Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 60
October 25, 2018
Thư gởi bạn xa xôi: Vài hình ảnh chuyến “về miền Tây”
Thư gởi bạn xa xôi: Vài hình ảnh chuyến “về miền Tây”
Đỗ Hồng Ngọc
Buổi họp mặt bạn bè kỷ niệm Sinh nhật Quán Văn lên 7 (ngày 16.10.2018), đồng thời cũng là Sinh nhật của bán nguyệt san văn học nghệ thuật Ý Thức, ra đời cách đây 47 năm. Số Quán Văn 59 này giới thiệu một khuôn mặt văn học miền Tây là Trịnh Bửu Hoài ở Châu Đốc, vì thế ngày hôm sau, 17.10. 2018 bạn bè đã làm một chuyến Tây du, “về Long Xuyên Châu Đốc…” cùng Trịnh Bửu Hoài, không chỉ thăm bạn bè văn nghệ mà còn thăm vùng đất phương Nam mùa nước nổi xứ của Núi Sam, của rừng tràm Trà Sư, của Bà Chúa Xứ rồi còn ghé qua Cần Thơ, Trà Vinh, Bến Tre…
Không chỉ anh chị em Quán Văn mà còn có cả anh em Ý Thức, chuyến này chỉ có 5 bạn già có mặt, vắng những Lữ Quỳnh, Trần Hoài Thư… Dù sao thì cũng có Nguyên Minh, người chèo đò cho cả hai tờ báo văn nghệ này, có Thân Trọng Minh (Lữ Kiều), Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê), Châu Văn Thuận, Lê Ký Thương, năm anh em của “mùa thu cũ”, của “gió heo may”…
từ trái: Châu Văn Thuận, Nguyên Minh, Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê), Thân Trọng Minh (Lữ Kiều), Lê Ký Thương (cafe Vườn Hồng, Bến Tre 20.10.2018)
Chuyến đi khá đông, gần 50 người, toàn là những bạn bè và cộng tác viên thân thiết của Quán Văn, từ Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Phan Thiết, Vũng Tàu… và Saigon. Đa số là những người “bạn trẻ”, những cây viết sung sức, rất hòa đồng, dễ thương. Phải nói thêm có “lạc” một người từ phương xa là Nguyễn Minh Nữu, từ Mỹ về, rất vui nhộn, hoạt bát, một MC bất ngờ!
Ghé qua Sadec cho mọi người thăm nhà “Người Tình” Huỳnh Thủy Lê một chút. Mình và mấy người bạn tạt qua thăm Kiến An Cung, ngôi chùa cổ gần đó. Không có nhiều thì giờ nên không ghé thăm chùa Kim Huê và thăm nhà ông Tư Khánh, nhân vật gắn bó với “Bột Bích Chi” nổi tiếng một thời, vừa qua đời.
Qua phà Vàm Cống thì đã vào Long Xuyên. Tưởng kỳ này được đi cầu mới bắc ngang sông Hậu, nhưng nghe nói cầu đang sửa, đành chờ kẹt phà cả tiếng đồng hồ! Đến Long Xuyên rồi đây. Mới mấy năm mà xa lạ quá. Đường phố rộng rải, sầm uất, nhộn nhịp rồi. Mọi người ăn bún mắm đặc sản. Mình chỉ ăn cơm với cá linh rang mùa nước nổi… và dự định làm một chuyện riêng: thăm ngôi nhà cũ Nguyễn Hiến Lê. Cả đoàn chuẩn bị buổi giao lưu giữa anh chị em Quán Văn và bạn bè văn nghê An Giang Châu Đốc, còn nhóm mình tách riêng một lúc. Không ngờ mới nêu ý kiến đi thăm nhà cũ NHL với TTM, LKT, CVT (nhóm Ý Thức) thì đã được sự đồng tình của Hoàng Kim Oanh (Đại học Saigon); Nguyễn Thị Tịnh Thy (Đại học Sư phạm Huế); Ban Mai (Đại học Quy Nhơn) và cả nhà văn Hiếu Tân (Vũng Tàu), họa sĩ Thanh Hằng, và Pham Thành Hiền (An Giang)…
trước phòng làm việc của học giả Nguyễn Hiến Lê, 92 Tôn Đức Thắng, Long Xuyên.
Đỗ Hồng Ngọc thắp nén nhang và đặt cuốn sách vừa tái bản “Nguyễn Hiến Lê, con người và tác phẩm” của một nhóm tác giả gồm Trần văn Chánh, Đỗ Hồng Ngọc, Lê Anh Dũng, Nguyễn Duy Chính, Nguyễn Chấn Hùng… lên bàn thờ ông.
Các bạn dành một phút tưởng niệm NHL. Các cô giáo Kim Oanh, Tinh Thy, Ban Mai… đều nói từ tuổi thơ đã đọc, đã học nhiều từ NHL nên hôm nay như được đến thăm người thầy cũ của mình, với nếp sống giản đơn, thanh thản, để lại đời nhiều bài học đáng quý trọng.(hình TTM).
Sau đó nhóm bạn kịp thời về dự buổi giao lưu tại một quán cafe sân vườn rất đẹp ở Long Xuyên. Cảm động vì các bạn trẻ trong Hội văn học nghệ thuật An Giang nói về người đàn anh, người thầy đi trước của mình: nhà văn Trịnh Bửu Hoài. Dịp này nhiều bài thơ, bài hát, vọng cổ đã được trình bày rất hay. Trong đoàn Quán Văn có Elena, người Ý, vợ nhà văn Trương Văn Dân tiếng Việt chưa rành mà điệu ca cổ nào cũng thuộc! Đáng khen TVD!
Kim Oanh nói đôi lời về việc vừa ghé thăm nhà cũ NHL. Phạm Thành Hiền cho biết ở Long Xuyên cũng đã có con đường mang tên Nguyễn Hiến Lê. (còn tiếp).
Thư gởi bạn xa xôi: “về miền Tây”
Thư gởi bạn xa xôi: “về miền Tây”
Đỗ Hồng Ngọc
Buổi họp mặt bạn bè kỷ niệm Sinh nhật Quán Văn lên 7 (ngày 16.10.2018), đồng thời cũng là Sinh nhật của bán nguyệt san văn học nghệ thuật Ý Thức, ra đời cách đây 47 năm. Số Quán Văn 59 này giới thiệu một khuôn mặt văn học miền Tây là Trịnh Bửu Hoài ở Châu Đốc, vì thế ngày hôm sau, 17.10. 2018 bạn bè đã làm một chuyến Tây du, “về Long Xuyên Châu Đốc…” cùng Trịnh Bửu Hoài, không chỉ thăm bạn bè văn nghệ mà còn thăm vùng đất phương Nam mùa nước nổi xứ của Núi Sam, của rừng tràm Trà Sư, của Bà Chúa Xứ rồi còn ghé qua Cần Thơ, Trà Vinh, Bến Tre…
Không chỉ anh chị em Quán Văn mà còn có cả anh em Ý Thức, chuyến này chỉ có 5 bạn già có mặt, vắng những Lữ Quỳnh, Trần Hoài Thư… Dù sao thì cũng có Nguyên Minh, người chèo đò cho cả hai tờ báo văn nghệ này, có Thân Trọng Minh (Lữ Kiều), Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê), Châu Văn Thuận, Lê Ký Thương, năm anh em của “mùa thu cũ”, của “gió heo may”…
từ trái: Châu Văn Thuận, Nguyên Minh, Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê), Thân Trọng Minh (Lữ Kiều), Lê Ký Thương (cafe Vườn Hồng, Bến Tre 20.10.2018)
Chuyến đi khá đông, gần 50 người, toàn là những bạn bè và cộng tác viên thân thiết của Quán Văn, từ Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Phan Thiết, Vũng Tàu… và Saigon. Đa số là những người “bạn trẻ”, những cây viết sung sức, rất hòa đồng, dễ thương. Phải nói thêm có “lạc” một người từ phương xa là Nguyễn Minh Nữu, từ Mỹ về, rất vui nhộn, hoạt bát, một MC bất ngờ, dễ thương.
Ghé qua Sadec cho mọi người thăm nhà “Người Tình” Huỳnh Thủy Lê một chút. Mình và mấy người bạn tạt qua thăm Kiến An Cung, ngôi chùa cổ gần đó. Không có nhiều thì giờ nên không ghé thăm chùa Kim Huê và thăm nhà ông Tư Khánh, nhân vật gắn bó với “Bột Bích Chi” nổi tiếng một thời, vừa qua đời.
Qua phà Vàm Cống thì đã vào Long Xuyên. Tưởng kỳ này được đi cầu mới bắc ngang sông Hậu, nhưng nghe nói cấu đang sửa, đành chờ kẹt phà cả tiếng đồng hồ! Đến Long Xuyên rồi đây. Mới mấy năm mà xa lạ quá. Đường phố rộng rải, sầm uất, nhộn nhịp rồi. Mọi người ăn bún mắm đặc sản. Mình chỉ ăn cơm với cá linh rang mùa nước nổi… và dự định làm một chuyện riêng: thăm ngôi nhà cũ Nguyễn Hiến Lê. Cả đoàn chuẩn bị buổi giao lưu giữa anh chị em Quán Văn và bạn bè văn nghê An Giang Châu Đốc, còn nhóm mình tách riêng một lúc. Không ngờ mới nêu ý kiến đi thăm nhà cũ NHL với TTM, LKT, CVT (nhóm Ý Thức) thì đã được sự đồng tình của Hoàng Kim Oanh (Đại học Saigon); Nguyễn Thị Tịnh Thy (Đại học Sư phạm Huế); Ban Mai (Đại học Quy Nhơn) và cả Hiếu Tân (Vũng Tàu), thêm Thanh Hoàng và Pham Hiền (An Giang)…
trước phòng làm việc của học giả Nguyễn Hiến Lê, 92 Tôn Đức Thắng, Long Xuyên.
Đỗ Hồng Ngọc thắp nén nhang và đặt cuốn sách vừa tái bản “Nguyễn Hiến Lê, con người và tác phẩm” của một nhóm tác giả gồm Trần văn Chánh, Đỗ Hồng Ngọc, Lê Anh Dũng, Nguyễn Chấn Hùng… lên bàn thờ ông.
Các bạn dành một phút tưởng niệm NHL. Các cô giáo Kim Oanh, Tinh Thy, Ban Mai… đều nói từ tuổi thơ đã đọc, đã học nhiều từ NHL nên hôm nay như được đến thăm người thầy cũ của mình, với nếp sống giản đơn, thanh thản, để lại đời nhiều bài học đáng quý trọng.
Sau đó nhóm bạn kịp thời về dự buổi giao lưu tại một quán cafe sân vườn rất đẹp ở Long Xuyên. Cảm động vì các bạn trẻ trong Hội văn học nghệ thuật An Giang nói về người đàn anh, người thầy đi trước của mình: nhà văn Trịnh Bửu Hoài. Dịp này nhiều bài thơ, bài hát, vọng cổ đã được trình bày rất hay. Trong đoàn Quán Văn có Elena, người Ý, vợ nhà văn Trương Văn Dân tiếng Việt chưa rành mà điệu ca cổ nào cũng thuộc! Đáng khen TVD!
Kim Oanh nói đôi lời về việc vừa ghé thăm nhà cũ NHL. Phạm Thành Hiền cho biết ở Long Xuyên cũng đã có con đường mang tên Nguyễn Hiến Lê. (còn tiếp).
October 22, 2018
Vài hồi báo (feedback) về “Phật học & Đời sống”
Vài hồi báo (feedback) về “Phật học & Đời sống”
Ghi chú: Dưới đây là vài Hồi báo của bạn đọc đã và đang dõi theo Chương trình Phật học & Đời sống. Xin phép được chia sẻ cùng các bạn nơi đây để cùng tham khảo, học tập.
Và, đừng quên Thực Hành.
Trân trọng cảm ơn các bạn,
Bs Đỗ Hồng Ngọc.
……………………………………………………………………..
“Độc giả từ xa”ngày 18.10.2018
về PH & ĐS kỳ 37
Kg BS ĐH Ngọc,
Tôi là 1 độc giả ở xa, thỉnh thoảng có theo dõi trên trang nhà của BS về lớp “Phật Học và Đời Sống”. Tôi thấy cung cách thảo luận lớp học này hay và có thể giúp ích cho nhiều người muốn tìm hiểu, học hỏi thêm về PG với tinh thần tìm hiểu độc lập và thảo luận bình đẳng. Tôi thấy ở thời đại thông tin ở thế kỷ 21 này, độc lập trong suy nghĩ, và thẳng thắn vui vẻ thảo luận để tìm hiểu và học hỏi thêm có lẽ là phương pháp nên áp dụng trong học đường, sở làm, và ở cả … giáo đường.
Tháng 9 và 10/2018 tôi về VN (từ California) và đã dự định nếu có dịp sẽ ghé lớp học nhưng lai không xắp sếp được, nên đành góp 1 ít ý (từ xa) với bài 37 (Tụng Kinh, niệm Phật, trì chú, …)
Xin BS giữ cho tôi ẩn danh (Độc giả từ xa)
Xin cám ơn BS.
________________
– Vấn đề tụng niệm:
Tôi có người bạn người Mỹ gốc Ấn Độ, là giai cấp giáo sĩ Bà La Môn, có cho tôi biết trong tôn giáo của họ, kinh điển được truyền từ guru đến học trò bằng cách đọc nguyên văn theo lời kinh (Veda, Upanisad,…) cho đến thuộc lòng. Chẳng những vậy, người thầy còn kiểm tra từng tu sinh xem đọc từng chử có chính xác và có đúng giọng trầm bổng không? Họ muốn chắc chắn là bài Kinh được truyền từ đời này sang đời khác đều được đọc tụng với từ và giọng như thuở nguyên thủy. Dường như người Bà La Môn (và ngay cả người Tây Tạng) tin rằng các giọng lên xuống, trầm bổng (chử Um chẳng hạn) ẩn chứa “năng lượng của vủ trụ” (?)
Riêng với PG, dù Phật Thích Ca bước đầu cũng tu tập theo Bà La Môn, nhưng đã có 1 khuyến cáo khác biệt, như trong kinh điển PG còn lưu truyền:
___________
Tăng Chi Bộ V.209 : Thuyết Pháp với Giọng Ca
Này các Tỳ khưu, có năm điều nguy hại với người thuyết pháp với giọng ca ngân nga kéo dài. Thế nào là năm?
– Tự mình say đắm trong âm giọng ấy;
– Làm người khác say đắm trong âm giọng ấy;
– Các gia chủ phê bình: “Như chúng ta hát, cũng vậy, các Sa-môn Thích tử này ca hát!”;
– Vì vị ấy cố gắng rèn luyện cho âm thanh điêu luyện nên sự thiền định của vị ấy bị gián đoạn;
– Làm cho người khác bắt chước theo tà kiến ấy.
Này các Tỳ khưu, có năm điều nguy hại với người thuyết pháp với giọng ca ngân nga kéo dài.
_________
Có lẽ PG thời nguyên thủy chỉ đọc, lập đi lập lại để thuộc lòng để có thể truyền cho đời sau biết được lời của Đức Phật (càng chính xác càng tốt) chớ không có tụng ngân hay chuông mõ?
Mình có thể nhớ lại hành trình của ông Huyền Trang đi thỉnh Kinh trong “Tây Du Ký”. Giai đoạn đầu đầy hầm hố, chông gai, núi lửa, quỷ dữ ( Tham-Sân-Si dạng thô) đến khi gần “đạt đạo” (đến được Tây Trúc, rồi được vô tự Kinh) vẫn còn ‘dính” vào vương quốc của Tiên nử , suốt ngày vui với ca ngâm, thơ phú (dù là Tham-Si dạng tế, vẫn là Tham-Si và cũngphải bỏ đi)
Không biết qua thời gian , ảnh hưởng của đạo Hindu có thấm trở lại cung cách thực tập của PG hay không? như ông HT Thích Minh Châu nhận định trong “Lời Giới Thiệu Kinh Trung Bộ” (Trong Bản In Năm 1986) :
” … Càng dịch, càng thấy rõ dụng tâm hiểm độc của các vị Bà La Môn, đã khôn khéo xuyên tạc đạo Phật, khiến cho những giáo lý căn bản, những tinh hoa cao đẹp nhất của tư tưởng nhân loại, đã bị những tư tưởng tà giáo xen lẫn, bị ruồng bỏ, bị che dấu, không được biết đến, không được học hỏi tu hành …” (?)
Tôi được biết là có guru Bà La Môn hiện tai (Nithyananda) có nói rằng Phật Thích Ca là 1 trong những Bậc đạo Sĩ Bà La Môn đã giác ngộ , và tính ra Phật Thích Ca hiên nay là bậc giác ngộ cao nhất trên trái đất này , còn ở những nơi khác cũng có những bậc khác.
– Còn về vấn đề chuông mõ, dường như đó là phong cách của người Trung Hoa từ các thầy cúng tế, du nhập vào PG khi PG được truyền sang TH ? Có lẽ mình bị ảnh hưởng quá nặng từ người Tàu.
– Về vấn đề niệm, tôi thấy dường như người Việt mình có thể đã dùng lẫn lộn giửa 2 chử tùy niệm và niệm . Theo tôi được đọc từ 1 số vị biết ngôn ngữ Pali, có lẽ do phiên địch và cách xử dụng, người mình thường chỉ dùng 1 chử niệm cho cả 2 từ niệm (sati) và tùy niệm (anusati). “Niệm”, có lẽ nguyên gốc trong Kinh Điển PG muốn ám chỉ cái “ghi nhận “, “theo dõi”, “quán sát” mà không khởi tâm phân biệt, còn “tùy niệm” để ám chỉ việc đọc, đọc thầm , lập đi lập lại 1 danh hiệu, 1 hay nhiều từ nào đó.
Theo nghĩa này , trong 1 số Kinh Điển nguyên thủy lưu truyền, nếu đọc, tùy niệm Phật (hay Pháp, Tăng,…) mà đồng thời giử được tâm không tham, sân, si thì sẽ đạt được cõi tịnh, và rồi nhập pháp lưu (bất thối) dù chưa “có” trí tuệ hoàn toàn (vì đây là Thiền Định, chưa phải Thiền Tuệ)
____________________
Tương Ưng , chương 6 pháp, phẩm 1 : tùy niệm
(X) (10) Mahànàma
1. Một thời, Thế Tôn trú giữa các vị Thích – ca, tại Kapilavatthu, khu vườn Nigrodha. Rồi họ Thích Mahànàma đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, họ Thích Mahànàma bạch Thế Tôn:
– Vị Thánh đệ tử này, bạch Thế Tôn, đã đi đến quả, đã liễu giải giáo pháp, đời sống gì vị ấy sống một cách sung mãn?
– Này Mahànàma, Thánh đệ tử nào đã đi đến quả, đã liễu giải giáo pháp, với nếp sống này, sống một cách sung mãn.
2. Ở đây, này Mahànàma, Thánh đệ tử tùy niệm Như Lai: “Ðây là Thế Tôn… Phật, Thế Tôn”. Khi nào, này Mahànàma, Thánh đệ tử niệm Như Lai, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối; trong khi ấy, tâm vị ấy được chánh trực, nhờ dựa vào Như Lai. Và này Mahànàma, một Thánh đệ tử, với tâm chánh trực (nhất tâm bất loạn ?), được nghĩa tín thọ, được pháp tín thọ, được hân hoan liên hệ đến pháp. Người có hân hoan, nên hỷ sanh. Người có hỷ, nên thân được khinh an. Với thân khinh an, vị ấy cảm giác lạc thọ. Người có lạc thọ, tâm được định tĩnh. (Cõi Tịnh ?)
Này Mahànàma, về vị Thánh đệ tử này, được nói như sau: “Với quần chúng không bình thản, vị ấy sống bình thản. Với quần chúng có não hại, vị ấy sống không não hại. Nhập được pháp lưu, vị ấy tu tập niệm Phật”. (Bất thối Bồ Tát vi bạn lữ ?)
________________________
Còn niệm, với nghĩa là chính niệm tỉnh giác, là theo dõi, quán sát, không phê phán, mà nội dung đầy đủ trong 4 niệm xứ, khi 4 niệm xứ được sung mãn, sẽ đưa đến tam minh (rốt ráo) vì đây là “Thiền Tuệ”. Trong Kinh Điển Nguyên Thủy lưu truyền, chính bậc là A la Hán (giải thoát) cũng xử dụng thiền này.
________________________________
Kinh Trung Bộ: 10- Kinh niệm xứ:
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở xứ Kuru (Câu-lâu), Kammassadhamma (kiềm-ma sắt đàm) là đô thị của xứ Kuru. Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
— Này các Tỷ-kheo.
Các Tỷ-kheo vâng đáp Thế Tôn:
— Bạch Thế Tôn.
Thế Tôn thuyết như sau:
— Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất (direct path ?) (Ekayāna is a Sanskrit word that can mean “one path” or “one vehicle”. It is used both in the Upanishads and in the Buddhist scriptures, taking on different meanings and notions) đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Đó là Bốn Niệm xứ.
Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.
…
Tương Ưng SN-XLVI25 : Người Bà-la-môn (Diệu Pháp tồn tại)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Thắng Lâm, khu vườn ông Cấp Cô Ðộc. Rồi một Bà-la-môn đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, vị Bà-la-môn ấy thưa với Thế Tôn:
–“Do nhân gì, do duyên gì, thưa Tôn giả Gotama, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp không được tồn tại lâu dài? Do nhân gì, do duyên gì, thưa Tôn giả Gotama, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài?”
–“Do bốn niệm xứ không được tu tập, không được làm cho sung mãn, này Bà-la-môn, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp không có tồn tại lâu dài. Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài. Thế nào là bốn?
Ở đây, này Hiền giả, Tỷ-kheo trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời, trú, quán thọ trên các thọ … trú, quán tâm trên tâm … trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
Do không tu tập, không làm cho sung mãn bốn niệm xứ này, này Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp không được tồn tại lâu dài. Do tu tập, do làm cho sung mãn bốn niệm xứ này, này Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.”
……………………………………………………………………………….
DieuTrong, ngày 17.10.2018
về PH & ĐS kỳ 40
Hay lam ! đinh luat Bao Ton Năng Lượng cua Lavoisier da chung minh mot cach khoa hoc co luan hoi.
Ko co gi mat di ma chi co su thay doi va chuyen hoa.
Tai sao chung ta co mat noi nay?
Tai sao con nguoi sinh ra lai khac biet nhau lam vay ?
Nguoi lanh lan, ke tat nguyen, sang/hen-giau/ngheo-thong minh/ngu dan….
Tat ca tuy theo nhan qua,nghiep bao luan hoi.
– Tu la sua.
– Tu la chuyen nghiep.
THAN luon thay doi trong tung phut giay theo cac te bao sinh diet
TAM sinh diet trong tung sat-na, niem vua mat di niem khac lien khoi len…ta ko the ngung suy nghi duoc.
Khong Tu dung ben dong song da phai than :” ngay dem chay mai the nay u ?”
Kinh KC : …hay dua tat ca chung sinh vao Vo Du Niet Ban…
Do la cac noi ket trong Tam chung ta (niem xau ac, tham lam, san si..) dua tat ca tan bien vao hu khong di !
Thuyet Luan hoi ST trong Phat phap giup ta cung co long tin la ta co the chuyen hoa,thay doi cuoc doi ta ngay BAY GIO va TAI DAY va ta la PHAT SE THANH.
Ma that ra ko co “tro thanh” ma chi nhan ra cai ta co san (hat chau trong cheo ao ) day thoi !
……………………………………………………………………………….
DieuTrong, ngày 13.10.2018
về PH & ĐS kỳ 39
Luan hoi sinh tu that ra dang xay ra trong doi song hien tai nay.Co luc ta sung suong nhu mot ong Troi con nhung cung co luc ta dau kho nhu roi xuong tan cung dia nguc.Luc bat binh tuc gian nhu mot atula, luc them khat an tuoi nuot song thuc an nhu Nga Quy, luc la Con trong 2 chu Con Nguoi , nhu loai suc sanh…
Con chuyen Sinh Tu cung dang xay ra trong tung phut giay trong co the ta dang song day, te bao nay chet di thi co te bao khac sinh ra…
Khong can doi den luc ta bo than nay moi co luan hoi sinh tu.
Chinh vi the su trai nghiem LHST ngay trong kiep nay tuc la cac canh gioi ma ta da kinh nghiem co the giup ta chung ngo duoc Phat phap.
Trong Cau Chuyên Dong Song 2 nguoi ban Thien Huu va Tat Dat da den voi Phat Phap theo 2 con duong khac nhau. Mot TH suot doi mac ao Nhu Lai, di theo NL, la cai bong cua NL ma van ko chung ngo. Mot Tat Dat muon tu minh dan than vao cuoc doi de trai nghiem .Ong da song mot cuoc doi trai qua du Sau Neo Duong, cho den luc met moi chan chuong dau kho den muon chet. Tieng AUM mau nhiem trong tiem thuc da vang len dung luc giup ong o lai va lang nghe tieng noi cua dong song. Do la tieng noi o noi tam, dong song la dong tam thuc cua chung ta chay mai ko dung, trong Kinh goi la dong Boc Luu.
Rot cuoc chinh Tat Dat moi la nguoi khai ngo cho Thien Huu khi ho gap lai nhau ben dong song.
Luan hoi 6 neo ngay trong môt kiep song nay cung co the dua ta den chung ngo.
Cung ko phai ta tan duong cuoc song duc lac ma xem nhe chiec ao ca sa.
Phien nao tuc Bo De.
Ta Ba den Niet Ban.
” Du phai kho dau oan oai, ta van yeu thuong tran gian dien dai nay ”
………………………………………………………………….
Trung William, ngày 17.9.2018
Chào Bác!
Tựu chung thì giáo lý Đức Phật chỉ xoay quanh Khổ và Diệt Khổ. Đó là cốt lõi cho tất cả những ai muốn đi trên con đường giải thoát! Giải thoát ở đây không phải là giải thoát Sinh Bệnh Lão Tử mà giải thoát ở đây chính là giải thoát phiền não khổ đau.
Phiền não khổ đau ở đây là những buồn phiền, khó chịu, bực dọc…phát sinh trong giao tiếp hàng ngày với tất cả mọi người chung quanh.
Bất cứ lúc nào. Mỗi khi phiền não khởi sinh ta đều nhận rõ là chúng sinh ra từ tâm ta. Đây cũng chính là TRỰC CHỈ CHÂN TÂM. Thấy phiền não phát sinh từ tâm ta đó mới chân thật là CHÁNH KIẾN.
Khi đã nhận biết phiền não. Lúc bấy giờ hành giả mới bắt đầu chiêm nghiệm để thấy được “ồ thì ra! Do chính cái ôm chấp của mình, do cái ngu si (vô minh) của minh, do cái truyền thống giáo dục của xã hội…. mà ra. Cái chiêm nghiệm này chính là CHÁNH TƯ DUY. Nhìn thấy được NGUYÊN NHÂN CỦA KHỔ ĐAU. Đó cũng là TẬP trong TỨ DIỆU ĐẾ.
(…)
Nếu ai thấy mình có khổ và muốn thoát khổ đều làm được. Cái khổ của nhân loại thì mênh mông như biển. Mới thấy rằng chúng ta có vô số những điều “bất như ý” để rồi nảy sinh ra vô số khó chịu bực bội. Chính vì vậy Đức Phật mới đề cập đến 84 ngàn pháp môn nhằm để diệt trừ phiền não!
Tất cả mọi người, nếu ai đó thấy mình có khổ và muốn diệt trừ khổ đau thì hãy nắm lấy cái khổ đau lớn nhất của mình mà chiêm niệm. Nếu sống với nó mỗi ngày. Sẽ có lúc chúng ta sẽ nhận thấy được cái vô minh trong chúng ta.
Nếu được như vậy thì từ đó về sau tu chỗ nào cũng được. Vừa ra đầu ngõ gặp chuyện không vui liền biết đó là lỗi mình. Nếu nhạy bén hơn thì liền thấy được nguyên nhân vì sao. Khi đã rõ vì sao thì không còn trách người nữa. Đây cũng là yếu chỉ của thiền tông “giáo ngoại biệt truyền” vì những gì nói ra đây không bao giờ có trong kinh điển. Cho nên có vị thiền sư khi ngộ đạo rồi, ngài đem kinh điển ra mà đốt! Vì cái tu trong cuộc sống hàng ngày đó nó không hề liên quan gì đến kinh điển hay tu hành cả! Cái hành trong cuộc sống giao tiếp hàng ngày như thế mới chính là “hành thiền trong mọi uy nghi Đi đứng nằm ngồi”.
Chắc cháu nói hơi nhiều …
…………………………………………………………………………………………….
October 16, 2018
Vài hình ảnh “Sinh nhật” Ý THỨC và QUÁN VĂN
Vài hình ảnh “Sinh nhật” Ý THỨC và QUÁN VĂN
Đỗ Hồng Ngọc ghi
Sáng nay 16.10.2018 Quán Văn số 59 tổ chức Sinh Nhật lần thứ 7 khá rôm rả tại một Quán Cafe trên đường Lam Sơn, Bình Thạnh. Dịp này cũng là số báo đặc biệt giới thiệu Nhà văn Trịnh Bửu Hoài, cũng như để chuẩn bị chuyến đi Miền Tây nhân “Mùa Nước Nổi” của nhóm Quán Văn. Rất đông bạn bè đã đến “chung vui”.
Dịp này, Quán Văn cũng đồng thời tổ chức Sinh Nhật cho Ý Thức, bán nguyệt san Văn học nghệ thuật đã có mặt trên văn đàn Saigon 47 năm về trước. Hai tờ báo cách nhau 40 năm và cùng có chung một “tay chèo” là Nguyên Minh.
Ý Thức của 47 năm trước sáng nay hiện diện chỉ có (từ trái) Nguyên Minh, Lữ Kiều Thân Trọng Minh, Châu Văn Thuận, Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc. Lê Ký Thương bận không đến. Anh em không quên nhắc Lữ Quỳnh, Trần Hoài Thư… nơi xa xôi. Thậm chí còn nhắc 20.10 này sẽ khui rượu mừng Sn Lữ Quỳnh nữa đó!
Các thân hữu và cộng tác viên của Quán Văn từ Huế, Đà Nẵng, Bình Thuận, Vũng Tàu, An Giang… về tham dự đông vui. Nguyễn Minh Nữu từ xa xôi cũng kịp về để tham gia làm MC với Hoàng Kim Oanh và Đoàn Văn Khánh… tạo nên một không khí sôi đông với lời ca tiếng hát giọng ngâm…
Sách “NGUYỄN HIẾN LÊ, Con Người và Tác Phẩm”
Nguyễn Hiến Lê, Con Người và Tác Phẩm
Nhiều Tác Giả
vừa được Nhà xuất bản TP. HCM tái bản, bổ sung khá phong phú với nhiều bài viết của các tác giả gần gũi với học giả Nguyễn Hiến Lê từ xưa như Nguiễn Ngu Í, Lê Phương Chi, Quách Tấn, Minh Quân, Lê Minh Đức, Văn Phố…
Nhân dịp này, xin gởi đến các bạn một bài viết của Đỗ Hồng Ngọc, trên báo Bách Khoa số 426 ngày 17.4.1975 (được in lại trong tập này). Bài báo do GS Huỳnh Chiếu Đẳng gởi về tặng (từ trong bộ báo Bách Khoa số hóa do nhà văn Phạm Xuân Đài thực hiện) và đã được Đèn Biển gõ lại dưới dạng word. Xin trân trọng cảm ơn tất cả.
Đỗ Hồng Ngọc.
Một trang báo Bách Khoa 43 năm về trước (17.4.1975)
Ông Nguyễn – Hiến – Lê và Tôi
Lời B.K.- Tác giả bài viết dưới đây, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cũng là nhà thơ Đỗ Nghê (*) một bút hiệu quen thuộc thường có sáng tác đăng trên Bách Khoa. Đỗ Hồng Ngọc đã có một thời niên thiếu thật khốn khó: Cha mất sớm, nhà nghèo, ông phải phụ giúp mẹ trông nom cửa hàng xén tại chợ BT. Nhờ được đọc những tác phẩm tự luyện trí đức của Nguyễn Hiến Lê, lại có chí, ông đã đạt được nhiều kết quả tốt trên đường học vấn. Ông vẫn liên lạc thường xuyên với người đã viết nên những tác phẩm dìu dắt mình từ thuở còn niên thiếu. Nhân đọc mục Thời sự Văn nghệ trên Bách Khoa loan tin nhà văn Nguyễn Hiến Lê cho xuất bản tác phẩm thứ 100 của mình, người hằng quan tâm đến sức khỏe của “lứa tuổi học trò” liền gửi đến Bách Khoa bài sau đây “gọi là để góp một món quà nhỏ” dành tặng cho người đã đem toàn tâm toàn lực cung cấp các món ăn tinh thần cho mọi lứa tuổi từ mấy chục năm qua.
…………………………………………………………..
Tác phẩm đầu tiên của ông, Tổ chức công việc theo khoa học, ra đời năm 1949 nhưng mãi đến năm 1956 tôi mới được làm quen với tên tuổi ông. Còn nhớ lần đó tôi theo xe chở cá nước đá về Saigon “bổ hàng” cho mẹ – mẹ tôi có quán hàng xén tại chợ B.T. – một buổi trưa lang thang trên vỉa hè Trần Hưng Đạo, dừng chân ngắm hàng sách “sôn” bày la liệt, tình cờ thấy cuốn “Kim chỉ nam của học-sinh” của Nguyễn Hiến Lê, một tác giả hoàn toàn xa lạ với tôi lúc đó. Đọc qua lời Tựa, tôi mua ngay.
Tản cư về, tôi bị trễ học đến 4, 5 năm, nhà nghèo, cha mất sớm, tôi phải phụ giúp mẹ trông nom cửa hàng cho nên dù hiếu học, tôi cũng không biết cách nào để tiến thân. May quá, “Kim chỉ nam” đã mở cho tôi một chân trời mới. Đọc xong, tôi thấy mình gần gũi với ông kỳ lạ. Có những điều tôi đã thoáng nghĩ, đã từng làm nhưng vì thối chí ngã lòng, vì không được hướng dẫn nên không đạt được mấy kết quả. Ông đã hệ-thống-hóa, đặt ra những nguyên-tắc giúp cho việc học đỡ mệt, đỡ tốn thì giờ mà được nhiều kết quả hơn. Điều quan trọng là sách trình bày những phương pháp thực hành, không có những lý thuyết viển vông nhàm chán. Thời gian sau đó tôi lại tìm mượn được thêm các cuốn Tự học để thành công, Rèn nghị lực của ông tại nhà một anh bạn làm nghề may. (anh Chín, khi đọc những dòng này, anh có nhớ bọn mình đã góp chung tiền để mua loại sách này chăng và bây giờ, làm chủ một tiệm may nho nhỏ chắc anh đã đủ tiền mua trọn bộ sách Nguyễn Hiến Lê cho các con anh như đã từng ao ước rồi phải không?).
Với niềm tin mới, tôi bắt tay vào việc lập chương trình “học nhảy”. Tôi viết thư hỏi ý kiến ông về việc này và ông trả lời “được” vì qua bức thư thấy tôi khá già giặn và sức học đã vững. (Trong Kim chỉ nam của học sinh ông đả kích việc học nhảy lớp dữ lắm!). Lúc đó tôi đang theo học đệ thất – lớp đệ thất đầu tiên, mới mở của tỉnh – và tôi đã rất xấu hổ phải ngồi bên cạnh các học trò nhỏ hơn mình 4, 5 tuổi. Nhờ có chí và biết áp dụng những phương pháp học chỉ dẫn trong Kim chỉ nam và Bí quyết thi đậu, tôi đã rút ngắn chương trình Trung-học được ba năm, đuổi kịp các bạn bè cùng lứa. Được bà con khuyến khích, mẹ tôi bằng lòng cho tôi đi Saigon “du học”.
Đến Saigon, việc đầu tiên của tôi là tìm thăm ông, định bụng sẽ báo tin cho ông biết là đã thi đỗ và bày tỏ lòng ngưỡng mộ, biết ơn của tôi ; nhưng khi gặp ông, tôi đã lúng túng không biết phải nói gì, chỉ ấp úng trả lời ông vài ba câu rồi ra về. Thấy ông có vẻ nghiêm nghị quá, lại đang bận sửa bản vỗ cho một tác phẩm nào đó. Như thế là lần này tôi đã hoàn toàn thất bại, cuốn Đắc nhân tâm của ông không giúp tôi được tí gì cả! Từ đó, mỗi lần đến thăm ông tôi thường rất ngần ngại, lúc nào cũng có cảm tưởng như quấy rầy ông, không để cho ông “sống đủ 24 giờ một ngày”. Nhiều người quen biết ông chắc cũng cùng cảm tưởng đó lúc ban đầu. Về sau, nhiều năm trôi qua, quen thân ông nhiều hơn, tôi biết tôi đã lầm lẫn. Phong thái ông là phong thái của một nhà nho, giao tình dù thật thắm thiết thì bên ngoài vẫn có vẻ hờ hững, khác xa với cái vồn vã ồn ào của người Tây-phương. Chính cái ánh mắt ông và cái bắt tay chặt chẽ của ông đã bộc lộ tâm tình ông nhiều hơn. Bây giờ tóc ông đã bạc nhiều, da sậm và nhăn nheo nhiều hơn, nhưng ánh mắt vẫn tinh anh và cái bắt tay vẫn nồng nhiệt như thuở đó. Những lúc đến thăm, tôi thấy ông luôn mặc bộ bà ba trắng nhạt, cũ kỹ quen thuộc, cũ kỹ quen thuộc như loại bì thư ông quen dùng trong bao nhiêu năm qua. Ông không thích đổi thay. Hình như ông hút thuốc hơi nhiều quá! Lúc nào cũng có lon thuốc rê bên mình, ông vừa trò chuyện với khách vừa vấn vấn vê vê điếu thuốc lá, liếm nhẹ rồi bật quẹt hút. Các ngón tay ông nhanh nhẹn, thuần thục đến vàng sậm màu khói. Ông khen Lâm Ngữ Đường là “cận nhân tình” có lẽ vì họ Lâm “bồ” với ông, đã không cấm ông hút thuốc dù cái bao tử của ông cứ đau đi đau lại hoài!
Thỉnh thoảng khi có chuyện thắc mắc, chuyện vui buồn gì mà không tiện đến thăm, tôi viết thư cho ông. Lần nào ông cũng sốt sắng trả lời, ân cần chỉ dẫn, khuyến khích tôi.
Quen biết ông mới thấy ít có ai yêu tiếng mẹ như ông. Muốn cho ông “thao thao bất tuyệt” thì cứ việc nói đến tiếng Việt với ông. Ông chịu không nổi khi thấy một chữ bị dùng sai. Còn nhớ khi bọn sinh viên chúng tôi vận động chuyển ngữ Việt tại trường Y-khoa, ông đã hỗ trợ bằng những bài báo nẩy lửa. Lúc đó giọng ông không còn cái vẻ nghiêm túc, hiền lành, bình đạm thường ngày nữa mà sôi nổi, gay gắt, phẫn nộ, đầy khích động ; giá có ai giật lấy bút của ông đi, tôi chắc là ông sẽ lấy dao “viết lên đá” như Trần Dần nói.
Tôi chịu nhiều ảnh hưởng của ông. Cuốn sách đầu tay của tôi Những tật bệnh thông thường trong lức tuổi học trò, chỉ là một phần bổ túc cho cuốn Kim chỉ nam của học sinh. Sau đó tôi viết thêm một cuốn khác, cùng loại y-học phổ thông, cũng nằm trong chiều hướng nâng cao trình độ đại chúng mà ông đã vạch. Ông nói muốn cho nước giàu, dân mạnh thì không phải chỉ một người hay một nhóm người làm được, mà phải là toàn dân cùng ý thức, cùng thực hiện. Muốn vậy phải đặt nặng vấn đề giáo dục đại chúng.
Với tôi, ông là một tấm gương sáng. Tấm gương của Nghị lực, của Tự học và của Phụng sự. Ông tận tụy cả đời viết sách, đem kinh nghiệm bản thân ra hướng dẫn thanh thiếu niên, mong giúp được cho người khác chút gì ; lúc bỏ cây viết ra thì vớ ngay cuốn sách để đọc, để học không ngừng. Tôi đoán sở dĩ ông đã không nhận một chức vụ gì trong guồng máy công quyền là để giữ cho ngòi bút mình độc lập, để có thể đóng trọn vai trò giám sát của người trí thức mà Alain đã nói. Nhờ đó ông không có mặc cảm, thấy điều gì đáng khen thì khen, điều gì không ưa thì nói. Và ông đã nói bất cứ điều gì từ việc dịch sách, chuyển ngữ đến việc nhân mãn, ô nhiễm… Có thể đôi lúc ông cũng sai lầm, nhưng điều quan trọng là ông đã thành thực với chính ông.
Đến nay ông đã cho ra được 100 tác phẩm, có những tác phẩm dày vài ngàn trang, có những tác phẩm 3. 4 cuốn, về đủ mọi bộ môn, từ văn chương, y-học, giáo dục, đến lịch sử, triết học… làm nhiều người kinh ngạc về sức làm việc của ông. Tôi biết có những tác giả “sản xuất” còn nhiều hơn ông, viết mau và viết mạnh hơn ông, nhưng đọc họ người ta thấy rõ ràng là những tác phẩm máy móc, sản xuất hàng loạt. Ở ông thì không. Ở ông là con người. Tác phẩm ông là con người ông. Ông “dạy” cho thanh niên rèn nghị lực thì chính ông là một tấm gương nghị lực ; ông viết về tổ chức thì chính nếp sống ông là một sự tổ chức ; ông viết về tự học thì chính ông đã nhờ tự học mà thành công. Nhờ viết từ những kinh nghiệm sống thực đó, người đọc thấy gần gũi với ông và những lời ông chỉ dẫn đều có thể ứng dụng được.
Nhìn lại toàn bộ tác phẩm ông, không ai chối cãi giá trị của những Đông kinh nghĩa thục, Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, Đại cương Triết-học Trung-quốc, Ngữ pháp Việt-nam… và những Chiến tranh và Hòa bình, Sử ký Tư Mã Thiên, Chiến quốc sách… Những tác phẩm đó thực sự có ích cho các nhà nghiên cứu, các sinh viên đại học và đã đóng góp một phần đáng kể cho nền văn hóa miền Nam. Nhưng theo tôi, những tác phẩm quan trọng trong đời ông, đáng cho ông hãnh diện chính là những tác phẩm nho nhỏ, ông viết nhằm giáo dục thanh thiếu niên, hướng dẫn họ trong việc tự huấn luyện trí, đức. Đó là Kim chỉ nam của học sinh, Tự học để thành công, Tương lai trong tay ta, Rèn nghị lực… và nhất là bộ Gương danh nhân của ông. Mà họ là ai? Là những thiếu niên thất chí bán hàng xén như tôi thuở đó, là anh thợ may lận đận như anh Chín NS, là một giáo viên tiểu học, một y tá hương thôn, một thơ ký nghèo trong một công tư sở nào đó. Họ là những người có thiện chí, có tinh thần cầu tiến, hiếu học nhưng vì hoàn cảnh mà lỡ dở. Họ là thành phần đông đảo nhất trong xã hội ta bây giờ, một xã hội có vốn liếng hơn ba mươi năm chiến tranh. Nhờ những cuốn sách đó, trước mắt họ mở ra những cánh cửa mới, trong lòng họ nhen lên ngọn lửa nồng, và dù họ có không “thành công” nhiều thì đời sống họ cũng sẽ được nâng cao ít ra là về mặt tinh thần. Thú thực, tôi rất bực mình khi thấy chính tác giả có lần đã xếp những loại sách đó vào hàng thứ yếu. Ông nói “… nhưng chẳng qua cũng chỉ để cho thanh niên đọc (Kỷ niệm Văn-thi-sĩ hiện đại – Bàng Bá Lân). André Maurois 80 tuổi mới viết “Thư ngỏ gởi tuổi đôi mươi”!
*
Những năm gần đây ông chuyên viết về cuộc đời và tư tưởng của các triết gia Đông phương: Liệt tử và Dương tử, Khổng tử, Mạnh tử, Hàn Phi tử… Ông viết chậm và ít hứng hơn, có lẽ một phần vì tuổi đã lớn, một phần vì sức khỏe suy kém.
Các nhà phê bình sau này nhắc đến sự nghiệp ông mà quên không nói đến sức khỏe ông là một điều thiếu sót lớn! Thực không ai ngờ rằng một người viết hằng trăm tác phẩm như vậy lại là một người đau yếu liên miên. Chứng đau bao tử kinh niên của ông thỉnh thoảng trở đi trở lại. Mỗi lần gặp ông mà thấy ông có vẻ cau có thì chắc chắn là ông bị cơn đau bao tử hành rồi! Thứ bệnh đó thực là khó chịu (vì chính tôi cũng mắc phải nên hiểu lắm!) : nó làm cho ta trở thành một con người… xa lạ, không thích giao du, không chịu được đám đông. Phải ăn đúng giờ, nghỉ đúng giấc. Phải cữ món này, kiêng món nọ, không uống rượu, ít hút thuốc. Tâm hồn rán cho yên tĩnh. Nếu không vậy thì đau. Trong một bức thư, ông cho tôi biết ông vừa bị sưng bao tử (gastrite) vừa bị loét ở cuống (ulcère duodénal). Mỗi lần gặp chuyện lo lắng, buồn phiền hay gặp một chương sách khó viết, ông lại đau. Những lúc đó tay cầm viết của ông bị run rẩy. Có lần ông bị nấc cục mấy hôm liền và thường hay bị mất ngủ, bón, trĩ… Tất cả những chứng đó đều có bà con xa gần với bệnh đau bao tử. Cho đến ngày nay, y học cũng chưa có thuốc chữa dứt khoát bịnh này mà nguyên nhân một phần lớn là do tâm thần. Các thứ thuốc chữa chỉ có tính cách ngăn chận cơn đau tạm thời, lại thường gây những phản tác dụng như làm mất ngủ, bón, trĩ v.v… Bịnh có thể tự nhiên khỏi. Một tạp chí y học mới đây đăng kết quả một cuộc thí nghiệm chữa bịnh đau bao tử như sau: một nhóm bịnh nhân được chữa bằng thuốc đau bao tử, một nhóm khác được chữa bằng Placébo (1). Tỉ lệ lành bịnh gần gần như nhau. Thỉnh thoảng tôi đến thăm, nghe ông khoe một thứ thuốc trị đau bao tử mới, uống khá hiệu nghiệm ; còn tôi thì khoe với ông một phương pháp chữa đau bao từ cũng mới, là đọc truyện kiếm hiệp của Kim-Dung, để quên hết những căng thẳng, lo lắng, mệt mỏi. Rồi tôi gửi biếu ông một bộ “Cô Gái Đồ Long”. Rất tiếc là ông không đọc được kiếm hiệp. Ông thử đọc cuốn đầu rồi thôi, chịu, không đọc thêm được nữa!
Năm ngoái tự nhiên mắt ông nhìn kém đi, vẫn đọc sách được, nhưng trong khoảng cách hai thước ông nhìn thấy lờ mờ như có lớp sương mù. Tôi ngại rằng ông có thể mắc bệnh hột cườm ở người già (cataracte sénile), định giới thiệu ông đến một bác sĩ nhãn khoa, nhưng ông chưa đi thì bệnh bớt dần rồi khỏi. Những ngày gần đây ông còn bị đau răng, rồi bị thận viêm. Bịnh tuy không có gì nặng nhưng là những thứ bịnh khó chịu, và làm kém sức khỏe. Nhiều lúc tôi ngờ rằng sự nghiệp trước tác của ông một phần xây dựng từ những bịnh tật của ông.
Mắc bịnh đau bao tử, một thứ bịnh đòi hỏi phải sống, phải làm việc có tiết độ, ông chú trọng nhiều đến tổ chức, viết Tổ chức công việc theo khoa học, Tổ chức gia đình v.v… Để có thể tự chữa thứ bịnh tâm thể (Psychosomatique) đó của mình, ông viết Sống 365 ngày một năm, Sống theo sở thích, Chấp nhận cuộc đời v.v… Những lúc buồn phiền, lo lắng, ông viết Quẳng gánh lo đi, Trút nỗi sợ đi, Xây dựng hạnh phúc… Những lúc bệnh bớt, thấy khỏe khoắn, hăng hái trở lại, ông viết Thẳng tiến trên đường đời, Tương lai trong tay ta… và khi mệt mỏi, căng thẳng ông xả hơi bằng Tô Đông Pha, Sống Đẹp… Có phải tôi đã hơi méo mó mà nghĩ ra mấy chuyện đó không? Và như vậy ta sẽ có một thứ quan điểm phê bình gọi là phê bình bịnh-lý-học chăng?
*
Mơ ước lớn nhất của đời ông bây giờ có lẽ là được thấy cảnh thanh bình, con cháu đoàn tụ, rồi lui về sống với mảnh vườn ở miền quê. Năm kia tôi gửi ông một bài thơ, bài “Đi cho đỡ nhớ” viết từ nỗi xúc động thấy những chuyến xe lửa lại lăn trên đường sắt, dù chỉ mới lăn đến… Biên Hòa, mà mơ một chuyến tàu nam bắc. Ông trả lời:
“(…) Nhưng cháu làm cho tôi thèm đi quá! A, bao giờ Saigon mới được nối với Hà-nội bằng xe lửa đây? Lúc đó tôi sẽ bỏ hết công việc, nhờ cháu làm revision gérénale cho bộ máy của tôi, rồi lên xe lửa thăm non sông Nam Trung Bắc một lần cuối cùng. Sẽ uống dừa Tam Quan, ăn cam xã Đoài, rồi ăn nhãn Hưng Yên, hồng Bạch Hạc, cốm Vòng v.v…”
Rồi cuối năm ngoái, có lẽ đã đợi mãi, hy vọng rồi thất vọng mãi vẫn chưa thấy thanh bình về trên quê hương mà chiến tranh càng ngày càng thêm thảm khốc, ông viết “Bây giờ tôi chỉ mong được nghỉ ở thôn quê thôi. Hai mươi mấy năm viết lách liên tiếp, chưa bao giờ được nghỉ lấy một tháng (…)” Ý muốn này ông đã lập đi lập lại như một điệp khúc từ nhiều năm qua mà không sao thực hiện được. Cứ nghỉ ít lâu ông lại chịu không nổi, phải cầm viết lại. Ông đã nghiện nặng rồi chăng?
Cuộc đời ông quả thực là một tác phẩm lớn. Tôi ước mong trong tuổi già ông sẽ viết hồi ký, kể lại đời mình cho bọn trẻ chúng tôi đọc như André Maurois viết “Portrait d’un ami qui s’appelait moi” vậy. Tôi là độc giả của ông từ ngày còn là một học trò đệ thất, lại được quen biết ông hơn 15 năm nay, nghĩ lại, nếu trong thời thơ ấu không được đọc những sách đó của ông, không được gặp ông, có lẽ tôi đã khác ; nên tuy không được may mắn học với ông ngày nào, từ lâu tôi vẫn xem ông là một vị thầy của mình, hơn thế, một người thân. Tôi đâu có cần phải nói cám ơn ông!
ĐỖ HỒNG NGỌC
___________
(*) Lời B.K. – Những tác phẩm của tác giả mang tên Đỗ Hồng Ngọc là: Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò (1972 – tái bản 1974), Viết cho các bà mẹ sanh con đầu lòng (1975), những thi phẩm mang tên Đỗ Nghê là: Tình người (1967), thơ Đỗ Nghê(1974)
(1) Một loại “thuốc giả” chỉ có tác dụng tâm lý, dùng để thí nghiệm.
October 15, 2018
Kỳ 40: PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG
Kỳ 40: Phật Học & Đời Sống
Chủ đề: “LUÂN HỒI – SANH TỬ”
Thứ bảy 13.10.2018
lúc 15-16.30h,
tại Chùa Phật học Xá Lợi
89 Bà Huyện Thanh Quan, Quận 3, Tp.HCM
Cảm ơn nvquyen đã ưu tiên sớm gởi clip này để chia sẻ cùng các bạn.
(ĐHN)
……………………………………………………………………….
Ghi Chú: Sinh hoạt Phật Học & Đời Sống nghỉ ngày 20.10.2018.
Kỳ 41 sẽ được tiếp tục vào ngày Thứ bảy 27.10. 2018
tại Chùa Phật học Xá Lợi, 15-16.30h như thường lệ.
Chủ đề: NHÂN QUẢ
Thân mời các bạn tham dự.
Trân trọng,
Đỗ Hồng Ngọc.
October 12, 2018
Kỳ 39: Phật Học & Đời Sống
Kỳ 39. PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG
Thứ bảy 6.10.2018 tại Chùa Phật học Xá Lợi Saigon,
Chủ đề: “TỤNG KINH, NIỆM PHẬT, TRÌ CHÚ”… thế nào (tt)
Cảm ơn nvquyen đã gởi clip chia sẻ cùng các bạn.
ĐHN.
……………………………………………………….
Kỳ 40. Phật Học & Đời Sống
15-16.30h Thứ bảy 13.10.2018 tại Chùa Xá Lợi,
89 Bà Huyện Thanh Quan, Quận 3, Tp.HCM
Chủ đề: “Luân Hồi Sanh Tử”
Thân mời các bạn tham dự,
Trân trọng,
Bs Đỗ Hồng Ngọc.
Thư gởi bạn xa xôi (9.2018)
Thư gởi bạn xa xôi
Một chuyến đi hụt… về Lagi, Mũi Né
Không định viết lá thư này nhưng chung quy cũng tại bài thơ có mấy câu bí hiểm khiến bạn thắc mắc nên đành “giải trình” thôi.
Bài thơ “trời ơi” nó như vầy:
Sáng nay dậy sớm
Chuẩn bị lên đường
Sực nhớ
Quên!
(ĐHN)
“Quên” là quên chuyến đi đã bị “cencel” rồi vậy mà sao cứ vấn vương trong bụng. Tu hành bấy lâu mà sao tệ quá bạn ơi. Gởi cho mấy bạn trong “gánh hát” thì có bạn kêu trời ơi, già cả lẩm cẩm đến vậy sao?
Lỗi tại mình. Đáng lẽ bài thơ “rất hay” này chỉ nên chia sẻ trong nhóm dự định đi Lagi-Mũi Né một chuyến rồi giờ chót không đi được vì một lý do bất khả kháng, ai dè gởi nhầm cho mấy bạn xa xôi…
Số là T,D về có mấy hôm, đã cùng nhau sắp xếp từ cả tháng trước một chuyến đi Lagi Mũi Né với mấy bạn “gánh hát” mình ở đây, giờ chót người bận người bệnh, thế là bỏ cuộc. Phải cancel khách sạn, xe cộ các thứ. Mình là tourguide nên đã lên “đường dây” rất kỹ, sắp xếp đâu đó sẵn sàng…
Dù sao cũng nên ghi lại “đường dây” ở đây, biết đâu có dịp nào rồi lại đi khi có bạn xa về. Dĩ nhiên mình thiết kế một tour rất “nhà quê” để bù cho bạn bè có khi quên cả lỗ chân trâu, bờ cỏ dại, chiếc thúng chai, đồi cát bỏng…
Phải khởi hành sớm. Đi cao tốc đến Long Thành, lên quốc lộ 51 (đi Vũng Tàu), quẹo trái vào xã Tóc Tiên, ghé thăm Thiền viện Viên Không của thầy Viên Minh. Con đường quanh co len chân núi Dinh, lát đá thô rất đẹp, thỉnh thoảng có ao bông súng. Những ngôi tịnh xá mọc rải rác, len lỏi giữa rừng cây thưa. Có thì giờ thì leo dốc, đến một hồ nước ngọt trên lưng chừng đồi.
Rời thiền viện, đi ngang qua cánh đồng cỏ có những bầy cừu trắng rất dễ thương. Mấy bạn cưỡi ngựa giữ cừu làm nhớ cảnh “thả ngựa chăn dê” thuở nào xưa.
Đi theo quốc lộ 52, qua Bưng Riềng, vượt khu rừng Nguyên sinh xưa từng có voi, cọp… thong dong qua lại. Ghé ăn sáng, cafe ở quán Vên Vên nhiều cây cao bóng cả, suối róc rách, gặp Tr chủ nhân ngồi thiền mòn cục đá bên bờ suối…
Rồi dọc theo đường biển vùng Hồ Tràm, Suối Nước Nóng Bình Châu, Láng Găng, Rừng Khỉ, đi ngang Tân Thắng (Phò Trì, vùng tản cư xưa quen thuộc lúc nhỏ của mình). Cách Lagi 7km có biển Cam Bình, khu du lịch nhộn nhịp hiện nay, có nhiều món hải sản tươi ngon và giá rẻ nên đông khách. Ở đó, nếu có thì giờ, đi xe bò dạo biển, đến Cocobeach tham quan. Về Lagi thì phải ghé qua nhà mình một chút. Năm xưa, Lữ Kiều, Lữ Quỳnh đã từng ghé, ngủ lại vài đêm. Nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo thì tạt ngang chỉ kịp ghé uống trái dừa xiêm ngọt lịm hơn mười năm trước. Ca sĩ Thu Vàng vừa rồi, trước khi “ra đi” cũng đã có dịp ghé lại một lần cùng với TTM-TH, LKT-KQ. Dĩ nhiên, phải tạt qua Đập Đá Dựng để biết tại sao đá lại dựng. Ngồi đó, nhấm nháp cafe và nghe mình kể chuyện hồi nhỏ tắm truồng cùng bè bạn trên dòng sông này vậy.
Từ đó, có thể đi ngang Bàu Giòi về Dinh Thầy Thím hoặc đi dọc biển, ngang khu vực Nước Nhỉ, nơi có Giếng Nguồn Chung xưa của nhóm hướng đạo Lagi (giờ chẳng còn dấu vết!). Ghé Dốc Trâu. Ôi vô số là thuyến thúng. Trước kia gọi là thúng chai. Nay sơn xanh đỏ coi cũng ngộ. Xa xa là Hòn Bà. Ở Dốc Trâu ăn cơm trưa cũng tốt. Nếu không, ghé qua Ngãnh, có quán cơm quen. Gần đó là ngôi mộ của nhà văn Nguiễn Ngu Í, ông cậu mình, gốc Tam Tân (nay là Tân hải) ở đây. Resort Mõm Đá Chim, có những gọp đá cũng khá đẹp. Vùng này là quê ngoại của mình mà!
Có thể ghé nhà xưa của ngoại, giờ con cháu toàn trồng thanh long, phá hết cả vườn trầu cau, dừa chuối, bưởi cam… xinh đẹp ngày xưa, lấp cả giếng nước thiệt là quá uổng. Không xa là núi Tà Cú với chùa Linh sơn Trường thọ tự, nổi tiếng với tượng Phật nằm dài 49m.
Từ đó, đi về hướng Kê Gà, ngôi Hải đăng xưa nhất, cao nhất vùng nam Trung bộ này. Trước đây có thể đi thuyền thúng ra thăm, leo lên tận nóc được. Rồi đi dọc biển qua vùng Đá Nhảy. Đá cứ chồm chồm lên khá lạ lùng!
Đến Phan Thiết rồi đó. Nhớ ăn bánh căn, nhớ ăn chè Mộng Cầm, nhớ món trà lipton tự pha ở một quán nước ven biển với cam, chanh, quất, xí muội, táo tàu, cam thảo khá lạ, và rất ngon không thấy đâu có.
Đường về Mũi Né giờ đã rất tốt, vượt những rặng đồi cao, lũng sâu, từ đó, nhìn thấy cả một vùng Rạng, Mũi Né xưa, vũng an bình cho thuyền bè núp gió, nay đầy nhưng resorts khu nghỉ dưỡng nổi tiếng.
Từ Mũi Né sẽ đi thăm Bàu Trắng, Bàu Sen. Sẽ ghé quán cơm NC, nhìn những chiếc lá bàng thủng nắng… Sẽ thấy cảnh hoang sơ của biển, của đồi, của thảo nguyên mênh mông. Sẽ thấy đảo Rùa bơ vơ…
Trên đường về lại Saigon, thì nên đi theo Quốc lộ 1 để ghé thăm núi Chứa Chan, ghé chùa Lan Nhã ở Suối Tre Long Khánh, có thì giờ nữa thì nằm võng uống nước dừa ở hồ Suối Tre…
Một chuyến đi lang thang như vậy mà chỉ để thấy núi, thấy rừng, thấy biển, thấy sông, thấy suối, thấy hồ… vậy thôi sao?
Chỉ vậy thôi vậy.
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
October 4, 2018
Kỳ 38: Phật Học & Đời Sống
Kỳ 38: Phật Học & Đời Sống
Chùa Phật học Xá Lợi, Tp.HCM 29.9.2018
“TỤNG KINH, NIỆM PHẬT, TRÌ CHÚ”… Thế Nào? (tiếp theo).
Xin tham khảo video clip vừa gởi đến.
Đa tạ nvquyen.
Bs Đỗ Hồng Ngọc.
……………………………………………………………………………………..
Sinh hoạt “Phật Học & Đời Sống” kỳ 39
Từ 15h-16h30 ngày Thứ bảy 6.10.2018
tại Chùa Phật học Xá Lợi Saigon,
89 Bà Huyện Thanh Quan, Quận 3, Tp.HCM
Chủ đề: “TUNG KINH, NIỆM PHẬT, TRÌ CHÚ…” Thế Nào? (tiếp theo)
Thân mời các bạn tham dự.
Trân trọng,
ĐHN
October 1, 2018
Thư đi tin lại: vài bìa sách cũ gởi anh Hai Trầu
Thư đi tin lại
Vài bìa sách cũ gởi anh Hai Trầu
30.9.2018
Anh Hai Trầu ơi,
Tôi xin mạn phép anh “trích đoạn” là thư văn nghệ đầy tình cảm của anh gởi “hồi âm Thư gởi bạn xa xôi” của tôi để đưa lên dohongngoc.com chia sẻ cùng bạn bè nhé. Nhiều chuyện hơi riêng tư tụi mình, tôi xin phép anh lược bớt như chuyện đi thăm mộ Thầy Nguyễn Hiến Lê, chuyện anh tìm về địa chỉ bán sách ngày xưa của chị HT… một chiều mưa Saigon tầm tả.
Tôi thấy anh có hỏi các tác phẩm đã in của tôi, thật tình đến nay khá là nhiều, có khi quên cả tựa, quên cả năm xuất bản… Tựu trung gồm 3 nhóm: 1) Thơ văn; 2) Y học phổ cập; 3) Phật học. Thôi thì cũng ráng lục tìm gởi anh cho vui.
Sẵn dịp kèm thêm ít thông tin “cập nhật” trong Một Chút Tôi nữa đây nhé. Để làm kỷ niệm.
Thân mến,
ĐHN
……………………………………………………………………………..
30.9.2018
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc thân mến,
Cảm ơn Bác sĩ giới thiệu thư hồi âm vừa rồi. Vâng, mình có thể bỏ bớt vài chỗ cho gọn vì người già thường hay kể chuyện lòng vòng, kể hoài hổng hết Bác sĩ ơi! Rồi tới một lúc, như trong Già Sao Cho Sướng, bác sĩ có nói người già sẽ tới thời kỳ bị lú lẫn nữa…
hai trầu
……………………………………………………………………………
1.10.2018
Kính chào Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc,
Tôi vừa tóm lược lại, bổ túc thêm vài cuốn bác sĩ còn bỏ sót như “Có Một Con Mọt Sách”, “Chuyện trò về Nếp Sống An Lạc” và sắp lại theo thứ tự thời gian xuất bản và gởi lại Bác sĩ để tiện dụng.
Với 50 cuốn sách như vừa lược kết , trong đó có nhiều cuốn tái bản rất nhiều kỳ, như cuốn Nghĩ Từ Trái Tim viết về Tâm Kinh Bát Nhã (2003) đã tái bản đến lần thứ 14 (hôm tôi thấy ở nhà sách Nguyễn Huệ), và cuốn “Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng” – tái bản hàng năm từ 1974 đến nay- là biết bao tâm huyết và công sức mà Bác sĩ đã để vào chẳng những là công trình nghiên cứu, tìm tòi của Bác sĩ qua 50/60 năm kinh nghiệm trong nghề, trong đời sống chính mình mà còn là những bài học rất cần yếu cho hết thảy bạn đọc đã từng đọc và sẽ đọc sách của Bác sĩ sau này nữa.
(…).
Thân mến,
Hai Trầu
TÁC PHẨM CỦA BÁC SĨ ĐỖ HỒNG NGỌC
(Lương Thư Trung ghi nhận, 2018)
Thơ:
1/ Tình Người (1967)
2/ Thơ Đỗ Nghê (1973)
3/ Giữa hoàng hôn xưa (1993)
4/ Vòng quanh (1997)
5/ Thư cho bé sơ sinh & những bài thơ khác (2010)
6/ Thơ Ngắn Đỗ Nghê (2017)
Tạp văn, Tùy bút:
1/ Gió heo may đã về (1997)
2/ Già ơi…Chào bạn! (1999)
3/ Những người trẻ lạ lùng (2001)
4/ Thầy thuốc & Bệnh nhân (2001)
5/ Như ngàn thang thuốc bổ (2001)
6/ Cành mai sân trước (tuyển tập, 2003)
7/ Thư gởi người bận rộn (2005)
8/ Khi người ta lớn (2007)
9/ Như thị (2007)
10/ Chẳng cũng khoái ru?(2008)
11/ Nhớ đến một người (2011)
12/ Thư gởi người bận rộn 2 (2011)
13/ Ăn vóc học hay (2011)
14/ Ghi chép lang thang (2014)
15/ Già sao cho sướng? (2015)
16/ Có một con mọt sách (2015)
17/ Một hôm gặp lại (2016)
18/ Chuyện trò với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc về Nếp Sống An Lạc (2016)
Phật Học:
1/ Nghĩ từ trái tim (về Tâm Kinh Bát Nhã, 2003)
2/ Gươm báu trao tay (về kinh Kim Cang, 2008)
3/ Handing down precious sword (bản dịch tiếng Anh, 2015)
4/ Thấp thoáng lời Kinh (2012)
5/ Thiền và Sức khỏe (2013)
6/ Ngàn cánh sen xanh biếc (về kinh Pháp Hoa, 2014)
7/ Cõi Phật đâu xa (về kinh Duy Ma Cật, 2016)
8/ Thoảng Hương Sen (2018)
Y học phổ cập:
1/ Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò (1972)
2/ Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng (1974)
3/ Chăm sóc Trẻ từ sơ sinh đến 3 tuổi (1978)
4/ Những bệnh nguy hiểm thường gặp ở trẻ em (1980)
5/ Săn sóc Trẻ bệnh (1980)
6 /Làm sao để bé được khỏe mạnh và sáng dạ?(1985)
7/ Săn sóc con em nơi xa thầy thuốc (1986)
8/ Nuôi con (1988)
9/ Nói chuyện sức khỏe với tuổi mới lớn (1989)
10/ Bệnh ở tuổi hoc trò (1990)
11/ Sức khỏe trẻ em (1991)
12/ Viết cho Tuổi mới lớn (1995)
13/ Câu chuyện Sức khỏe (1996)
14/ Với tuổi mười lăm (1997)
15/ Bỗng nhiên mà họ lớn (2000)
16/ Bác sĩ và những câu hỏi của tuổi mới lớn (2003)
17/ Tuổi mới lớn (tuyển tập, 2005)
18/ Khi người ta lớn (2011)
Ghi chú (1.10.2018):
Anh Hai Trầu ơi,
Cảm ơn anh Hai đã chịu khó ngồi tập hợp và sắp xếp lại giùm các tựa sách của tôi theo thứ tự thời gian cho dễ tìm chớ tôi lâu nay bỏ bê tùm lum, “có mới nới cũ” anh ơi! Sẵn dịp này, tôi tìm lại được một ít cuốn xưa xưa và chụp hình bìa gởi anh coi chơi đây, như một kỷ niệm.
Chuyện vui là thời “xa xưa” đó, như cuốn Những bệnh nguy hiểm thường gặp ở trẻ em (1980); Săn sóc Trẻ bệnh (1980)… mỗi lần KHPT in cả 80.000 cuốn, giá 7đ/cuốn. Tái bản khá nhiều lần, có lẽ đến nửa triệu bản anh à! Còn cuốn Làm sao để bé được khỏe mạnh và sáng dạ?(1985) Nxb in lần đầu đã 55.200 cuốn, giá 25đ/cuốn,tái bản mấy đợt. Cuốn Bệnh ở tuổi hoc trò (1990) mỗi lần in cả 10.100 cuốn, giá 60đ/cuốn!
Thời bây giờ thì in vài ba ngàn là quý rồi! Sách tôi được các Nhà xuất bản gọi là “long seller”, có nghĩa là bán… dài dài, thỉnh thoảng mới có một cuốn “best seller” như Gió heo may đã về, Nghĩ từ trái tim… anh à! Nếu mà tác quyền “ngon lành” thì mình khá rồi!
Thôi, người già mình nói chuyện xưa, vui thôi vậy.
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
Đỗ Hồng Ngọc's Blog
- Đỗ Hồng Ngọc's profile
- 12 followers

