm tốt nhiều dinh dưỡng nhưng hấp thu quá nhiều sẽ gây tổn hại cho cơ thể, chính nhờ nhai kỹ cơ thể sẽ kiểm soát được hấp thu, hiệu lệnh chính xác cho con người lúc cần dừng lại việc ăn.


Thực sự, những phân tích vi thể trên vẫn không nói hết những tác dụng diệu kỳ của việc nhai kỹ. Chỉ cần thực hiện nhai kỹ một thời gian chúng ta sẽ cảm nhận được lợi lạc của cách ăn, và đặc biệt là có thể ăn uống một cách ngon lành các loại thức ăn thô hào mộc mạc như ngũ cốc, gạo lứt, khoai sắn…


4.Ăn ít bữa và xa giấc ngủ


Chỉ nên ăn 2 bữa mỗi ngày và bữa ăn cuối càng xa giấc ngủ bao nhiêu tốt bấy nhiêu!


Xu hướng ăn nhiều bữa mỗi ngày để có thể đạt được “năng suất” cao nhất trong việc tộng thức ăn vào bên trong cơ thể như cất chứa của để dành đang là xu hướng khá phổ biến hiện nay. Trong suy nghĩ của đa số, đưa được thức ăn vào càng nhiều càng tốt theo kiểu “không bổ bề ngang cũng sang bề dọc” và “to lớn, hồng hào, béo tốt” đang là “chuẩn” của con người, nên rất nhiều người cố gắng “nghiến răng ráng ruột” để ăn thật nhiều bữa, và đa số cũng thành công trong việc tăng cân. Chúng ta nên nhìn nhận một điều rằng, khi trọng lượng của người lớn tăng lên nhiều thường kéo theo “bà con họ tộc” của nó tăng theo như mỡ máu, đường máu, huyết áp… Có những phép tính rất dễ dàng nhưng con người thường chấp thủ vào cái mình có, kể cả khối lượng đồ sộ dư thừa của bản thân, để lờ đi. Thông thường hiện nay, vào tuổi trung niên trở đi khối lượng cơ thể bình quân tăng thêm khoảng vài ba mươi cân so với tuổi 20 là lúc cơ thể mạnh mẽ nhất, song nhỡ ra sụt đi năm ba lạng hoặc một cân là tiếc nuối quay quắt và lo lắng hoang mang (!) Già yếu cơ nhục riệu rã rồi, lại phải gánh nặng thêm hơn trước mấy mươi cân, lại bao nhiêu thứ tăng theo trong máu, vậy mà vẫn tiếc từng lạng thịt, cái chấp thủ của con người khiếp thật!


Nên bớt bữa ăn lại! Nhà Sinh lý học Rodriguez Delgado nổi tiếng Hoa Kỳ làm một thí nghiệm đơn giản rồi công bố: “Nếu chuột được cho ăn một bữa mỗi ngày thì sống lâu gấp đôi thời gian sống của chuột được ăn nhiều bữa mỗi ngày”[i]. Phải chăng ăn uống quá nhiều và nhiều bữa sẽ làm nặng nề hệ thống tiêu hóa và sẽ cắt ngắn thời gian sống của chúng ta?


Ăn xa giấc ngủ là một nguyên tắc quan trọng. Trong khi ngủ, các cơ trong cơ thể ở trạng thái nghỉ, lưỡi và gốc lưỡi bị rụt lại khiến đường hô hấp bị co hẹp. Nếu thức ăn nhiều trong dạ dày dễ bị trào ngược, cơ thể phản ứng bằng co thắt đường hô hấp, dẫn đến khó thở và mất ngủ, dẫn đến giảm khả năng miễn dịch, giảm khả năng trao đổi chất… ảnh hưởng lên hệ tuần hoàn, tăng nguy cơ bệnh tim mạch… Ăn đêm dễ mắc các chứng béo phì. Nhiều người tử vong do lên cơn đau tim hay bị nhồi máu cơ tim lúc gần sáng, có liên quan đến thói quen ăn muộn đêm khuya. Những người xơ cứng động mạch hoặc thiểu năng động mạch vành ăn khuya lại càng hại, vì tình trạng hô hấp không thuận sẽ khiến nồng độ Oxy giảm, lại sẽ dẫn đến tình trạng thiếu máu cơ tim. Nếu ăn khuya còn uống rượu thì tình trạng càng dễ xấu thêm, do rượu ức chế hô hấp trung ương, làm nồng độ Oxy càng giảm, sẽ dẫn theo bao nhiêu hệ lụy khác…


5.Không dùng các chất kích thích trợ giúp việc ăn uống


Dùng các loại chất kích thích dù nhỏ đều không có lợi cho cơ thể. Tại sao chúng ta phải dùng đến loại có tác dụng kích thích tiêu hóa trong khi cơ thể chúng ta có thể tự làm được? Sử dụng chất kích thích về lâu dài là làm giảm đi khả năng tiêu hóa của cơ thể. Đạo của dưỡng sinh là dùng các vật thực thô mộc chế biến đơn giản, nhưng chính nhờ vào sự gia công khi ăn để biến thức ăn thành ngọt thơm như dòng sữa, như vậy cơ thể mới có thời gian và sự linh mẫn chuẩn bị đón nhận thức ăn tinh chế từ miệng. Khác với ngày nay, người ta dùng bao nhiêu hương liệu, gia vị, màu sắc, tạo hình… để chỉ chút tiếp xúc là bao nhiêu enzyme trong hệ thống tiêu hóa ào ra ồ ạt… Những sự kích thích này dần dà làm cho cơ thể phụ thuộc, nếu không có nó thì không tự mình làm được, hơn nữa cơ thể tiêu tốn một lượng enzyme quá lớn mà không có sự phân phối thứ tự từng bước khi thức ăn đi vào từng đoạn trong ống tiêu hóa của cơ thể. Sự ồ ạt của enzyme là một sự uổng phí. Theo Tiến sĩ Edward Howell là nhà nghiên cứu enzyme hàng đầu của nước Mỹ: “Sinh vật trong suốt thời gian sống chỉ có thể tạo ra một lượng enzyme nhất định. Và khi sinh vật dùng hết enzyme tiềm năng này thì kết thúc sinh mạng”[ii]. Thật hữu lý! Nếu Nhà nghiên cứu này đúng thì những bữa ăn thịnh soạn linh đình, lắm sơn hào hải vị, nhiều chất kích thích, sẽ rút ngắn cuộc đời một con người! Điều này cũng lý giải cho chúng ta tại sao những nhà thực dưỡng không dùng những chất kích thích, hay các loại hành tỏi rau thơm trong nhà Phật lại được xem không phải là thức ăn chay; và cũng có thể lý giải vì sao Thiền sư Tuệ Tĩnh, vị Y tổ trong nền Y học cổ truyền của chúng ta, lại có những câu nghe tưởng là lạ: “Cỏ thơm gây bệnh cho người giàu sang”. Từ những loại “cỏ thơm” (các loại rau thơm, rau mùi) đến các loại kích thích khác như riềng sả gừng, rồi hành tỏi kiệu, rồi măng dưa cà giá, các loại lên men… dần dần đến trà café thuốc lá rượu… cho đến các loại ghê sợ hơn, dù kích thích thần kinh tiêu hóa, hay thần kinh hô hấp tuần hoàn, thì chung quy bản chất cũng giống nhau, chỉ là mức độ nặng nhẹ.


6. Phải để cảm xúc thư thái với tình yêu thương và lòng biết ơn


Con người không phải là một cái máy nên không thể chỉ đổ đầy nhiên liệu là có thể hoạt động tốt, con người còn cần tình cảm (nói chung). Không có tình yêu thương trong bữa ăn sẽ mang lại cảm giác trống rỗng, và chính cảm giác này làm hẫng hụt trống vắng, và từ trong tiềm thức con người có xu hướng bù đắp bằng cách rót đầy nó bằng một cái gì đó, và thông thường “cái gì đó” ấy được lựa chọn là thức ăn. Tình yêu thương và thức ăn có liên quan nhau về mặt tâm lý. Con người từ lúc mới sinh ra đã thu được cùng lúc cả thức ăn và tình yêu thương qua bầu vú mẹ. Dùng sữa mẹ ngoài sự diệu kỳ về mặt cấu trúc chất liệu và luôn thay đổi để phù hợp nhất cho đứa trẻ, còn cho trẻ uống cả một tình thương bao la của mẹ. Sự thiếu thốn tình yêu thương mà cụ thể là không được bú sữa mẹ, đứa trẻ lớn lên rất dễ bị béo phì, hẳn là do chúng phải dùng thức ăn để bù lại.


Có thể cảm nhận được, cùng những thức ăn như nhau, nhưng nếu là của người mẹ nấu thì con cái ăn uống sẽ thấy ngon miệng hơn, dễ tiêu hơn, bổ dưỡng hơn. Sự an bình hạnh phúc từ tình yêu thương và lòng biết ơn sẽ mang lại những kết quả diệu kỳ cho cơ thể dù chỉ với những thức ăn thông thường. Từ khi chuẩn bị, mua thức ăn, nấu nướng, người mẹ đã rót vào đó cả một nguồn năng lượng dồi dào từ tình yêu thương, nếu con cái biết trải lòng biết ơn đón nhận, hẳn là hiệu quả tốt đẹp của thức ăn tăng lên bội phần.


Càng lớn con người lại càng cần một trạng thái bình yên an lạc khi ăn. Trong mỗi giây có thể có đến vài trăm ngàn đến cả triệu phản ứng sinh hóa xảy ra trong cơ thể một con người. Một ý niệm phóng đi đã có thể thay đổi bao nhiêu phản ứng bên trong… Phải chăng đó là điều mà nhà Phật nói là ý nghiệp, mà ngay sát-na ý niệm phóng đi con người đã phải nhận lãnh?


(PĐTD)


 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 14, 2018 21:55

June 8, 2018

Kỳ 25: Phật học & Đời sống

 


Kỳ 25: PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG


Ngày 2.6.2018 Chùa Xá Lợi Saigon (Tp.HCM).


Đề tài: Chuyển “Nghiệp”


Cảm ơn nvquyen đã chuyển video clip, mời các bạn tham khảo.


…………………………………………………………..


Thân mời các bạn tiếp tục dự sinh hoạt Phật học & Đời sống


Kỳ 26 Ngày 9-6-2018 từ 15-16h30


Đề tài: Phước và Tu Phước


Đỗ Hồng Ngọc.


 


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 08, 2018 18:21

June 4, 2018

Chuyến về Phan Rang với Quán Văn: Một vài hình ảnh.

 


 


Thư gởi bạn xa xôi,


Chuyến về Phan Rang với Quán Văn: Một vài hình ảnh.


Cái xứ nắng như rang mà gió như phan đó đâu có xa lạ gì với bọn mình phải không? Xưa mình không ít lần đến Phan Rang, lên xuống Ga Tháp Chàm, thăm cụm tháp Po Klong Garai, rồi có khi từ đó qua ngã Đa Nhim leo đèo Ngoạn Mục về Đà Lạt; rồi cũng đã nhiều lần ghé Ninh Chữ tắm biển, ăn bánh căn, gặp Võ Tấn Khanh, Phan Hữu Ngọc… nhưng chưa lần nào đến Vĩnh Hy, Núi Chúa… cách thành phố Phan Rang gần 40km về hướng Đông Bắc. Lần này Nguyên Minh và các bạn Quán Văn rủ đi Phan Rang Vĩnh Hy một chuyến, thăm lại “cái nôi” xưa của một thời Gió Mai, Ý Thức ronéo, tiền thân của Ý Thức bán nguyệt san Văn học nghệ thuật ở Saigon sau này, và, có sự nối tiếp đến Quán Văn hôm nay. Nhắc “cái nôi” thì không thể quên nhóm bạn Ngy Hữu, Nguyên Minh, Lữ Kiều… những cậu học trò mê văn chương, làm báo viết tay, rồi từ đó mà tiến lên ronéo, typo, offset… Phải công nhận cái máu mê làm văn làm báo này của ‘đám nhóc’ thời đó thiệt đáng nể. Hãy đọc một đoạn Lữ Kiều viết trên Văn Chương Việt 2010:


Vậy mà đã 35 năm qua, tưởng như đã quên tờ báo mà nhóm Gió Mai thời 1968 thực hiện. Làm sao không bồi hồi cảm động. Như thể gặp lại người bạn cũ thâm giao. Bạn thì không hề thay đổi, còn ta thì quá đỗi hư hao…


Vậy thì tôi viết về số báo này, như một cột mốc của cuộc sống, chứng nhân của một thời, với tất cả vui buồn, sum họp và chia ly của nó.


Tờ Gió Mai số 4 do Ngy Hữu chủ trương, thực hiện ruột ở Phan Rang tại Roneo Nguyễn của Nguyên Minh, stencil do Ngy Hữu và Nguyên Minh ngồi gõ trên cái máy chữ xách tay Brother của Ngy Hữu và Olympia của Nguyên Minh. Làm sao quên được.


(…) Bìa Gió Mai 4 in màu xanh lá cây. Tôi phải nhờ Mỹ Hiệp Ronéo ở đường Trần Quý Cáp Sài Gòn thực hiện. In roneo mà tưởng như in Typô. Thuở ấy, Mỹ Hiệp Ronéo là tiệm quay ronéo tân tiến nhất, chuyên in bài học cho sinh viên y khoa, mà lúc bấy giờ tôi, Nguyên Thạnh Nguyễn Mậu Hưng và Đỗ Nghê là sinh viên năm cuối, sắp ra trường! 100 trang báo, khổ 20×30, bao nhiêu công phu gõ máy đánh chữ của Ngy Hữu và Nguyên Minh, nhất là phần canh chữ cho ngay mỗi cuối hàng bên phải: thuở đó, làm một tờ báo đẹp về hình thức trong điều kiện thiếu thốn phương tiện vẫn là nỗi đam mê và hãnh diện của Nguyên Minh.


(…)”


(Lữ Kiều: Gió Mai, một thời hoang dại).


Lần này về Phan Rang ngoài các bạn Quán Văn còn có Hồ Sĩ Bình, Phan Trang Hy, Trần Thị Trúc Hạ từ Đà Nẵng và Nguyễn Thị Tịnh Thy từ Huế. Nhóm trong Nam ra có Hoàng Kim Oanh, Đoàn Đình Thạch, Nguyên Cẩn, Vũ Trọng Quang, Lương Minh, Hiếu Tân (Hiếu Tân từ Vũng Tàu), và có bạn tận Long Xuyên xa xôi… .  Riêng nhóm U80 của Ý Thức xưa thì có Nguyên Minh, Đỗ Nghê, Châu Văn Thuận, Lữ Kiều, Lê Ký Thương. Quả là bốn biển một nhà. Cái sự văn chương từ ngàn xưa vốn “thốn tâm thiên cổ” là vậy. Chưa gặp chưa biết mà đã quen nhau từ lâu! Phải khen Ngô Thị Mỹ Lệ, người “điều phối” và thiết kế chương trình vừa làm việc vừa du ngoạn cho anh chị em rất giỏi.


Hồ Sĩ Bình người phụ trách Nhà xuất bản Hội Nhà văn VN ở miền Trung, người đã giúp Quán Văn thực hiện các số báo gần đây vừa gặp mình đã kêu: Tôi đọc thơ anh Đỗ Nghê từ trước 75, lúc anh Hoàng Đăng Nhuận mang tập Thơ Đỗ Nghê từ Đà Lạt về Huế, khoảng năm 1974 chi đó, biết anh từ đó rồi!


Đúng vậy. Tập Thơ Đỗ Nghê (1973) là do Lữ Kiều, Trần Hữu Lục, Nguyễn Sông Ba… thực hiện từ Đà Lạt với tranh bìa của Nguyễn Trung, họa sĩ Hoàng Đăng Nhuận trình bày, và… Hoàng Khởi Phong mang từ Đà Lạt về cho Đỗ Nghê lúc đó đang làm việc tại Bệnh viện Nhi Đồng Saigon. Thì ra Hồ Sĩ Bình đã biết nhau từ đó nên Quán Văn 55 kỳ này đăng nguyên vẹn lại bài thơ Tâm sự Lạc Long Quân không bôi xóa chữ nào!… Mình nói cảm ơn bạn, vì thú thực, khi nghe có Hồ Sĩ Bình về dự kỳ này, mình cứ ngỡ sẽ gặp một ông quan lăm lăm cây viết nhọn gạch gạch xóa xóa…


Chỉ có 3 ngày ngắn ngủi ở Phan Rang, Vĩnh Hy nhưng bè bạn đã sống với nhau như một gia đình lớn, chân tình và ấm áp. Cảm ơn Quán Văn, cảm ơn Nguyên Minh, Mỹ Lệ… và tất cả.


Thân mến,


Đỗ Hồng Ngọc


(Đỗ Nghê)


 


Nguyên Minh và Hồ Sĩ Bình có ‘một phút tâm tình’. Và Lữ Kiều thì “dẫn chuyện gần xa”… với nhiều cảm xúc.


Họp mặt Quán Văn tại Phan Rang ngày 21.5.2018 (Photo: Thanh Hằng)


 


 


 


 


 


 


 


 


Từ trái: Lữ Kiều (Thân Trọng Minh), Châu Văn Thuận, Đỗ Nghê (Đỗ Hồng Ngọc). Mấy bạn… già dậy sớm đợi cà-phê Vĩnh Hy! (22.5.2018)


 


Bình minh ở Vịnh Vĩnh Hy, Phan Rang (ảnh DHN)


 


Từ Vịnh ra Cửa biển…


 


 



Đi thuyền đáy kính để xem… san hô



 


 


 


 


 


 


 


 


Thuyền đáy kính: nhìn những rặng san hô rất đẹp (ảnh DHN).


 


 


 



 


Cầu treo đi suối Lồ Ồ, Núi Chúa (Đỗ Nghê và Lữ Kiều Thân Trọng Minh)


Cầu treo cao hun hút… Đoàn người vừa đi vừa run, thận trọng từng bước vì có những khoảng ván lót cầu gãy… thỉnh thoảng xe gắn máy chạy qua làm cầu rung bần bật…


Suối Lồ Ồ mùa này khô nước. Mùa mưa, suối đổ ào ào như thác, rất đẹp. Bỗng dưng nhớ Văn Cao: “Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước…”


 


Suối Lồ Ồ. Xa xa, giữa các gộp đá, nhiều nhóm bạn trẻ đang cắm trại…


thăm vườn nho



 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


Thăm làng Gốm Bàu Trúc. Cô Ly chuẩn bị biểu diễn thực hiện một cái bình gốm cho đoàn xem. Đặc điểm ở đây là không phải bàn xoay mà người xoay quanh bàn. Mỗi ngày làm được 15 cái. Đất sét lấy từ Sông Quao về phơi khô, trộn cát (tỷ lệ giữ bí mật riêng mỗi gia đình). Mười ngày sau mới nung ở một lò lộ thiên. Các công đoạn nặn gốm đều phải do nữ giới thực hiện.


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


Chị Ly đi vòng quanh trục để nắn chiếc lọ theo ý mình.


 


 


 


 


Sản phẩm hoàn tất tuyệt vời. Chị Ly người đã có 20 năm làm nghề.                                                                      


Có một Trịnh Công Sơn… nơi đất nước gió lửa (Tứ đại)


Nét u buồn vương vương…



 


 


Tháp Po Klong Garai


Từ trái (ngồi) Đỗ Nghê, Hồ Sĩ Bình, Nguyên Minh, Hoài Huyền Thanh, Phan Trang Hy, Nguyên Cẩn, Nguyễn An Bình, Hiếu Tân. (Đứng): Tịnh Thy, Trúc Hạ. (Vĩnh Hy, Phan Rang 23.5.2018). Ghi chú: Lữ Kiều TTM,  Thanh Hằng, Châu Văn Thuận đã từ giả để về Ninh Hòa sớm, họp mặt cùng Lữ Quỳnh và Khuất Đẩu, Huyền Chiêu.


 


Ga Tháp Chàm: nhóm đi Đà Lạt, nhóm về Miền Trung, nhóm về phương Nam…(23.5.2018)


Từ trái: Phan Trang Hy, Nguyễn Thị Tịnh Thy, Cao Kim Quy, Đỗ Hồng Ngọc, Hoàng Kim Oanh, Vũ Trọng Quang và phu nhân, Hồ Sĩ Bình. (Ga Tháp Chàm, Phan Rang 23.5.2018)


 


 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 04, 2018 04:37

June 3, 2018

‘NGƯỜI ĐỌC và NGƯỜI VIẾT,’ một tác phẩm mới của Lương Thư Trung

 


‘Người Đọc và Người Viết,’ một tác phẩm mới của Hai Trầu-Lương Thư Trung


Trần Doãn Nho


 “Người Đọc và Người Viết” là tác phẩm thứ chín của Hai Trầu-Lương Thư Trung. Hai Trầu và Lương Thư Trung là hai bút hiệu của cùng một tác giả. Khi viết về văn chương, ông lấy bút hiệu Lương Thư Trung; khi viết đời sống ruộng đồng, ông ký là Hai Trầu.


Trong “Lời Nói Đầu,” Lương Thư Trung cho biết “Người Đọc và Người Viết” là sự “gom lại tất cả các cảm tưởng về các trang văn thơ mà tôi đã đọc trong vòng hai mươi năm qua cũng như thêm nhiều cuộc trao đổi mới với các tác giả khác trong vài ba năm trở lại đây.”


Ông khẳng định, “Người Đọc và Người Viết” “không phải là một cuốn sách phê bình văn học gì hết vì tự thân tôi, tôi chỉ là một người đọc bình thường chứ không phải nhà văn nhà chương gì và tôi cũng không có khả năng để làm những công việc cao siêu ấy.”


Tác phẩm rất đa dạng, cho thấy ông là một “người đọc” thực sự, nghĩa là một người “mê” đọc, đọc nhiều, đọc đủ thể loại, đọc đủ loại tác giả, xem đọc là một thú tiêu khiển trong đời sống. Không những thế, ông còn “mê” viết. Nghĩa là thích được bày tỏ cảm nghĩ của mình sau khi đọc.


“Người Đọc và Người Viết” được viết dưới nhiều hình thức khác nhau: Đọc lại, đọc, lá thư văn nghệ, thư trao đổi, mấy ý kiến, vài ghi nhận, trao đổi ngắn, hỏi thăm, trò chuyện, thư gửi… đọc một bài thơ, một truyện ngắn, đọc một tác phẩm, vân vân.


Không chỉ là đọc thơ, đọc văn mà Lương Thư Trung còn đọc các tác phẩm phi-hư cấu như “Nhật Ký Truyền Giáo,” “Vui Đời Toán Học,” hay sách viết về ẩm thực. Không chỉ là nhận định nhiều tác phẩm của một tác giả hay một tác phẩm riêng biệt nào đó, mà còn là những lá thư trao đổi với tác giả để bàn về một vấn đề đời sống nào đó, hay bàn về văn dịch, bàn về chữ nghĩa, bàn về cách dùng chữ ngoài đời và trong tự điển, trao đổi với tác giả về một mục trên báo. Chẳng những thế, đối với một số tác giả, ông còn tìm cách đào sâu hơn bằng cách trực tiếp trò chuyện hay phỏng vấn tác giả và đặt vấn đề về những gì tác giả và tác phẩm nêu ra.


Khác với một số tác phẩm biên khảo khác, qua đó, tác giả thường chỉ viết về một số nhà văn tên tuổi hay có ảnh hưởng trong dư luận, Lương Thư Trung hào phóng và đa dạng hơn. Ông viết về bất cứ tác giả nào ông thích, từ những người rất nổi tiếng cho đến những người chưa có tiếng tăm gì, cả trong lẫn ngoài nước. Và tác giả nào cũng được ông trân trọng đọc, trân trọng nêu ra ý kiến mình. Với ông, bất cứ tác giả nào cũng có cái hay để thưởng thức.


Với một tấm lòng trải rộng như thế, tác phẩm gồm hai cuốn của ông (hơn 1,000 trang) đề cập đến một số lượng tác giả khá lớn: hơn 70 tác giả, dưới dạng này hay dạng khác, cách này hay cách khác. Từ những cây bút nổi tiếng như Hoàng Lộc, Tô Thùy Yên, Song Thao, Ngô Thế Vinh, Hoàng Xuân Sơn, Lâm Chương, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Xuân Vinh, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Ngọc Tư… cho đến khá nhiều những người chưa được biết nhiều trên văn đàn.


Mỗi tác giả, Lương Thư Trung có một nhận định riêng. Khen có, chê có, nhưng Lương Thư Trung không có kiểu đưa người này lên trời hay dập người kia xuống đất. Ông luôn luôn giữ một giọng bình văn chừng mực, chân tình, tin cậy. Xin lướt qua vài tác giả:


-Đọc thơ Phan Nhiên Hạo, Lương Thư Trung nhận xét, thơ Phan Nhiên Hạo “không phải để cảm mà để nhận, không phải để ngâm nga mà để nghiền ngẫm, không phải để ca ngợi cuộc đời mà để nhận dạng cuộc đời” (…) Đó là một “tách trà đắng” làm tê đầu lưỡi dần dần nghe cái “hậu ngọt của trà” (trang 98-101, quyển 1).


-Về Nguyễn Thanh Trúc, Lương Thư Trung cho rằng thơ của Nguyễn Thanh Trúc “không sắc sảo tài tình, không trau chuốc bóng bẩy, không văn chương thời thượng,” mà “là tiếng hót lảnh lót của loài chim chìa vôi giữ rặng tre làng. Tiếng hót ấy sẽ mang đến cho đời một chút hương nội gió đồng, một chút hoa cau hoa bưởi…” (trang 394, quyển 1).


-Đọc “Cánh Đồng Bất Tận” của Nguyễn Ngọc Tư, Lương Thư Trung cho biết, “đọc thì thấy quá xá là hay” khiến ông cảm thấy “nhói nhói bên ngực trái” vì quá thương cho số phận của chị em thằng Điền, hai nhân vật chính trong truyện. Nhưng Lương Thư Trung không chịu được cách cách chấm, phết của Nguyễn Ngọc Tư. “Ở đây tui bị ngộp thở vì mấy chữ ‘và’ và mấy cái dấu chấm phết ào ào như mưa như nắng ở vùng kênh xáng” trong “mùa áp thấp nhiệt đới Tháng Tám” (trang 192, quyển 1).


-Về truyện dài “Đời Thủy Thủ” của Vũ Thất, Lương Thư Trung nhận xét: “Phải là một thủy thủ tài tình với óc quan sát và nhận xét khá tinh xác mới có thể viết chương sách về trận chiến cách nay tròn năm mươi năm (1965) mà đọc lại như mới xảy ra bây giờ” (trang 392, quyển 2).


-Đề cập đến hai tác giả Nguyễn Hiến Lê và Vương Hồng Sển, Lương Thư Trung nêu lên một nhận xét đáng quan tâm: hai học giả Nguyễn Hiến Lê và Vương Hồng Sển có những đóng góp lớn lao cho nền văn học miền Nam, nhưng “dường như bị các nhà viết văn học sử, các nhà phê bình, các nhà diễn thuyết không biết vì vô tình hay cố ý mà thường hay bỏ quên sự có mặt của họ” (trang 374, quyển 2). Chẳng hạn như trong lần hội thảo “Hai Mươi Năm Văn Học Miền Nam” (1954-1975) được tổ chức tại nhật báo Người Việt và nhật báo Việt Báo ở Westminster, California, trong hai ngày, 6 và 7 Tháng Mười Hai, 2014, “các diễn giả thuyết trình nhiều đề tài nhưng dường như quý vị ấy bỏ quên những đóng góp to lớn của nhị vị học giả này.” Mà ngay trong bộ Văn Học Miền Nam do Võ Phiến biên soạn, “hai vị này cũng chỉ được tác giả nhắc qua một cách rất sơ lược trong một hai trang giấy ngắn…” (trang 356, quyển 2).


Xen lẫn trong những bài viết về văn chương, Lương Thư Trung cũng có những bài viết bàn về chữ nghĩa khá thú vị. Chẳng hạn như bàn về việc dùng chữ trong sách vở và chữ ở ngoài đời trong “Giữa “Thiệt” và “Thật,” “Cái lợi của bút lục là chắc, nhưng cái hại của bút lục là quá nệ vào sách vở.” (trang 14, quyển 1).


Hay trong bài “Vài chữ dùng ngoài đời và trong tự điển,” đọc bài viết của Lê Mạnh Chiến, Lương Thư Trung nêu ra sự khác biệt của một số cách giải thích từ ngữ giữa các tự điển và giữa tự điển và ngoài đời và từ đó, nêu ra cái sai sót trong cách hiểu của một số từ như: ba đào, âm đức, bồng bột, chúng sinh, bình sinh… (trang 135-141, quyển 1).


Dù Lương Thư Trung khiêm tốn cho rằng ông chỉ ghi lại “cảm tưởng” của ông khi đọc, nhưng thực sự, với 95 bài viết về nhiều tác giả và tác phẩm, “Người Đọc và Người Viết” là một tập tiểu luận nhận định văn học. Dù không dựa trên một trường phái nào hay một quan điểm nào rõ rệt, nhưng khi phân biệt cái hay, cái dở, phê phán điểm này, khen ngợi điểm kia, tác giả cũng phải dựa vào một quan điểm nào đó. Chẳng hạn, Lương Thư Trung nhận xét rằng, văn chương hay văn học tựa hồ như “những dòng nước làm cho một dòng sông luôn đầy và chảy hoài bất tận,” không dễ gì “cắt lìa giữa cổ điển và hiện đại, giữa lãng mạn trữ tình và hiện thực tả chân, giữa triết lý và đời sống thường, giữa người đọc và tác giả.” Còn người đọc thì mê văn chương xưa hay nay miễn nó hay, cái hay tùy thuộc tâm hồn mỗi người. Mê đọc cũng tốn kém nhiều thứ. Tác giả tự nhận mình thuộc “người đọc đại chúng” và ông cho rằng đừng ai khinh thường người đọc đại chúng vì “chính họ là những người thầm lặng đã mang đến cho văn học những nhà văn tên tuổi” (trang 47-57, quyển 1).


Đó cũng có thể xem là một quan điểm văn học. Từ chỗ đứng này, Lương Thư Trung thẳng thắn phê phán sự áp đặt người đọc vào một “nhóm văn chương” nào đó, quy cho họ là không có văn chương. Nhà phê bình văn học, theo Lương Thư Trung, “chỉ là một người ngồi câu ở một bến sông,” là người  “không làm nên văn chương” mà cũng không là “vị thẩm phán cuối cùng ban phát văn chương cho mọi người” (trang 68, quyển 1).


Nhận định đó cho thấy Lương Thư Trung không chấp nhận lối phê bình văn chương độc đoán, nghĩa là chỉ đứng trên một quan điểm nào đó mà họ cho là đúng đắn, rồi sổ toẹt những cách phê bình văn chương khác hoặc là có cái nhìn thiên lệch đối với những tác phẩm không phù hợp với quan điểm mình.


 


(TDN, 25.5.2018)


………………………………………………………….


Hai Trầu-Lương Thư Trung, sinh trưởng ở Tân Bình, Sa Đéc. Ông đã xuất bản chín tác phẩm ở Hoa Kỳ: Bến Bờ Còn Lại (2005), Tình Thầy Trò (2005), Lá Thư Từ Kênh Xáng 1 (2005), !4 Tác Giả, Mỗi Người Một Vẻ (2012), Nhớ Về Những Bến Sông (2013), Lá Thư Từ Kênh Xáng 2 (2013), Mùa Màng Ngày Cũ (2011), Một Chút Tình Quê (2015) và Người Đọc và Người Viết (2017).


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 03, 2018 01:16

Đỗ Hồng Ngọc's Blog

Đỗ Hồng Ngọc
Đỗ Hồng Ngọc isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Đỗ Hồng Ngọc's blog with rss.