Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 57
December 31, 2018
“Về thu xếp lại” tập II: GHI CHÉP LANG THANG
“Về thu xếp lại” Tập II
GHI CHÉP LANG THANG
Đọc vui ngày Tết.
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
Ghi chép lang thang
Chú ý; Dưới trang sách, góc trái, có mũi tên trắng, bấm vào để đọc tiếp trang sau hay lùi lại.
December 29, 2018
Hai Trầu: Đọc lại “Nếp Sống An Lạc” của Bs ĐHN
Đọc lại “NẾP SỐNG AN LẠC”
của Bs ĐỖ HỒNG NGỌC
Thế là thêm một lần nữa năm lại sắp hết, có nghĩa là người thì cũ nhưng tuổi đời lại sắp thêm một tuổi mới nữa rồi! Làm sao mà có một “nếp sống an lạc” được đây! Thôi thì, chi bằng nói dong nói dài, hổng gì hơn là tôi thử ngồi xuống đọc lại tác phẩm “Nếp Sống An Lạc” của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc xem sao!
Tôi thường nghe trong dân gian hay nói “an bần lạc đạo”, hoặc “an cư lạc nghiệp”, tức là hai cặp thành ngữ ấy đều có mấy chữ “an lạc” đi kèm. An bần lạc đạo, thường được hiểu một cách nôm na là yên phận nghèo mà vui với lẽ trời hoặc chịu phận nghèo mà vui vẻ để mà sống, không oán người cũng như không trách trời. Nguyễn Công Trứ trong bài Hàn Nho Phong Vị Phú có câu:
“Cùng con cháu thuở nói năng chuyện cũ,
Dường ngâm câu lạc đạo vong bần;
Gặp anh em khi bàn bạc sự đời,
Lại đọc chữ vi nhân bất phú.”
Còn an cư lạc nghiệp là thời thái bình ai nấy đều ở yên chỗ ở của mình và vui với nghề nghiệp của mình như trong thơ xưa có câu:
“Thời thịnh trị an cư lạc nghiệp,
Khắp muôn nhà đều hát khúc hoan ca.”
Ngoài ra, mỗi lần chuẩn bị bước sang một năm mới, người ta cũng thường gởi lời chúc cho bạn bè thân thiết lời cầu chúc “Thân tâm thường an lạc”, như vậy với ý nghĩa gì? Thật tình ra, tôi đôi lúc cũng hiểu mấy chữ “Thân tâm thường an lạc” hay nói gọn là “Thân tâm an lạc” một cách lờ mờ lắm! Đại khái là con người có hai phần, một là thể xác, thuộc về thân thể, vật chất; hai là tinh thần gồm cái tâm và cái tình cảm của mình. Hai chữ thân và tâm ấy nó ở cùng trong một con người, không tách rời được! Vậy thì muốn được an lạc thì phải làm sao? Có phải cùng một lúc mình làm cho cái thân vui, đồng thời cũng làm cho cái tâm vui nữa không?
Vậy, xin mời bạn thử theo Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, qua tác phẩm Nếp Sống An Lạc, để coi cuộc đời này có gì vui! Sách “Nếp Sống An Lạc” (với cái tựa sách đầy đủ là “Trò chuyện với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc về nếp sống an lạc”, đây là một tập tài liệu tập họp các bà nói chuyện của tác giả như trong lời tựa: “Mấy năm gần đây, tôi thường được mời nói chuyện về “Một nếp sống An lạc” ở nơi này nơi khác. Có khi ở một ngôi chùa, có khi ở một trung tâm mục vụ, có khi ở một hội quán, câu lạc bộ doanh nhân, một nhóm bạn trẻ, hoặc cùng các bậc trí thức…”(NSAL, trang 7)
Nhìn một cách tổng quát, tác giả nhắc cho bạn đọc đến bốn lượt hai chữ “hạnh phúc”; như vậy, dù muốn dù không, hai chữ “hạnh phúc” cũng có thể là một trong những yếu tố đầu tiên và cuối cùng mà tác giả muốn bàn trong các chủ đề trọng yếu của cuốn sách, giúp cho mỗi người trong chúng ta có thể sống với một nếp sống an lạc sao cho hạnh phúc. Chẳng hạn, ngay ở chương đầu: “Một nếp sống hạnh phúc”, trước tiên người đọc sẽ rất thú vị khi gặp ngay sự phân biệt của tác giả khá chi tiết thế nào là nếp sống và không hẹp hòi gì, tác giả minh định liền:
“Khi tôi nói “một nếp sống” cũng có nghĩa là chúng ta có thể có rất nhiều nếp sống hạnh phúc khác nhau: có người chọn “nếp” này, người chọn “nếp” kia, không chắc nếp sống của người này là đúng hơn của người kia đâu.” (NSAL, trang 11)
Chính vì nếp sống hay cách sống mỗi người khác nhau như vậy nên hạnh phúc cũng vậy, mỗi người quan niệm hạnh phúc rất khác nhau. Và tác giả cũng nêu ra nhận định:
“Mỗi người hiểu hạnh phúc theo một cách riêng: Có người nghĩ hạnh phúc tức là làm được một cái gì đó thành công, có người thì nói chỉ cần tôi hơn người hàng xóm là tôi hạnh phúc rồi… Như vậy có rất nhiều thứ để người ta nhận định hạnh phúc là như thế nào. Cho nên nói về đề tài hạnh phúc là rất khó, mà tôi nói về một nếp sống hạnh phúc thì còn khó hơn nữa.” (NSAL, trang 14)
Trong đề mục này, tác giả dẫn ra bài ca dao:
“Tháng Giêng ăn Tết ở nhà,
Tháng Hai cờ bạc, tháng Ba hội hè,
Tháng Tư đong đâu nấu chè,
Ăn Tết Đoan Ngọ trở về tháng Năm,
Tháng Sáu buôn nhãn bán trăm,
Tháng Bảy ngày rằm xóa tội vong nhân,
Tháng Tám chơi đèn kéo quân…”
Rồi tác giả nhận định: “Tức là cả năm chỉ thấy… vui chơi không! Vậy không phải “hạnh phúc” là gì! Rồi làm ruộng thì người xưa làm một mùa thôi nhưng cũng ăn đủ cả năm rồi, thành ra họ rất thảnh thơi, vui thú.” (NSAL, trang 14)
Vâng, về điểm này, tôi với tư cách là một người đọc nhà quê già, có một thời khá lâu tôi chứng kiến những năm còn làm lúa sạ, lúa mùa với mỗi năm chỉ làm một mùa lúa duy nhứt ở miệt Mặc Cần Dưng (Long Xuyên), tôi biết rất rõ bà con nông dân tay lắm chân bùn nhưng nhà nào cũng lúa đầy bồ, vui lắm! Đó là chưa kể tới mùa mưa bắt cá lên đồng; tới mùa nước lên giăng câu, giăng lưới; tới mùa nước gần giựt bắt chim lượm trứng trên cánh đồng lúa trổ đòng-đòng; tới mùa cá ra sông, cá dại, ôi thôi, cá tôm biết làm gì cho hết cá, hết tôm nổi đầy mặt nước và còn nhiều thú vui vơi mùa màng những ngày xa xưa ấy nữa; nên về điểm này tôi hoàn toàn đồng ý với tác giả là:“… làm ruộng thì người xưa làm một mùa thôi nhưng cũng ăn đủ cả năm rồi, thành ra họ rất thảnh thơi, vui thú.”
Để xác nhận người xưa “thảnh thơi, vui thú” hơn người nay, tác giả viết:
“Còn bây giờ chúng ta sống “hùng hục”, chúng ta làm đầu tắt mặt tối, từ sáng đến chiều, làm từ ngày này qua ngày khác, hết việc ở cơ quan, ở công ty rồi mang một đống việc về nhà làm tiếp. Cho nên dù bây giờ chúng ta có phương tiện dồi dào hơn, nhà cửa sang trọng hơn nhưng dường như lại thiếu hạnh phúc hơn người xưa.” (NSAL, trang 15)
Thưa vâng, về điểm này, tôi xin ghi thêm ở đây, chẳng phải chỉ đời sống ở thành thị như tác giả vừa lược kể thì sự bận rộn vốn phải chạy theo thời là như vậy đã đành; còn ở nông thôn, nơi mà ngày nay người nông dân phải làm ruộng mỗi năm lên tới ba mùa; hết mùa Đông Xuân, qua mùa Hè Thu, hết mùa Hè Thu lại sang tới mùa lúa lỡ kế tiếp nữa…
Do vậy, con người chạy theo thời không được nghỉ ngơi gì thì đã đành, mà đất đai cũng không được nghỉ ngơi để nhận lại phù sa cho mùa mới; mà làm gì có phù sa cho đất mầu mỡ khi người ta khôn lanh quá mức cứ lấy sức người đắp đập ngăn nước bốn mùa không cho nước lên đồng để tận dụng sức đất, chẳng những đất thì khô cằn, cá tôm cũng không có nước lấy gì mà sinh sôi nẩy nở để mà sống, cho chí đến cua ốc, cái loài sinh vật gần gũi với nhà nông nơi đồng ruộng cũng hổng có luôn nữa mà kết quả nhận lại được gì nếu không muốn nói là ngày nay ở nhà quê làm ruộng mỗi năm ba mùa, mỗi mùa ba tháng, mỗi tháng ba mươi ngày vậy mà rồi hổng có nhà nào có được một hột lúa để ví bồ, để dành ăn, chứ đừng nói gì lúa trăm, lúa thiên như hồi sáu bảy chục năm trước làm ruộng mỗi năm chỉ có một mùa mà lúa bồ, lúa lẫm! Rồi chắc bạn sẽ đặt câu hỏi: Sao lại có hiện tượng lạ như vậy được? Thưa bạn, có chứ!
Vì ngày nay người ta văn minh dữ lắm! Họ chế ra máy cắt, máy gặt, máy suốt lúa chung vô một cái máy thôi, hổng có kêu công cắt, công gặt gì ráo trọi! Thế là tới lúc lúa chín thì hẹn máy tới rồi chuẩn bị bao bị giao cho chủ máy họ cắt, họ suốt lúa và hứng lúa hột vô bao luôn; xong đâu đấy họ chở lúa ra tận bờ kinh và chủ ruộng ra bờ kinh có ghe mua lúa chờ sẵn và cứ cân lúa tươi lúa ướt mà tính tiền. Tiện lắm! Còn lúa đâu mà vô bồ vô lẫm gì nữa! Tiền bỏ túi chưa nóng bàn tay thì lại ma-róc trả tiền mua phân còn thiếu chịu, trả tiền máy cắt máy gặt vừa rồi, trả tiền thuốc sâu, phân bón mua chịu mấy tháng trước, trả tiền cày, tiền bừa, tiền trục, tiền trang đất cho bằng vân… vân…, trăm thứ tiền…, rồi lại vùi đầu lo làm mùa mới tiếp theo! Làm sao có thì giờ đâu mà nghỉ ngơi, an lạc, hạnh phúc?!?
Hồi đời xưa, một khoảng đất có tên là Đông Pha, nằm về phía đông của Hoàng Châu, Tô Đông Pha làm ruộng ở đó và ông có làm tám bài thơ thuật sự tại đây dể tả cảnh sinh hoạt thường ngày của mình, trong đó có bài thơ thứ V, ông có nhắc về việc làm ruộng:
“Lương nông tích địa lực
Hạnh thử thập niên hoang
Tang giá vị cập thành
Nhất mạch thử khả vọng…”
Tuệ Sỹ dịch:
“Nhà nông giỏi thì biết tiếc sức đất.
Đất này nhờ mười năm bỏ hoang
Dâu đỏ dâu đen chưa đến lúc lớn,
có thể mong được một mùa lúa mạch…”
Vâng làm ruộng mà không cho đất nghỉ, không “biết tiếc sức đất”, chẳng khác nào mình tự mang cái nghèo đeo lên cổ mình vậy!
Thưa bạn,
Thêm nữa, tôi cũng để ý thấy về việc sanh nở trong chương “Cân bằng cuộc sống”, tác giả vào đề một cách nhẹ nhàng nhưng vẫn gây cho người đọc theo dõi câu chuyện khá hồi hộp, vì vấn đề “cân bằng cuộc sống” nó liên hệ rất mật thiết đến hạnh phúc, đến an lạc chứ hổng chỉ là sống sao cũng được, cân bằng hay không cân bằng gì cũng được:
“Bây giờ có vẻ cuộc sống của chúng ta ngày càng thiếu cân bằng, thiếu cân bằng thì cuộc sống sẽ không hạnh phúc, không an lạc được.”(NSAL, trang 83)
Và tác giả có kể một câu chuyện thực tế để làm thí dụ về sự thiếu cân bằng cuộc sống, đó là việc sanh nở hồi đời trước và việc sanh đẻ ngày nay không còn giống nhau nữa:
“Năm 1986, khi tôi tới xã Hiệp Phước, huyện Nhà Bè thực hiện chương trình Chăm Sóc Sức Khỏe Ban Đầu (Primary Health Care) cùng với các đồng nghiệp của Sở Y Tế thành phố thì Hiệp Phước còn là một xã cù lao rất nghèo, chưa có công nghiệp hóa như bây giờ, lúc đó còn nhà quê lắm, phải đi xuồng qua sông chớ không có cầu như bây giờ. Ở đó bệnh sốt rét rất nhiều, rồi suy dinh dưỡng các thứ và nhất là tỉ lệ sanh đẻ rất cao. Sông nước chằng chịt, chưa có cầu đi lại nên nhiều khi người ta đẻ rớt trên thuyền. Hỏi người ta tại sao để bị sốt rét nhiều thì họ nói là họ có thói quen ngủ mùng nếp; ngủ mùng nếp có nghĩa là nhậu rượu đế vào rồi say nằm ở trần cứ thế mà ngủ nên muỗi đốt họ và gây bệnh sốt rét. Tỉ lệ phát triển dân số vùng này rất cao, hỏi tại sao thì họ trả lời là : “Tại vì ở đây không có cái gì vui hết chỉ có đẻ là vui thôi, cứ nhậu rồi đẻ…”(NSAL, trang 84).
Vậng, thưa bạn, cứ như cái lệ, chỗ nào càng buồn buồn, càng vắng vẻ thì chỗ đó dân số tăng lên. Chẳng hạn, đâu có khác gì chỗ xã Hiệp Phước ở Nhà Bè mà bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc nêu lên là dân số đông, mà dưới các làng quê miền Tây dưới chỗ tôi ở, hồi đời xưa cho chí đến mấy năm thập niên 1980-1990, bà con dưới quê còn thói quen sanh con nhiều lắm! Cặp vợ chồng nào cũng có tối thiểu năm ba đứa con; còn trước đó nữa, tức những năm 1940-1960, có nhiều cặp vợ chồng có tới bảy tám đứa con, có khi có cả chục đứa nữa; hết út mười, rồi đẻ thêm vai đứa nữa đặt tên Út Mười Một, Út Mười Hai cho đủ chục có đầu! Gia đình nào cũng đông rần-rần, rồ-rộ; gia đình nào cháu con cũng xôm tụ, vui lắm! Có khi, vô măm cơm phải nấu cơm bằng nồi gang, loại nồi số 10, hoặc số 12, sắp nhỏ ăn mới đủ!
Mất hào của đặng hào con cũng quý nhưng hơi chật vật vì phải lo miếng ăn, lo quần áo, lo nhà cửa cho có chỗ cho con cái ăn ở, vậy là chắc chưa an lạc được; nhưng nói như tác giả kể thì nhiều cặp vợ chồng muốn có con mà hổng có được, cứ làm vợ chồng son hoài, cũng chưa chắc là được an lạc, được hạnh phúc:
“Bây giờ tôi thấy nhiều người đẻ không được, vô sinh, đi thụ tinh nhân tạo rất là khổ; còn ngày xưa thì người ta sinh đẻ dễ dàng, thậm chí người ta còn bảo là con trai con gái đừng ngồi gần nhau, đừng nắm tay nhau, chỉ cần ngồi chung chiếu thôi là đã có bầu rồi.”(NSAL, trang 85).
Có lẽ ngày nay, nhiều người trẻ nghe bác sĩ nói hoặc đọc thấy như vậy chắc có là sẽ ngạc nhiên lắm; nhưng ở thế hệ của tôi, hồi sáu bảy chục năm về trước, tôi cũng tin như vậy và hổng dám nắm tay ai và cũng hổng dám ngồi gần ai!
Cân bằng cuộc sống mà tác giả nhấn mạnh trong Nếp Sống An Lạc, không chỉ cân bằng việc sanh sản, mà còn nhiều khía cạnh khác nữa. Đây là một vấn đề cấp thiết và khó vì cuộc sống theo phân tích của tác giả là bao gồm nhiều khía cạnh, nhưt là thời đại văn minh tiến bộ về kỹ thuật tân tiến của khoa học computer ngày nay, nó dễ gây ra nhiều hậu quả không phải ai cũng dễ nhận ra và tránh khỏi. Chẳng hạn dễ bị căng thẳng đầu óc, vợ chồng ít có thời giờ dành cho nhau vì mạnh ai nấy đi làm đầu tắt mặt tối suốt ngày này qua ngày khác; tình cảm giữa người này với người khác nói là thân nhưng lại rất hời hợt, và nếu không muốn nói là đôi khi rất mất lịch sự theo cái nhìn của người già. Chẳng hạn, nói là rủ nhau ra uống cà phê nhưng những người bạn ngồi chung bàn chẳng ai nói với ai lời nào mà cứ chăm chú theo dõi cái điện thoại cầm tay coi ai gởi tin nhắn, hoặc ai gởi email, etc… mà hổng để ý gì đến người bạn ngồi bên cạnh mình có khi khá lâu mới được gặp lại nhau! Tác giả than với trang sách nhưng mà người đọc già nhà quê như tôi nghe ra cũng thấy rất đau lòng:
“Trái đất còn như một hòn bi thôi, rất gần gũi. Mình gửi email, bấm một cái là ở bên kia nửa vòng trái đất bạn mình nhận được trong vòng chưa tới một giây. Mình thấy như vậy là hạnh phúc nhưng nó cũng có mặt trái. Phương tiện kỹ thuật có vẻ như giúp mình gần nhau nhưng thiệt ra thì xa nhau hơn; chẳng hạn như cả nhóm bạn ngồi bên nhau, nhưng mỗi người một cái máy di động, vui cười trò chuyện với một người khác ở phương trời nào đó…” (NSAL, trang 87)
Ở chỗ khác trong chương “Cân bằng cuộc sống” với giọng văn như một người bạn, mà cũng là một vì thầy thuốc, tác giả từ từ hỏi và kể lại rất ân cần, mà tôi nghĩ anh bạn nào được tác giả hỏi như vậy chắc là vừa ngại ngùng vừa e thẹn dữ lắm, nếu nghe được lời khuyên của tác giả:
“Tôi thấy có nhiều bạn trẻ mời tôi đi ăn trưa mà mỗi người rút trong túi ra một cái hộp có 6-7 món thuốc để uống một cách tự nhiên, thành phản xạ. Tôi hỏi uống thuốc gì vậy thì các bạn kêu là uống thuốc bổ, tôi mới hỏi uống làm gì vậy, mình đâu có thiếu đâu mà uống, mình phải thiếu thì mới cần bổ chứ, đàng này thấy người ta uống mình cũng uống, vừa tốn tiền vừa vô ích.”(NSAL, trang 106)
Ở chương “Có một con đường hạnh phúc”, tác giả mở đầu:
“Đây là lần đầu tiên tôi đến đây, cũng là lần đầu tiên tôi nhận được một lúc hai bó hoa, thường thường có một bó; thành ra đó là một điều rất đặc biệt, rõ ràng là không cần đi tìm hạnh phúc đâu nữa, đây là một niềm hạnh phúc rồi.”(NSAL, trang 117)
Biết rằng, muốn định nghĩa thế nào là hạnh phúc rất là khó, tác giả đã vào đề một cách vừa trực diện mà cũng vừa mở ra một ý niệm rất bao quát về hai chữ “hạnh phúc”; theo đó, người nhận là tác giả đã nhận ra mình nhận được một lần được tặng hai bó hoa là “một niềm hạnh phúc rồi”, và ngược lại, những người tặng hoa cho diễn giả khi được diễn giả nói lên như thế, họ có biết rằng họ cũng hạnh phúc lắm không?
Sở dĩ, tôi có suy nghĩ ấy vì rằng, đôi lúc có người mang tặng cho người khác một món quà đơn sơ nào đó, hoặc một vật nào đó mà họ để hết tấm lòng của họ vào món quà ấy mà người nhận lại vô tình hờ hững không nhận ra tấm lòng của anh bạn mình, thì dĩ nhiên người tặng quà chắc cũng kém vui; mà đã gọi là kém vui thì làm sao mà hạnh phúc cho được! Phải vậy hông? Do vậy mà hạnh phúc là một hiện tượng tương tác, cộng hưởng giữa người này với người khác trong cuộc sống; chứ một mình mình thôi thì khó có hạnh phúc lắm!
Trở lại trong chương này, như tác giả mở đầu với đề nghị “Chúng ta nói chuyện hai chiều chứ không phải một mình tôi nói”, với những câu hỏi của người nghe và câu trả lời của diễn giả; gồm cả thảy sáu khách mời đặt câu hỏi và tác giả là diễn giả giải đáp những câu hỏi bao quanh vấn đề hai chữ “hạnh phúc” một cách rành mạch, lôi cuốn, hấp dẫn…
Đỗ Hồng Ngọc và Hai Trầu tại Hồ Kỳ Hòa, Saigon 2917.
Hồi năm ngoái, tháng 6 năm 2017, tôi đã đọc tác phẩm Nếp Sống An Lạc của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc dịp lần đầu tiên ghé thăm anh ở hồ sen Kỳ Hòa (Sài Gòn) anh có nhã ý ký tặng; nay sau hơn một năm, vào những ngày cuối năm 2018, tôi ngồi đọc lại và ghi vội mấy hàng này với một tâm cảm rất vui và hạnh phúc khi nhớ lại lần gặp tác giả lần đầu ấy, mặc dù không có thời giờ nhiều mà trời lại cứ mưa nữa, những chiếc lá sen trên mặt hồ hứng đầy những giọt nước mưa long lanh trong vắt, mà gốc phượng già xa xa bên kia bờ hồ đứng lặng trong mưa là những hình ảnh mà tôi cho là đẹp và hạnh phúc giữa một khung cảnh thân ái với tác giả và gần gũi giữa Sài Gòn. Không biết nói gì hơn là tôi xin chân thành đa tạ Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, tác giả Nếp Sống An Lạc, đã thân ái tặng cho tôi những giây phút vô cùng an lạc và hạnh phúc ở những ngày tuổi già của tôi từ hồi năm ngoái tơi nay rồi vậy!
Hai Trầu
Houston, ngày 28 tháng 12 năm 2018
ĐỌC LẠI “NẾP SỐNG AN LẠC”
CỦA BÁC SĨ ĐỖ HỒNG NGỌC
Thế là thêm một lần nữa năm lại sắp hết, có nghĩa là người thì cũ nhưng tuổi đời lại sắp thêm một tuổi mới nữa rồi! Làm sao mà có một “nếp sống an lạc” được đây! Thôi thì, chi bằng nói dong nói dài, hổng gì hơn là tôi thử ngồi xuống đọc lại tác phẩm “Nếp Sống An Lạc” của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc xem sao!
Bìa sách Nếp Sống An Lạc của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, nhà xuất bản Văn Hóa & Văn Nghệ, tái bản lần thứ nhất, năm 2017.
Tôi thường nghe trong dân gian hay nói “an bần lạc đạo”, hoặc “an cư lạc nghiệp”, tức là hai cặp thành ngữ ấy đều có mấy chữ “an lạc” đi kèm. An bần lạc đạo, thường được hiểu một cách nôm na là yên phận nghèo mà vui với lẽ trời hoặc chịu phận nghèo mà vui vẻ để mà sống, không oán người cũng như không trách trời. Nguyễn Công Trứ trong bài Hàn Nho Phong Vị Phú có câu:
“Cùng con cháu thuở nói năng chuyện cũ,
Dường ngâm câu lạc đạo vong bần;
Gặp anh em khi bàn bạc sự đời,
Lại đọc chữ vi nhân bất phú.”
Còn an cư lạc nghiệp là thời thái bình ai nấy đều ở yên chỗ ở của mình và vui với nghề nghiệp của mình như trong thơ xưa có câu:
“Thời thịnh trị an cư lạc nghiệp,
Khắp muôn nhà đều hát khúc hoan ca.”
Ngoài ra, mỗi lần chuẩn bị bước sang một năm mới, người ta cũng thường gởi lời chúc cho bạn bè thân thiết lời cầu chúc “Thân tâm thường an lạc”, như vậy với ý nghĩa gì? Thật tình ra, tôi đôi lúc cũng hiểu mấy chữ “Thân tâm thường an lạc” hay nói gọn là “Thân tâm an lạc” một cách lờ mờ lắm! Đại khái là con người có hai phần, một là thể xác, thuộc về thân thể, vật chất; hai là tinh thần gồm cái tâm và cái tình cảm của mình. Hai chữ thân và tâm ấy nó ở cùng trong một con người, không tách rời được! Vậy thì muốn được an lạc thì phải làm sao? Có phải cùng một lúc mình làm cho cái thân vui, đồng thời cũng làm cho cái tâm vui nữa không?
Vậy, xin mời bạn thử theo Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, qua tác phẩm Nếp Sống An Lạc, để coi cuộc đời này có gì vui! Sách “Nếp Sống An Lạc” (với cái tựa sách đầy đủ là “Trò chuyện với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc về nếp sống an lạc”, đây là một tập tài liệu tập họp các bà nói chuyện của tác giả như trong lời tựa: “Mấy năm gần đây, tôi thường được mời nói chuyện về “Một nếp sống An lạc” ở nơi này nơi khác. Có khi ở một ngôi chùa, có khi ở một trung tâm mục vụ, có khi ở một hội quán, câu lạc bộ doanh nhân, một nhóm bạn trẻ, hoặc cùng các bậc trí thức…”(NSAL, trang 7)
Quyển sách gồm 212 trang, cả thảy có sáu chương:
-Một nếp sống hạnh phúc.
-Để thân tâm an lạc.
-Cân bằng cuộc sống.
-Có một con đường hạnh phúc.
–Hạnh phúc đến từ … ruột già.
-Làm sao để có tuổi già hạnh phúc.
Nhìn một cách tổng quát, qua sáu chương sách vừa nêu, tác giả nhắc cho bạn đọc đến bốn lượt hai chữ “hạnh phúc”; như vậy, dù muốn dù không, hai chữ “hạnh phúc” cũng có thể là một trong những yếu tố đầu tiên và cuối cùng mà tác giả muốn bàn trong các chủ đề trọng yếu của cuốn sách, giúp cho mỗi người trong chúng ta có thể sống với một nếp sống an lạc sao cho hạnh phúc. Chẳng hạn, ngay ở chương đầu: “Một nếp sống hạnh phúc”, trước tiên người đọc sẽ rất thú vị khi gặp ngay sự phân biệt của tác giả khá chi tiết thế nào là nếp sống và không hẹp hòi gì, tác giả minh định liền:
“Khi tôi nói “một nếp sống” cũng có nghĩa là chúng ta có thể có rất nhiều nếp sống hạnh phúc khác nhau: có người chọn “nếp” này, người chọn “nếp” kia, không chắc nếp sống của người này là đúng hơn của người kia đâu.” (NSAL, trang 11)
Chính vì nếp sống hay cách sống mỗi người khác nhau như vậy nên hạnh phúc cũng vậy, mỗi người quan niệm hạnh phúc rất khác nhau. Và tác giả cũng nêu ra nhận định:
“Mỗi người hiểu hạnh phúc theo một cách riêng: Có người nghĩ hạnh phúc tức là làm được một cái gì đó thành công, có người thì nói chỉ cần tôi hơn người hàng xóm là tôi hạnh phúc rồi… Như vậy có rất nhiều thứ để người ta nhận định hạnh phúc là như thế nào. Cho nên nói về đề tài hạnh phúc là rất khó, mà tôi nói về một nếp sống hạnh phúc thì còn khó hơn nữa.” (NSAL, trang 14)
Trong đề mục này, tác giả dẫn ra bài ca dao:
“Tháng Giêng ăn Tết ở nhà,
Tháng Hai cờ bạc, tháng Ba hội hè,
Tháng Tư đong đâu nấu chè,
Ăn Tết Đoan Ngọ trở về tháng Năm,
Tháng Sáu buôn nhãn bán trăm,
Tháng Bảy ngày rằm xóa tội vong nhân,
Tháng Tám chơi đèn kéo quân…”
Rồi tác giả nhận định: “Tức là cả năm chỉ thấy… vui chơi không! Vậy không phải “hạnh phúc” là gì! Rồi làm ruộng thì người xưa làm một mùa thôi nhưng cũng ăn đủ cả năm rồi, thành ra họ rất thảnh thơi, vui thú.” (NSAL, trang 14)
Vâng, về điểm này, tôi với tư cách là một người đọc nhà quê già, có một thời khá lâu tôi chứng kiến những năm còn làm lúa sạ, lúa mùa với mỗi năm chỉ làm một mùa lúa duy nhứt ở miệt Mặc Cần Dưng (Long Xuyên), tôi biết rất rõ bà con nông dân tay lắm chân bùn nhưng nhà nào cũng lúa đầy bồ, vui lắm! Đó là chưa kể tới mùa mưa bắt cá lên đồng; tới mùa nước lên giăng câu, giăng lưới; tới mùa nước gần giựt bắt chim lượm trứng trên cánh đồng lúa trổ đòng-đòng; tới mùa cá ra sông, cá dại, ôi thôi, cá tôm biết làm gì cho hết cá, hết tôm nổi đầy mặt nước và còn nhiều thú vui vơi mùa màng những ngày xa xưa ấy nữa; nên về điểm này tôi hoàn toàn đồng ý với tác giả là:“… làm ruộng thì người xưa làm một mùa thôi nhưng cũng ăn đủ cả năm rồi, thành ra họ rất thảnh thơi, vui thú.”
Để xác nhận người xưa “thảnh thơi, vui thú” hơn người nay, tác giả viết:
“Còn bây giờ chúng ta sống “hùng hục”, chúng ta làm đầu tắt mặt tối, từ sáng đến chiều, làm từ ngày này qua ngày khác, hết việc ở cơ quan, ở công ty rồi mang một đống việc về nhà làm tiếp. Cho nên dù bây giờ chúng ta có phương tiện dồi dào hơn, nhà cửa sang trọng hơn nhưng dường như lại thiếu hạnh phúc hơn người xưa.” (NSAL, trang 15)
Thưa vâng, về điểm này, tôi xin ghi thêm ở đây, chẳng phải chỉ đời sống ở thành thị như tác giả vừa lược kể thì sự bận rộn vốn phải chạy theo thời là như vậy đã đành; còn ở nông thôn, nơi mà ngày nay người nông dân phải làm ruộng mỗi năm lên tới ba mùa; hết mùa Đông Xuân, qua mùa Hè Thu, hết mùa Hè Thu lại sang tới mùa lúa lỡ kế tiếp nữa…
Do vậy, con người chạy theo thời không được nghỉ ngơi gì thì đã đành, mà đất đai cũng không được nghỉ ngơi để nhận lại phù sa cho mùa mới; mà làm gì có phù sa cho đất mầu mỡ khi người ta khôn lanh quá mức cứ lấy sức người đắp đập ngăn nước bốn mùa không cho nước lên đồng để tận dụng sức đất, chẳng những đất thì khô cằn, cá tôm cũng không có nước lấy gì mà sinh sôi nẩy nở để mà sống, cho chí đến cua ốc, cái loài sinh vật gần gũi với nhà nông nơi đồng ruộng cũng hổng có luôn nữa mà kết quả nhận lại được gì nếu không muốn nói là ngày nay ở nhà quê làm ruộng mỗi năm ba mùa, mỗi mùa ba tháng, mỗi tháng ba mươi ngày vậy mà rồi hổng có nhà nào có được một hột lúa để ví bồ, để dành ăn, chứ đừng nói gì lúa trăm, lúa thiên như hồi sáu bảy chục năm trước làm ruộng mỗi năm chỉ có một mùa mà lúa bồ, lúa lẫm! Rồi chắc bạn sẽ đặt câu hỏi: Sao lại có hiện tượng lạ như vậy được? Thưa bạn, có chứ!
Vì ngày nay người ta văn minh dữ lắm! Họ chế ra máy cắt, máy gặt, máy suốt lúa chung vô một cái máy thôi, hổng có kêu công cắt, công gặt gì ráo trọi! Thế là tới lúc lúa chín thì hẹn máy tới rồi chuẩn bị bao bị giao cho chủ máy họ cắt, họ suốt lúa và hứng lúa hột vô bao luôn; xong đâu đấy họ chở lúa ra tận bờ kinh và chủ ruộng ra bờ kinh có ghe mua lúa chờ sẵn và cứ cân lúa tươi lúa ướt mà tính tiền. Tiện lắm! Còn lúa đâu mà vô bồ vô lẫm gì nữa! Tiền bỏ túi chưa nóng bàn tay thì lại ma-róc trả tiền mua phân còn thiếu chịu, trả tiền máy cắt máy gặt vừa rồi, trả tiền thuốc sâu, phân bón mua chịu mấy tháng trước, trả tiền cày, tiền bừa, tiền trục, tiền trang đất cho bằng vân… vân…, trăm thứ tiền…, rồi lại vùi đầu lo làm mùa mới tiếp theo! Làm sao có thì giờ đâu mà nghỉ ngơi, an lạc, hạnh phúc?!?
Hồi đời xưa, một khoảng đất có tên là Đông Pha, nằm về phía đông của Hoàng Châu, Tô Đông Pha làm ruộng ở đó và ông có làm tám bài thơ thuật sự tại đây dể tả cảnh sinh hoạt thường ngày của mình, trong đó có bài thơ thứ V, ông có nhắc về việc làm ruộng:
“Lương nông tích địa lực
Hạnh thử thập niên hoang
Tang giá vị cập thành
Nhất mạch thử khả vọng…”
Tuệ Sỹ dịch:
“Nhà nông giỏi thì biết tiếc sức đất.
Đất này nhờ mười năm bỏ hoang
Dâu đỏ dâu đen chưa đến lúc lớn,
có thể mong được một mùa lúa mạch…”
Vâng làm ruộng mà không cho đất nghỉ, không “biết tiếc sức đất”, chẳng khác nào mình tự mang cái nghèo đeo lên cổ mình vậy!
Thưa bạn,
Thêm nữa, tôi cũng để ý thấy về việc sanh nở trong chương “Cân bằng cuộc sống”, tác giả vào đề một cách nhẹ nhàng nhưng vẫn gây cho người đọc theo dõi câu chuyện khá hồi hộp, vì vấn đề “cân bằng cuộc sống” nó liên hệ rất mật thiết đến hạnh phúc, đến an lạc chứ hổng chỉ là sống sao cũng được, cân bằng hay không cân bằng gì cũng được:
“Bây giờ có vẻ cuộc sống của chúng ta ngày càng thiếu cân bằng, thiếu cân bằng thì cuộc sống sẽ không hạnh phúc, không an lạc được.”(NSAL, trang 83)
Và tác giả có kể một câu chuyện thực tế để làm thí dụ về sự thiếu cân bằng cuộc sống, đó là việc sanh nở hồi đời trước và việc sanh đẻ ngày nay không còn giống nhau nữa:
“Năm 1986, khi tôi tới xã Hiệp Phước, huyện Nhà Bè thực hiện chương trình Chăm Sóc Sức Khỏe Ban Đầu (Primary Health Care) cùng với các đồng nghiệp của Sở Y Tế thành phố thì Hiệp Phước còn là một xã cù lao rất nghèo, chưa có công nghiệp hóa như bây giờ, lúc đó còn nhà quê lắm, phải đi xuồng qua sông chớ không có cầu như bây giờ. Ở đó bệnh sốt rét rất nhiều, rồi suy dinh dưỡng các thứ và nhất là tỉ lệ sanh đẻ rất cao. Sông nước chằng chịt, chưa có cầu đi lại nên nhiều khi người ta đẻ rớt trên thuyền. Hỏi người ta tại sao để bị sốt rét nhiều thì họ nói là họ có thói quen ngủ mùng nếp; ngủ mùng nếp có nghĩa là nhậu rượu đế vào rồi say nằm ở trần cứ thế mà ngủ nên muỗi đốt họ và gây bệnh sốt rét. Tỉ lệ phát triển dân số vùng này rất cao, hỏi tại sao thì họ trả lời là : “Tại vì ở đây không có cái gì vui hết chỉ có đẻ là vui thôi, cứ nhậu rồi đẻ…”(NSAL, trang 84).
Vậng, thưa bạn, cứ như cái lệ, chỗ nào càng buồn buồn, càng vắng vẻ thì chỗ đó dân số tăng lên. Chẳng hạn, đâu có khác gì chỗ xã Hiệp Thiện ở Nhà Bè mà bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc nêu lên là dân số đông, mà dưới các làng quê miền Tây dưới chỗ tôi ở, hồi đời xưa cho chí đến mấy năm thập niên 1980-1990, bà con dưới quê còn thói quen sanh con nhiều lắm! Cặp vợ chồng nào cũng có tối thiểu năm ba đứa con; còn trước đó nữa, tức những năm 1940-1960, có nhiều cặp vợ chồng có tới bảy tám đứa con, có khi có cả chục đứa nữa; hết út mười, rồi đẻ thêm vai đứa nữa đặt tên Út Mười Một, Út Mười Hai cho đủ chục có đầu! Gia đình nào cũng đông rần-rần, rồ-rộ; gia đình nào cháu con cũng xôm tụ, vui lắm! Có khi, vô măm cơm phải nấu cơm bằng nồi gang, loại nồi số 10, hoặc số 12, sắp nhỏ ăn mới đủ!
Mất hào của đặng hào con cũng quý nhưng hơi chật vật vì phải lo miếng ăn, lo quần áo, lo nhà cửa cho có chỗ cho con cái ăn ở, vậy là chắc chưa an lạc được; nhưng nói như tác giả kể thì nhiều cặp vợ chồng muốn có con mà hổng có được, cứ làm vợ chồng son hoài, cũng chưa chắc là được an lạc, được hạnh phúc:
“Bây giờ tôi thấy nhiều người đẻ không được, vô sinh, đi thụ tinh nhân tạo rất là khổ; còn ngày xưa thì người ta sinh đẻ dễ dàng, thậm chí người ta còn bảo là con trai con gái đừng ngồi gần nhau, đừng nắm tay nhau, chỉ cần ngồi chung chiếu thôi là đã có bầu rồi.”(NSAL, trang 85).
Có lẽ ngày nay, nhiều người trẻ nghe bác sĩ nói hoặc đọc thấy như vậy chắc có là sẽ ngạc nhiên lắm; nhưng ở thế hệ của tôi, hồi sáu bảy chục năm về trước, tôi cũng tin như vậy và hổng dám nắm tay ai và cũng hổng dám ngồi gần ai!
Cân bằng cuộc sống mà tác giả nhấn mạnh trong Nếp Sống An Lạc, không chỉ cân bằng việc sanh sản, mà còn nhiều khía cạnh khác nữa. Đây là một vấn đề cấp thiết và khó vì cuộc sống theo phân tích của tác giả là bao gồm nhiều khía cạnh, nhưt là thời đại văn minh tiến bộ về kỹ thuật tân tiến của khoa học computer ngày nay, nó dễ gây ra nhiều hậu quả không phải ai cũng dễ nhận ra và tránh khỏi. Chẳng hạn dễ bị căng thẳng đầu óc, vợ chồng ít có thời giờ dành cho nhau vì mạnh ai nấy đi làm đầu tắt mặt tối suốt ngày này qua ngày khác; tình cảm giữa người này với người khác nói là thân nhưng lại rất hời hợt, và nếu không muốn nói là đôi khi rất mất lịch sự theo cái nhìn của người già. Chẳng hạn, nói là rủ nhau ra uống cà phê nhưng những người bạn ngồi chung bàn chẳng ai nói với ai lời nào mà cứ chăm chú theo dõi cái điện thoại cầm tay coi ai gởi tin nhắn, hoặc ai gởi email, etc… mà hổng để ý gì đến người bạn ngồi bên cạnh mình có khi khá lâu mới được gặp lại nhau! Tác giả than với trang sách nhưng mà người đọc già nhà quê như tôi nghe ra cũng thấy rất đau lòng:
“Trái đất còn như một hòn bi thôi, rất gần gũi. Mình gửi email, bấm một cái là ở bên kia nửa vòng trái đất bạn mình nhận được trong vòng chưa tới một giây. Mình thấy như vậy là hạnh phúc nhưng nó cũng có mặt trái. Phương tiện kỹ thuật có vẻ như giúp mình gần nhau nhưng thiệt ra thì xa nhau hơn; chẳng hạn như cả nhóm bạn ngồi bên nhau, nhưng mỗi người một cái máy di động, vui cười trò chuyện với một người khác ở phương trời nào đó…” (NSAL, trang 87)
Ở chỗ khác trong chương “Cân bằng sự sống” với giọng văn như một người bạn, mà cũng là một vì thầy thuốc, tác giả từ từ hỏi và kể lại rất ân cần, mà tôi nghĩ anh bạn nào được tác giả hỏi như vậy chắc là vừa ngại ngùng vừa e thẹn dữ lắm, nếu nghe được lời khuyên của tác giả:
“Tôi thấy có nhiều bạn trẻ mời tôi đi ăn trưa mà mỗi người rút trong túi ra một cái hộp có 6-7 món thuốc để uống một cách tự nhiên, thành phản xạ. Tôi hỏi uống thuốc gì vậy thì các bạn kêu là uống thuốc bổ, tôi mới hỏi uống làm gì vậy, mình đâu có thiếu đâu mà uống, mình phải thiếu thì mới cần bổ chứ, đàng này thấy người ta uống mình cũng uống, vừa tốn tiền vừa vô ích.”(NSAL, trang 106)
Ở chương “Có một con đường hạnh phúc”, tác giả mở đầu:
“Đây là lần đầu tiên tôi đến đây, cũng là lần đầu tiên tôi nhận được một lúc hai bó hoa, thường thường có một bó; thành ra đó là một điều rất đặc biệt, rõ ràng là không cần đi tìm hạnh phúc đâu nữa, đây là một niềm hạnh phúc rồi.”(NSAL, trang 117)
Biết rằng, muốn định nghĩa thế nào là hạnh phúc rất là khó, tác giả đã vào đề một cách vừa trực diện mà cũng vừa mở ra một ý niệm rất bao quát về hai chữ “hạnh phúc”; theo đó, người nhận là tác giả đã nhận ra mình nhận được một lần được tặng hai bó hoa là “một niềm hạnh phúc rồi”, và ngược lại, những người tặng hoa cho diễn giả khi được diễn giả nói lên như thế, họ có biết rằng họ cũng hạnh phúc lắm không?
Sở dĩ, tôi có suy nghĩ ấy vì rằng, đôi lúc có người mang tặng cho người khác một món quà đơn sơ nào đó, hoặc một vật nào đó mà họ để hết tấm lòng của họ vào món quà ấy mà người nhận lại vô tình hờ hững không nhận ra tấm lòng của anh bạn mình, thì dĩ nhiên người tặng quà chắc cũng kém vui; mà đã gọi là kém vui thì làm sao mà hạnh phúc cho được! Phải vậy hông? Do vậy mà hạnh phúc là một hiện tượng tương tác, cộng hưởng giữa người này với người khác trong cuộc sống; chứ một mình mình thôi thì khó có hạnh phúc lắm!
Trở lại trong chương này, như tác giả mở đầu với đề nghị “Chúng ta nói chuyện hai chiều chứ không phải một mình tôi nói”, với những câu hỏi của người nghe và câu trả lời của diễn giả; gồm cả thảy sáu khách mời đặt câu hỏi và tác giả là diễn giả giải đáp những câu hỏi bao quanh vấn đề hai chữ “hạnh phúc” một cách rành mạch, lôi cuốn, hấp dẫn…
Từ trái Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, Hai Trầu tại hồ sen Kỳ Hòa, Sài Gòn (tháng 6-2017)
Hồi năm ngoái, tháng 6 năm 2017, tôi đã đọc tác phẩm Nếp Sống An Lạc của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc dịp lần đầu tiên ghé thăm anh ở hồ sen Kỳ Hòa (Sài Gòn) anh có nhã ý ký tặng; nay sau hơn một năm, vào những ngày cuối năm 2018, tôi ngồi đọc lại và ghi vội mấy hàng này với một tâm cảm rất vui và hạnh phúc khi nhớ lại lần gặp tác giả lần đầu ấy, mặc dù không có thời giờ nhiều mà trời lại cứ mưa nữa, những chiếc lá sen trên mặt hồ hứng đầy những giọt nước mưa long lanh trong vắt, mà gốc phượng già xa xa bên kia bờ hồ đứng lặng trong mưa là những hình ảnh mà tôi cho là đẹp và hạnh phúc giữa một khung cảnh thân ái với tác giả và gần gũi giữa Sài Gòn. Không biết nói gì hơn là tôi xin chân thành đa tạ Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, tác giả Nếp Sống An Lạc, đã thân ái tặng cho tôi những giây phút vô cùng an lạc và hạnh phúc ở những ngày tuổi già của tôi từ hồi năm ngoái tơi nay rồi vậy!
Hai Trầu
Houston, ngày 28 tháng 12 năm 2018
December 28, 2018
Kỳ 50: PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG
Kỳ 50: Phật học & Đời sống
Chủ đề : Ngũ Minh… trong thời hiện đại (tiếp theo):
Thanh minh- Công xảo minh- Y phương minh
Chùa Phật học Xá Lợi Tp HCM, ngày 22.12.2018
Sau buổi học này, Chương trình Phật học & Đời sống sẽ tạm nghỉ… Tết Tây và Tết Ta dài dài để mọi người “ôn tập” và thực hành, trải nghiệm…
Xin lưu ý: Họp mặt Tất niên “Phật học & Đời sống” lúc 9h sáng, ngày 20.1.2019 (tức Rằm tháng Chạp) tại Cafe Đông Hồ, 197 Cao Thắng nối dài, Q10. Thân mời các bạn tham dự.
Trong thời gian từ 29.12.2018 đến 23.2.2019 Chùa Xá Lơi có nhiều sinh hoạt Tất niên và Đón mừng Năm Mới. Các lớp được tiếp tục ngày Thứ bảy 23.2.2019 (tức 19 tháng giêng Kỷ Hợi).
Rất cảm ơn nvquyen đã gởi clip Tất niên rất đẹp (kỳ 50).
December 26, 2018
Thư gởi bạn xa xôi: Tháng 12, Đà Lạt
Thư gởi bạn xa xôi:
Tháng 12, Đà Lạt
Không định có thư này, nhưng cũng tại Nguyễn Quang Chơn ở Đà Nẵng lang thang Đà Lạt phone hỏi anh đang ở đâu vậy, tụi em tới uống café nhé. Ối trời. Mình ở Saigon, hắn ở Dalat kia mà. Thì ra tại cái hình này:
Cà phê một mình ở sân vườn Cadasa. Khu biệt thư cổ trên đường Trần Hưng Đạo, Dalat.
Gởi hình này cho NQC từ mấy ngày trước, sao bây giờ mới tới?
Lần nào lên Dalat mình cũng ghé đây làm một ly cafe, tĩnh lặng hơn ở Thanh Thủy hay Thủy Tạ bây giờ. Không gian rộng vắng, còn chút thiên nhiên, cây cao bóng cả, hoa cỏ loanh quanh…
Năm ngoái đi Dalat đúng Noel, kẹt cứng xe cộ. Năm nay đi sớm. Nghe mưa cả tuần, may sao, nắng đẹp. Thời tiết Dalat. Kệ nó.
Lần này, có GS Nguyễn Thế Hùng, “ông chủ” Cadasa, khu biệt thự cổ mời ghé chơi nên mình được dịp sống vài hôm ở đây. Nghe Hùng kể lại những buổi đầu đầy khó khăn để giữ lại được khu biệt thự cổ hàng trăm năm này- rất đặc trưng Dalat. Ở đây mà biến thành cao ốc thì không còn gì Dalat nữa. Như những đồi thông ngày càng trọc. Các tòa nhà cao tầng vút lên. Nhiều khách về Dalat bây giờ phải đi vùng sâu vùng xa, tìm chút thiên nhiên ngày nào.
Góc biệt thư… có chút “hoa vàng trên cỏ xanh” (NNA).
Còn chút “hoa vàng trên cỏ xanh” đây thôi. Hoa cúc dại đó. “Chỉ còn anh và em/ Là của mùa thu cũ” (Xuân Quỳnh). Và những cây thông cổ thụ…
Mình rất dị ứng thấy bây giờ nhiều nơi người ta chặt bỏ những cây cổ thụ không thương tiếc và trồng vào đó những cây cau kiểng mập ú hoặc ốm nhom loe hoe vài cành lá nghèo nàn…
Dĩ nhiên đi Dalat không thể không ghé quán Chè Hé. Chè ở đây ngon tuyệt. Chè thưng, chè đậu xanh, đâu đen, thập cẩm, chè bắp… gì cũng ngon. Chủ nhân có lẽ là hai vợ chồng trẻ dễ thương, vui vẻ. Gọi chè “hé” vì xưa cửa chỉ dám hé hé, đủ cho một người chen vào, nay có vẻ mở hơi rộng rồi đó. Nay mai lên cao ốc, cửa kiếng sáng choang thì hết “hé” nhé.
Mình vốn ‘hảo ngọt”, lần nào cũng làm một lúc hai ba chén luôn! Đừng cười nhé.
Và dĩ nhiên lên Dalat không thể không tìm Bánh Căn. Bánh Căn Dalat, Phan Rang, Phan Thiết gì cũng là món ăn nhà quê, quê nghèo, chỉ là bột gạo nướng trên than hồng, với khuôn đổ bằng đất sét… Khi bánh căn cải biên thành bánh khọt đầy dầu mỡ, hoặc đổ bánh trên mảnh nhôm, dùng lò gaz hoặc thêm trứng thêm tôm, mực, thịt… các thứ thì không còn là bánh căn nguyên chất nữa. Ở Phan Thiết… quê mình, cái ngon của bánh căn là nhờ nước mắm. Phải biết “đâm” nước mắm hoặc “giã” nước mắm. Đâm, giã như vậy, ớt mới tươm mật ra, chớ ớt sắc không sao bì được. Rồi phải có tỏi, có đường, có chanh… rồi tỷ lệ nước pha với nước mắm phải đúng mực. Mặn quá, lạt quá đều không ngon. Trời lạnh, ngồi quanh bếp than hồng, đợi bánh nướng thơm lừng, chan với nước mắm hoặc cá kho ngon tuyệt…
Bánh căn Dalat có vẻ đang phục hồi. Khi mình kéo ghế ngồi cạnh bếp than hồng, đã thấy có mấy cặp bạn trẻ chờ đợi. Có một “bí quyết” mà bánh căn Dalat chưa biết thì phải, nên bánh ở đây bên ngoài thì cháy mà bên trong thì nhão. Bí quyết đó ở Phan Thiết là bột… phải trộn với “cơm nguội” lúc xay. Cơm nguội sẽ làm cho bột cứng, dòn, ngon. Thử xem.
Gà nướng, cơm lam, chuối Laba…
Chịu khó một chút, ra khỏi Dalat chừng 15km, trên đường đi Suối Vàng có những quán gà nướng, cơm lam, rau rừng… cũng ngộ.
Mình thường chọn cái quán bên cạnh thác nước. Hôm nay vắng khách. May quá.
Lần này về Dalat, tình cờ cùng có cặp Lê Ký Thương- Kim Quy, Thân Trọng Minh – Thanh Hằng. Nhóm bạn trong “gánh hát” không thể không tìm một cái quán nào đó: đó là bữa cơm trưa ở LH, quán của người bạn, anh Phan Thái và chị Cúc, những người của Dalat xưa:
Chị Cúc LH chụp tấm hình kỷ niệm với nhóm bạn cũ.
Và buổi café sân vườn cùng nhắc những bạn bè chốn xa:
Mình không quên ghé “Thân Trọng điền trang” để thăm và chụp vài tấm hình kỷ niệm vì nghe bạn nói đã bán rồi, bàn giao nay mai. Nơi đây, nhiều bạn bè đã đến, nào Đinh Cường, Bửu Ý, nào Nguyên Minh, Lữ Quỳnh, Lê Ký Thương, Đỗ Hồng Ngọc, Khuất Đẩu, Huyền Chiêu… Đã đến lúc “về thu xếp lại” rồi đó thôi.
Thì cũng như Lagi, căn nhà tuềnh toàng của Đỗ Hồng Ngọc, nơi đã từng nhiều bạn bè ghé qua, Thân Trọng Minh-Thanh Hằng, Lữ Quỳnh – Kim Nhung, Hoàng Quốc Bảo, Thu Vàng, LKThương- KimQuy… nhóm bạn Y dược ở T4G… rồi cũng đã sang tay.
Đôi bạn bùi ngùi nhắc vài chục năm trước, nơi đây đã chụp ảnh sương mù…
Mình cũng đã ghé thăm Gia đình Hoa Sen, nhóm bạn “văn nghệ” Phật giáo của Thuần Nhiên, Thảo Nhiên, Huệ Nhiên, Như nhiên, Hồn Nhiên, Thanh thản nhiên… Và có một buổi trao đổi về Thiền, và ký tặng sách Thoàng Hương Sen.
Hội ngộ với Gia đình Hoa Sen tại nhà nhạc sĩ Thuần Nhiên Nguyễn Đức Vinh Dalat, 9.12.2018
Đỗ Hồng Ngọc ký tặng sách Thoảng Hương Sen.
Đỗ Hồng Ngọc và Lê Ký Thương (ảnh Thảo Nhiên)
Bữa cơm tối của GS Nguyễn Thế Hùng và Cô Thanh Tâm Cadasa mời vợ chồng ĐHN giống như : “Kỷ niệm 50 năm ngày cưới” của bọn mình vậy đó.
Chúc các bạn một mùa Giáng Sinh vui vẻ và một Năm Mới an lạc, hạnh phúc.
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc,
(26.12.2018)
December 25, 2018
NQC: Lang thang cuối năm…
Lang thang cuối năm…
by Huyền Chiêu
Nguyễn Quang Chơn
Cuối năm. Sắp Noel rồi. Trời cứ rả rích buồn. Thôi vác ba-lô đi đâu đó cho vui…. Tâm chọn Nha Trang và Đà Lạt. Nha Trang mưa lai rai, vẫn ồn ào với bọn khách tàu khách nga…, thôi thì đi Ninh Hòa thăm anh chị Khuất Đẩu – Huyền Chiêu, rồi đi Dốc Lết thăm người cháu kêu bằng cậu, nay đã là sư cô, sư bà, trụ trì một chùa to đùng ở đây!…
Tìm nhà “song kiếm hợp bích” Đẩu Chiêu là một kỳ công. Đã ghé anh chị một lần nhưng không còn lưu đường, lưu số. Vội nhắn tin, rồi phone cho anh Đỗ Hồng Ngọc hỏi thăm. Sư thầy cũng không nhớ, chỉ bảo gần một cây cầu. Thôi anh, “một cây cầu!” như một “thiền án”, làm sao em “ngộ” được, lỡ cứ đi tìm, gặp cây cầu sông Hàn thì chết! Rồi không biết ảnh lục đâu ra một số điện thoại bàn và email ngay thông tin (rất là 4.0)…. mà gọi hoài chẳng ai bắt máy. Thôi thì cứ đi….
Nửa đường, vận dụng trí nhớ, nhớ ra đường Trần Quý Cáp. Rồi nhớ lần lần đến số 181, không phải, hỏi dần. “Qui langue a, à Rome va”. Rồi cũng tìm đến đúng nhà. Ok, chắc chắn vĩnh viễn không bao giờ quên nữa!…
Anh chị đang ở nhà. Khỏe, vui. Anh Khuất Đẩu thần sắc tốt hơn nhiều so với lần gặp hai năm về trước. Hàn huyên một chút rồi cùng nhau đi Dốc Lết. Chùa của cô tên là Huệ Hà. Tên cũng đẹp mà chùa cũng đẹp. Cô thật giỏi, một mình vừa tìm ngân sách, vừa thiết kế, chỉ đạo thi công. Vừa đi chọn từng nghệ nhân, tạc tượng, đúc chuông, trong 3 năm đã xong chùa…
Chùa Huệ Hà của Sư cô Minh Lạc, Dốc Lết
Đại hồng chung của chùa tiếng ngân diệu vợi. Âm thanh tuyệt vời. Vang xa và ngân dài, u u như tiếng sóng, gần hai phút mới ngưng. Đặc biệt, trên chuông có khắc đúc một bài ký của thầy Tuệ Sỹ, và trong chánh điện, cũng có hai dòng lạc khoản chữ Hán của thầy khắc trên hai câu đối trang trọng. Chúng tôi thắp hương đảnh lễ, tiếng chuông chùa ngân nga, nghe hồn mang mang, thanh thoát…
Cô mời một bữa cơm trưa. Đạm bạc mà ngon lạ lùng. Chén trà đậm, ly cà phê thơm. Một chiếc ghế ngả lưng. Anh Khuất Đẩu lim dim khói thuốc. Chị Huyền Chiêu nghe cô kể chuyện đạo tràng, chuyện xây chùa, cũng lắm nhiêu khê. Tu, cũng phải lắm thiện duyên và một tâm thức vững vàng…
A Di Đà Phật. Chúng tôi ra về trong quyến luyến. Anh chị Khuất Đẩu hẹn một ngày sẽ trở lại với chùa. Đưa anh chị vô nhà và chúng tôi trở lại cõi đời thường. Nhưng thấy tâm nhẹ hơn, lòng vui hơn. Nắng hửng lên một chút rồi lại nặng hạt mưa cuối mùa đông, se se lạnh…
Mai, tạm biệt Nha Trang, chúng tôi đi Đà Lạt. Xin cám ơn anh ĐHN, anh chị KĐ, HC và sư cô Minh Lạc!…
(NQC, Đà Nẵng)
December 22, 2018
thơ của duyên: ba mùa đông
ba mùa đông…
Đinh Cường Dalat
Đinh Cường in nostalgia
ba năm rồi
vầng trăng khuyết sao hoài
lơ lửng mãi
cánh chim mầu đỏ gạch. tìm về
bên hiên nhà, mỗi độ xuân sang.
chiếc cầu xưa. in bóng
ai. soi mình trong dòng suối
nước còn buồn. nên lặng lẽ. trôi…
hoa xuyên tuyết cựa mình
đón Phục Sinh, bừng chào đời mới
viên cuội trắng phơi mình
suối cạn. nước trong veo.
hương cà phê Starbucks. thơm
phảng phất. trời se lạnh
sketches, đoạn ghi rời
lơ lửng. bay…
lá thu rơi. mùa thu về. sao buồn quá
lá ngập sân nhà
nhớ bóng người. cào lá. đêm xưa.
tuyết lạnh
ngày mùa đông. một người xa
sao trắng quá
từ đó. đường đời. buồn
cũng quạnh hiu…
theo.
một mùa đông
hai mùa đông
ba mùa đông
….
duyên
Tái ngộ Gia đình Hoa Sen Đà Lạt
Thư gởi bạn xa xôi,
Tái ngộ Gia đình Hoa Sen Đà Lạt
Lần này gặp nhau ở nhà nhạc sĩ Thuần Nhiên (Nguyễn Đức Vinh). Có gần 20 bạn tham dự. Thuần Nhiên mình đã gặp từ Noel năm ngoái cùng Gia đình Hoa sen ở Thảo Nhiên Các trong buổi trà đạo với âm nhạc Phật giáo do chính anh sáng tác. Cũng chính Thuần Nhiên, đêm Noel 2017 đó đã phổ nhạc bài thơ mình viết cho La Ngà trong tập Thơ Ngắn Đỗ Nghê – Giỗ Một Dòng Sông- thành bài SÔNG ƠI CỨ CHẢY rất cảm động, đã do Ngọc Vân, Thu Vàng, Narada… hát, cùng với lời Anh của Nguyên Giác Phan Tấn Hải.
Mình gởi bạn vài tấm hình coi cho biết buổi Họp mặt lần này, vào ngày CN 9/12/2018 vừa qua vậy nhé:
Một buổi họp mặt thân mật và ấm cúng giữa Gia đình Hoa Sen Đà Lạt với Đỗ Hồng Ngọc, ngày CN 9.12.2018 tại nhà nhạc sĩ Nguyễn Đức Vinh.
“Dàn nhạc” ngoài Thuần Nhiên còn có Bác Phu và Phạm Gia Cẩn. Bác Phu “chuyện trị” Mandoline, hòa cùng 2 guitar. Ca sĩ thì có Huệ Nhiên và Thắng, cùng cả nhóm Hoa Sen.
Bác Phu đang thử dây đàn, Huệ Nhiên rót nước mời mọi người, Thắng (áo xanh) có giọng ténor trầm ấm và Duy Việt (Thanh thản nhiên) với bộ râu dài rất đẹp.
Phi Hùng Tôn Thất “cameraman” cùng Sơn-Tài không rời nhau nửa bước (Sơn nói vậy). Hình thờ là nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang (Du ca), anh ruột của nhạc sĩ Thuần Nhiên Nguyễn Đức Vinh.
Trước khi vào buổi ca hát nhạc Phật giáo của Gia đình Hoa Sen, các bạn đề nghị Bs Đỗ Hồng Ngọc nói thêm cụ thể về Thở bụng, Thiền “Quán niệm Hơi thở” dưới góc độ Khoa học y học.
Sau đó là phần ký tên tặng cuốn “Thoảng Hương Sen”…
Sau phần “trà đạo” và ca hát những bài tự sáng tác của nhóm Hoa Sen (kể cả bài “Sông Ơi Cứ Chảy”), các bạn chụp hình lưu niệm.
Ba “bô lão” gồm Duy Việt, Đỗ Hồng Ngọc và “bác Phu” chụp chung tấm hình kỷ niệm. Duy Việt cùng tuổi với ĐHN, còn bác Phu lớn hơn một tuổi, gầy ốm nhưng anh rất khỏe…
Đến hơn 5 giờ mình phải vội đi ngay vì có một cái hẹn khác, không thể ở lại để ăn bữa cà-ri chay, mừng sinh nhựt của một thành viên cùng các bạn. Hẹn một dịp khác vậy nhé.
Hôm đó nhóm mình còn có Lê Ký Thương (bìa trái) và Kim Quy kịp đến cùng dự với Gia đình Hoa Sen.
Vắn tắt, hẹn thự sau.
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
………………………………………………………………………..
Mời nghe giọng ca Thu Vàng với bài SÔNG ƠI CỨ CHẢY, thơ Đỗ Hồng Ngọc, nhạc Thuần Nhiên Nguyễn Đức Vinh.
December 20, 2018
Kỳ 49 Phật Học & Đời Sống
Kỳ 49 PHẬT HỌC & ĐỜI SỐNG
Ngũ Minh… trong thời hiện đại? (tiếp theo)
Chủ đề: 2) Nhân Minh
Cảm ơn nvquyen đã gởi clip kịp thời để các bạn tham khảo.
…………………………………
Thư mời: Thứ bảy 22.12.2018 từ 15-16h30 tại chùa Phật học Xá Lợi,
89 Bà Huyện Thanh Quan, Quận 3, Tp HCM.
Tiếp tục: Ngũ Minh… trong thời hiện đại
(phần còn lại: Thanh minh, Công xảo minh, Y phương minh)
Chú ý: Thứ bảy 29.12.2018 Nghĩ Tết Dương lịch (2019)
December 15, 2018
thơ Trần Vấn Lệ: Nhặt Nắng
Nhặt Nắng
Sau một đêm mưa, nắng trở mình, cảm ơn lắm nhé Nắng Bình Minh! Kìa ai nhặt nắng trong vườn đó / có thấy trong vườn bướm lượn quanh?
Có thấy lòng ai như cũng nắng, choàng vai em ấm được không em…Mình đi đi tới Bồng Lai nhé, chỗ nhạc thơ reo rất não nùng…
Là bởi đêm qua buồn quá buồn, nhạc từ thiên cổ nối mưa tuôn, thơ từ thiên cổ ngâm chưa mục…Sông suối vừa vang tiếng của nguồn!
Em nhặt nắng đi. Anh cũng nhặt. Hạt nào là ngọc của riêng em…Hạt nào là bụi mưa còn ướt / mình nhặt hong chờ nắng rực lên…
Mình sẽ đi về Thế Kỷ Mơ…Mình sẽ đi về Xưa Rất Xưa…Áo em gió động màu trăng nhạt / óng ánh tình yêu mỗi sợi tơ…
Và em bung lụa cho anh ngắm / cả dải giang sơn nắng dịu dàng…Một buổi bình minh vào kỷ niệm…ngàn năm ghi ở sách muôn trang!
Sau một đêm mưa, nắng trở mình, bàn tay em hứng cả âm thanh – tiếng con chim hót trên nhành liễu, tiếng của hoa vàng, của bướm xanh…
Nhặt nắng đi em, mình nhặt nắng! Bà ba mấy túi áo đầy chưa? Anh yêu Đất Nước mình chi lạ…mà một em thôi! Thật bất ngờ…
Trần Vấn Lệ
December 14, 2018
“Điền trang”… sắp bán!
Thư gởi bạn xa xôi
Có một “Điền trang”… sắp bán!
Đỗ Hồng Ngọc
Đó là “Thân Trọng điền trang” của bác sĩ Thân Trọng Minh, cũng là nhà thơ, nhà viết kịch, họa sĩ Lữ Kiều tài hoa, người bạn cùng khóa với mình ở Y khoa Đại học đường Saigon (1962-1969). Thời đó, bọn mình học Y khoa 7 năm, tốt nghiệp, trình luận án và được cấp bằng Tiến sĩ Y khoa Quốc gia… của một thời, rồi cùng làm báo Tình Thương, rồi Bán nguyệt san văn học nghệ thuật Ý Thức… cho nên nghe Minh ‘bán nhà’ tiếc quá!
Một căn nhà đầy ắp kỷ niệm. Nào Bửu Ý, nào Đinh Cường, nào Lữ Quỳnh, Khuất Đẩu, Đỗ Hồng Ngọc, Lê Ký Thương, Nguyên Minh… lui tới thường xuyên mỗi khi có dịp tụ họp về Đà Lạt.
Vậy mà bây giờ nỡ nào bán đi chứ? Dĩ nhiên căn nhà gỗ đã đến lúc ọp ẹp, nhiều mối mọt, sàn nhà rung rinh nhưng có hề gì! Ta cũng chẳng ọp ẹp rung rinh đó sao? Bạn bè rồi cũng mỗi người mỗi ngã, người còn kẻ mất. Nó vậy là nó vậy. Như thị. Như lai. Phải không?
Cho nên, lần này bán thiệt. Nghe vậy, nhân dịp về Đa Lạt kỳ này có Minh, Thanh Hằng về làm thủ tục giao nhà, mình vội ghé qua Thân Trọng điền trang chụp vài tấm hình kỷ niệm… chốn xưa từng đến ngắm sương mù, ngắm trăng suông, đốt lửa ngoài sân vườn… Mà bây giờ. Phải thế thôi.
Xin gởi bạn vài tấm hình mình mới chụp ở Thân Trọng điền trang ngày 11.12.2018 vừa rồi nhé. Nay mai có khi nơi này trở thành một cái building vĩ đại nào đó, một cái resort nào đó, ngay cả Thân Trọng Minh cũng khó lòng mà héo lánh!
Vậy thì…
“Thân Trọng… điền trang” của ngày xưa cũ.
Đống cũi đã sẵn… chờ đốt lên thôi!
Đôi bạn ngồi nhắc những kỷ niệm xưa, chốn này… sao cũng dàu dàu: “người xưa lưu luyến ra sao nhỉ/ Có giống như mình lưu luyến chăng?” (Huyền Kiêu)
Một góc “Thân Trọng điền trang” (ảnh Đỗ Hồng Ngọc, 11.12.2018)
Thôi, vắn tắt,
Hẹn thự sau,
ĐHN
Đỗ Hồng Ngọc's Blog
- Đỗ Hồng Ngọc's profile
- 12 followers

