Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 66
May 29, 2018
Kỳ 24: PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG
Ngày 26.5.2018 tại Chùa Phật h...
Kỳ 24: PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG
Ngày 26.5.2018 tại Chùa Phật học Xá Lợi, Saigon (Tp.HCM).
Chủ đề: NGHIỆP
Cảm ơn nvquyen đã sớm gởi video clip để mọi người tham khảo.
Đỗ Hồng Ngọc.
……………………………………………………………
Sinh hoạt Phật Học & Đời Sống kỳ 25, Thứ bảy ngày 2.6.2018, lúc 15-16h30.
Thân mời các bạn tham dự.
Chủ đề: Chuyển hóa NGHIỆP
ĐHN.
Phan Trang Hy: TRÒN TRĂNG THÁNG TƯ
TRÒN TRĂNG THÁNG TƯ
Phan Trang Hy
Kênh Nhiêu Lộc Tp HCM. ( theo vncphathoc)
Nắng hạ về ươm mật. Trên từng ngõ ban sơ hạnh ngân dài (Bùi Giáng), cùng những con phố ánh vàng rực rỡ, mặt người rạng rỡ hoan ca. Cờ ngũ sắc cùng Phật kỳ reo vui mở hội. Hội mừng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáng trần.
Dẫu là người ngoại đạo, nhưng ở tôi, thi thoảng cũng thích cơm chay. Có lúc cũng bập bẹ dăm ba câu chú, đọc ít kinh ít kệ. Cứ gọi là có chút tâm Phật – nếu Phật cho phép – ngộ được cái ngộ của Nguyễn Tiên Điền: Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. Và cứ thế, chữ tâm ở chốn hồng trần đã giúp tôi mơ. Có lúc, tôi mơ thấy mình chắp tay như những Thanh Văn cung kính hầu Đức Phật, nghe Ngài thuyết pháp cõi người ta (chữ của Nguyễn Du). Cũng có lúc, tôi mơ về bến giác, được chu du cõi Ta-bà như trăng, như gió, như mây. Cũng có lúc, tôi vui mừng như thể được ánh đạo vàng. Tôi như là bằng hữu của mọi người; tôi như là anh em của chúng sinh. Tôi nghe lời của Đức Từ Phụ sáng ngời đạo lý Từ, Bi, Hỷ, Xả.
Cũng có lúc đớn đau, có lúc bệnh tật, có lúc thất tình lục dục nổi lên. Tôi than khóc ở cõi đời này. Tôi đã kêu Trời Phật. Và Người như dỗ dành tôi, xoa dịu nỗi đau nhân thế. Tôi như mang cái nghiệp, cái duyên, cái nợ ở kiếp này. Và tôi chấp nhận vác những bụi trần như thể “trời sinh ra ta có ý”.
Mỗi năm một lần, tôi cùng vợ con đi chốn Phật đường. Đó là giây phút giao thừa. Hương trầm lan toả không gian, ánh sáng diệu huyền như rửa sạch mọi nỗi ưu tư. Tôi cùng mọi người lễ bái, nguyện cầu trước huệ nhãn của Đức Từ Phụ. Tôi thấy ai cũng tử tế, cũng tâm bình an trong giây phút linh thiêng. Ai cũng tay bắt mặt mừng, lòng tràn hạnh phúc. Trong tiếng nhạc mừng xuân dịu nhẹ, tôi thấy Đức Phật trên đài sen vẫn trầm tư. Ngài vô ưu, vô tư lự?
Và tháng tư về. Vẫn linh thiêng như phút giao thừa! Vẫn ánh sáng viên diệu chốn trần gian! Hương lan, hương huệ thơm cả trời đêm. Tất cả các từng trời, các thế giới vang lên khúc nhạc hát mừng Đản Sinh.
Tiếng mõ, tiếng chuông, tiếng kinh cầu như lời của chúng sinh dâng lên Đức Phật. Trên trời, trăng xanh trong như thể mang sự huyền diệu đến muôn dân, đến với thế gian luân hồi này.
Tháng tư huyền diệu tròn trăng. Tháng tư huyền diệu Đản Sinh. Huyền diệu cả đất trời hát mừng Đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Tròn trăng viên mãn tháng tư. Tròn trăng hát mừng thế gian được ánh đạo vàng chỉ lối.
Bất chợt, tôi nhớ đến bài thơ của Từ Đạo Hạnh :
Tác hữu trần sa hữu,
Vi không nhất thiết không.
Hữu, không như thuỷ nguyệt,
Vật trước hữu không không.
Dịch thơ :
Có thì có tự mảy may,
Không thì cả thế gian này cũng không.
Vừng trăng vằng vặc in sông,
Chắc chi có có, không không mơ màng.
(Huyền Quang dịch?)
Đêm. Tôi ngước nhìn trời. Sáng trên trời trăng tháng tư. Sáng trong tôi trăng tháng tư. Cùng chư tôn Phật tử trên thế gian hát mừng Đức Phật, tôi cũng hát theo. Tôi hát mừng, hát nguyện cầu thế gian được an bình, được gặp điều viên diệu ở cõi trần.
Trầm hương thơm cả đất trời. Ngời ngời trăng sáng tháng tư. Đất trời thị hiện Đức Thế Tôn.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
(P.T.H)
May 28, 2018
Trò chuyện về “Thở và Thiền” với nhóm Yoga
Vài hình ảnh về buổi Trò chuyện về Thở và Thiền với nhóm bạn Yoga ở An Lạc Trang (Củ Chi) ngày CN 27.5.2018
Các bạn học viên đa số trẻ, khoảng 30 người, đến An Lac Trang từ ngày hôm trước, thực tập Yoga Trị liệu và ‘nghỉ dưỡng’ ở một nơi rất thiên nhiên. Sáng Chủ nhật 27.5.2018 này các bạn muốn có một buổi trò chuyện với một bác sĩ… về Thở và Thiền. Tôi được mời đến để trao đổi cùng các bạn và tôi cũng muốn đến để học hiểu thêm về Yoga từ các bạn.
Trong buổi trao đổi chân thành và thân mật này, tôi bắt đâu bằng cách đưa ra vài ‘trò chơi’ để các bạn mở rộng cách nhìn, cách nghĩ… cũng là một hình thức giải trí, nhưng tuy vậy vẫn là một vài… bài học kinh nghiệm.
Khung cảnh An Lạc Trang rất thiên nhiên, nhiều cây xanh, dòng nước mát, hít thở ở đây thật sảng khoái. Dịp này tôi nói về bộ máy Hô hấp, về phương pháp Thở bụng (abdominal breathing, diaphragmatic breathing), về cơ-thể-học, sinh-lý-học của hô hấp, đến Trung khu hô hấp nằm bên dưới vỏ não hoạt động ra sao. Vấn đề là tại sao Phật chọn ‘hơi thở’ làm đề mục của Thiền, tại sao Thiền Anapanasati có cơ sở khoa học nhất trong Tứ Niệm Xứ, có thể thực hành đứng đắn mà không phải sợ “side effect”. Dĩ nhiên cũng nói đến Tinh cần, Chánh niệm, Tỉnh giác; về Thiền chỉ (Samatha) và Thiền quán (Vipassana). Sau cùng, tôi chia sẻ với các bạn bài Vè Thiền Tập của mình (Tham khảo thêm: www.dohongngoc.com bài “Thả lỏng toàn thân thả lỏng chưa?” và bài “Ai có thể thở giùm ai?”.
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
Với vài ba phút ‘thực hành’
và, một bữa ăn trưa… chay đầy ‘chánh niệm’
May 27, 2018
Tôi học Phật
Tôi học Phật
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc
… Một thời, Đức Thế Tôn trú ở Kosambi, tại rừng Simsapà. Ngài lấy tay nhặt lên một ít lá Simsapà, rồi bảo các Tỳ khưu:
– “Này các Tỳ khưu, cái gì là nhiều hơn, số lá Simsapà mà Ta nắm lấy trong tay, hay số lá trong rừng Simsapà?”.
– “Bạch Thế Tôn, số lá Simsapàmà Ngài nắm lấy trong tay thật là quá ít, còn số lá trong rừng Simsapà thật là quá nhiều”.
– “Này các Tỳ khưu, cũng giống như thế…
Cho nên, với tôi, “lõm bõm” học Phật cũng là quá đủ rồi vậy!
hình Internet
1. La-hầu-la là… con Phật lúc Phật còn là Thái tử. Một người con huyết thống. Trong cái đêm rời bỏ cung điện, “quyết tìm đạo sáng cứu chúng sanh” đó, Thái tử Tất-đạt-đa hẳn đã ít nhiều quyến luyến. Khi Phật thành đạo, có dịp về thăm vua cha thì La-hầu-la đã lên bảy tuổi. Và ngay dịp đó, La-hầu-la cũng xin theo Phật, xuất gia.
Hãy coi Phật đã dạy La-hầu-la những gì… để học lóm cũng hay!
Trước hết, Phật giao La-hầu-la cho… ông “thầy dạy kèm” là Xá-lợi-phất. Sao lại Xá-lợi-phất mà không phải ai khác như Mục-kiền-liên chẳng hạn? Xá-lợi-phất thì mới đúng là một ông giáo, kiến thức uyên bác, đệ tử trí tuệ bậc nhất của Phật mà. Phật giao cậu bé La-hầu-la cho Xá-lợi-phất dạy dỗ là muốn La-hầu-la đi vào con đường tu tập bằng trí tuệ trước hết. Nếu Mục-kiền-liên mà làm thầy có khi La-hầu-la mê… thần thông mất! Phật không trực tiếp dạy La-hầu-la vì cha mà dạy con không dễ, nhứt là ông con có máu làm vua!
Và bài học đầu tiên Xá-lợi-phất dạy La-hầu-la là thở. Tức là dạy kỹ năng đầu tiên của thiền định. Bởi đây cũng chính là con đường khai mở trí huệ. Có chánh định rồi mới mong có chánh kiến, chánh tư duy… chớ, phải không? Cuộc sống càng căng thẳng, càng đam mê, càng nhiều tham sân si mạn nghi tà kiến… thì người ta càng dễ quên thở. Người ta chỉ thoi thóp thở, khò khè thở, hời hợt thở, cà giựt thở, cà hước thở cho qua ngày đoạn tháng! Cho nên phải dạy thở trước hết cho La-hầu-la là đúng. Nhưng thở không chỉ là thở. Thở để thấy một kiếp người. Thở để thấy vô thường, vô ngã. Thở để thấy duyên sinh, thấy thực tướng vô tướng.
Rồi khi La-hầu-la lớn dần lên, Phật dạy những bước tiếp theo.
Hãy học hạnh của đất. Hãy như đất. Đất ở khắp nơi. Đất trong ta. Đất trong vũ trụ. Không có đất, ta không nên hình nên dạng. Không có đất, nhựa nguyên không thành nhựa luyện. Điều quan trọng: đất không hề phân biệt. Ném một thỏi vàng hay một đống rác, đất vẫn “như như bất động”…
Hãy học hạnh của nước. Hãy như nước. Nước ở khắp nơi. Nước ở trong ta chiếm đến ba phần tư thể trọng. Cũng như biển cả sông ngòi chiếm ba phần tư mặt địa cầu. “Nước trôi ra biển lại tuôn về nguồn” (Tản Đà). Chẳng thêm chẳng bớt…
Hãy học hạnh của gió. Hãy như gió. Gió ở khắp nơi. Gió trong ta. Trong bầu khí quyển. “Gió không có nhà/ Gió đi muôn phương…”. Đâu cũng là nhà của gió. “ Sống trong đời sống cần có một tấm lòng. Để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi…” (TCS).
Hãy học hạnh của lửa. Hãy như lửa. Lửa ở khắp nơi. Lửa trong ta. Lửa trong vũ trụ. Lửa ở mặt trời. Lửa giữa lòng đất. Lửa ở trong cây. Không có lửa sao cọ xát thì cây bốc lửa? Lửa đốt cháy hết tham sân si. Lửa tam muội ngùn ngụt trong chánh định…
Tứ đại “đất, nước, gió, lửa”, chính là những chất liệu, như Nitrogen (đất), Hydrogen (nước), Oxygen (gió), Carbon (lửa) tạo nên protein. Từ đó mà có sắc, thọ, tưởng, hành, thức…
Và Phật đã không quên nhắc đi nhắc lại với La-hầu-la: “không phải của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta”. Giới Định Huệ chính là thuốc đặc trị cho Tham Sân Si.
2.“… 30 năm trước khi chưa tu thấy núi là núi, sông là sông. Sau nhân được thiện tri thức chỉ cho chỗ vào thì thấy núi chẳng phải núi, sông chẳng phải sông. Rồi nay thể nhập chốn yên vui tịch tĩnh lại thấy núi là núi, sông là sông…”
Cái thấy của 30 năm trước là cái thấy của nỗi lo âu vì vô thường:
Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai…
(Tú Xương)
Cái thấy của 30 năm trước là cái thấy của nỗi sợ hãi vì chấp ngã:
Ta còn để lại gì không?
Kìa non đá lở, này sông cát bồi…
(Vũ Hoàng Chương)
theo Internet
Ta sống trong vô thường vô ngã mỗi phút giây mà chẳng biết. Mỗi ngày Trái đất bay vòng quanh Mặt trời 2,5 triệu cây số; mỗi giây hàng trăm triệu tế bào hồng cầu tự hủy đi để hàng trăm triệu tế bào hồng cầu mới sanh ra… Ta vẫn cứ tưởng còn ngồi lại bên cầu để than thở: “Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ…”. Cho đến lúc thảng thốt nhận ra: “Con sông là thuyền/ mây xa là buồm/ từng giọt sương thu hết mênh mông…” (TCS).
Người thiện tri thức đã chỉ cho chỗ vào? Vào đâu? Vào cái thấy “như thực”: thấy mọi thứ và cả cái ta nữa, luôn biến dịch, luôn đổi thay, bởi nó từ duyên mà khởi, từ duyên mà sinh. Ta thì từ đất nước gió lửa. Núi thì từ đá, đá thì từ cát, cát thì từ gió… Nhìn cho rõ ngọn nguồn. Thấy cái thực tướng vô tướng. Rồi mừng rỡ reo lên: À, thì ra là Không.
Núi chẳng phải núi. Sông chẳng phải sông!… Nhưng chấp Không còn tệ hơn chấp Có.
May thay, khi thể nhập vào chốn yên vui tịch tĩnh thì núi vẫn cứ là núi, sông vẫn cứ là sông. Núi là núi mà còn đẹp hơn xưa. Sông là sông mà còn đẹp hơn xưa. Chơn không mà Diệu hữu.
3. Làm sao nghe tiếng vỗ của một bàn tay ư? Một bàn tay làm sao vỗ cho ra tiếng được?
Phật bảo đánh một tiếng chuông. Hỏi có nghe không, Anan? Dạ, có nghe. Nghe gì? Nghe tiếng chuông. Tiếng chuông dứt, Phật hỏi có nghe không, A-nan? Dạ không. Không nghe gì? Không nghe tiếng chuông. Phật cho đánh lại tiếng chuông lần nữa. Nghe không? Dạ có nghe. Nghe gì? Nghe tiếng chuông. Phật cười: Tôi hỏi ông có nghe không chớ đâu có hỏi ông có nghe tiếng chuông không?
Giữa hai lần gióng chuông ông vẫn nghe đó chứ, ông nghe sự im lặng, nghe sự “không-có-tiếng” đó chứ. Vậy cái sự “nghe” của ông đâu có mất dù cái tiếng chuông kia khi có khi không.
Tiếng là thanh trần, từ bên ngoài, luôn thay đổi. Còn “nghe” – “tánh nghe” – là tự bên trong, không hề thay đổi, luôn có đó.
4. “Ngày nào còn một chúng sanh…, thì quyết không thành Phật.”
Đó là lời thệ nguyện của một vị Bồ-tát. Mà có lẽ cũng là của tất cả các vị Bồ-tát. Ngày nào còn một chúng sanh… nghĩa là Bồ-tát muốn thành Phật thì phải “độ” cho tất cả các “loài” chúng sanh vào Niết bàn sạch trơn mới xong. Bồ-tát phải giúp cho ‘’vô lượng vô số vô biên chúng sanh được… diệt độ, mà thiệt ra chẳng có chúng sanh nào được diệt độ cả’’(Kim Cang). Vậy chúng sanh là gì mà ngày nào còn một chúng sanh thì Bồ-tát chưa thể thành Phật? Chúng sanh là mọi người trên hành tinh này ư? Là mọi loài sinh vật, cỏ cây, muôn thú ư? Vậy đưa hết chúng sanh vào Niết bàn thì ta… thành Phật để làm chi? Bởi ước nguyện thành Phật là để mang lại hạnh phúc, an lạc, giải thoát cho mình và cho chúng sanh kia mà! Kim Cang nói rõ: “Chúng sanh không phải là chúng sanh nên gọi là chúng sanh” (chúng sanh tức phi chúng sanh thị danh chúng sanh). Nghe thiệt điếc con ráy! Nhưng điếc con ráy là tại ta hiểu lầm thôi, chớ chúng sanh ở đây chỉ có nghĩa là những gì do nhiều (chúng) yếu tố tạo thành (sanh) thì gọi là chúng sanh. “Chúng duyên nhi sanh” thế thôi.
Cũng với 3 nguyên tố C (Carbon), H (hydrogen) và O (Oxygen), với những điều kiện nhiệt độ, áp suất nào đó và với tác dụng của một enzym nào đó thì kết hợp với nhau, khi thì cho ra dấm, khi cho ra đường, ra rượu… Đường, dấm, rượu là những “chúng sanh” do ‘’duyên’’ (điều kiện) sanh đó vậy. Một lời nói xúc phạm của ai đó, lúc đầu lời qua tiếng lại, lát sau động tay động chân, cũng sẽ tạo ra vô lượng vô số vô biên… “chúng sanh” đó thôi! Lòng tham, nỗi giận, sự si mê, tà kiến, kiêu căng, ngạo mạn…đều là những chúng sanh dắt díu nhau xuất hiện trong ta.
Chúng sanh đầy dẫy trong tâm. Nó không từ ngoài vào. Cho nên phải: Thức tự tâm chúng sanh/ Kiến tự tâm Phật tánh (Lục tổ Huệ Năng).
Và, như thế, Bồ-tát nguyện “ngày nào còn một chúng sanh… quyết không thành Phật” là có lý quá chớ!
Kinh Pháp Hoa khắc trên gỗ thị đỏ hơn 300 năm trước được tìm thấy tại Chùa Cát (Phật Quang), Phan Thiết. (ĐHN, 2009).
5. Một hôm Phật nói ta sắp nhập Niết bàn rồi, ai muốn hỏi gì thì hỏi ngay đi.
Các vị Bồ-tát nhao nhao hỏi:
– Thế Tôn, có pháp môn nào giúp cho mau thành Phật không? (kinh Pháp Hoa)
Ối trời! Thành Phật đã là chuyện hy hữu, tu hành nhiều đời nhiều kiếp chưa ăn thua gì mà bây giờ còn muốn cho mau thành Phật nữa ư?
Vậy mà, Phật tủm tỉm cười:
– Có đó. Có một pháp môn giúp cho mau thành Phật. Pháp môn này gọi là Vô Lượng Nghĩa”!
– Sao gọi là Vô Lượng Nghĩa?
– Vô Lượng Nghĩa này từ một pháp sanh ra, một pháp ấy là “Vô tướng”.
– Sao gọi là Vô tướng?
– Vô tướng đây nghĩa là vô tướng mà chẳng phải vô tướng, chẳng phải vô tướng mà vô tướng, nên gọi là Thật tướng.
Thì ra để thấy được Thật tướng thì phải tu pháp Vô tướng. Vì còn thấy có tướng, còn dính mắc vào tướng, còn loay hoay trong tướng – cái trình hiện, cái biểu kiến bên ngoài – thì không thể thấy Tánh.
6. Phật hỏi Duy-ma-cật: “Như ông muốn thấy Như Lai thì quán Như Lai như thế nào?”. Duy-ma-cật thưa: “Như tự quán cái ‘thật tướng’ của thân, quán Phật cũng như vậy”.
Phật là Như Lai nhưng Như Lai không phải Phật. Phật là Như Lai bởi Phật luôn sống trong Như Lai, sống với Như Lai, nói khác đi, Phật luôn sống trong pháp thân, trong thật tướng.
Thấy được cái pháp thân của Phật, cái thực tướng của Phật thì mới thấy… Như Lai. Còn nếu chỉ nhìn vào 80 vẻ đẹp hay 32 tướng tốt thì còn lâu mới thấy Như Lai. Dùng âm thanh chũm chọe, ánh sáng chớp lòe… thì chẳng những không thấy Như Lai mà còn bị Phật chê là “hành tà đạo”. Bởi Như Lai không có cái gì để thấy cả!
Phổ Hiền Bồ-tát bảo khi gặp Phật thì phải kính lễ (Lễ kính chư Phật), còn khi gặp Như Lai thì chỉ còn có cách xưng tán (Xưng tán Như Lai!), tức khen ngợi, trầm trồ, thán phục, gật gù, ú ớ, bởi vì “nói không được”!
Duy-ma-cật giải thích thêm: Như Lai thì vô danh, vô tướng; không sạch, không nhơ; không phải hữu vi cũng không phải vô vi…; không định, không loạn; không trí cũng không ngu; không đến không đi; không vẩn đục, không phiền não, không tác, không khởi, không sanh, không diệt, không sợ, không lo, không mừng, không chán…; không thể lấy trí để biết; không thể lấy thức để nhận ra; dứt tuyệt tất cả con đường ngôn thuyết; không thể bằng tất cả ngôn thuyết để hiển thị hay phân biệt…
Do vậy, muốn thấy Như Lai thì phải quán, mà trước hết là quán cái “thực tướng” của chính thân mình. Cho nên Phật dạy: “Hãy nương tựa chính mình!”.
7. Rồi học hạnh Chân thành của Dược Vương, vị Bồ-tát “Nhứt thiết chúng sanh hỷ kiến”, ai thấy cũng vui, ai gặp cũng mừng. Dược Vương tự “đốt thân” (Thiền định) để vào Chánh định, đạt “nhân vô ngã”, rồi đốt cả hai cánh tay, giải trừ chấp pháp, đạt ‘’pháp vô ngã’’, từ đó mới ung dung tự tại, chân thành, trung thực… Thân khẩu ý là một. Nụ cười toát ra tự bên trong, không làm bộ làm tịch, vẽ vời, trau chuốt, không mang mặt nạ, không nói một đằng làm một nẻo…
Rồi học hạnh Thấu Cảm của Quán Thế Âm, vị Bồ-tát có khả năng “nghe được tiếng kêu của trần thế!”. Với lòng đại từ đại bi, với vô úy thí, nghìn mắt nghìn tay, nước cam lồ rưới mát cõi nhân sinh đầy thù hận, sợ hãi. Sợ gì? Sợ chết, sợ khổ, sợ nghèo, sợ xấu xí, sợ bệnh hoạn, sợ già nua… Cho nên làm cho hết sợ là đủ để mang lại an lạc, đủ để “cứu vớt chúng sanh” thoát biển trầm luân. Nhưng vì đâu mà sợ? Vì tưởng. Vô thường tưởng là thường. Vô ngã tưởng là ngã…Nuôi mộng muôn năm trường trị, nhất thống giang hồ…
Quán Thế Âm không đến từ bên ngoài mà đến từ bên trong của người “hành thâm Bát Nhã”.
Rồi học hạnh Thường Bất Khinh, vị Bồ-tát chỉ làm mỗi việc: chắp tay xá lạy mọi người, bất kể là ai và nói với họ rằng: Tôi không dám coi thường ngài. Ngài là một vị Phật tương lai. Nghe ông nói, ai cũng nổi giận. Phật ư? Giỡn chơi sao chớ. Chế giễu hả? Và người ta đánh đuổi ông, nguyền rủa ông, ném đá ông. Mặc kệ, ông vẫn kiên trì, không một chút nao lòng. Nghe một lần hai lần thì khó chịu, nghe trăm lần ngàn lần thì giật mình, ơ hay, cũng dám lắm chớ. Ai cũng có hạt giống Phật mà, chịu khó tưới tẩm có ngày dám mọc lên một cây Bồ đề lắm chớ.
Cho nên Tôn trọng, đức tính thứ nhất để thiết lập truyền thông hiệu quả. Thiếu tôn trọng thì truyền thông lập tức gẫy đổ.
Chân Thành (Genuine), Thấu Cảm (Empathy), Tôn Trọng (Respect)… là những hạnh cốt lõi của Bồ-tát đó vậy./.
(Đỗ Hồng Ngọc)
Phật Đản 2018
…………………………………………………………………………………..
(Bài đã đăng Liễu Quán, số Phật Đản, PL 2562 (2018)
May 25, 2018
“ Em hồn nhiên rồi em sẽ bình minh”
Một vài cảm nghĩ khi đọc Tản Văn Thi của Nguyễn Thị Khánh Minh
“ Em hồn nhiên rồi em sẽ bình minh” (*)
Tôi không tin Tản Văn Thi của Khánh Minh là giấc mơ, là huyền thoại, là chiêm bao. Trái lại, nó rất hiện thực. Nó rất ở đây và bây giờ. “Đó là bức tranh sắc mầu cuộc sống”: bức tranh của một gia đình hạnh phúc, thứ hạnh phúc đơn sơ như ‘Me tôi ngồi khâu áo bên cây đèn dầu hao/ Cha tôi ngồi xem báo… Tôi nghe tiếng còi tàu… ’(Kỷ Niệm, Phạm Duy).
Phải rồi. Chỉ ở đó mới có tiếng chim trao lòng tin cậy; chỉ ở đó mới có bờ vai nương tựa sớm hôm; chỉ ở đó mới có những ánh mắt sao trời thơ trẻ; và đôi cánh bay lên những ước mơ đằm thắm ngọt ngào của người thi sĩ, luôn nhắc nhở mình “đừng như bóng mây tan”.
Phải rồi. Chỉ ở đó mới có tiếng reo vui Tát-bà-ha của Tâm kinh Bát nhã khi thấy biết ‘”ngũ uẩn giai không/ độ nhất thiết khổ ách”. Bát nhã (Prajnã) là cái nhận thức có trước nhận thức, là cái trí tuệ có trước trí tuệ, không đếm đo, toan tính, nó vậy là nó vậy. Và chỉ ở đó, người ta mới thực sự hồn nhiên, thực sự reo vui: Tát-bà-ha!
Tiếng chim ríu rít mách tôi sự trong trẻo ban mai trao lòng tin cậy.
Bóng đêm mở nỗi sợ cho tôi tìm ra ánh sáng bờ vai nương tựa.
Những vì sao tặng tôi cách nhìn ngây thơ trong sáng.
Gió cho tôi đôi cánh và đường bay mơ ước con người.
Bóng mây tan nhắc tôi mỗi phút giây ở lại bên mình yêu dấu.
Tiếng cười bé thơ cho tôi nghe reo vui lời tâm kinh bát nhã.
(Khánh Minh, Khoảnh khắc giấc mơ)
Cho nên người thơ viết: Nên tôi quý những điều tôi đã nhận/ Nên tôi tận lòng với những điều đang ở.
Còn có cách nào hơn là “mở con đường trú ngụ hơi thở tịch lặng” – Anapanasati- ở đó, hiện tại là sát-na mênh mông không ngằn mé…
Và chỉ ở đó:
“Trong sáng láng ấy tôi đã gặp nhà thơ Mặt Trời. Lồng lộng nắng phương đông, chắt chiu hết tinh khôi nhân ái rắc xuống cánh đồng thơ diễm ảo. Tôi thức giấc từ lời hát của một bông cỏ dại người ban tặng và mảnh vỡ trái tim tôi thành những hạt pha lê được nuôi sáng bằng lời thơ dâng hiến…”
Phải, đã gặp một Tagore lồng lộng nắng phương đông, một Tagore viết nên những lời thơ dâng hiến! Còn phải tìm kiếm đâu xa?
Và một khi đã thấy biết (tri kiến) như thế, khi đã reo vui như thế, thì người ta sống với yêu thương, sống trong yêu thương, sống vì yêu thương:
“Yêu thương nhé” “ nói cùng lá cứ sống hết mình xanh”,
“yêu thương ơi xin thức dậy cùng người…”
“yêu thương ơi khoảnh khắc sum vầy đơn sơ thế xin một lần được cất cánh bay”.
Rồi tự dặn với lòng: “yêu thương ơi chút lòng riêng xin chắt chiu nghe…” “ Cho dẫu chiều rồi phai nắng...”
(Khánh Minh, Yêu thương ơi)
Rồi một hôm, người Bạn sẽ đến. Thế nào cũng sẽ đến. “ trong chiếc áo mầu nắng mang theo chân trời rất lạ của phương đông”. Phải chính là người Bạn “nơi con đường vừa mới có tên mọc đầy hoa Nguyện Ước”: ‘Lưu ly reo âm thanh trái tim. Và sẽ tặng tôi phép mầu của câu thơ đi vào cuộc sống. Tôi run rẩy chờ đợi… “. Người bạn đầy Nguyện Ước phương đông đó chính là Dược sư lưu ly quang Như Lai đó vậy!
Và dĩ nhiên người thơ sẽ đến điểm hẹn dầu giữa đêm tuyết giá. “Sẽ đem theo trái tim đầy tin cậy”. Trái tim đầy tin cậy, ấy chính là ‘Tín tâm”. Hãy giữ lấy. Dù “Ngày xám đục những mây/ đứng dưới một cây phong bay những chiếc lá khô/ Không có loài chim nào đến hót/ Cơn bão rớt đem mưa làm nước mắt…”. Cơn bão rớt sẽ đến rồi sẽ qua. Vô thường sẽ là ‘đóa hoa’ của Trịnh.
Rồi cũng có lúc “ngũ ấm xí thịnh”, người thơ hoang mang: Nếu có tìm tôi… Nếu có tìm tôi…? Ai tìm ai? Hãy nương tựa chính mình thôi nhé!
Nếu có tìm tôi. Xin trông chờ mảnh sáng sao băng.
Nếu có tìm tôi xin hát bằng nhịp tim bổng trầm lời tình tự…
Nếu có tìm tôi. Xin theo dấu sáng đom đóm quyện hương bờ giậu quê nhà. (…). Cho tôi đôi cánh hoa bay về miền đồng lúa chín vàng. Ngôi làng không bận lòng gì hơn là sống bình yên. Có con tầu đi về chở chuyên hội ngộ. Mỗi tiếng cửa mở ra là một tiếng reo sum vầy. Mỗi bếp lửa là mỗi báo tin mùa màng no đủ.
Nếu có tìm tôi…Trên bước gió mở ngàn khơi nơi cuối cùng là phương Đông ấm một mặt trời…
(Khánh Minh, Khoảnh khắc giấc mơ, 2018).
Hoang mang thế nhưng rồi, như một nhà thơ từng viết: Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy!
“Tôi đi tìm những trang bản thảo, mảnh đất tị nạn bình yên của tôi. Nơi có trò chơi trốn tìm dưới ánh chớp những chùm sao đang va vào nhau vang dội. Âm thanh ẩn mật là chiếc chìa khóa cuối cùng tôi phải mở, cõi thách thức cảm xúc phục sinh.
Tôi nhặt được một trang bản thảo lem luốc đầy vết xóa và tôi nghe tiếng tim mình còn hồi hộp đập…”.
(Khánh Minh. Trong cơn bệnh).
Phải, “Còn hồi hộp đập” nghĩa là còn sẽ nhặt nhạnh thêm.
“Em hồn nhiên rồi em sẽ bình minh” thôi mà! Phải không?
Đỗ Hồng Ngọc
(Saigon 24.5.2018)
…………………………………………………………………..
(*) Trịnh Công Sơn
Huỳnh Ngọc Chiến:NHÀN ĐÀM CÁI GIẬN CHỐN THIỀN LÂM
NHÀN ĐÀM CÁI GIẬN CHỐN THIỀN LÂM
Huỳnh Ngọc Chiến
Trong tam độc “tham − sân − si” thì nóng giận là một cảm xúc dễ bộc phát nhất, và bởi thế, khó kiềm chế nhất. Khi giận, khó ai mà có thể kiềm chế được bản thân. No mất ngon, giận mất khôn. Nhan Hồi – một cao đệ yểu mệnh của đức Khổng Tử – được hậu nho ca ngợi, tôn xưng là á thánh cũng nhờ vào ba chữ “bất thiên nộ”, có nghĩa là “không giận lây” theo kiểu “giận cá chém thớt”. Giận mà biết kiềm chế thì phải có công phu hàm dưỡng. Phật giáo dùng nhẫn nhục như là pháp môn để đối trị sân, nhưng ngay cả đối với những bậc thượng trí hoặc những người nghĩ rằng mình đã “ngộ” thì cái sân đôi khi vẫn thường sinh khởi ở chỗ rất đỗi tế vi.
Thiền tông Nhật Bản còn lưu truyền một câu chuyện rất thú vị. Yamaoka Tesshu (Sơn Cương Thiết Chu 1836 − 1888) là một kiếm sĩ lỗi lạc của Nhật Bản. Khi còn trẻ, ông đi tham bái hết vị thầy nầy đến thầy khác để học thiền. Và ông ta nghĩ rằng mìng đã nắm được giáo nghĩa tinh yếu cả Phật pháp. Nên một ngày kia, ông đến tham bái Dokuon (Địch Dã Độc Viên 1819–1895), một thiền sư thuộc dòng Lâm Tế, ở Shokoku. Muốn trình bày sở đắc của mình, Yamaoka nói : − Tâm, Phật, cùng các loài hữu tình rốt ráo đều không hiện hữu. Chân tánh của mọi hiện tượng đều là Không. Không ngộ, không mê, không thánh, không phàm. Tam luân không tịch, không có người cho, không có người nhận, cũng chẳng có vật được cho.
Dokuon ngồi lặng lẽ hút thuốc, không nói gì. Thình lình, vị thiền sư cầm ống điếu tre quất Yamaoka một phát, khiến anh chàng nổi xung lên. Dokuon liền hỏi : − Nếu tất cả đều không hiện hữu, vậy cơn giận của anh từ đâu đến? (theo http://www.101zenstories.org/tag/tesshu/)
Giữa một tràng ba hoa thuyết thoại “nhất thiết giai không”, chỉ một cú quất của cái điếu tre cũng đủ để biến không thành hữu! Đó là một lối cảnh tỉnh kiểu Đức Sơn hay Lâm Tế, mà ta thường thấy chốn thiền đường. Nếu sau câu nói đó mà cái sân kia vẫn là sân thì Yamaoka đáng ăn thêm ba mươi gậy của Đức Sơn hay vài trăm hèo của Lâm Tế, để những kẻ đọc kinh sách theo kiểu trích cú tầm chương trong thiên hạ hết đường thuyết thoại. Nhưng nếu câu nói đó khiến Yamaoka hoát nhiên đại ngộ thì cái sân kia sẽ chuyển thành cái hỷ.
(theo Internet)
Nhưng giai thoại trên vẫn chưa lý thú bằng giai thoại về Tô Đông Pha, cũng lưu truyền trong thiền lâm Trung Quốc. Giai thoại này đã quá quen thuộc, nhưng tôi cũng xin ghi lại đây. Chuyện kể rằng, có một lần, Tô Đông Pha sáng tác được một bài thơ xưng tán cảnh giới giải thoát của đức Phật. Ông thấy rất hài lòng, nên sai thư đồng đem qua bên kia sông để tặng thiền sư Phật Ấn, lúc bấy giờ đang ở chùa Kim Sơn. Bài thơ như vầy:
Khể thủ thiên trung thiên
Hào quang chiếu đại thiên
Bát phong xuy bất động
Đoan tọa tử kim liên.
(Cúi đầu đảnh lễ Pháp Vương, Mười phương tỏa sáng hào quang. Tám gió thổi, tâm không động, Ngồi nghiêm trên đóa sen vàng).
“Thiên trung thiên” (trời trong trời) dùng để chỉ Đức Phật. Trong kinh điển, thế gian có tám thứ khiến tâm con người phải điên đảo, không an. Đó là bốn cặp đối lập nhau : thịnh và suy, hủy và dự, xưng và cơ, khổ và lạc. Hưng thịnh và suy vi; hủy báng và danh dự; xưng tụng và chê bai; khổ đau và lạc phúc. Tám thứ này giống như tám ngọn gió thổi làm con người nghiêng ngã, nên được gọi là “bát phong”. Chỉ những người có định lực và đạo hạnh cao mới có thể giữ tâm bất động trước bát phong để có thể “Khen, chê phơi phới ngọn đông phong” như cụ Nguyễn Công Trứ. Ý định của Đông Pha là muốn Phật Ấn xem bài thơ để ấn chứng công phu thiền định của nhà thơ thâm viễn đến đâu. Nào ngờ, Phật Ấn xem qua liền phê vào hai chữ “phóng thí” (đánh rắm) bên cạnh bài thơ, rồi bảo thư đồng đem về trình lại cho Đông Pha. Đông Pha xem xong, đùng đùng nổi giận, lập tức qua sông, đến chùa Kim Sơn để gặp Phật Ấn hỏi cho ra lẽ. Đến nơi, thấy cửa phòng Phật Ấn khép kín, bên ngoài có dán hai câu thơ :
Bát phong xuy bất động,
Nhất thí đả quá giang.
Tám gió ào ào, tâm chẳng động, Một hơi đánh rắm đẩy qua sông.
Đông Pha giật mình, chợt hiểu công phu hàm dưỡng của mình vẫn còn nông lắm. Cứ nghĩ mình tâm đã tịch nhiên bất động, tám ngọn gió kia có ào ào thổi thì tâm vẫn vững như bàn thạch, nhưng đâu ngờ chỉ một hơi đánh rắm cũng đủ sức đẩy mình, cả thân lẫn tâm, văng tuốt qua bên kia sông, khi hăm hở muốn mở một trận chất vấn! Hai câu thơ của Phật Ấn giống như câu kệ khai ngộ cho Tô Đông Pha. Câu chuyện trên hiển nhiên chỉ là giai thoại. Tôi tin rằng không thể có chuyện một thi tài quán tuyệt như Tô Đông Pha lại làm một bài thơ xoàng xĩnh như một người mới tập làm thơ để xưng tán cảnh giới giải thoát của Đức Phật, rồi lại đem bài thơ xoàng xĩnh đó trình cho Phật Ấn − vốn cũng là một tay tổ trong làng bút mực? Cả hai giai thoại lý thú trên cho thấy nóng giận là cảm xúc rất khó kiềm chế. Đã là người dĩ nhiên không thể không có lúc nổi giận, nhưng để giữ cho cơn giận không vượt qua chữ lý thì đó phải là người có công phu hàm dưỡng lâu dài.
Tôi có lần làm bài thơ Tứ Đại để bỡn người quen là một bác sĩ tính tình rất nghiêm túc, thường hay viết sách về thiền.
Tưởng đã ưng vô sở trụ,
Rong chơi tâm ý siêu nhiên.
Em phô xác thân tứ đại,
Hoang mang rơi cả gậy thiền.
Hiểu rành “Tứ đại giai không” là thế, nhưng nhìn xác thân tứ đại tuyệt diễm phô ra kia, chắc gì tâm đã “tịch nhiên bất động” mà không “Hoang mang rơi cả gậy thiền.”? Xác thân tứ đại kia tác động hiển nhiên phải mạnh cái điếu tre của Dokuon hay cái “đánh rắm” của Phật Ấn. Anh đọc xong, không giận, mà gởi lại hai câu thơ, nói tôi ba lơn!
Phật giáo dạy dùng nhẫn nhục để đối trị sân, nhưng trong giới thiền lâm vẫn có thiền sư lấy sân làm công phu đạo hạnh. Sư Khế Tung (1007-1072) là một cao tăng uyên bác đời Tống, văn tài và đạo hạnh nổi bật đương thời. Vẻ mặt ông thường lộ vẻ cau có, người ta chưa từng thấy ông cười. Ta thử nghe Tô Đông Pha viết về ông: Thiền sư Khế Tung thường sân; người ta chưa từng thấy sư cười. Sư Hải Nguyệt Tuệ Biện thường vui, người ta chưa từng thấy sư giận. Tôi ở Tiền Đường, tận mắt thấy hai vị đó đều ngồi kiết già mà hóa. Khế Tung khi đã trà tỳ, lửa không hủy hoại nỗi, thêm củi cho lửa mạnh, nhưng có năm món rốt cuộc vẫn không bị hư hoại. Hải Nguyệt đến khi táng mà diện mạo vẫn như lúc còn sống, lại còn cười mĩm. Thế mới biết, hai vị đó lấy cái sân và cái hỷ mà làm Phật sự vậy. Tôi cho rằng đạo hạnh chân thực của một thiền sư không phải được thể hiện qua tên tuổi lúc sinh tiền, cũng không phải qua những sáng tác hay những lời thuyết giảng hùng hồn uyên bác cho đạo hữu, mà được thể hiện qua thể cách viên tịch hoặc phong cách lúc tuổi già.
Một thiền sư có thể đăng đàn thuyết pháp tràng giang đại hải về những pháp môn đem lại “thân an tâm lạc” cho mọi người, được môn độ tung hô xưng tụng, nhưng khi về già lại sống trong cảnh khổ não của lão thì giáo pháp mà họ giảng dạy cho môn đồ cũng không có giá trị gì cho lắm. Giống như vào tiệm thuốc bắc để bốc thuốc, nếu ông chủ tiệm thuốc không phải là người phương phi, hồng hào khỏe mạnh, mà là một ông lão ho hen, lọm khọm thì liệu ta có thể tin tưởng được các phương thuốc mà ông ta bán hay không? Cho nên, với tôi, Bùi Giáng vẫn là một thiền sư thực sự. Ông sống bỡn cợt giữa đời, rong chơi đầu đường xó chợ, làm thơ viết sách rồi an nhiên mà đi. Nó mang phong cách của một thiền sư. Sư Khế Tung thường giận, nhưng an nhiên ngồi kiết già mà hóa, làm lễ trà tỳ mà có năm món bất hoại, lửa không thiêu nỗi, đó mới là chân thiền sư. Cái sân của Tô Đông Pha, của Yamaoka lại giúp ta thấu ngộ được những điều mà lúc bình thường ta không hiểu nỗi. Ngẫm ra, khi có đạo hạnh cao thâm, như sư Khế Tung, thì cái sân cũng là Phật sự, đâu cần phải bỏ sân mà giữ hỷ. Đâu cần phải đợi đến lúc viên tịch mới hiểu được giá trị của cái hỷ, cái sân.
(theo Báo GIÁC NGỘ số 266)
May 24, 2018
Kỳ 23: PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG
Kỳ 23: Phật Học & Đời Sống
tại Chùa Xá Lợi, Tp HCM, ngày Thứ bảy 19.5.2018
Từ Bi Với Mình
Hô hấp và 16 hơi thở “Thân Thọ Tâm Pháp”
Rất cảm ơn nvquyen đã gởi sớm video clip này đến các bạn.
Đỗ Hồng Ngọc.
………………………………………………………………………….
Ghi chú: Thứ bảy 26.5.2018 Lớp tiếp tục sinh hoạt từ 15-16h30
tại Chùa Phật học Xá Lợi, 89 Bà Huyện Thanh Quan, Quận 3, Tp HCM
Chủ đề : “NGHIỆP”
Thân mời các bạn tham dự.
May 17, 2018
Một Thời Để Nhớ (Quán Văn số 55)
MỘT THỜI Ý THỨC
Bán nguyệt san Văn học nghệ thuật Ý THỨC (1970-1975)
Ghi chú: Bài này là một phần bài viết của nhà văn Nguyên Minh, chủ biên Bán nguyệt san Văn học nghệ thuật Ý Thức tại Saigon (1970-1975), đã đăng trên Vanchuongviet.org của Nguyễn Hòa vcv ngày 01 Oct 2010.
Nhân dịp Quán Văn 55 chủ đề Một Thời Để Nhớ ra mắt ngày 20.5.2018, tôi trích đăng lại một vài đoạn dưới đây như một kỷ niệm một thời tuổi trẻ của bạn bè anh em.
Đỗ Hồng Ngọc
…………………………………………………….
(…) Năm 1967, tại Phan Rang, khi Ngy Hữu và Nguyên Minh về dạy học tại đó, tập họp bài vở anh em trong nhóm ở xa làm một số Xuân Gió Mai, in roneo, khô 21×30. Đến năm 1969, Gió Mai mở rộng và đổi tên là Ý Thức, hai tháng ra một số báo, in ronéo. Lúc này, nhóm chủ trương có thêm Trần Hữu Lục, Lê Ký Thương, Võ Tấn Khanh, Đỗ Nghê (Đỗ Hồng Ngọc). Tòa soạn : Theo chân người viết. (Thực ra là 11 Nguyễn Thái Học. Phan Rang).
Báo ra được 6 số thì dọn vào Sài Gòn, ra chính thức Bán nguyệt san văn học nghệ thuật, in Typô rồi đến Offset, phát hành rộng rãi toàn quốc. Tòa soạn đặt tại 666 Phan Thanh Giản, Sài Gòn. Chủ nhiệm trên pháp lý là Dược Sĩ Nguyễn thị Yến, một người bạn của Nguyên Minh, không biết gì về văn chương, trên thực tế là Nguyên Minh với chức danh trên giấy phép do Bộ Thông Tin cấp là Tổng Thư Ký. Tại tòa soạn, những số báo đầu tiên có Thái Ngọc San, Nguyễn Mai phụ tá, sau đó có Võ Tấn Khanh, Lê Ký Thương vào giúp sức với Nguyên Minh. Báo ra 24 số thì tạm đình bản. Đầu năm 1975, Ý Thức ra bộ mới do Lữ Kiều chủ biên. Báo vừa in xong số 2 tháng 3 năm 1975 xảy ra, chưa kịp phát hành.
Lữ Kiều, Lê Ký Thương,(…)Trần Hữu Lục, Phạm Văn Hạng, Nguyên Minh (giữa), Đỗ Hồng Ngọc,Trần Duy Phiên, Hồ Thanh Ngạn tại nhà Lữ Kiều
Kể từ Ý Thức thời quay ronéo đã có thường xuyên các truyện ngắn, thơ của Tần Hoài Dạ Vũ, Mường Mán, Đông Trình, Doản Dân, Nguyễn Kim Phượng, Hồ Minh Dũng, Từ Hoài Tấn, Luân Hoán, Chu Trầm Nguyên Minh, Thế Vũ, Nguyễn Lệ Tuân, Thái Ngọc San…
Ý Thức thời in Typô và offset có thêm Trần Nhựt Tân, Huỳnh Hữu Ủy, Nguyễn Ước, Huỳnh Ngọc Sơn, Bảo Cự, Trần Duy Phiên, Nguyễn Lệ Uyên, Mang Viên Long, Bùi Giáng, Huy Tưởng, Từ Kế Tường, Nguyễn Tôn Nhan, Lê Văn Thiện, Phạm Ngọc Lư, Phan Việt Thủy, Trịnh Công Sơn, Kinh Dương Vương, Nguyễn Xuân Thiệp, Huỳnh Phan Anh, Cao Hữu Huấn, Phan Tấn Uẩn, Nguyễn Đức Sơn, Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Phan Thịnh…
Hình Thức: Chữ Ý Thức thời ronéo do Lê Ký Thương kẻ. Khổ báo là 21×30. Đánh máy trên stencil là Chị Hồ Thị Kim Phương, một người bạn gái của Nguyên Minh, rất sính văn chương, tẳn mẳn đếm từng chữ để canh hai bên lề ngay ngắn, không khác gì sắp chữ chì in typô.
Khi Ý Thức chính thức có giấy phép của Bộ Thông tin, khổ báo được đổi thành 14x2O. Số 1 bìa do Lê Ký Thương trình bày. Số 2 do Đỗ Quang Em. Số 3 do Vị Ý. Số 4 đến số 7 trở lại Lê Ký Thương. Số 8 tranh bìa Hoàng Ngọc Biên.
Bắt đầu số 9, Ý Thức lại thay đổi khổ báo, hình vuông 19×19. Bìa và ruột do Nguyễn Bom trình bày, rất mới lạ. Số 12, tranh bìa của Bửu Chỉ: Quê hương ta ngày trùng tu. Số 18, tranh bìa của Hồ Đắc Ngọc. Số 21 Ý Thức chuyển qua in offset. Lê Ký Thương trình bày và kỹ thuật in do Nguyên Minh chăm nom.
Khai trương nhà xuất bản Ý Thức thời ronéo là tập truyện Nỗi bơ vơ của bày ngựa hoang của Trần Hoài Thư.
Khi cơ sở Ý Thức dời về Sàigòn, tập truyện Cát Vàng của Lữ Quỳnh được xuất bản, bìa in offset do Nguyễn Trung trình bày, phát hành rộng rãi trên toàn quốc. Tuần tự, cũng mang tên Ý Thức, đã xuất bản: Những vì sao vĩnh biệt, tập truyện thứ hai của Trần Hoài Thư. Sau đó là Sông Sương Mù , tập truyện thứ hai của Lữ Quỳnh, Bìa của Hoàng Ngọc Biên. Sách được in tại nhà in Thanh Bình.
In tại nhà in riêng offset đặt tại Phan Rang: Bếp lửa còn thơm mùi bả mía, tập thơ của Lê Ký Thương, Thơ Đỗ Nghê (một bút hiệu khác của Đỗ Hồng Ngọc), Kẻ phá cầu, tập kịch của Lữ Kiều
Ý Thức, tủ sách Hoa Niên, dành cho thiếu niên, đã xuất bản: Đám tang đa đa, truyện dài của Nguyên Minh. Mưa qua thành phố, tập truyện của Nàng Lai (một bút hiệu khác của Lữ Kiều). Em bé bất hạnh, Anh hùng tí hon, của Trần Quang Huề. Tranh bìa bốn cuốn sách trên của họa sĩ Nguyễn Trung. Chim bay về đâu, truyện dài dành cho lứa tuổi 16, của Võ Tấn Khanh. Sách dịch có Cậu bé gỗ của Châu Lang (một bút hiệu khác của Châu văn Thuận), Trên ngọn hải đăng của Lê Ký Thương…
Mang tên nhà xuất bản Tiếng Việt, có Ngọn cỏ ngậm ngùi, tập truyện thứ ba của Trần Hoài Thư, Sông sương mù, tập truyện của Nguyễn Mai. Sách dịch có Mười hai năm bên cạnh Hitler của Nguyên Thạnh (bút hiệu của Nguyễn Mậu Hưng).
Theo Nguyên Minh (Vanchuongviet.org Oct 1.2010)
Nguyên Minh, Đỗ Nghê, Đinh Cường, Lữ Kiều, Chu Trầm Nguyên Minh, Elena Trương, Lữ Quỳnh, tại chuồng Bồ câu Quán Văn (2011)
Kỳ 22: PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG ngày 12.5.2018
Kỳ 22: Phật Học & Đời Sống
Ngày 12.5.2018 tại Chùa Xá Lơi Saigon (Tp.HCM)
TỪ BI VỚI MÌNH (tiếp theo):
Thực phẩm cho Thân và Tâm
(Đoàn thực; Xúc thực, Tư niệm thực, Thức thực)
…………………………………………………………………………………………………….
Kỳ 23: Ngày 19.5.2018 lúc 15-16:30
tại Chùa Phật học Xá Lợi, 89 Bà Huyện Thanh Quan, Quận 3
Từ Bi Với Mình phần cuối với đề tài
Hô Hấp và 16 hơi thở Thân Thọ Tâm Pháp
Thân mời các bạn tham dự,
Trân trọng
Bs Đỗ Hồng Ngọc.
Cảm ơn nvquyen.
Ghi chú thêm: nvquyen cũng vừa thông báo cho biết đến nay đã có khoảng 1400 người đăng ký theo dõi ”PH & ĐS”.
May 13, 2018
Nguyên Quang: CHÂN ĐẾ và TỤC ĐẾ
CHÂN ĐẾ và TỤC ĐẾ
Nguyên Quang
Ghi chú: Một bài viết rất căn bản để học Phật từ nhiều năm trước của Nguyên Quang trên quangduc.com và sau đó trên Tuvien.com. Xin phép tác giả cho chia sẻ nơi đây dành cho các bạn đang sinh hoạt trong Lớp Phật học & Đời sống.
Trân trọng cảm ơn,
Đỗ Hồng Ngọc.
………………………………………………………………………………..
Trong các danh từ chuyên môn của đạo Phật, có lẽ không có từ ngữ nào mà người học Phật cần phải hiểu và cần phải phân biệt rõ ràng, nếu như muốn hiểu giáo lý thâm diệu của đạo Phật như hai từ “Chân Đế” và “Tục Đế”. Thật vậy, Đức Phật, vì muốn độ chúng sinh thoát khổ sinh tử nên mới nương vào thế giới Tục đế mà nói pháp, nhằm chỉ bày cho chúng sinh thấy được cái bản chất chân thật tự nhiên của Tâm vốn sẵn có, để chúng sinh, tự nỗ lực tu hành giải thoát khỏi khổ đau sinh tử, lìa khỏi thế giới Tục đế, đến thế giới Chân đế. Cũng vì thế mà ngài Long Thọ Bồ tát nói rằng “… Các Đức Phật vì chúng sinh, y vào Nhị đế mà nói pháp, thứ nhất là Thế tục đế và thứ hai là Đệ nhất nghĩa đế. Nếu người nào không nhận thức được hai chân lý này, thì đối với Phật pháp sâu xa, không thể hiểu được chân nghĩa. Nếu không nương tựa vào tục đế, thì không thể thấy được chân lý; nếu không thấy được chân lý, thì không thể ngộ được Niết bàn…” Tục đế là một hợp từ: “tục” nghĩa là thế tục hay phàm tục, “đế” nghĩa là chân lý. Tục đế có nghĩa là những cái gì mà người thế tục đồng ý với nhau, gọi là chân lý quy ước hay còn gọi là chân lý tương đối. Còn Chân đế, cũng là một hợp từ, có nghĩa là chân lý chân thật không hư vọng, là chân lý tuyệt đối, là chân lý tối thượng, cũng còn gọi là Đệ nhất nghĩa đế, là chân tâm, giác tánh, chân như… Chân lý tuyệt đối là gì? Không ai biết được ngoại trừ chính chư Phật và chư Tổ đã giác ngộ. Các ngài cũng không thể nói cho chúng ta biết được. Toàn bộ giáo điển của chư Phật là pháp phương tiện, Ngài “dùng pháp thế gian, (tức thế tục đế) để giảng nói cho chúng sinh” , cốt để chúng sinh ngộ được cái chân lý tuyệt đối như Ngài vì Ngài thấy Tâm Phật và Tâm chúng sinh vốn không khác, vốn tự đầy đủ mênh mông khắp không gian và thời gian. Thật vậy, xuyên qua lời dạy của Phật và chư Tổ, sở dĩ có sự sai khác là vì tâm chúng sinh bị mê mờ ô nhiễm. Cái Tâm bị bao vây bởi tham sân si, bởi vọng tưởng điên đảo, bởi tham nhiễm các pháp có không. Ngài Sogyal Rinpoche, một đại sư Tây tạng, ví Tâm chúng ta bị vây kín trong một cái bình mà “khoảng không trong bình cũng giống như khoảng không bên ngoài. Khi chúng ta giác ngộ, thì cũng như cái bình vỡ tan thành mảnh vụn… Ngay lúc đó và tại chỗ đó, chúng ta trực nhận được rằng chúng chưa từng bao giờ có sự ngăn cách hay sai khác…” Vì tâm sinh diệt của chúng sinh luôn luôn dính mắc vào các pháp “có không” nơi thế giới hiện tượng tức thế giới tục đế, nên Đức Phật thấy thật là khó nói về cái mà Ngài đã chứng ngộ, chẳng hạn như nói về Phật tánh, chân tâm, vốn không hình tướng, không số lượng. Nếu nói chúng sinh có Phật tánh là chấp trước, nói không có Phật tánh là hư vọng, nói Phật tánh cũng có cũng không là nói trái ngược nhau, nói Phật tánh chẳng có chẳng không là hý luận. Nên Phật mới dùng các pháp thế gian phương tiện, “giả lập kệ pháp, giả lập danh tự, vốn chẳng phải Phật, nói với họ là Phật, vốn chẳng phải Bồ Đề, Niết Bàn, giải thoát, nói với họ là Bồ Đề, Niết Bàn, giải thoát, … Biết họ gánh trăm tạ chẳng nổi, tạm cho họ gánh một lon, một chén, biết họ khó tin giáo liễu nghĩa, tạm nói với họ giáo bất liễu nghĩa, tạm được pháp lành lưu hành còn hơn là pháp ác…”. Cũng chính vì chân lý tuyệt đối này rất khó hiểu, khó nhận, khó nói nên đôi khi Ngài phải dùng những thí dụ bằng lời nói, như trong kinh Pháp Hoa, Phật dùng bẩy thí dụ, trong đó có hai thí dụ là cái nhà lửa và câu chuyện đứa con cùng tử mà ai cũng biết. Ngoài ra còn nhiều kinh khác như Bá Dụ Kinh, Tạp Thí Dụ Kinh, Bồ Tát Bổn Sanh Kinh, … Các thí dụ Ngài nói trong kinh dùng phương thức ngụ ngôn, hàm chứa những ý nghĩa thâm thúy, ám thị lý tuyệt đối mà chân lý tuyệt đối này không thể dùng lời trực tiếp mà giảng giải vì lời chỉ là khí cụ diễn đạt cái tư tưởng tương đối, cái có hình, có tướng trong thế giới nhị nguyên. Chư tổ chứng ngộ cũng vậy, không thể nói cho chúng ta biết được chân lý tuyệt đối là gì, mà quý ngài chỉ dùng những câu chuyện ngụ ngôn, như câu chuyện con rùa và con cá để làm thí dụ mà thôi. Rằng con rùa từ dưới nước bò lên mặt đất, đi một vòng rồi trở về nước, bơi cạnh con cá, kể chuyện đất liền cho nó nghe. Nhưng con cá, vì chưa bao giờ rời khỏi nước, không thể tưởng tượng nổi lại có một môi trường có thể sống được mà không có nước, không bơi lội. Cho nên con rùa đành chịu mang tiếng là nói chuyện viển vông hoang đường, không có trong thực tế. Cảnh giới tuyệt đối, chân tâm, giác tánh, chân như, mà Phật đã giác ngộ không thể nói cho người chưa chứng ngộ biết được. Vì lẽ đó mà người đời đôi khi cũng phê bình: “Đạo Phật cao siêu quá, không có trong thực tế”. Nhưng chính đó mới là cốt tủy của Phật Giáo. Kinh Kim Cang là kinh liễu nghĩa, nói về cốt tủy của đạo Phật, về chân lý tuyệt đối, cho nên không có pháp gì để nói. Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời vốn là nhân kiên cố của vòng xích luân hồi, đã lôi kéo chúng sinh vào vòng trầm luân muôn vạn kiếp. Ngài phá bỏ không còn một kiến chấp nào và Ngài cũng tuyên bố luôn là Ngài không thuyết pháp: “- Tu Bồ Đề! Ông chớ cho Như Lai có nghĩ rằng: “Ta có nói pháp”. Ông chớ nghĩ như vậy. Bởi vì sao? – Vì nếu người nào nói rằng: Như Lai có nói pháp, tức là chê Phật, không hiểu được lời của ta nói. Tu Bồ Đề! Nói pháp, là không có pháp gì nói được, ấy gọi là nói pháp.” Có nghĩa là Phật không nói về cái chân lý tuyệt đối, về cái chân tâm, Phật tánh, Chân Như, vì chân lý tuyệt đối vốn chẳng thể dùng ngôn ngữ tương đối thế tục để biểu thị. Ngài chỉ dùng ngôn ngữ thế gian tức chân lý thế tục để chỉ bảo chúng sinh, mà ngôn ngữ thế tục, là pháp tương đối thì không có tự tánh, chỉ do nhân duyên hòa hợp, và do nhân duyên hòa hợp nên không có thật. Đến đây, chúng ta trở lại bài kệ của Bồ Tát long Thọ đã nêu trên phần mở đầụ. Bồ Tát dạy chúng ta rằng nếu chúng ta không phân biệt được chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối, tức thế tục đế và chân đế, thì chúng ta không thể hiểu được đạo Phật. Do sự không hiểu và không phân biệt rõ này, chúng ta lại nhập nhằng đem lời Đức Phật nói “Không thể nói pháp Tuyệt Đối”, mà cho là Đức Phật nói “Không nói pháp tương đối” là chúng ta vô tình vướng mắc vào sự hủy báng kinh, chứa đựng những lời tâm huyết của Đức Phật. Ngài đã dùng ngôn ngữ và chân lý thế tục để dạy người thế tục biết cách mà tiến dần trên con đường từ bỏ thế tục, trở về bản thể tuyệt đối. Nếu chúng ta không hiểu được điều đó, mà tưởng rằng Đức Phật không nói pháp, thì chúng ta sẽ mất niềm tin nơi kinh, sẽ mất cơ hội có bản đồ chính xác để tìm đường trở lại bản thể chân tâm tuyệt đối.
Nguyên Quang
Nguồn: Tuvien.com
………………………………………………………………………
(Xin cảm ơn Anthony Huynh)
Đỗ Hồng Ngọc's Blog
- Đỗ Hồng Ngọc's profile
- 12 followers

