Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 64
July 27, 2018
Hồ Hoàng Thanh: THƯ GỬI ĐỖ HỒNG NGỌC
Ghi chú: Gần đây trong lúc lục soạn đống sách vở cũ, tôi bắt gặp cuốn Về Cái Chân Thật Nghệ Thuật của Hồ Hoàng Thanh, NXB Đà Nẵng 2002, trong đó có Thư Gửi Đỗ Hồng Ngọc, tr 352-360, là những cảm nhận của tác giả về tập thơ Giữa Hoàng Hôn Xưa của tôi, NXB Trẻ Tp HCM 1993 ấn hành, với hình bìa Trịnh Công Sơn và lời tựa Đỗ Trung Quân. May sao, tôi gặp Đèn Biển và Trần Ngọc Hưởng tình cờ ở Đường Sách Saigon ngày hôm kia (26.7.2018), Đèn Biển đã chịu khó gõ lại giùm bức thư sang word, và nhờ vậy mà hôm nay tôi có dịp chia sẻ bài viết này cùng bè bạn thân quen, như một kỷ niệm. Bức thư đã viết từ hơn 20 năm trước rồi chớ ít gì!
Đa tạ Đèn Biển.
(ĐHN)
THƯ GỬI ĐỖ HỒNG NGỌC
Hồ Hoàng Thanh
Đà Nẵng, 20/8/1997
Đỗ Hồng Ngọc quý mến,
Hôm nhận được thư và sách anh Châu Anh gửi cho, tôi rất ngạc nhiên nhận được tập thơ Giữa hoàng hôn xưa do chính tay tác giả đề tặng. Chỉ có điều xin thưa lại ngay để anh rõ: tôi chẳng phải là nhà văn mà chỉ là một “lều văn”, có biết chút ít gì chỉ là theo kiểu không chuyên mà thôi. Đến hôm nay, nhẩn nha đọc vừa xong lần đầu tập thơ, tôi cầm bút viết cho anh nhằm bày tỏ lời cảm ơn chân thành của một bạn đọc chưa từng quen biết và cũng xin gửi đến anh mấy cảm nhận bước đầu về tập thơ như một món quà đền ơn tri ngộ.
Đọc từng bài, cứ đọc dần, tôi càng cảm thấy ngạc nhiên, một thứ ngạc nhiên đầy thú vị, có phần giống với ý kiến Nguyễn Hiến Lê. Ngạc nhiên về những tứ thơ khá mới lạ từ những sự kiện đời thường, về những mạch thơ, lời thơ dung dị gần như lời nói thường, về những bài thơ hay, về điều gì như một sắc thái riêng của tác giả.
Hình như không phải bất cứ một bác sĩ – thi sĩ nào cũng viết nên được một bức “Thư cho bé sơ sinh” ngộ nghĩnh, ngược đời mà ngậm ngùi, chua xót đến thế. Tứ thơ mới lạ, đầy nghịch lý giữa đời thường. Hầu hết các đoạn thơ đều rất thực mà cũng rất trớ trêu. “Thư cho bé sơ sinh” là một giả tưởng rất phi lý nhằm làm nổi bật lên những điều ngang trái, rất thực trong cái xã hội đảo điên này. Tôi thiết nghĩ, đây là một bài thơ hay.
Cũng được viết từ 1965, bài “Lời ru” cũng mang tứ thơ mới vì khá phi lý. Phải chăng những lời ru, lời thủ thỉ ấy chỉ dám ghi vào trang giấy giấu kín (cũng đã “gan góc” lắm rồi) để tự giải thoát cho “hả” bớt phần nào tâm trạng dồn nén, bức bối, câm lặng mà ngay việc thổ lộ ra với vợ con cũng là mạo hiểm. Bởi cái tâm lý không quê hương ấy, cái nỗi lo “gà nhà bôi mặt” giết nhau ấy, nó ngược đời quá quắt lắm, nhưng tiếc thay nó lại là rất thực. Thật mỉa mai, chua xót.
Mấy bài liền viết về nỗi đau quay quắt mất con, nhất là hai bài “Con đã lớn” và “Tình yêu” chân thực bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. “Con đã lớn” hay vì tứ thơ đã xoáy vào một nghịch huống: đến khi mất con rồi. mới nhận ra được rằng thật sự con đã lớn khôn (không mãi “trẻ nít” như cha mẹ vẫn tưởng). Điều “Ý ngôn tại ngoại” là vì thế, nỗi tiếc nuối con càng cháy lòng! Các kỷ niệm về con sao bình dị mà sống động, mà thiêng liêng! Bài “Tình yêu” lại hay một cách khác. Phải chăng ở đây đã có sự vượt lên trên những kỷ niệm cụ thể, tình cảm ở đây trở thành một hoài bão về một tình yêu bộc lộ tràn đầy, một tình yêu “không bao giờ cũ” và “chẳng sợ dư thừa” bù đắp cho sai lầm về một tình yêu quá kín đáo. Ở đây không chỉ là tình yêu con mà là cái tình yêu (nói chung) đã được khái quát hóa và trừu tượng hóa. Tôi nghĩ đây là bài thơ hay nhất trong cả tập thơ, nếu còn thận trọng, chưa dám gọi là tuyệt tác. Thực ra, đó chính là nỗi lòng đích thực, là sự suy tư về một tình yêu đích đáng nảy ra từ một sai lầm cụ thể về một tình yêu quá kín đáo. Điều đó diễn ra trong tâm tư một nhà thơ nên đã trở thành một bài thơ hay, một bài thơ đích thực.
Viết đến đây, gặp lúc bà xã nhà tôi (vốn là một giáo viên) mang nước sôi lên đổ vào phích xong, tôi thử đưa hai bài thơ này cho đọc và hỏi ngay cảm tưởng. Đọc xong, nhà tôi thốt lên ngắn gọn mà súc tích cảm tưởng của mình: “Hay, hay thật. Rất thật và rất hay!” (nói thêm: vợ chồng tôi đều trải qua nỗi đau mất con).
Bài “Đạo diễn” lại góp thêm một tứ thơ mới lạ. Phải chăng từng chứng kiến nhiều cảnh đóng phim dưới bàn tay đạo diễn, mà sẵn nỗi đau mất con, tác giả lại nảy ra được thứ ao ước đầy giả tưởng mà lại thật lòng, cháy bỏng như vậy.
Bài “Đâu có phải tự nhiên” ở cuối tập thơ mộc mạc và “tự nhiên” đến “dễ thương”. Thú thật với anh, thường khi đến khám bệnh ở Bệnh viện C Đà Nẵng, nhìn thấy các sân cỏ xanh rờn, tôi từng nghĩ bụng: “sao chẳng ai nghĩ đến việc nuôi ít con dê, con bò ở đây vừa để dọn cỏ cho sạch, vừa để lấy sữa cho bệnh nhân nhỉ”. Chỉ thoáng nghĩ vậy thôi chứ chẳng từ đó nảy ra được tứ thơ như anh. Mạch diễn đạt và lời lẽ bài thơ giản dị, hồn nhiên mà rất thi vị. Qua đó nổi bật lên một tâm hồn đẹp: bình dị, hồn hậu, thanh thản, yêu đời, yêu nghề, yêu bệnh nhân, yêu gia đình bởi khéo biết chấp nhận, tự bằng lòng với vị trí xã hội bình thường mà rất cao đạo (nhân đạo) của mình.
Phải chăng mảng thơ trên đây là mảnh đất thân thuộc, phong phú, đầy hấp dẫn mà tác giả càng đi sâu khám phá càng dễ thu hái được nhiều thơ hay? Và phải chăng từ mảng thơ này và các mảng thơ sau, ta có thể nghĩ rằng hầu như phong cách riêng của tác giả là khéo biết khai thác, trộn lẫn cái thực cái hư, cái chân cái giả, cái hợp lý cái phi lý, cái bình dị cái mới lạ tân kỳ, nhờ khéo biết khai thác các nghịch lý, nghịch cảnh ngay từ trong xã hội?
Đương nhiên còn có các mảng thơ khác. Một mảng thơ gần gũi với mảng thơ trên cho thấy thêm đời sống nội tâm của tác giả, một công dân, một trí thức trước thời cuộc. Có thể xếp vào đây các bài “Buổi tiễn đưa”, “Dỗ em”, “Tôi còn nợ”, “Biển xa”, “Mai sau dù có bao giờ”, “Giờ mới nên quen”, “Giới tuyến”, “Gặp lại người bạn cũ”, “Đi cho đỡ nhớ”…
“Buổi tiễn đưa” như một dạng “Tống biệt hành” (Thâm Tâm) mới, mang tâm trạng u uất mới: “Người hành trang nỗi tuyệt vọng rã rời Và khí phách thôi một thời trẻ dại”. Hai đoạn thơ cuối bài hay, nhất là đoạn cuối, câu cuối. “Dỗ em” khá ray rứt. “Đi cho đỡ nhớ” ánh lên một niềm vui, một nguồn hy vọng. Nguồn hy vọng ấy, sau giải phóng ít lâu, lại là một thời điểm đầy thử thách. “Tôi còn nợ là lời hạ quyết tâm “ở lại” bởi những món nợ khó lòng trả xong. Trong “Mai sau dù có bao giờ”, tôi thích hai câu: “Cái nắng Sài Gòn hanh đôi má. Giọt mồ hôi mặn thấy thương ghê”…
Ở mảng thơ “quê nhà”, với những “Mũi Né”, “Trên sông khói sóng”, “Gió bấc”, “Đêm trên biển Lagi”, không hiểu sao tôi thích nhất “Gió bấc”. Ngắn gọn mà súc tích, ý vị. Cũng không hiểu sao tôi lại chú ý bắt gặp thứ gió bấc ấy trong một đoạn thơ “Quê nhà”: “Hái đóa hoa màu biển biếc… Bâng khuâng một mái nhà”, lại thoáng thấy nó trong đoạn đầu “Mũi Né”: “Hình như gió bấc lùa trong tết Những chuyến xe đò giục bước chân”. Ở đoạn 2 bài “Trên sông khói sóng” lại thấy hơi gió đó: “Gió ở đâu về thơm bước khuya”.
Đến mảng thơ tình yêu, gồm hầu hết những bài còn lại, nổi bật lên bài “Có một vì sao”. Tôi thích những câu mặn mòi vị biển Bình Thuận: “Nhưng đêm ở đây… Đêm rất mặn vì đêm xanh bát ngát” và đặc biệt là câu kết “Để anh được làm kẻ chăn cừu khờ dại…”. Bài “Viết tên lên cát” đưa đến “Tên em mênh mông đại dương” mang dáng vẻ khoa trương nhằm nói lên cái rất thực của ý tình. Bài “Giữa hoàng hôn xưa” hay ở đoạn kết “Thiếu em hoàng hậu ngai vàng như không”. Có những bài tứ tuyệt đáng chú ý như “Võ vàng”, “Cố nhân”. “Võ vàng” nhận ra sự tàn phai trong lòng người. Đến “Cố nhân”, sự e ngại đó đã trở thành sự khẳng định một hiện thực đáng buồn. Bài “Lục địa giận hờn” hay ở tứ thơ vũ trụ. “Hành hương” nói lên ước vọng đạt đến một nơi “chỉ có anh và em” lý tưởng…
Cố gắng điểm hết các mảng thơ như vậy cũng chỉ nhằm muốn tìm hiểu được những dáng vẻ đa dạng khác nhau của hồn thơ tác giả và tìm hiểu được phần nào sắc thái riêng của tác giả. Nhưng đương nhiên, chỉ qua lần tiếp xúc buổi đầu, khó mà hiểu được điều gì sâu sắc.
Về mặt hình thức nghệ thuật, qua tập thơ này, tôi cảm nhận được rằng anh vốn am hiểu các thể loại thơ trước nay. Và có những tứ thơ được thể hiện qua những thể quen thuộc, cũng có không ít bài được thể hiện bằng thơ tự do. Nói thật với anh, tôi cũng vốn am hiểu ít nhiều các thể loại thơ lâu nay, nhất là từ cao trào “thơ mới”, tôi cũng có làm thơ và cũng nhận ra được xu thế tiến tới thơ tự do là điều tất yếu. Tôi đã từng viết bài “Xu thế tự do hóa hình thức thơ” đăng trên tạp chí Văn học năm 1978. Nhưng trong thực tế sáng tác, do ảnh hưởng của thói quen, tuy vẫn thường viết theo thể thơ tự do, tôi vẫn chưa dứt khỏi những âm điệu quen thuộc. Tuy về nhận thức tôi vẫn cho rằng thơ tự do là sự chuyển biến nội tại cả về nội dung lẫn hình thức trong quá trình tiến triển của thơ ca Việt Nam (chứ không phải là sự bắt chước thơ tự do của nước ngoài hoặc là sự du nhập máy móc).
Đọc thơ anh, tôi cảm thấy anh làm thơ tự do một cách hồn nhiên phóng khoáng hơn, hầu như không bị ảnh hưởng nặng nề của thói quen cũ trong diễn đạt như tôi, hoặc anh Châu Anh chẳng hạn. Nói rộng ra một chút. Tôi có theo dõi bước tiến trong diễn đạt của một bạn thơ. Đến tập thơ tôi rất thích bởi nhận ra được một bước tiến mạnh bạo theo thơ tự do ở tác giả, khiến tôi muốn viết bài giới thiệu. Nhưng sau đó, qua những tập thơ kế tiếp, tôi lại thấy xu thế đó không được mạnh bạo tiếp tục. Cho hay, ngay với một nhà thơ tài năng, khuynh hướng tự đổi mới đó vẫn chưa thật nhất quán, chắc cũng do ảnh hưởng của thói quen nghiêng về những âm điệu thông dụng. Trong thâm tâm, tôi vẫn nghĩ rằng, còn phải đợi thêm ít lâu nữa, lớp nhà thơ mới ít chịu ảnh hưởng của thói quen sáng tác theo những thể điệu cũ, mới làm cho thơ tự do hồn nhiên, bình dị, phóng khoáng hơn nữa.
Đọc anh qua những bài thơ hay như “Tình yêu”, “Con đã lớn” v.v… tôi càng cảm thấy hầu như anh đã vượt qua được cái ngưỡng cửa khá tai hại của thói quen về âm điệu cũ, viết một cách dễ dàng, tự nhiên, gần như lời nói thường, chẳng ngại dùng đến những từ ngữ “nôm na” mà người ta thường kiêng kỵ trong thơ: “Trước mộ con còn ướt Ba nói với bè bạn ba rằng…” hoặc không sợ trùng lặp: “Hãy tỏ bày đi Vồ vập đi Âu yếm ồn ào đi” bởi là sự trùng lặp cố ý. Hoặc nói năng chẳng khác gì lời nói thường: “Đút cho con ăn Gạt gẫm cho con há miệng Hù con ông kẹ bà già” (vậy mà rất hay) Hoặc nữa: “Mới ngày nào dẫn con đến trường Bỏ đi không nỡ Những lúc con ốm đau Cả nhà run sợ Con ho mà ba ran lồng ngực Con sốt mà má đắng chát môi”. Ở “Thư cho bé sơ sinh” cũng như vậy, với những đoạn thơ 2, 3, 5 chẳng hạn “Anh đã không quên buộc étiquette vào tay em” Hoặc nữa ở bài “Tôi còn nợ”: “A! Ông thầy về! Tưởng đi luôn rồi chớ!… Có gì đâu em vì tôi còn nhiều nợ… “. Ở bài “Đạo Diễn” cũng vậy. Tưởng như đó là lời nói thường, viết chữ lại xuống hàng: “Bạn bè ơi sao mà giỏi thế Cứ đóng y như thiệt”.
Người quen với thơ đường luật sẽ khó lòng cho đó là thơ được. Vậy mà “rất thơ” mới lạ chứ. Đương nhiên cũng không nên quá dễ dãi.
Đến đây mới thấy thư viết đã quá dài, mong anh miễn thứ cho, bởi tôi có phần “sa đà” quá. Chẳng qua tôi như người trèo cây, gặp được cây lắm quả, tôi mải mê “khèo” xuống, “khèo” trái chín lẫn trái xanh. Chỉ mong anh thấy dùng được chút ít nào cũng đã thỏa lòng rồi!
Chúc anh và gia quyến mọi sự tốt lành. Mong được trao đổi thư từ với anh những khi anh rảnh rỗi.
Kính thơ,
Thanh
BC: Quên nói thêm với anh rằng tập thơ trình bày rất đẹp, tranh bìa của Trịnh Công Sơn rất thơ vừa rất hoàng hôn đẫm màu tím khế, vừa có bóng dáng nữ nhân, chim chóc, đuôi ngựa v.v… mà như một bào thai để tha hồ tưởng tượng.
July 26, 2018
Kỳ 29: PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG
Kỳ 29: PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG
“AN & CHAY” (tiếp theo)
Cảm ơn nvquyen,
ĐHN.
………………………………………………………………….
Phật Học & Đời Sống: kỳ 30, luc 15h ngày Thứ bảy 28.7.2018
tại Chùa Phật học Xá Lợi, 89 Bà Huyện Thanh Quan, Q3 Tp HCM.
Mời các bạn tham dự.
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
Có một “Đêm nhạc Thu Vàng”
Có một ĐÊM NHẠC THU VÀNG
(NXT phovanblog)
Tiếng hát Thu Vàng
“Có một con chim lạ đến từ núi xa, ngứa cổ hót chơi”, một câu thơ của Xuân Diệu mà Duyên đã mượn để nói về tiếng hát Thu Vàng hôm nay.
Hãy nghe Hoàng Quốc Bảo viết về tiếng hát Thu Vàng:
“Vàng rơi thu mênh mông . Đó là cái tựa lấy từ câu thơ của Bích Khê, trong bài Tỳ Bà do Phạm Duy phổ nhạc và thực hiện trong thời gian trước khi qua đời. Tác giả đã mời tiếng hát Thu Vàng trình bày. Từ đó tiếng hát thăng hoa, bài thơ thăng hoa. Từ đó nghệ thuật biến định mệnh thành tiếng hát! như một nhận định sắc gọn của Đặng Tiến.
…Và giọng hát Thu Vàng cất lên, người thưởng ngoạn nhận thấy thấp thoáng kết tinh giữa 3 tiếng hát: Có những lúc tình tự lai láng dạt dào của Quỳnh Giao thời xuân trẻ; có nhiều lúc vững chãi, nhẹ nhàng sang cả như Mai Hương; lại lẩn khuất cái kỹ thuật cắn câu nhả chữ, hơi thở nồng nàn, uốn lượn, tràn trề nhựa sống của Thái Thanh, vào cái thời ngọt ngào sung mãn nhất…”
(HQB)
Và với riêng tôi là sự tri ân giọng ca đã hát Mũi Né (nhạc Hoàng Quốc Bảo, thơ Đỗ Hồng Ngọc), Bông hồng cho Mẹ (nhạc Võ Tá Hân, thơ ĐHN) và Sông ơi cứ chảy (nhạc Nguyễn Đức Vinh, thơ ĐHN)… Cùng những chuyến đi với nhóm bạn bè về Hội An, Lagi, Mũi Né… ngày nào.
Đỗ Hồng Ngọc.
…………………………………………………….
Viết thêm: Đã sắp đến Vu Lan, hãy nghe lại Thu Vàng trong BÔNG HỒNG CHO MẸ:
Và, SÔNG ƠI CỨ CHẢY, bài thơ tôi viết đã lâu cho La Ngà, đứa con gái đầu lòng, gần đây được Thuần Nhiên Nguyễn Đức Vinh phổ nhạc, với tiếng hát Thu Vàng:
Quán Văn 56 : giới thiệu NGUYÊN CẨN
Quán Văn 56 giới thiệu Nguyên Cẩn, một cây viết đa dạng, một nhà văn, nhà thơ, nhà báo… sung sức. Nhiều bài viết rất hay về Nguyên Cẩn trên Quán Văn số này của Nguyễn Thị Tịnh Thy, Hoàng Kim Oanh, Trương Văn Dân v.v… cùng nhiều sáng tác văn thơ của nhiều tác giả khác khá phong phú.
Rảnh, CN 29.7.2018 ghé Lọ Lem gặp anh em nhé.
(ĐHN)
July 24, 2018
Thư gởi bạn xa xôi
Thư gởi bạn xa xôi
Một tuần bận rộn
Tưởng là bớt việc, ai dè càng lu bu, cho nên chậm trễ trả lời câu bạn hỏi đang mần gì mà ít thấy viết dhn.com vậy.
Xin gởi mấy tấm hình này coi chơi thôi nhé, chớ bây giờ viết lách cũng không như xưa rồi. Người bạn trẻ vừa post giúp bài Nói chuyện của mình về Thiền và Sức khỏe trong Tuần lễ Văn hóa Phật giáo năm 2009 ở Nha Trang cũng đã kêu lên sao hồi đó bác trẻ khỏe, phong độ, thần thái… khác với bây giờ nhiều quá vậy! Bây giờ thấy bác già hơn mười năm trước rồi đó! Tôi đoán em nghĩ như vậy.
Thì ra có gì đâu! Nhớ hồi “dậy thì” mà coi, mới mấy tháng đã thấy cao nghệu lên, từ một nhóc con thành một cậu thanh niên mắt sáng môi hồng… thì bây giờ sau tuổi 70 cũng phải có một cái gì đó “dậy” lên ngược lại cho đúng “quy trình” chớ phải không?
Tuần rồi bề bộn thiệt. Sáng Thứ tư vẫn là buổi học thường lệ của Nhóm Học Phật bọn mình. NHP đã cùng học với nhau hằng tuần gần 6 năm rồi chớ ít gì. Nay thì đang học kinh Viên Giác. Không phải gõ mỏ tụng kinh chi đâu. Phân tách từng câu, từng chữ, từng ý ẩn trong câu kinh. Tranh luận sôi nổi, vận dụng vào tình hình thực tế trong đời sống hằng ngày… Trước kinh Viên Giác là Thủ Lăng Nghiêm v.v… cũng đi từng bước căn bản đến “nâng cao” đó thôi… Cho nên học rất vui, rất hào hứng. Thỉnh thoảng còn đi dã ngoại, gặp gỡ thầy, bạn các nơi. Mình nghĩ đây cũng là một cách ‘sinh hoạt’ tốt cho người cao tuổi.
Chiều Thứ sáu, mình còn có buổi trao đổi với các vị sư trẻ đang về chùa Xá Lợi mùa “an cư kiết hạ” này. Đã 3 năm nay, thầy Trụ trì tổ chức cho các vị tu sĩ được dịp “giao lưu, trao đổi, học hỏi…” cùng với các Cư sĩ. Có cư sĩ Minh Ngọc, cư sĩ Trần Đình Sơn và mình, mỗi người chịu trách nhiệm 6 buổi. Minh Ngọc thì bàn về Thiền lâm bảo huấn, Qui Sơn cảnh sách; Trần Đình Sơn thì về Lịch sử Phật giáo và mình thì về Phật học và Đời sống, về sức khỏe thân tâm, về Ăn và Chay, Thở và Thiền, truyền thông hiệu quả v.v… Các buổi này cũng khá là sinh động.
Thứ bảy hằng tuần, vẫn là buổi sinh hoạt của lớp Phật học & Đời sống. Vậy mà đã gần đến 30 buổi rồi đó bạn ơi. Lúc đầu mình dự kiến làm 20 “show” là đủ. Vậy mà… Sau phần ‘học’ căn bản về Tứ diệu đế, Bát chánh đạo, Duyên Khởi… thì thảo luận về Từ bi hỷ xả, Thiểu dục tri túc… nói chung là ứng dụng Phật học vào Đời sống sao cho hợp thời, trên tinh thần khoa học, hiện đại. Các buổi sinh hoạt đều được em nvquyen quay video clip và đưa lên youtube. Nhiều bạn ở phương xa cũng theo dõi được.
“Trà đàm” với Thầy Trí Chơn, Viện chủ Tu viện Khánh An, 22.7.2018.
Chủ nhật 22.7.2018 vừa rồi lại có buổi Trò chuyện về “Ăn và Chay” ở Tu viện Khánh An, quận 12 trong khóa tu “Sống Tỉnh Thức”. Bạn có thể xem trên trang tuvienkhanhan.com nhé.
Cho nên, tuần rồi là một tuần khá là vất vả đó bạn ơi!
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
July 23, 2018
Tu viện Khánh An: “ĂN và CHAY”
Bác Sĩ Đỗ Hồng Ngọc Thuyết Trình Về “Ăn Và Chay”
23/07/2018 09:08
Nguồn: http://tuvienkhanhan.com/index.php/ph...
Nhận lời mời của ban tổ chức khóa tu “Sống tỉnh thức” lần thứ 28 (22/07/2018), Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã có mặt tại Pháp Đường Chánh Niệm để chia sẻ với hội chúng Phật tử phương pháp “Ăn và Chay” đúng đắn theo y học cũng như theo tinh thần nhà Phật.
Từ trái: Bs Đỗ Hồng Ngọc, Thầy Trí Chơn, trụ trì, và các vị Tu sĩ Tu viện Khánh An, Quận 12 Tp.HCM, ngày CN 22.7.2018 (ghi chú: ĐHN).
Nói đến việc “Ăn”, bác sĩ nói đó là một nhu cầu để duy trì sự sống, trong khi ăn, năng lượng được tạo ra để nuôi sống cơ thể. Năng lượng này, theo bác sĩ, nó khác nhau tùy thuộc vào từng độ tuổi, từng loại đối tượng khác nhau. Bác sĩ dẫn chứng, một người bình thường cần khoảng 2000 calo, trong khi người già thì cần khoảng 800 calo, trong khi các vận động viên thể thao thì cần nhiều hơn mức của người bình thường. Đó là lí do vì sao, việc ăn cần phải áp dụng đúng với thể trạng và hoàn cảnh sống của từng người để có thể điều chỉnh hợp lí.
Bác sĩ chia sẻ đến với hội chúng bốn thành phần năng lượng chính có trong thức ăn:
• nhóm đường bột
• nhóm đạm
• nhóm chất béo
• nhóm vitamin và khoáng chất
Phân tích bốn nhóm này và liên hệ đến bốn loại thức ăn trong nhà Phật. Bác sĩ khẳng định, thức ăn được đề cập trong y học là để nuôi thân, nó thuộc đoàn thực – một trong bốn loại thức ăn theo lời Phật dạy. Ba loại thức ăn còn lại thuộc về đặc trung duy nhất có trong Đạo Phật đó là: xúc thực, tư niệm thực và thức thực – ba loại thức ăn này thuộc về tâm. Vậy, theo bác sĩ, đức Phật dạy cả hai phương pháp nuôi thân và nuôi tâm đúng chánh pháp.
Nói đến phương pháp ăn cho đúng cách, bác sĩ chia sẻ, phải ăn sao cho có được sự cân bằng về năng lượng nạp vào và thải ra. Bên cạnh đó, phải ăn trong chánh niệm, trong sự biết ơn để có được năng lượng lành mà thực phẩm mang lại.
Nói đến chay, bác sĩ nói, nó xuất phát từ chữ “trai” nghĩa là thanh tịnh, cho nên ăn chay, ngoài việc dùng các thực phẩm từ thực vật, cần phải đáp ứng yếu tố thanh tịnh trong khi ăn, mà nhà Phật dạy “tam đề, ngũ quán”. Không nên ăn chay trong sự hưởng thụ, tốn kém. Theo bác sĩ, ăn chay tốt nhất là quay về với thực phẩm thô, tự nhiên, chưa qua công đoạn sơ chế và bảo quản công nghiệp, ăn chay như vậy vừa bổ dưỡng vừa thanh đạm, có sức khỏe tốt để tu tập.
Bác sĩ kinh nghiệm rằng, cái dục của ăn rất mạnh, nó chi phối những cái dục còn lại trong ngũ dục, cũng chỉ vì cái ăn không chân chánh mà con người từ đó dẫn đến tranh đấu, bức hại nhau. Vì vậy, bác sĩ khuyên nên “ăn và chay” theo tinh thần của Phật dạy để có được năng lượng thánh thiện, an lành.
Bs ĐHN gởi tặng Thầy Trí Chơn cuốn sách mới: Thoảng Hương Sen.
Buổi thuyết trình được khép lại, Thầy Viện chủ đã phát biểu đúc kết. Sau đó là phần tặng sách mà bác sĩ Ngọc là tác giả. Hơn 400 cuốn “Thoảng Hương Sen” được gửi đến hành giả được Công ty Hoa Lan Lâm Thăng phát tâm cúng dường.
Dịp này mỗi tham dự viên đều nhận được một cuốn Thoảng Hương Sen của bác sĩ ĐHN do Phật tử Lệ Mai gởi tặng.
Trung Pháp – Trung Nhân
July 20, 2018
Nha Trang 2009: “Thiền và Sức khỏe”
“THIỀN và SỨC KHỎE”
Buổi Nói chuyện tại Tuần Văn hóa Phật Giáo, Nha Trang, 2009
Đó là buổi Nói chuyện tại Nha Trang 5.12.2009 trong Tuần Văn Hóa Phật Giáo các tỉnh phía Nam. Trong dịp này, tôi được Ban Tổ chức mời nói về Thiền và Sức khỏe, qua cái nhìn “khoa học thực nghiệm” của người thầy thuốc và những kinh nghiệm cá nhân. Nhớ năm 2008, cũng trong Tuần Lễ Văn Hóa Phật Giáo tại Huế, tôi cũng được mời trình bày đề tài này. Dám đến một nơi như Huế, Nha Trang nói về… Thiền với các bậc Thầy thiện đức và các thiện tri thức Phật tử quả là… can đảm cùng mình. Một người bạn Huế – nhà thơ PN – bảo tôi “anh đến Huế kỳ này như đến Tào Khê rồi đó nhé!”. Nhưng tôi nghĩ khác. Không có dịp nào học tốt hơn vầy nữa. Vả lại, tôi có cơ sở để trình bày Thiền dưới góc độ khoa học y học, và những kinh nghiệm, những cảm nhận riêng tư để chia sẻ chân thành. Tại Huế lần đó tôi nhớ còn có các anh Cao Huy Thuần, Bửu Ý, Nguyên Ngọc… và lần này tại Nha Trang có các Cư sĩ Trần Đình Sơn, KTS Phạm Anh Dũng, KTS Ngô Viết Nam Sơn… Tại đây tôi lại có dịp gặp các Thầy Trung Hậu, Hải Ấn (vốn là một bác sĩ), thầy Minh Thông, Tâm Hải…
Đã gần mười năm, tôi cũng quên lửng mình có một bản DVD buổi Nói chuyện này do BTC gởi tặng (tôi chưa coi lại bao giờ!). Mới đây, lục lọi đống sách vở để “về thu xếp lại” tôi bỗng tìm thấy cái DVD này và… tò mò mở ra coi thử! Nói chung, coi cũng được, không đến đỗi nào! Tôi bèn gởi nvquyen nhờ em xem thử có thể post lên để chia sẻ với bè bạn gần xa được không, nhất là các bạn đang cùng sinh hoạt trong Lớp “Phật học & Đời sống” hằng tuần với chúng tôi tại chùa Xá Lợi Saigon. Em Quyền coi xong nói được, nhưng hồi đó sao bác trông… trẻ khỏe hơn bây giờ, thần thái phong độ, nói năng cũng hay hơn bây giờ nữa! Thế mới biết vô thường là thế nào!
Tôi cười quá. Mới có mười năm chớ mấy!
Cảm ơn nvquyen nhiều lắm!
Đỗ Hồng Ngọc.
July 18, 2018
Kỳ 28 “PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG”
Kỳ 28: Phật Học & Đời Sống
Chủ đề: “ĂN và CHAY”
Ngày Thứ bảy 14.7.2018 tại Chùa Phật học Xá Lợi Saigon,
89 Bà Huyện Thanh Quan, Quận 3, TpHCM
Cảm ơn nvquyen
Đỗ Hồng Ngọc
………………………………………………………………………………………………..
Thân mời các bạn tham dự buổi sinh hoạt Kỳ 29 “Phật Học & Đời Sống”,
15-16h30 ngày Thứ bảy 21.7.2018
tại Chùa Xá Lợi, 89 Bà Huyện Thanh Quan, Quận 3, Tp HCM
Chủ đề: “Ăn và Chay” (tiếp theo)
Trân trọng,
ĐHN.
July 13, 2018
Kỳ 27 PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG
Kỳ 27: Phật Học & Đời Sống
Ngày 7.7.2018 Chùa Phật học Xá Lợi Saigon, Quận 3 Tp HCM
“THIỂU DỤC, TRI TÚC”
Cảm ơn nvquyen
Đỗ Hồng Ngọc.
……………………………………………………………………………
Thân mời các bạn tham dự Sinh hoạt Phật Học & Đời Sống kỳ 28
Ngày Thứ bảy 14.7.2018
tại Chùa Phật học Xá Lợi, 89 Bà Huyện Thanh Quan, Quận 3, Tp HCM.
Chủ đề: “Ăn và CHAY”
ĐHN
July 12, 2018
Thư gởi bạn xa xôi: “ĐÁ NHẢY”
Thư gởi bạn xa xôi:
“ĐÁ NHẢY”
Không ngờ bạn vẫn còn nhớ Đá Nhảy. Hồi ở Phan Thiết, bạn đã từng đi xe đạp đến tận Núi Tà Cú thăm tượng Phật nằm rồi còn chịu khó đi thêm chừng 15 cây số đến tận Kê Gà để ngắm một vùng bờ biển đặc biệt của xứ mình: Đá Nhảy, phải không?
Đá mà cũng biết “nhảy” ư? Chớ gì nữa. Chẳng những biết nhảy mà còn nhảy chồm chồm một cách… như đá nên mới ngày càng sinh sôi nẩy nở bao nhiêu là đá con. Nếu có dịp về thăm, bạn sẽ ngạc nhiên lắm đó.
Photo: Do Hong Ngoc
Photo: Đỗ Hồng Ngọc
Photo Đỗ Hồng Ngọc
Bạn thấy Đá nhảy có thua gì Cóc nhảy không? Không phải “Cóc ở trong hang cóc nhảy ra” đâu nhé. Bạn mình, họa sĩ Lê Ký Thương, nghệ danh là Cóc đã… cảm xúc ra câu “đối”: “Cóc nhảy cóc nhảy cóc”. Xuất đối dị đối đối nan phải không? Chữ ‘nhảy cóc’ trước khác với ‘nhảy cóc’ sau!
Đi thơ thẩn trong bãi Đá Nhảy hoang sơ này, mình không thể không vóc lên một vóc những vỏ sò, vỏ ốc… để thấy ra những tảng đá hùng vĩ kia cũng là từ những vỏ sò vỏ ốc này mà hình thành đó thôi…
Từ bãi Đá Nhảy đi ngược về hướng Nam chừng chục cây số, có một đồi cát cao gọi là Hòn Lan: “Chiều chiều én liện Hòn Lan/ Thương người quân tử thở than đôi lời…”.
Hòn Lan nổi tiếng với mộ Cô Rô. Tương truyền xưa có một cô gái con nhà nghèo tuổi nhỏ, hàng ngày đi bắt cá dưới mương về cho mẹ nấu ăn, một hôm cô bắt được một con cá rô, bèn cắn chặt giữa hai hàm răng để rảnh tay bắt tiếp, không ngờ cá rô vẫy mạnh tọt vào cổ họng…! Trên đỉnh Hòn Lan ngày nay vẫn còn ngôi mộ đá. Dân làng mỗi người đắp một cục đá nhỏ nay đã thành ngôi mộ khá lớn. Dưới chân Hòn Lan, xưa còn có một hang động, nghe nói ghe thuyền đánh cá thường vào trú ẩn khi có sóng to, gió lớn…
Từ vùng Kê Gà này (xưa là Văn Kê, Thạnh Mỹ), đi về phía ruộng vườn Phong Điền, Hiệp Nghĩa (nay là Tân Thuận) chừng 15 cây số, quê Ngoại mình, có một vùng gọi là Bàu Lời, một vùng quê hẻo lánh đến Google cũng không thấy có tên. Trong thời kháng chiến chống Pháp, đây là vùng tản cư. Mình còn nhớ vì lúc đó gia đình mình đã ở đây vài ba năm (khoảng 1950,1952) lúc mình 10, 11 tuổi. Nhà ở đó có vườn nhỏ, có bàu nước (có tên Bàu Lời?) và một cái giếng rất ngộ, như có mạch nước phun đầy. Sau này, giếng nước bỗng nổi tiếng là Giếng Bà, người người lấy nước về chữa bệnh! Ông già mình đi làm ở Ô Rô (Hòa Đa, Bắc Bình), mình thường theo Mẹ đi bắt còng, mua ruốc tươi về làm mắm ruốc… Nhà trồng bắp trên đồi, gánh nước từ giếng lên tưới mỗi ngày. Thời này mình được đi học, ở trường Gò Ông Nồm, phải đi qua cánh rừng dầu mênh mông. Bây giờ trống trơ trống hoắc. Trường Gò Ông Nồm vì nằm trên Gò Ông Nồm chớ tên thiệt của nó là Trường Nam Bình, dạy tiểu học, tới lớp 5 (lớp nhất) là hết. Mình học lớp 3. Học trò gọi thầy bằng “Anh giáo”! Xung quanh lớp có nhiều hầm trú ẩn chữ V, chữ U để tránh bom. Ngày nào mình cũng ăn cơm vắt bó trong mo cau với cá khô nướng thiệt ngon. Trưa trưa còn leo lên cây vắt vẻo bóc cơm ăn ngon lành. Có máy bay… bà già bay qua thì nhảy ngay xuống hầm. Học trò nhà quê thời chiến nên 16-17 tuổi học lớp 5 là thường! Bây giờ chỉ còn cậu Hội, dì Lan…; ở Bàu Lời thì còn Nguyễn Văn Mỹ (Lagi)…
Chuyện “vui” còn nhớ là trong lớp lớn (lớp 5) thời đó, có anh Ng (chừng 15 tuổi) viết một bức thư tình cho chị Ch (chừng 13-14?)… Không ngờ chị Ch mang lên trình Thầy. Thầy mang thư ra đọc trong buổi chào cờ hôm sau cho cả trường cùng nghe! Không rõ anh Ng sau đó có bị đuổi học không! Lúc đó mình mới 11 tuổi, chỉ nhớ chút chút vậy.
Nhà cũ (1950): Vườn và Bàu nước (Đặng Tình, 2018)
Giếng Bà
Vài hình ảnh về khu vườn và bàu nước của ngôi nhà xưa của gia đình ở Bàu Lời (khoảng 1950-52) cùng với giếng nước, sau này được gọi là “Giếng Bà”… (đã được xây lại).
(photo: Đặng Tình, 2018)
Bạn ơi,
Lúc này mình già dữ rồi. Già tăng tốc. Làm biếng cũng gia tốc. Nên hay dài dòng kể chuyện xưa chẳng ai thèm nghe. Nhưng, thôi kệ. Kỳ này mình về Lagi dự Họp mặt Bà con họ Đỗ, bỗng trở thành người… cao tuổi nhất rồi đó, dù vai vế còn nhỏ hơn nhiều anh chị. Riêng với các chị lớn con Cô Hai là chị Ba Oanh, chị Tư Yến… xưa ở chùa HN Phan Thiết thì mình gần gũi nhất. Chị Ba nay gần 90 chớ ít gì. Chị Tư nổi tiếng “người đẹp” chùa HN nay cũng sắp xỉ! Hồi nhỏ, mình sống trong chùa nhờ hai chị giúp đỡ nhiều lắm, nhất là nhờ Cô Hai và 2 chị mà mình đọc gần hết mấy kệ sách trong tiệm cho thuê sách lớn ở Phan Thiết!
Họp mặt Bà con họ Đỗ Lagi, 30.6. 2018.
Từ phải hàng ngồi: chị Tư Lâm Hồng Yến, chị Ba Lâm Hồng Oanh…
Anh Đỗ Hồng Thái (cà-vạt) con Bác Năm là “chủ xị” kỳ này. Trong dòng tôc, cứ mỗi năm luân phiên chủ xị. Cũng vui. Có làm học bổng cho các cháu học giỏi, ngoan. Thế hệ F1, ông già mình gồm Cô Hai (mẹ chị Oanh, Yến…); bác Ba Đỗ Đơn Thơ (giỏi văn thơ), bác Tư Đỗ Đơn Bút (giỏi võ) bác Năm Đỗ Đơn Thanh (giỏi thơ Đường, cờ tướng), Ba mình, ông Bảy Đỗ Đơn Trì (chơi violon, đóng kịch), chú Chín Đỗ Đơn Đình (vô địch cờ tướng), chú Mười Đỗ Đơn Chiếu (nhà báo Châu Anh, TKTS báo Đất Tổ Saigon)… Tóm lại, thế hệ F1 mỗi người một vẻ. Mình F2… rồi bây giờ đã thấy có F5, F6 chẳng nhớ nổi. May còn cái gia phả, chưa “bổ sung”… nhờ Đỗ Ái Liên (nhà thơ Đỗ Quyên F2) và các em cháu làm tiếp vậy.
“trưởng lão” được mời thay mặt BTC trao học bổng!
Đến thăm nhà Đỗ Hồng Thái, nghe anh hát Trịnh Công Sơn (1.7.2018):
“Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt…”
“…tình yêu mật ngọt, mật ngọt trên môi… tình yêu mật đắng… tình yêu như biển biển rộng hai vai...”.
Cho nên chưa tới bảy mươi, anh đã sáng sáng lên Bàu Giòi kéo lưới cùng bà con, xin mấy con cá về nấu canh ngót ăn… và chiều chiều lai rai cùng bè bạn!
Xin lỗi bạn, nảy giờ hơi tào lao quá rồi đó. Chỗ nào không ưa, bỏ nhe.
Hẹn thư sau,
Đỗ Hồng Ngọc.
Đỗ Hồng Ngọc's Blog
- Đỗ Hồng Ngọc's profile
- 12 followers

