Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 54

April 3, 2019

Nguyễn Mậu Pháp: CẢM NHẬN  “VỀ THU XÉP LẠI…”

 


CẢM NHẬN  “VỀ THU XÉP LẠI…”


Nguyễn Mậu Pháp


(Trường THPT Lang Biang, Lạc Dương, Đà Lạt)


 


Đời người là một cuộc hành trình.Tuổi thơ với những ước mơ cao đẹp lung linh, đến tuổi trung niên với những mong ước vẹn tròn cho cuộc mưu sinh, lúc về già lại mong một sự an bình. Và cuối cùng tất cả đều lắng lòng để tìm về chính mình.


Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc người đã từng viết “Gió heo may đã về”, ở tuổi 55, đến tuổi 60 thì viết “Già ơi… chào bạn!” bước sang tuổi 75  thì viết “Già sao cho sướng?…” Nhưng 80 tuổi thì thôi vậy. Thôi, nhưng lại không thôi… đã đến lúc phải “VỀ THU XẾP LẠI…”.


Về thu xếp lại! Một tiêu đề khá lạ lùng nhưng chứa đựng cái muôn trùng của lòng người của đất trời. Như mùa thu gom lá thu vàng để cỏ cây chuyển sang một cuộc hồi sinh mới. Và con người cũng thế, đến cái tuổi mà con người nên thu gom cái khối phân thân về một mối. Ta lại tìm ta. “Ta là ai mà yêu quá đời này!”. Và ta là ta của ngàn đời vĩnh cửu. Khổ, tập, diệt, đạo; nào: mạng, định, tư duy, tinh tiến, nghiệp, niệm, chánh kiến, ngữ ngôn của tám vạn bốn ngàn pháp môn cuối cùng gom chung về làm một.


Tản văn “Về thu xếp lại…” của Đỗ Hồng Ngọc do Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Với trang bìa là tranh của họa sĩ Lê Ký Thương,  do Linh Vũ trình bày. Giữa họa sĩ và tác giả như đã có sự đồng cảm sâu sắc. Một vầng trăng giữa mênh mông, một con người đang phiêu bồng quẳng gánh lo đi và quảy gánh hồi hương.


Xếp lại mà không xếp. Như mở ra một bầu trời bao la tĩnh lặng!


Chút tản mạn, về y học, về cuộc sống về tâm thức được tác giả gói gọn 162 trang lọt lòng  và 10 nội dung cũng là chủ kiến của tác giả.


Trong một số nội dung tác giả mượn những câu thơ, nhạc từ của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, mượn không phải là để giảng giải mà mượn để dẫn lối cho những suy nghĩ của chính mình. Hình như giữa tác giả và nhạc sĩ có mối tương liên sâu sắc của một tấm lòng tri cảm thiết tha. Cái gợi mở thật độc đáo và sâu sắc. Mở đầu tác giả nói về chu trình khép kín của một đời người: sống – chết, đến – đi, vừa chân không vừa hiện hữu để tìm ra lẽ tất nhiên của chu kỳ sự sống.


Để rồi Tri túc tiện túc đãi túc hà thời túc/ Tri nhà tiện nhàn đãi nhà hà thời nhàn. Đủ và nhàn là điều ai cũng cần đạt đến nhưng cũng chưa phải là trọn vẹn.   Cái trọn vẹn khi nghecon tim yêu thương vô tình chợt gọi.


Gọi ta, gọi về với chính mình. Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã tâm sự: tuổi già dễ xúc động, vì sao như thế? Về với yêu thương, về với lẽ hằng sống là giá trị muôn thuở của con người như nước sông Hằng ngàn năm vẫn chảy như hằng tâm của con người để không còn tự ngã.


Tiếp theo (chương 5,6,7) tác giả biện giải về quy luật sanh lão bệnh tử. Tác giả đề cập đến cái duyên của cha mẹ sinh ra ta. Chưa đủ còn có cái duyên của tạo vật và nhiều cái duyên khác nữa. Vì vậy có gì phải phân vân giữa chết và sống. Có gì phải sợ hãi. Làm quen với cái chết để sống. Nghe rất lạ nhưng cũng thật là diệu lý vô cùng. Mỉm cười với tất cả, buông xả để an bình mới là sự vĩnh sinh muôn thuở.


Để rồi trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt ( chương 8)


Nhật nguyệt ấy là minh. Trong hán tự chữ minh được ghép từ hai chữ nhật và nguyệt (nhật  nguyệt biểu tượng cho âm dương, ánh sáng tinh túy của trời đất).  Mỗi chữ có 4 nét là thái dương, thiếu dương, thái âm  và thiếu âm. Hai chữ cộng lại vừa đủ tám nét. Con số 8, theo đạo Lão con số 8 tượng trưng cho bát quái gồm : càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn, đoài biểu hiện cho sự vận chuyển vô cùng của tạo hóa gọi là Đạo. Trong Phật học, 8 là bát chánh đạo gồm: mạng, định, tư duy, tinh tiến, nghiệp, niệm, chánh kiến, ngữ ngôn. Ai nắm được cái lẽ vi diệu chuyển xoay của tạo vật, ai thông tỏ bát chánh đạo là làm chủ được chính mình. Đó mới thật sự là minh !   Lấy minh để diệt vô minh. “Vô vô minh diệc vô vô minh tận” ( Bát Nhã tâm kinh) mới quán được chân không. Chân không mà diệu hữu, diệu hữu mà chân không. Đó mới là vượt qua sinh tử luân hồi vậy. Bởi vì sinh tử luân hồi ở ngay trong ta vậy.


Để đạt điều đó: Trời cao đất rộng một mình tôi đi! (chương 9) Vượt qua không gian, thời gian để đạt tới chánh định. Sống cùng hơi thở, dõi theo hơi thở của chính mình. Đến một lúc ta không còn phân biệt mình thở ra hay hít vào không phân biệt mình đang thở hay không còn thở. Đó mới là sự sống vĩnh tồn. Bởi vì ai cũng có thể giúp cho ta nhiều thứ cả vật chất lẫn tinh thần nhưng ta không có thể giúp cho bất kỳ ai và không một ai có thể giúp ta thở giủm cho ta được. Diệu lý!


Và cuối cùng là để lại trong cõi thiên thu hình dáng nụ cười ( chương 10)


Gom bốn vạn tám ngàn pháp môn về làm một. Để hiểu cái khổ và diệt. Mỉm cười với chính mình đó là sự giác ngộ, giải thoát. “Đã thấy, biết Như lai, sống với Như Lai”.


Tóm lại “VỀ THU XẾP LẠI…”: là một kim chỉ nam cho tất cả mọi người, không phải chỉ ở tuổi già mà ở tất cả mọi lứa tuổi. Để có sự an lạc hãy về thu xếp lại hòa quyện giữa diệu hữuchân không ấy vậy!


Xin kính mượn 4 câu thơ tuyệt tác của Hòa thượng Phước Hậu, để đúc kết cảm nghĩ khi đọc “VỀ THU XẾP LẠI…” của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc.


Kinh điển lưu truyền tám vạn tư,


Học hành không thiếu cũng không dư,


Năm nay tính lại chừng quên hết,


Chỉ nhớ trên đầu một chữ NHƯ.


Xin chân thành cảm ơn Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã giúp cho hậu thế bài học giá trị để làm người, bài học vén bức mây đời để tìm về chân thức.


(Nguyễn Mậu Pháp, Đà Lạt)


 


Nguyễn Mậu Pháp, thầy dạy văn Trường THPT Lang Biang, Dalat, một “Ông Đồ già” thường bày mực tàu giấy đỏ giữa Chợ Đàlạt viết thư pháp cho bà con những ngày… Xuân. Trong buổi họp mặt hôm nay với Gia đình Hoa Sen (31.3.2019) thầy đã viết tặng riêng Bs Đỗ Hồng Ngọc… một bức thư pháp rất có ý nghĩa…


 



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 03, 2019 01:51

April 2, 2019

Hai Trầu lai rai đọc “Về thu xếp lại…”

 


 


Vài cảm nghĩ khi đọc “VỀ THU XẾP LẠI…”


của Đỗ Hồng Ngọc


Lương Thư Trung


 


(ảnh: kinhtethoidai)


Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc vốn dĩ là tác giả của nhiều tác phẩm viết về đạo Phật và anh còn là nhà thuyết giảng trong các lớp “Đạo Phật và Đời Sống” vào các ngày cuối tuần ở chùa Xá Lợi (Sài Gòn), nên ghi nhận trước tiên của tôi sau khi đọc tác phẩm Về Thu Xếp Lại là tư tưởng Phật Giáo gần như bàng bạc trong suốt các trang sách của tác giả.


Thật thế, ngay như ở Lời ngỏ, phần giới thiệu cuốn sách, tác giả viết:


Người ta nói đúng. Mình đang ở tuổi nào thì đó là cái tuổi đẹp nhất, không thể có tuổi nào đẹp hơn! Một người 40 mà cứ tiếc mãi tuổi 20 của mình, một người 60 mà tiếc mãi tuổi 40 thì đến 75 họ sẽ tiếc mãi tuổi 60… thật là đáng thương!


Tôi nay ở tuổi 80. Thực lòng… đang tiếc mãi tuổi 75! Thấy những bạn trẻ… trên dưới bảy mươi mà “gato”! Mới vài năm thôi mà mọi thứ đảo ngược cả rồi. Bây giờ có vẻ như tôi đang lùi dần về lại tuổi ấu thơ, tuổi chập chững, tuổi nằm nôi…


Vòng đời rất công bằng. Chỉ còn cách tủm tỉm cười một mình mà thôi!


Không ai có thể ở hoài một tuổi nào mà mình thích. Thời gian cứ trôi, trôi hoài và không ai có hai lần ở cái tuổi 20 hoặc tuổi 30, tuổi 40… chẳng hạn!


Vâng, người ta thường ví dòng đời như một dòng sông và có một câu ngạn ngữ rất quen thuộc của một triết gia Hy Lạp, Héraclite, mà ai ai cũng biết:”Không ai có thể tắm hai lần trên một dòng sông”.


Cách nay hơn nửa thế kỷ (ngày 21-11-1965), Thượng Tọa Thích Thiên Ân, trong một lần thuyết trình về đề tài “Giá Trị Triết Học Tôn Giáo Trong Truyện Kiều” nhân kỷ niệm Đệ-nhị-bách chu-niên cụ Tiên-Điền Nguyễn-Du, tại thính đường Trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ Sài Gòn, Ngài đã nói:


”Vâng, không ai có thể tắm được một dòng sông trong hai lần, vì nước sông luôn luôn lưu động di chuyển, vì các tế bào trong con người luôn luôn sinh-diệt diệt-sinh. Con người ngày hôm qua không phải là con người ngày hôm nay, dòng sông của giờ phút trước không đồng với dòng sông của giờ phút sau, thay đổi khác nhau từng tích-tắc sát-na, như thế thì làm sao mà tắm được một dòng sông trong hai lần?”(1)


Qua “Lời ngỏ” như vừa nhắc, nhất là câu: “Vòng đời rất công bằng. Chỉ còn cách tủm tỉm cười một mình mà thôi!”, là người đọc nhà quê già, tôi cảm thấy nụ cười “tủm tỉm” của tác giả  phảng phất chút gì rất hợp với tư tưởng Phật Giáo, vì : “… Thân thể trăm năm của cá nhân con người mình cũng theo định luật chung mà trôi qua như dòng nước. Đã không bám víu được vào sự vật bên ngoài, quay vào trong phản tỉnh, lòng tự hỏi lòng có chi tồn tại, không biến đổi, ngoài thời gian và không gian?” (Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử Tư tưởng Việt Nam).


Đó là phần mở đầu của cuốn sách. Bây giờ xin mời bạn thử lần tìm chút nắng, chút gió và cả chút mưa trong “Về Thu Xếp Lại” có gì vui, có gì thú vị ở đây chăng?


Vâng, thưa bạn, ngay phần một, tác giả ghi tựa “Cát bụi tuyệt vời…”. Và sao lại gọi là “Cát bụi tuyện với…” ?


Cái hình ảnh lấy cát bụi vo thành môt cục rồi thổi vào đó một hơi dài để vươn vai lớn dậy làm người thì thật là thú vị. Thú vị ở chỗ nghĩ cho cùng, cái thân xác cát bụi kia một hôm trở về làm cát bụi thì đã là chuyện dĩ nhiên, đương nhiên, tự nhiên, sao còn sanh sự tào lao chi cho mệt. Có điều để cái “cát bụi tuyệt vời…” này trở thành “cát bụi mệt nhoài” thì lỗi tại ta. Ta có thể làm cho cát bụi trở nên “thú vị” được lắm chứ! … “


Vâng, là một người đọc nhà quê già, đôi lúc tôi cũng nghĩ như tác giả là thân phận con người chẳng khác nào là“cát bụi”, có đó rồi theo thời gian đến lúc trăm năm lại trở về với cát bụi thôi! Dù đời xưa hay đời nay, dù thời nào và ở đâu cũng vậy, hổng cách gì con người có thể vượt ra ngòai cái định luật tự nhiên của trời đất mà chối cãi được! Nhưng cái điều đáng nói ở đây là tác giả đã biết cách làm cho “cát bụi” phàm trần ấy trở thành “cát bụi tuyệt vời” ngay trong đời sống hiện tiền!


Bạn sẽ hỏi tôi, tác giả làm bằng cách nào chứ gì? Thì đây lá bí quyết mà Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chẳng hề giấu giếm dù anh  đã viết: “Nói không được. Bất khả thuyết. Không từ đâu đến/ chẳng đi về đâu. Nó Như Lai…”. Nhưng chính tác giả đã gợi mở ra cánh cửa giải thoát ngay trong phần này cho chính mình và cho người đọc: vì con người sở dĩ bị “mệt nhoài” là do những thứ như “thất tình lục dục, hỉ nộ ái ố…” đó thôi! Vậy thì theo tôi, chỉ còn cách mình phải dứt khoát buông bỏ ba cái lăng nhăng ấy thôi! Phải vậy hông?


Sau khi nhận ra được “Cát bụi tuyệt vời..“ như vậy, tác giả giới thiệu phần kế tiếp về tiến trình của tuổi già: “Tôi chợt nhìn ra tôi”:


Chợt” là vì bất ngờ. Nhưng không phải bất ngờ vì tôi thấy tôi. Mà bất ngờ vì tôi chợt “nhìn ra” tôi. “Nhìn ra” khác với thấy. Nhìn ra là “quán”.  Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát Nhã chiếu kiến ngũ uẩn giai không… . Quán là thấy rõ (chiếu kiến). Tôi bấy giờ không còn là tôi bây giờ. Tôi bấy giờ là tứ đại, là ngũ uẩn. Và nếu quán một cách sâu sắc hơn, có thể thảng thốt kêu lên: “Bổn lai vô nhất vật”! (Lục tổ Huệ Năng).  


Cái thú vị ở đây là tác giả“chợt nhìn ra tôi” tức là nhận diện được chính mình một cách bất chợt, không có chuẩn bị gì ráo trọi! Xưa nay người ta thường nhận ra cái xấu, cái khuyết điểm, cái lỗi lầm, cái già của người khác nhưng ít khi nào có ai thấy được cái xấu, cái lỗi, cái già của chính mình! Do vậy theo tôi, tác giả bảo :“Tôi chợt nhìn ra tôi”, rồi : “Tôi thường tủm tỉm cười”, có nhiều hàm ý trong mấy từ ngắn ngủi ấy. Nó vừa là một tiếng lòng, vừa là tiếng than, vừa là một lời trách là sao tự bấy lâu nay ta không thấy ta già dần theo thời gian, mà phải đợi mãi đến hôm nay mới “chợt nhìn ra mình”? Có trễ lắm không hay vẫn còn là một may mắn là mình còn biết mình nay đã phong sương nhiều rồi để còn kịp “về thu xếp lại” nữa chứ! Phải vậy hông? Trong đời tôi chỉ sợ nhứt là mình không biết mình là ai đó thôi! Vì không biết mình lam sao biết người được! Có đúng vậy hông?


Hoặc một chỗ khác, tác giả cũng lại “cười” mình: “Nhiều khi, sáng dậy, nhìn vào gương soi tôi lại thấy tức cười. Tôi đó sao? Nhăn dần từng nét ngộ nghĩnh trên mắt trên da(…). Tôi tức cười nhìn mình. Nó nhìn tôi cũng cười. Ngộ nghĩnh. Cười mà ráng. Không ráng thì nó trĩu nặng.”


Với tuổi già đến nhanh và không trừ bất cứ ai, với tôi, một người bình thường, tôi biết vậy nhưng nhiều lúc lại sợ nó, sợ cái già tới mau quá nhưng vơi tác giả thì khác, anh lúc nào cũng bình thản nhận ra nó bằng nụ cười dù đôi lúc nụ cười ấy có chút gì xót xa, có chút gì ngậm ngùi…; nhưng phải công bằng nhận ra rằng tác giả là một mẫu mực của sự can đảm, của nhận thức về màu thời gian hằn lên da thịt con người qua những nếp nhăn một cách bình tĩnh và đặc biệt là anh cách để làm cho cái chút bụi, cái chút gió ấy trở nên thú vị !


Phần tiếp theo là “Về thu xếp lại… ngày trong nếp ngày”. Phần này cảm động là lúc tác giả kể lại những trường hợp chính anh bị bệnh và nhờ vậy mà tác giả lại mới nhớ lại mình:


“Nhưng bệnh cũng có cái hay của nó chứ. Nó làm cho ta nhớ lại mình…”


Và có lẽ phần dưới đây, cảm động cũng không kém:


Cái thiếu lớn nhất của người già là thiếu bạn. “Trời cao đất rộng, một mình tôi đi/ đời như vô tận, một mình tôi về… với tôi!” (TCS). Từ ngày về hưu, bạn bè rơi rụng dần. Rơi rụng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Lâu lâu, dòm lại cái cuốn sổ danh mục ghi điện thoại đã thấy có nhiều địa chỉ chẳng biết làm sao liên lạc được nữa. Muốn xóa mà ngâp ngừng rồi không nỡ.”


Dường như ai ai mỗi khi trải qua bảy tám chục năm tuổi đời rồi vì hoàn cảnh này hoặc hoàn cảnh khác, lâu dần bạn bè “rơi rụng” nhiều, giống như tác giả tâm sự, muốn xóa đi một địa chỉ cũ, lâu rồi không còn liên lạc được nhưng trong lòng cứ “ngâp ngừng rồi không nỡ.” Riêng tôi, cũng gặp nhiều trường hợp khó xử như vậy! Dù tôi chẳng làm nên công lên chuyện xuống gì nhưng cũng có cuốn sổ điện thoại, rồi cũng ghi địa chỉ nữa; nhưng lâu quá tôi không còn liên lạc được với vài ba anh em trong cuốn sổ ghi chép ấy và đặc biệt có nhiều anh em nay các anh ấy dời chỗ nào rồi không biết hoặc có anh tôi biết chắc là nay ảnh không còn trên đời này, nhưng mỗi lần muốn lấy viết gạch bỏ số điện thoại ấy đi, tôi cũng không đành! Nghe sao cứ nao nao trong lòng!


Đến chương: “Con tinh yêu thương vô tình chợt gọi…”, tác giả kể về nỗi niềm trắc ẩn của chính mình mỗi khi nghe hoặc  nhìn thấy cảnh đời nhiều lúc rất quen nhưng không cầm được nước mắt cứ chực trào ra, không kềm giữ nổi:


Tôi thấy mình càng già càng dễ xúc động. Cảm xúc rất mạnh. Mít ướt. Cảm xúc không bị bào mòn đi hay cùn nhụt đi, chai lì đi như vẫn tưởng…”


Vâng, tôi nay già cũng hơi bộn bộn rồi và tôi cũng “mít ướt” từ rất sớm, ở những năm vào tuổi 50, 60, hoặc 70 chứ đâu có già gì cho lắm như bây giờ mới mít ướt đâu! Về điều này, tôi rất đồng cảm với tác giả vì chính tôi nay chưa già bằng anh nhưng cũng đã bảy mươi mấy rồi và nhiều lúc đọc một câu chuyện kể về những đứa trẻ mồ côi rồi có người xin về nuôi, ba bốn chục năm sau, khi lớn khôn và thành nhân, thành tài rồi , đứa bé mồ côi ngày xưa ấy bỏ ra bao nhiêu năm lặn lội tìm lại được mẹ mình, cảnh sum hiệp, trùng phùng mẹ con mừng mừng tủi tủi ấy cũng làm tôi rơi nước mắt.


Hoặc nhiều năm gần đây cứ mỗi lần nghe lại một bài nhạc hợp với tâm cảnh của mình tôi cũng khóc được; khóc một cách tự nhiên không gì kềm giữ được! Chẳng hạn như khi nghe lại bản “Tám Điệp Khúc” của Anh Việt Thu tôi nhớ hồi mới quen bà xã tôi, ngày nào trước căn nhà ở đường NCC (Quận nhì, Sài Gòn), phía trước nhà có một nhà hàng xóm lúc nào cũng mở máy thu băng bản nhạc ấy, nghe riết rồi như ghiền, rồi sau này cử mỗi lần ở đâu chăng nữa hễ nghe bản nhạc ấy là nhớ những ngày yêu dấu tuyệt vời của mình; vậy mà rồi tôi cũng không cầm được nước mắt! Nhiều lắm những nhạc phẩm như thế, cảm động lắm! Nói gì nguyên bản nhạc thì vậy, đằng này chĩ vài chữ dùng thôi như chữ “tà dương” trong nhạc phẩm “Chuyến tàu hoàng hôn”, hổng biết sao cứ nghe đến hai chữ “tà dương” thôi là tôi bị như ma hút hồn mình, tôi trầm ngâm một mình và rưng rưng nước mắt!


Thêm nữa, tôi hoàn toàn đồng ý và cảm ơn tác giả về nhận định này:


Tình yêu lãng mạn có ý nghĩa rất lớn ở người có tuổi. Như “nuôi sống” họ bằng tình yêu (…)  Thứ “romantic relationships” này là những “hỗ trợ xã hội” tuyệt vời nhất, xúc chạm, thân mật, gần gũi càng già càng thấy cần hơn, nhất là khi người ta cảm thấy cô đơn hay đau khổ vì một lý do nào đó cần chia sẻ. Người phối ngẫu lúc đó cũng đã trở thành một người bạn thiết. Tuổi trẻ, tình yêu gần gũi với tình dục, nhưng tuổi già, tình yêu trở nên đằm thắm, tình yêu của từ bi hỷ xả, của bè bạn, cùng sến già nam và sến già nữ cho nhau!”


Dù nhỏ hơn tác giả vài ba tuổi, nhưng thực sự tôi cũng biết được giá trị của lời nhận định vừa rồi của tác giả bởi một lẽ giản dị là vì “…tuổi già, tình yêu trở nên đằm thắm, tình yêu của từ bi hỷ xả, của bè bạn, cùng sến già nam và sến già nữ cho nhau!”


Đến chương: “Người đã đến và người sẽ về bên kia núi”, tác giả giúp người đọc nhận ra đâu là thật, đâu là giả trong cõi trăm năm này của một đời người.


Đời sống sinh vật thay đổi từng sát na, không bao giờ đứng yên một chỗ, lẽ nào tái sinh lại y chang như cũ? Có điều những nguyên liệu cứ hủy, tan rã rồi lắp ráp lại nên một hình tướng mới. Cho nên mới bảo nó chỉ là “giả tướng” tạm bợ vậy thôi. Thấy “như thật” là thấy cái thực tướng vô tướng đó. Thỉnh thoảng ta gặp một ai đó thấy như đã quen từ lâu, như đã có hẹn hò từ muôn kiếp trước… thì cũng đừng có ngạc nhiên!“


Vâng, những suy tư vừa rồi của tác giả về một chu trình khép kín ấy rất hợp với tư tưởng Phật Giáo mà Thượng Tọa Thích Thiên Ân cũng có nhắc:


“Theo Phật-giáo thì vũ trụ nhân-sinh đều là do nhân-duyên hòa-hợp với nhau mà sanh, không có một vật nào thật-có cả. Nhân-duyên hòa-hợp ở đây là chỉ trạng-thái hòa-đồng tương-hợp giữa hai phần thể-chất và tinh-thần (con người), vật-thể và hình –thể (sự-vật), hay nói đúng theo danh-từ của Phật-giáo là Tứ-đại và Ngũ-uẩn hòa-hợp lại mà thành, nên tất cả đều là vô-thường, giả-huyễn, hữu-hạn và đau khổ.“(2)


Ở chương :“Chìm dưới sương thu là một đóa thơm tho…”, tác giả đã đặt ra nhiều câu hỏi thú vị về sự hiện diện của con người trong trời đất này, và dĩ nhiên, phải là người dày dạn kinh nghiệm và lịch lãm mới có những ý tưởng thâm trầm như vậy được.


Chẳng hạn, tác giả viết:  “Tôi ngờ rằng có một phần thưởng quý giá nào đó cho kiếp nhân sinh, mà thiên nhiên đã mất công tạo ra, không thể nào có một mục đích duy nhất là làm cho nó phải khổ đau từ lúc sanh đến lúc bệnh, lão và tử. Điều này hoàn toàn vô lý. Bởi nếu vậy thì thiên nhiên đã không tạo ra vạn vật, nhất là sinh vật.”


Vâng, với ý tưởng mà tác giả vừa nêu trong phần này quả đúng là chẳng lẽ hóa công tạo ra con người, ra vạn vật để rồi hành hạ nó, bắt nó khổ đau chơi cho vui hay sao? Có cha mẹ nào sanh con cái ra mà không muốn con cái khỏe mạnh, mau lớn, mau khôn, thông minh và sáng dạ đâu? Chắc chắc là có rồi! Có cha mẹ nào đành đoạn bắt con cái đói khát, ngu dốt, lang thang đầu đường xó chợ không? Chắc chắn là không rồi! Điều này nếu có, quả là rất vô lý! Bởi lẽ tạo hóa, trong đó có các đấng trời cao sở dĩ được người ta tôn thờ là vì người ta tin tưởng các đấng ấy yêu thương mọi sinh vật kể cả con người!


Để giải thích thêm cái ý hóa công có phần thưởng nào cho mọi sinh vật trong trời đất không, tác giả đặt ra nhiều câu hỏi có ý tìm hiểu mà cũng đượm chút gì trách móc hóa công:


Thử nhìn xem, vạn vật luôn đẹp đẽ, sinh vật luôn đẹp đẽ muôn màu muôn sắc, Hai con bọ ngựa yêu nhau, ve vãn nhau, giao hợp, xong con đực chết ngay và trở thành thức ăn cho con cái. Con cái mang cái trứng đã thụ tinh, nuôi nấng và sinh sản, xong cũng chết. Nếu chỉ làm cái việc giao hợp rồi chết như con bọ ngựa hay những con ong đực, thì nhiệm vụ duy nhất của nó chỉ là làm vật trung gian, truyền giống, khi hoàn thành nhiệm vụ thì không có lý do gì để tiếp tục tồn tại. Vậy thì ít ra phải có chút tưởng thưởng gì cho cái vất vả của nó chứ? Có lẽ vì thế mà thiên nhiên đã tặng cho nó chút khoái lạc trong lúc giao hợp. Nhưng sự giao hợp là sự truyền trao chủng tử, còn chuyện “bố thí thân mạng” kia có ý nghĩa gì không? Có được tưởng thưởng gì không?”


Còn nhiều câu hỏi khác mang tính triết học liên quan tới việc ăn, việc ngủ, về khoái lạc, về nguồn gốc con người, về cái sống, và cả về cái chết nữa. Nhưng thôi, tôi xin dành lại cho bạn để bạn tìm đọc cho vui!


Ở tiêu đề “Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt”, tác giả dẫn người đọc về một chương với tính tương sanh tương hợp giữa thiên nhiên và con người qua cái nhìn của Phật Giáo. Có thể nói đây là một chương đượm màu sắc triết học Phật giáo rõ nhất trong tác phẩm “Về Thu Xếp Lại” qua kiến giải của một “hành giả” đã thấm nhuần  tư tưởng Phật giáo như tác giả, quả là một bài học rất quý báu cho những ai muốn tìm hiểu về các giá trị đích thực của đời sống hiện hữu này vậy! Chẳng hạn, tác giả bàn qua về “Minh và vô minh”, về “Những gì là hạt giống Như Lai?”, về phiền não, về bịnh, về thực tướng vô tướng, về chân không diệu hữu, về ma, về kiến tánh, về luân hồi sanh tử, về nghiệp báo oan gia, về Phật và Như Lai…


Tới chương “Trời cao đất rộng một mình tôi đi…” , tác giả lại khai triễn thêm về hơi thở và  thiền, … Quả thật đây là cả một quá trình tu tập khá lâu dài và tôi khoái nhất câu này: “Chẳng ai có thể thở giùm ai được đâu. Chẳng ai có thể “thiền” giùm ai được. Cho nên phải quay về nương tựa chính mình “một mình tôi đi, một mình tôi về… với tôi” mà thôi. “


Ở phần cuối: “Để lại trong cõi thiên thu hình dáng nụ cười… “, tác giả đã tìm ra phương pháp, tự nhận và biết mình rõ hơn qua nền tảng kiến thức y học mà tác giả đã học và kinh nghiệm mấy chục năm trong nghề bác sĩ: “Cái nền tảng kiến thức y học cũng giúp soi sáng nhiều điều, và ngược lại học Phật đã giúp tăng cường hiệu quả cho y học nhờ tiếp cận toàn diện, thân tâm, khổ đau, bệnh hoạn…”.


Và trước khi kết thúc, tác giả đã viết:


Khi chưa hiểu thì tất cả những điều này có vẻ bất thường, kỳ cục, vô lý, khi hiểu được rồi thì thấy nó quá rõ ràng, chính xác, hoàn toàn hợp lý. Nhờ đó, có thể thấy xuyên suốt những pháp này pháp nọ, tông này tông kia chẳng qua cũng chỉ là một.


Không phải là lý thuyết suông, mà là sự thực nghiệm, thể nghiệm ngay trên bản thân mình.  Hãy đến và nếm thử. Mô tả không được! Nếm trải mới biết.


Tóm lại, nếu quả đúng “văn là người”, thì  qua tác phẩm “Về Thu Xếp Lại”  với một bút pháp đặc biệt rất đặc thù của Đỗ Hồng Ngọc: nó giản dị mà hàm súc, chất liệu thì trữ tình, thành thật, cảm động, và đôi khi pha chút dí dỏm trong cách dùng chữ mà ý nhị, thâm trầm đã có thể cho chúng ta thấy được một bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc dày dạn kinh nghiệm trong tu tập và lịch lãm trên đường đời; mặt khác, ở đây nó còn thể hiện rõ đức tính và phong cách một bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc luôn thương mình, luôn yêu người, và nhất là yêu cuộc sống này với tất cả sự đam mê, lạc quan và tha thiết! Có lẽ nhờ vậy mà ở tuổi tám mươi tác giả vẫn yêu đời và tôi chưa thấy anh già chút nào!


 


Hai Trầu, Lương Thư Trung


Houston, ngày 31 tháng 03 năm 2019


 


……………………………………………………………..


1&2/ Trích trong quyển “Giá Trị Triết Học Tôn Giáo Trong Truyện Kiều” của Thương Tọa Thích Thiên Ân, Giáo sư Tiến Sĩ Đại Học Văn Khoa và Vạn Hạnh (Sài Gòn), nhà xuất bản Đông Phương (Sài Gòn), năm 1966, các trang 32-33.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 02, 2019 17:45

Nguyễn Thị Tịnh Thy trên FB: “VỀ THU XẾP LẠI…”

 


“VỀ THU XẾP LẠI…”


FB Nguyễn Thị Tịnh Thy


(Thứ sáu, 29.3.2019)


 


(ảnh: kinhtethoidai)


 


Ở tuổi 55, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc bần thần viết “Gió heo may đã về”, đến 60 thì viết “Già ơi… chào bạn!” như một reo vui, đến 75 còn… ráng viết “Già sao cho sướng?…” để sẻ chia cùng bè bạn đồng bệnh tương lân. Nhưng 80 thì thôi vậy. Đã đến lúc phải “VỀ THU XẾP LẠI”.

“Về thu xếp lại”… bởi “chút nắng vàng giờ đây cũng vội”…, “giật mình ôi chiếc lá thu phai”…

“Về thu xếp lại… bởi “cát bụi tuyệt vời” đã chuyển thành “cát bụi mệt nhoài”

“Về thu xếp lại…, “một ngày kia đến bờ”…, “đời người như gió qua”.

Hãy đón nhận ngày đó một cách bình thản, an nhiên như “mệt quá đôi chân này, tìm đến chiếc ghế nghỉ ngơi; mệt quá thân ta này, nằm xuống với đất muôn đời…” Có gì đâu! Nhẹ tênh mà!

Lấy cảm hứng từ những ca từ đầy tính triết lý phận người nhẹ nhàng mà sâu sắc của Trịnh Công Sơn, Đỗ Hồng Ngọc sẽ đưa chúng ta đến với các U80 bằng y học, tâm lý học, Phật học… trong dặt dìu của âm nhạc, thi ca.

Dí dỏm, duyên dáng, chất khoa học đan quyện trong chất nghệ thuật, sự nghiêm trọng chuyển tải qua các ngôn từ hài hước của cuốn sách nhỏ sẽ giúp những người già dễ dàng lắng nghe chính mình. Và đặc biệt, người trẻ sẽ hiểu hơn về người già.

Hiểu gì?

Hiểu rằng người già khó ăn, khó ngủ, khó tính, … nhưng lại dễ yêu: “…Có vẻ như càng già người ta càng yêu nhiều hơn, yêu vội hơn và càng yêu thì càng “sống khỏe sống vui” hơn! Khi “chút nắng vàng giờ đây cũng vội” thì mới thấy còn có bao nhiêu thời gian để yêu thương và được yêu thương? Dĩ nhiên, tình yêu bấy giờ có thể chỉ là một mối tình lãng mạn, hoặc một mối tình “ngỡ đã quên đi/ bỗng về quá rộn ràng”… để rồi “như bờ xa nước cạn/ đã chìm vào cơn mơ”. Tình yêu lãng mạn có ý nghĩa rất lớn ở người có tuổi. Như “nuôi sống” họ bằng tình yêu. Hình như họ chỉ giữ được chút kích thích tố vừa đủ để “lãng mạn” cho cuộc đời đẹp ra, đáng sống hơn, sức khỏe cũng tốt hơn vì nó làm cho tim đập nhanh hơn, tuần hoàn não tốt hơn, trí tuệ minh mẫn hơn, hệ thống miễn dịch hoạt động tốt hơn, ít bệnh vặt hơn và nếu có bệnh thì rất mau lành!”

Có chắc như thế không nhỉ? Các anh chị em Tag vào Facebook của ông bà nội, ông bà ngoại xem các cụ comment thế nào nhé! ️

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 02, 2019 16:41

March 21, 2019

Chuyến về thăm đất Phật, Nepal (tiếp theo)

 


Thư gởi bạn xa xôi (3.2019- tiếp theo và… hết)


Chuyến về thăm đất Phật, Nepal.

 


Ngày 10.3.2019. Đã đến lúc phải chia tay Lumbini rồi! Đoàn mình tách làm hai nhóm nhỏ: nhóm… “già”, gồm ông bà Ba mẹ Bs Thủy sẽ tiếp tục cuộc hành trình về Ấn Độ, đi thăm cho trọn “Tứ động tâm”; nhóm “trẻ” gồm mình và Kts Nguyễn Văn Tất, Phương Thảo cùng Liz (con Bs Thủy) và Vaz trở về Kathmandu.


Chuyền về này nhóm trẻ mình được đi máy bay! Thiệt là thú vị. Biết thế nào là cái sân bay tí xíu của Lâm-tì-ni, với một vài chuyến bay mỗi ngày, chỉ chở được vài chục người mỗi chuyến và luôn trễ vài tiếng đồng hồ là “chuyện thường ngày ở huyện”. Nhưng ai cũng nói đi máy bay thì sướng lắm vì chỉ bay 30 phút là tới Kathmandu, không phải mất cả ngày đường vất vả như đi đường bộ. Phi trường hình như đang được sửa chữa, nâng cấp vì ngày càng có nhiều đoàn hành hương về Lâm-tì-ni. Mình may mắn, máy bay hôm nay đúng giờ và chuyến VTR 72 này khá to, lịch sự, chở đến 70 người.


 



PThảo quá rành nên chọn cho chỗ ngồi bên cửa sổ trái để mình được nhìn Núi tuyết Himalaya. Trời đẹp. Núi tuyết nhìn rõ trên những cụm mây bồng bềnh. Và một lần nữa, mình cũng không sao phân biệt núi với mây, mây với núi…


Quả đúng. Chỉ 30 phút bay đã đến Kathmandu. Cô tiếp viên Nepal  xinh đẹp phát cho mỗi hành khách một cục bông và một viên kẹo… Mình làm bộ nhét bông và kẹo vào hai bên tai khiến cô kêu trời! Đến phi trường đã thấy có chú Minh Đạt (người của Resort Himalayan Happiness) đón và hướng dẫn về nhà nghỉ ở Boudhanath. Thầy Huyền Diệu rất chu đáo, đã sắp xếp đâu ra đó cả rồi. Thời gian không nhiều vì trưa mai đã phải rời Kathmandu nên mọi người vội vả đi tham quan Đại bảo tháp Boudhanath nổi tiếng nơi đây.



 


Đây là một đại bảo tháp lớn nhất thế giới, nổi tiếng linh thiêng, không rõ có từ bao giờ, ngoài những truyền thuyết huyền bí, gốc gác từ Đức Liên Hoa Sanh Tây Tạng thì phải… Thấy có rất nhiều người Tây Tạng, cả các vị tu sĩ nơi đây. Tiếng đọc kinh rì rầm khắp nơi. Và du khách đông nghẹt, cả ngàn người đi nhiễu quanh bảo tháp. Đại bảo tháp chứa Pháp thân của Phật Thích Ca. Chiều cao 30m và đường kính 100m. Quanh tháp, tầng đất rất nhiều chỗ để cầu nguyện, và nhiều người khấn vái, xoay bánh xe kinh luân… Bốn mặt tháp đều có vẽ thật lớn 2 mắt Phật, chính giữa là con mắt thứ ba, mắt Tuệ và dưới 2 mắt là một dấu hiệu như một dấu hỏi, mang nhều ý nghĩa. Người người đi rất nhanh quanh tháp 9 vòng mới có hiệu nghiệm. Đoàn mình cũng chen chúc với mọi người một lúc đã đi lạc mất hút! Hàng quán bán đồ lưu niệm san sát, tạo thành một khu phố sầm uất, tròn quanh chân tháp báu. Nhiều quán cafe tuyệt đẹp trên Terrace để vừa nhìn Tháp vừa nhìn Núi tuyết. Thường người bán ở đây nói thách cao. Phải trả giá rất kỹ… Mình thì quá quen Chợ Bến Thành xưa rồi, không có việc gì… khó, chỉ sợ “lòng không bền”. Tội nghiệp cho cô bé Liz, sống và lớn lên ở Úc, có biết gì là nói “thách” rồi cò kè bớt một thêm hai đâu! Lần đầu tiên cô thử… trả giá và mua được món hàng nên thích quá! Cô kêu lên, con mua được rồi Thầy, vui quá ha! Nhưng có lẽ cô đã mua… hớ! Dù sao, nói thách, trả giá, cò kè… làm cho cả người bán lẫn người mua đều vui! Hoan hô nói thách!


 



 



Bữa cơm tạm biệt Nepal ở Boudhanath.
Từ trái: Varun, Minh Đạt, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Văn Tất, Phương Thảo, Liz.


 


Ngay tối đó, Tất và Thảo lên máy bay về Việt Nam trước. Ngày hôm sau nhóm còn lại mới về. Đến Bangkok thì Liz và Vaz về thẳng Úc, còn mình, ở lại Bangkok một đêm để sáng hôm sau về Việt Nam.


Thời gian không nhiều nhưng sáng sớm 11.3, mình cũng “tranh thủ” lên Terrace ngắm Tháp và làm một tách Capuchino. Ngon tuyệt.


Kết thúc chuyền về Nepal, đất Phật.


Một chuyến đi còn đọng rất nhiều kỷ niệm. Xin chân thành cảm ơn tất cả. Riêng cảm ơn thầy Huyền Diệu, Minh Phước Hòa, Minh Đạt, Minh Duyên, Minh Niệm… cả Minh Sơn và Diệu Thủy, Minh Tất và Diệu Hoàn… và các bạn người Nepal rất hiền lành và dễ thương đã giúp mình những ngày ở Nepal và Lâm-tì-ni an lạc và hạnh phúc.


Và, không quên cảm ơn bạn… xa xôi đã chịu khó đọc chuyện kể lằng nhằng này!


Thân mến,


Đỗ Hồng Ngọc.


(Saigon, 21.3.2019)


 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 21, 2019 04:03

March 20, 2019

Chuyến về thăm đất Phật, Nepal.

 


Thư gởi bạn xa xôi (tiếp theo)


Chuyến về thăm đất Phật, Nepal.

Đến Việt Nam Phật quốc tự ở Lâm-ti-ni thấy như đã về đến nhà mình rồi vậy! Cũng lũy tre, ruộng lúa, bờ ao, ngọn cỏ, cũng vườn rau, cây cầu… Mái chùa cong vút trong nắng chiều. Cổng chùa thân quen quá… Hai con hạc trắng xòe cánh, quang quác mừng vui. Phải cảm ơn thầy Huyền Diệu thôi. Đã dựng nên một ngôi chùa Việt rất sớm nơi Phật đản sanh, Lâm-tì-ni này.


Lâm-tì-ni là một trong “Tứ động tâm” mà người con Phật nào cũng muốn đến thăm một lần: Phật đản sanh. Phật thành đạo. Phật chuyển pháp luân và Phật niết bàn.


Hoàng hậu Mayadevi hôm đó vội vả lên đường về kinh đô Ka-tì-la-vệ (Kapilavastu) để kịp sanh hoàng tử nhưng vừa đến Lâm-ti-ni thì cơn đau đã rột, không thể cất bước được nữa. Ở đó đã có ao nước mát, đã có cây Bồ đề tỏa bóng râm. Trong đoàn tháp tùng Hoàng hậu hôm đó đã có các cô mụ, các ngự y. Khi Hoàng hậu vin cành Bồ đề ráng rặn sanh thì không còn kịp nữa. Người ta đã phải giúp Bà sanh bằng Cesarien. Và vì thời đó kỹ thuật vô trùng chưa tốt, Hoàng hậu đã bị nhiễm trùng hậu sản mà chết. Phật đã là một con người. Đã sanh ra. Đã khổ đau. Đã hạnh phúc. Và đã từ bỏ cung vàng điện ngọc, từ bỏ vương quyền để một mình lang thang vào rừng sâu, sống đời khổ hạnh, mong tìm con đường giải thoát cho mình và cho chúng sanh. Suốt 6 năm vất vưỡng trong rừng sâu, ngày ăn một hạt mè, đêm ngủ trong nghĩa địa hay trên cành cây, người chỉ còn xương bọc da, sờ tay vào bụng thì đụng ngay đốt sống thắt lưng, đầu óc bắt đầu choáng váng, tù mù… (Narada, Đức Phật và Phật pháp), may sao nhờ chén sữa của cô gái Sujata mà tỉnh lại, nhận rõ lối tu khổ hạnh, hành xác là sai lầm, quyết tâm đi vào con đường trung đạo để rồi giác ngộ sau 49 ngày thiền định dưới cội Bồ đề . “Thiên thượng thiên ha, duy ngã độc tôn” chỉ có nghĩa là chính Ta chớ không phải ai khác, chính ta mới có thể làm khổ ta, chính ta mới có thể làm ta an lạc, hạnh phúc. Phải quay về nướng tựa chính mình thôi. Thấy biết vô thường, khổ, không, vô ngã, thực tướng vô tướng… mà vượt thoát sanh tử. Ơ hay, thì ra tất cả mọi người đều sẵn có Phật tính, không phải tìm kiếm đâu xa. Chỉ vì vô minh che khuất. Chỉ vì tham sân si, mạn nghi tà kiến… che khuất. “Vô trí diệc vô đắc”. Ta chưa từng nói một câu nào cả. Chưa từng dạy cho ai điều gì cả. Phật bảo vậy. Vẫn duyên khởi duyên sinh đó thôi.



Lâm-tì-ni rộng 774 ha. Ngang 1,8km. Dài 4,8km. Do một Kiến trúc sư nổi tiếng của Nhật là Kenzo Tange nghiên cứu thiết kế tổng thể suốt 8 năm, từ 1970 đến 1978. Theo đó, Lâm-tì-ni có 3 khu vực: khu Làng mới Lâm-tì-ni, khu Tự viện và khu Vườn thiêng, thánh địa, với nhiều di tích: Trụ đá của Vua A-dục (Ashoka), đền thờ Hoàng Hậu Mayadevi, Ao nước, Cây Bồ đề. Năm 249 TCN, Vua Ashoka đã tìm ra đúng nơi Phật đản sanh và dựng Trụ đá làm dấu tích, ghi rõ dòng chữ Pali vẫn còn đó. Huyền Trang (602-664) đi thỉnh kinh có ghé qua đây. Nhưng rồi Lâm-tì-ni rơi vào quên lãng, mãi đến năm 1896 mới được hai nhà khảo cổ người Đức là Futher và Bhuler tìm được trụ đá của vua A Dục và công bố. Ngày nay Lâm-tì-ni đã được Unesco công nhận là Di tích Văn hóa Thế giới và được trùng tu ngày càng trang nghiêm, hùng vĩ. Các vị Tổng Thư ký Liên hợp quốc từ U Than đến Ban Ki-moon đều đã đến thăm viếng Lâm-tì-ni.



Việt Nam phật quốc tự khởi công từ 1993, hoàn thành 2005 là ngôi chùa đầu tiên ở Lâm-tì-ni. Lần lượt nhiều ngôi chùa của các quốc gia khác đã được dựng nên. Chùa Nepal, chùa Tây Tạng, chùa Trung quốc, chùa Thái, chùa Myanmar… và cả một số nước Tây phương như Đức, Thụy sĩ, Áo… Đặc biệt ngôi Tháp Hòa bình, chùa Nhật có vẻ bề thế nhất vì nối trực diện với khu thánh tích.



Rất may trong chuyến đi này mình



gặp Kts Nguyễn Văn Tất. Sáng 9.3.2019, hai anh em… gọi riêng một chiếc xe ba bánh (xe lam) để chu du thăm các chùa chiền một số nước ở Lâm-tì-ni. Đến đâu, Tất cũng giải thích cho mình nghe về nghệ thuật kiến trúc, và cả… phong thủy! Con kênh đào thẳng tắp chạy từ Tháp Hòa bình (Chùa Nhật) đến trụ đá của vua Ashoka đã thấy có thuyền máy xình xịch đưa khách hành hương. Mình đề nghị thầy HD nên mang vài cái thuyền thúng (ở Phan Thiết, Mũi Né  rất đẹp) về đây sẽ thu hút du khách vì sự độc đáo. Tệ lắm, nơi đây cũng phải có những chiếc  “thuyền nan  nhẹ lướt” chèo tay như ở Suối Yến chùa Hương! Kts Tất bảo anh Ngọc không chỉ là một bác sĩ, mà còn là một nhà thơ, họa sĩ… nên có những ý tưởng rất tuyệt vời, nên đi với anh thích quá! Có lẽ, ở tuổi này anh cần có một “thị giả”. Mình cười, còn em thì đã có một “thị thiệt” rồi đó thôi!




Nhiều nhóm Tu sĩ và Phật tử thập phương đang chiêm bái Vườn thiêng Lâm-tì-ni quanh Cột đá Vua Ashoka. Họ đọc kinh, tụng niệm vô cùng thành kính.  Nhóm nhiễu quanh trụ đá, nhóm kinh hành quanh hồ nước thiêng, nhóm tụ tập dưới táng cây Bồ đề… Mọi người lần lượt xếp hàng vào viếng đền Mayadevi (cấm chụp hình). Mình vẫn lang thang một mình, quan sát, dòm ngó, ngơ ngác… Thực lòng, chỉ thấy một sự… náo nhiệt mà chưa thấy “động tâm” chi. Chỉ đến khi bắt gặp một chiếc lá bồ đề rơi lẻ loi trên đụn gạch xưa cũ vốn là những nấm mồ vài ngàn năm trước của các đệ tử Phật mình mới thấy xúc động. Kts Tất nói, bê tông cốt thép anh ạ, cũng chỉ chịu đựng vài trăm năm vì bị oxyd hóa, còn gạch đất thì vài ngàn năm vẫn vững bền. Phải. Chỉ có đất mới là đất.


Tháp Hòa bình (Chùa Nhật)


 


Buổi chiều, đoàn đi thăm Kapilavastu (Ca-tì-la-vệ) cách đó khoảng 30 cây số. Đường xấu, đang sửa chữa, bụi khói mù mịt. Thỉnh thoảng thấy một vài cánh đồng… khô khốc… Thầy HD cho biết, mùa nóng sắp tới, ở đây 49-50 độ C là bình thường!


Đây rồi. Ca-tì-la-vệ. Kinh thành trù phú ngày xưa của Tịnh Phạn Vương, dòng dõi Sakya uy dũng, phụ vương của thái tử Tất Đạt Đa. Bây giờ chỉ còn là một khu vườn hoang vắng, trơ trụi dưới nắng hanh. Quanh co là những cổ thụ sừng sững, dáng uy nghi đường bệ… Có cái gì đó nhói lòng nơi đây. Chính là sự “động tâm” rất lớn của riêng mình. Chính nơi đây, thái tử Tất Đạt Đa đã nhận ra nỗi khổ đau của kiếp người … Chính nơi đây, thái tử Tất Đạt Đa đã vượt rào thoát ra khỏi cổng thành giữa đêm khuya, từ biệt vương quyền, từ biệt phú quý vinh hoa… quyết tâm tìm “đạo sáng cứu chúng sanh”… Phải, chính nơi đây, mình mới bắt gặp sự “động tâm” thực sự trong không khí yên ắng của buổi trưa hè ngay trên đất Phật. Chỉ còn những đống gạch. Này là chỗ ăn ở, giếng nước, ao sen…Mình cứ lang thang và lắng nghe một mình. Nhặt được một cánh hoa lửa. Đặt vào lòng bàn tay. Như ngọn lửa tam muội. Rồi nhìn cái rể cây có hình dáng như một apsara đang múa.


 




 


Người ta chỉ cho mình chỗ cổng thành thái tử Tất Đạt Đa đã “trốn” đi, hiện chỉ còn hai cây cổ thụ. Bên ngoài còn có gò mộ của con ngựa đã đưa thái tử đi quanh thành, nhất định không chịu về lại chuồng cũ.


Thầy cô đưa các đoàn học sinh đến viếng Ca-tì-la-vệ



Từ thành Ca-tỳ-la-vệ về, đoàn ghé thăm Kundan nơi Phật khi thành đạo đã trở về thăm Vua cha và độ cho Vua cha, hoàng hậu cùng vợ con. Lúc này La-hầu-la đã lên 7 tuổi và xin xuất gia theo Phật. Hiện vẫn còn các ngôi tháp mộ của Vua Tịnh Phạn và hoàng hậu.


Buổi tối đó, như đã hứa với Liz và Vaz cùng mọi người từ hôm còn ở Dhunlikhel, sau bữa cơm chay, mình đặt 3 câu hỏi với thầy HD: 1. Vì sao thầy luôn nhắc đến lòng tri ân với vị thầy đầu tiên? 2. Chương trình sinh hoạt một ngày của thầy? 3. Tại sao thầy chọn pháp hành là lạy từng chữ Kinh Pháp Hoa như một “mật pháp”?


Buổi trao đổi cùng Thầy Huyền Diệu tại Việt Nam Phật quốc tự, Lâm-tì-ni, Nepal 9.3.2019


Dịp này mình trình bày với thầy HD và các đệ tử về kinh Pháp Hoa dưới góc nhìn khác. Mình nói kinh có nhiều ẩn dụ, ẩn nghĩa cần được hiểu. Pháp Hoa là kinh tối thượng thừa vì là Phật thừa, không còn chia chẽ gì nữa. Kinh dạy các hạnh bồ tát như Tôn trọng (Thường Bất Khinh), Chân thành (Dược Vương), Thấu cảm (Quán Thế Âm) và những bài học tuyệt với khác mà nếu học được thì đã có một đời sống an lạc, tự tại, đem lại hạnh phúc cho mình cho người trong bất cứ thời đại nào, xã hội nào… Thầy HD nói bác sĩ là nhà khoa học, nhưng cũng cần phần tín ngưỡng…


Lý giải về hiệu quả của pháp hành này, thì một khi có Tín tâm sẽ có Niệm rồi Định, Huệ. Ở góc độ sinh học thì khi lạy (đúng cách) một lúc, cơ thể sẽ tiết ra endorphine, một thứ morphine nội sinh cho cảm giac sảng khoái, dễ chịu; và khi liên tục niệm một câu, một chữ nào đó (trong Kinh) thì  tạp niệm không thể xen vào vỏ não, nhờ đó mà dễ “nhất tâm bất loạn”


Bs Đỗ Hồng Ngọc và Thầy Huệ Sơn (Thông Lý) tại Việt Nam Phật quốc tự, Lâm-tì-ni 10.3.2019


Có một chuyện khá vui. Chiều  9.3.2019,  Việt Nam Phật quốc tự tiếp đoàn tu sĩ và Phật tử 18 người Việt từ Bồ đề đạo tràng Ấn Độ qua Lâm-tì-ni do thầy Huệ Sơn dẫn đầu. Đoàn có người từ Nha Trang, Phan Rang, Phan Thiết, Lagi… Nghe có Lagi, quê nhà, mình hỏi thăm. Hóa ra thầy Huệ Sơn trụ trì chùa Phước Bình ở Lagi, vốn là một người bà con, cháu ngoại của chú hai Nốt, Tân Long. Xét vai vế thì mình là… anh của chú hai Nốt, và do vậy mà thầy Huệ Sơn phải gọi mình bằng… “ông ngoại cậu”! ối Trời, không phải thấy “thầy tu” bắt quàng làm họ đâu nghen! Thầy Huệ Sơn xin chụp với… “ông ngoại cậu” một tấm hình… kỷ niệm tại Việt Nam Phật quốc tự Lâm-tì-ni này đó vậy.


Thân mến,


Đỗ Hồng Ngọc.


(còn tiếp 1 kỳ).

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 20, 2019 00:34

March 17, 2019

Chuyến về thăm đất Phật, Nepal (tiếp theo)

 


Thư gởi bạn xa xôi, tháng 3.2019 (tiếp theo)


Chuyến về thăm đất Phật, Nepal.

 


Mình suýt quên kể một chuyện quan trọng. Buổi sáng lúc cafe với thầy Huyền Diệu (HD) ở Terrace khu resort Himalayan Happiness không ngờ gặp một người khách mới đến tối qua: Kiến trúc sư Nguyễn Văn Tất và vợ, nhà báo Phương Thảo. Cả hai là đệ tử “ruột” của thầy HD. NVTất pháp danh là Minh Tất và PThảo là Diệu Hoàn. Đệ tử thầy HD, nam thì Minh, nữ thì Diệu. Thầy HD nói: gặp hai người này thì việc gì cũng “Hoàn Tất”! Thì ra vậy!


KTS Nguyễn Văn Tất và Bs Đỗ Hồng Ngọc (Nepal, 4.3.2019)


(nói nhỏ thôi nghe: Tất suy bì nghề Kiến trúc với nghề Thầy thuốc, nói bác sĩ mà cho toa thuốc, không ai dám cãi y lệnh, còn Kts thì… khổ dài dài! Đầu tư thiết kế công phu xong, ông “chủ đầu tư” – người chi tiền – góp ý đủ thứ, nhiều khi xóa sạch ý tưởng đầy sáng tạo của mình!).


Kts Tất không xa lạ với mình. Quen biết đã từ lâu, nhưng ít có dịp gặp, không ngờ nay lại gặp ở… Hy-mã-lạp-sơn không hẹn trước! Tất là một Kts giỏi, đã xây dựng nhiều công trình, trong đó có Resort Mõm Đá Chim ở Ngãnh, Lagi quê mình. Đây là một resort mình rất ưa thích. Cạnh resort có ngôi mộ của cậu Ngư (ông Nguiễn Ngu Í). Tất ngày xưa học ở Ngô Quyền Biên Hòa nên rất quen biết  Duyên, Tùng… Anh chính là người solo trong vai Lữ khách trong chương trình Trường ca Con đường Cái quan của Pham Duy do Đỗ Thanh Tùng làm “chef d’orchestre”, và anh cũng là người từng làm “nègre” cho Tùng ở trường Kiến Trúc ngày nào. Thì ra trái đất tròn thiệt!


NVTất không chỉ là một Kts giỏi, anh còn là một nhà văn, người viết tùy bút, anh nói khái niệm “holistic medicine” rất gần với lãnh vực kiến trúc của anh. Kiến trúc không phải là gạch ngói gỗ đá bê tông cốt thép mà là đời sống con người, tâm hồn con người gắn kết với môi trường thiên nhiên, môi trường xã hội một cách toàn diện, hài hòa… Mình hỏi thăm Tất về hiệu quả thực hành pháp môn của thầy HD, ý nghĩa của nó, rồi chia sẻ với anh về kinh Kim Cang, Pháp Hoa…


từ trái: Bs Đỗ Hồng Ngọc, Kts Nguyễn Văn Tất, thầy Huyền Diệu. Himalayan Happiness Resort (4.3.2019)


Buổi sáng hôm sau (5.3.2019), trời lạnh như cắt, dưới 7 độ C. Mình hỏi thầy HD mượn thêm cái áo ấm. Thầy liền chạy vội về phòng, mang xuống cho mình một cái áo ấm mới tinh khôi, chưa cắt chỉ, bảo là của Minh Tất và Diệu Hoàn vừa mang lên tặng thầy tối qua mà thầy không định sử dụng, nguyện trong lòng sẽ tặng cho ai đó có tâm đức, “xứng đáng”. Hóa ra người đó là… mình! (Dĩ nhiên là thầy rất chân thành). Tất bảo áo này có thể chịu lạnh đến 5 độ! Mình cảm ơn mọi người và bảo nhờ… Trời đó thôi, vì hôm nay trời lạnh bất thường mà!


Trong lúc trò chuyện với thầy HD, mình nói các vị Sư thầy bây giờ có nhiều đệ tử luôn kính mến, tuân phục, vái lạy, không dám góp ý, thường cúng dường toàn món bổ dưỡng, ăn bị béo phì, mắc đủ thứ bệnh, lại bị ca tụng nhiều quá khiến sinh thêm bệnh ngã mạn… Riêng mình công nhận thầy có rất nhiều ý tưởng tốt, dám nghĩ dám làm, rất năng động, thực tiễn. Theo thầy “Tu Phật phải thành thật, không lật đật, và không bị trật”. Tu đúng là từ khổ thành lạc, từ tham sân si hết tham sân si, từ nghèo đến… giàu! Tu trật là ngược lại v.v… Tình thực, thấy thầy nhiều ý tưởng to lớn quá, mình cũng ngại cho thầy. Nào Resort trở thành một Trung tâm hội nghị hòa bình quốc tế, rồi lập một loại Giải thưởng gì đó, rồi mua đất xây dựng Trung tâm hòa bình bên Đức… Mình nhắc thầy bây giờ mới 74 tuổi, hãy còn trẻ, còn nhiều năng lượng, nhưng từ 75 trở đi sẽ cảm nhận một thứ… rất khác rồi đó. Có lúc mình nghe thầy than, mệt quá, khổ quá, không có thì giờ để tu nữa vì khách khứa nhiều quá, chỉ chụp hình thôi đủ mệt! Rồi thầy sẵn sàng thao thao thuyết giảng bất cứ lúc nào, ở đâu… Có lúc thầy lại muốn “nhập thất”, trốn ở đâu đó để không ai biết. Có lúc còn muốn mang bộ râu giả để ngụy trang… Tóm lại. Khá vất vả. Nhưng thôi. Như thị tướng, Như thị tánh, Như thị thể, Như thị lực…


Rồi thầy HD khoe với mình thầy có một phòng ngủ… chỉ rộng 1,2 mét vuông (m2), ngay trong resort này, là chỗ thầy tụng kinh, niệm Phật, trì chú, thiền định… mỗi ngày. Mình đề nghị ghé thăm. Các “bạn trẻ” lục tục đi theo, vì mấy khi thầy chịu mở cửa! Cửa đóng nhiều lớp như một mật thất. Có nhà bếp, thầy tự nấu ăn, giặt giũ, có kệ sách, kệ thuốc… và một căn gác cao, cheo leo giấu kín bên trong. Mình chui lên thăm. Đúng, bề ngang 70cm, bề dài 170cm. Tính ra 1,2 m2. Có một cửa sổ nhìn xuống thung lũng. Khi mình leo xuống, thầy chờ sẵn, hỏi bác sĩ cafe hay trà? Cafe. Thầy pha ngay cho mình một ly cafe ngon. Các đệ tử thầy bấy giờ muốn nghe mình cho “cảm nghĩ”.  Mình nói, 1. để thầy leo lên xuống mỗi ngày tập thể dục, tránh béo phì; và 2. nó là một cái “tomb”, để thầy chiêm nghiệm và sống với. Mình thấy thầy có vẻ… giật mình. Sao có kẻ hiểu mình đến vậy nhỉ?


Chỗ ngủ rộng 1,2m2 của thầy HD tại Himalayan Happiness Resort (photo ĐHN 5.3.2019)


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


Thầy Huyền Diệu mời Đỗ Hồng Ngọc ly cafe, sau khi “tham quan” mật-thất của thầy.


Từ Kathmandu đến Lumbini (Lâm-tì-ni) chỉ dài 320km mà đường bộ đi mất khoảng 16-20 tiếng đồng hồ. Đường đèo núi xuyên Himalaya rất khó đi. Buổi sáng ngày 6.3.2019 chúng tôi rời Dhunlikhel để về Lumbini. Thầy HD cho biết đường đi rất gian nan, nguy hiểm. Thầy hướng dẫn mọi người đọc kinh cầu nguyện trước khi lên đường và suốt một đoạn đường đi. Đây là quãng đường đèo nguy hiểm nhất.



 


Đoàn nghỉ một đêm ở Bandipur, một điểm du lịch nổi tiếng, trên con đường Tơ Lụa ngày xưa từ thế kỷ XIV, vẫn còn dấu tích những căn nhà cổ, bằng đất và đá. Khung cảnh rất đẹp. Một khu phố cổ trông giống như Hội An của mình, với nhiều quán cafe… nhà nghỉ, cửa hàng và khá nhiều du khách phương Tây đang thưởng thức cảnh thanh nhàn. Nhóm mình ghé quán, mua Sim Nepal, uống cafe… Loay hoay thế nào mình cho nhầm mấy muỗng muối trắng tinh vào cafe! NVTất phải đổi ngay cho một ly khác!



Thời gian không nhiều nên chỉ nghỉ lại một đêm. Sáng hôm sau, mọi người lại leo núi ngắm… mặt trời lên! Lạ, cứ hết ngắm mặt trời lên rồi ngắm mặt trời lặn. Mình nói với hai bạn trẻ, Liz và Vaz, mặt trời lặn cũng chính là mặt trời mọc đó thôi. Nơi này gọi là lặn thì nơi kia gọi là mọc. Mấy cháu hiểu ngay.



Mình và hai cụ… già ở nhà. Có một nhóm đang tu tập Raja Yoga. Trưa đoàn rời Bandipur để về Lumbini. Mình thử đếm có bao nhiêu đoạn quanh cùi chỏ khi xe lên xuống ngọn núi này (không kể những đoạn quanh không gắt). Trời ạ, 67 khúc quanh “cùi chỏ”! Hèn chi mà nghe người ta nói đi đoạn đường này chỉ có việc… tụng kinh và nhắm mắt!


Đã bắt đầu thấy có những dòng sông, cánh đồng lúa mì, bắp bên triền núi. Xe thỉnh thoảng dừng giữa đường cho khách buông xả! Mình không thấy có chút khó khăn trở ngại gì cho chuyến đường xa vất vả này, trừ kiểu lái xe bên trái thấy ớn!


Lumbini đã khá chiều. Hai con hạc vung cánh như múa và quang quác kêu lên như mừng rỡ đón thầy HD và khách đến thăm Việt Nam Phật quốc tự. Chùa có vẻ trang nghiêm, nhưng không được chăm sóc tốt lắm.  Có mấy chú khỉ nhảy nhót. Đêm nghe tiếng chó sói (?) tru. Nghe nói giáo sư Yves Durant đã hỗ trợ cho chùa cất hai dãy nhà có đến 108 phòng dành cho khách hành hương.



Trời vẫn còn lạnh, nhất là về đêm, 12-13 độ C.  Muốn tắm phải xách nước nóng từ nhà bếp lên lầu, khá xa. Mình đã ba ngày không tắm rồi. Khi nói với sư chú MN ở chùa như một lời… xin lỗi thì chú nói ở đây bảy ngày không tắm là thường đó bác ạ.  Các bữa cơm đều self-service, chay trường, cũng rất ngon. Đêm ngủ khá nhiều muỗi đến thăm.



 


 


 


 


 


Thân mến,


Đỗ Hồng Ngọc 


(còn tiếp)


 


 


 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 17, 2019 19:40

Chuyến về thăm đất Phật, Nepal.


 


Thư gởi bạn xa xôi, tháng 3.2019


Chuyến về thăm đất Phật, Nepal.

Bạn nghĩ coi, một ông già 80 tuổi, cả chục năm nay chưa hề đi đâu xa khỏi nhà… bỗng nhiên bay vèo đến Himalaya (Hi mã lạp sơn) ngắm núi tuyết rồi kêu lên núi tưởng là mây, mây tưởng là núi; sau có người chỉ cho rằng núi thì đứng yên một chỗ, còn mây thì lang thang bên dưới, núi thì có bờ có cạnh, còn mây thì bập bềnh…ngộ thiệt ha! Thế giới có 10 đỉnh núi cao nhất thì Nepal đã có đến 8, kể cả Everest, 8848m.


Chỗ mình ở nằm trong rặng Himalaya nhưng chỉ cao có hơn 2500m thôi, nghĩa là lùn tẹt, so với Everest nhưng cũng còn cao hơn Đà Lạt mình cả ngàn thước! Vậy mà đã lạnh buốt đầu tháng 3 này đối với mình rồi. Đêm 7-8 độ C, ngày 13-14 độ C. May mà có cái máy… sưởi. Đồi núi trùng trùng điệp điệp. Không khí đã nghe loãng. Thở nhẹ như bay bay.


Chuyến đi Nepal này khá bất ngờ với mình. Năm ngoái, hai vợ chồng bác sĩ Thủy và Phẩm – học trò cũ của mình – đang sống ở Úc mời thầy đi Nepal một chuyến cho biết “vì thầy là con Phật, cần về thăm xứ Phật một lần”. Cả hai, nay pháp danh là Diệu Thủy và Minh Sơn, đệ tử của thầy Huyền Diệu (HD), một vị thầy nổi tiếng đã xây dựng ngôi chùa Việt Nam Phật quốc tự đầu tiên ở Lumbini (Lâm Tì Ni), Nepal, nơi Phật đản sanh, Đến nay thì đã có 36 ngôi chùa của các quốc gia khác, kể cả Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Áo, Thụy sĩ… bên cạnh các chùa Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan, Myanmar, Lào, Kampuchia, Nhật bản… hình thành một khu vực chùa… Liên Hiệp Quốc! Thầy HD thì mình không lạ. Đã gặp đôi lần thoáng qua ở Saigon, dù chưa có dịp tiếp xúc nhiều.


Mình cảm ơn lòng tốt của các em, nhưng vẫn từ chối không đi. Nghe Himalaya đã ớn. Sợ độ cao. Sợ lạnh. Già yếu rồi. “Sức khỏe không cho phép”. Chưa kể thỉnh thoảng còn bị cơn Gút hành. Mang giày cũng khó. Làm sao leo trèo! Nhưng các em vẫn kiên trì mời mọc, nói là các em cùng một vài bạn đã… “tậu” được một cái Resort có tên là “Hạnh phúc” khá đẹp ở Himalaya, muốn khoe với thầy! Rồi lại có thư mời (viết tay) của thầy Huyền Diệu, gởi cho thầy Thích Tấn Tuệ mang về, mời bác sĩ ĐHN qua Nepal, Lumbini một chuyến. Sau cùng thì Diệu Thủy & Minh Sơn thuyết phục bảo thầy đừng lo, kỳ này có cả Ba Má em cùng đi, cả con gái và rể – một cậu trai Ấn độ, sanh ở Úc- cùng đi. Nghe có lý. Ba Má Thủy còn lớn tuổi hơn mình, đều chống gậy đàng hoàng cả rồi mà còn đi được kia mà. Dù gì cũng có bạn già. Thì đi vậy.


 



 


Ngày 2.3.2019 lên đường. Ngủ lại Bangkok một đêm khá vất vả vì khách sạn đón bê bối quá. Sáng 3.3 bay đi Nepal. Phi trường Kathmandu, thủ đô Nepal là một Mandala giữa thung lũng bao bọc bởi núi là núi. Bụi khói mịt mù. Xe cộ nhớn nhác- vì lái bên trái- làm mình cứ giật mình đánh thót. Người Nepal lắc đầu là OK. Gật đầu là từ chối. Chủ nhật là ngày làm việc. Thứ hai mới là ngày nghỉ. Giao dịch, ăn uống bằng tay phải. Tay trái để…. vệ sinh. Đàn ông có uy tín lớn trong nhà. Ban ngày đi làm gì không biết, nhưng chiều về, vợ mang nước rửa chân cho… Giữa phố thị có khu vực… dành làm nơi thiêu xác lộ thiên. Có nhiều tiếng quạ quang quác. Nepal có 26 triệu dân, gồm 100 dân tộc và 123 ngôn ngữ, ngôn ngữ chính là Nepali. Đồng tiền là Rupee. Một USD bằng hơn trăm rupee. Năm 2015 Nepal bị một trận động đất chết đến 8000 người, bị thương 20.000 và hằng trăm ngàn ngôi nhà bị chôn vùi. Khu vực resort mình đến ở – Himalayan Happiness Resort- thuộc vùng Dhulikhel, cách Kathmandu hơn 30 km, theo lời thầy HD thì trận động đất năm đó, núi lở, đè chết cả ngàn người!


Mình chỉ mang một cái túi xách, đựng mấy chiếc áo lạnh cho gọn nhẹ, để khỏi phải gởi hành lý lôi thôi. Làm visa ngay tại sân bay Kathmandu. Đóng 25 đô nếu đi dưới 10 ngày. Kèm một tấm hình chân dung mới chụp. Trước khi đi, mình cũng đã o bế chụp một tấm hình để làm visa, xấu quắc!


Xuống phi trường Kathmandu đã thấy có người đón. Anh Minh Phước Hòa và chú Minh Duyên cùng các nhân viên người Nepal khuân vác hành lý đợi sẵn. Bs Thủy và Phẩm từ Úc đã mang theo dụng cụ và thuốc men để khám chữa bệnh cho bà con dịp này. Minh Phước Hòa hiện là người quản lý resort, kiêm… đầu bếp, nấu cơm chay rất ngon. Mấy vị khách quý được choàng một chiếc khăn quàng vàng óng, nói là của Sư phụ gởi. Trịnh trọng ghê nơi! Phước Hòa cho biết từ sân bay về chỗ nghỉ ở Dhulikhel 36km, có khi phải đi 2 tiếng đồng hồ mới tới vì kẹt xe và đường đèo núi.  Nơi đây chỉ còn cách Tây Tạng ba chục cây số! Thầy HD đã đợi sẵn. Thầy nói thầy đã đi 27 tiếng đồng hồ bằng xe bus từ Bồ Đề đạo tràng (Bodh Gaya) về đây chờ mọi người. Bữa cơm chay chiều rôm rả. Resort khá đẹp, màu cam sặc sở, nhưng có lẽ vùng núi non này người ta phải vậy.  Chưa chi đã thử sức leo gần hai trăm bậc thang để về phòng nghỉ. Mình được ưu tiên ở một phòng… đẹp nhất, để nhìn quang cảnh thung lũng và núi tuyết của Himalaya xa xa.



 


Khí hậu, độ cao, với không khí khá loãng nhưng mình thấy dễ chịu, có lẽ nhờ khung cảnh trời đất bao la quá đẹp và nhờ thực hành thiền tập. Sáng sớm, sau giờ ngồi thiền và thể dục thường lệ , mình mở màn cửa ra thì ôi chao, một cảnh sắc tuyệt vời, mê mẩn. Mặt trời sắp ló dạng, tươm một màu tim tím rồi vàng hườm rồi hồng đượm… ở chân trời, cắt từng nét bởi đồi núi chập chùng và những ngọn cây chới với… Đã có tiếng thầy HD đến tận phòng thăm hỏi và mời đi uống trà, cafe sáng, ngắm… mặt trời lên!




Mình nhờ Minh Sơn và Varun chụp cho vài tấm hình kỷ niệm với thầy HD. Về tuổi đời thầy HD còn nhỏ hơn mình đến 6 tuổi, trông… đẹp trai, cao ráo, năng động, tháo vát, rất nhiệt tâm và có đường lối tu tập riêng, gọi là “mật pháp” đầy huyền bí với những “mầu nhiệm” “phép lạ” dựa trên kinh Pháp Hoa… “bất khả tư nghì”. Kinh Pháp Hoa không lạ với mình, vì đã nhiều năm nghiền ngẫm và viết cuốn “Ngàn cánh sen xanh biếc” nhưng cách thực hành của thầy HD thì cần phải tìm hiểu và lý giải thêm. Dĩ nhiên mình vẫn luôn tôn trọng và “kính nhi viễn chi” các cách thực hành pháp môn riêng của quý thầy.




Buổi uống trà, cafe trên terrace của resort Hạnh phúc sáng nay được thầy giới thiệu “phép lạ” của Minh Phước Hòa, người “quản lý” đang ngồi đối diện mình. Hòa là kỹ sư xây dựng, giám đốc vài công ty đang ăn nên làm ra rồi bị… lừa đảo thế nào mà đến nỗi đã treo thòng lọng để chui vào thắt cổ tự tử thì may mắn xem được bài giảng của thầy HD. Anh trở thành đệ tử “ruột” của thầy và hôm nay đang ngồi đây. Rồi thầy kể chuyên hi hữu các đệ tử đã nghe lời khuyên của thầy mà “mua” được cái resort này giá rất rẻ lúc vừa động đất… Như đã nói, thầy có cách kể chuyện hấp dẫn, ly kỳ… đầy huyền bí, mầu nhiệm, với tha lực từ các “Ngài” chung quanh hỗ trợ.  Mình nghĩ ở mức nào đó, thì có thể là một “tín ngưỡng” đáng quý (vì Tín tâm thì sẽ dẫn đến Niệm, Định, Huệ), nhưng vượt mức nào đó, dễ thành mê tín. Mình nói với thầy lâu nay các đệ tử thường tôn kính thầy không dám tỏ bày, tranh biện. Mình đề nghị có một buổi bàn về chủ đề này và đã thực hiện tại Lumbini, sau giờ cơm tối cùng với thầy và các đệ tử. Tại Resort hôm nay, mình trình bày về nền Y học hiện đại đang gặp những khó khăn gì, tại sao hướng về một thứ Y học toàn diện (Holistic Medicine) mà hai bác sĩ Diệu Thủy, Minh Sơn đang theo đuổi, đồng thời mình cũng nhắc về thứ bệnh thời đại S.A.D (Stress, Anxiety, Depression) mà phải chữa bằng Meditation, kể cả 21 bài học cho Thế kỷ 21 gần đây của Yuval Noah Harari theo đó, hai vấn đề nổi cộm: Công nghệ sinh học và AI (Artificial Intelligence= trí thông minh nhân tạo). Phải chăng, rồi đây công nghệ sinh học sẽ tạo ra phần “sắc”, còn AI sẽ tạo ra “thọ, tưởng, hành, thức” để có một chủng loại người với “ngũ uẩn” mới? Và Phật giáo sẽ làm gì trước vấn nạn này?



Sáng 4.3.2019, mình đề nghị thầy HD cho đi thăm làng, thăm vài nhà dân cho “biết sự tình”, bởi cái máu làm sức khỏe cộng đồng, y tế công cộng vẫn còn nặng lắm. Vui thay, Liz (Trúc), con của bác sĩ Thủy là một người đang làm trong lãnh vực này. Tiếng Việt cháu không rành lắm, lại sống với người chồng Ấn độ (sanh tại Úc) nên mình có dịp… ôn tiếng Anh lõm bõm của mình. Nào Community Involvement (tham gia cộng đồng), nào Intersectoral Cooperation (phối hợp liên ngành), nào Appropriate Technology (kỹ thuật học thích hợp)… Các bạn trẻ coi bộ khoái lắm và… bất ngờ về ông thầy của Mom mình ngày xưa!


Đến thăm một gia đình theo đạo Phật, rồi tiếp xúc với Hiệu trưởng một trường Tiểu học để chuẩn bị cho buổi khám sức khỏe cho bà con ngày hôm sau. Trên đường về, có một quán nước ven đường. Mình tạt vào cùng 2 bạn trẻ: Minh Tất và Minh Sơn. Cô hàng nước rất xinh, nói tiếng Anh lưu loát. Có cafe không? Chỉ có trà. OK. Xin đợi cho 5 phút. Cô gái Nepali 21 tuổi, đang học năm cuối Cử nhân quản trị kinh doanh.



Thân mến,


Đỗ Hồng Ngọc


(còn tiếp)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 17, 2019 06:11

February 28, 2019

Thư gởi bạn xa xôi (1.3.2019)

 


 


Thư gởi bạn xa xôi (1.3.2019)


“Về thu xếp lại…”

Đúng là lúc đầu, tập “tản văn” này mình lấy Tựa là “Một ngày kia đến bờ” và post lên dohongngoc.com một vài đoạn… để bạn bè mình xem thử. Không ngờ dù đã “rao trước” chỉ dành cho ” người cao tuổi”, trên dưới 70 mới nên đọc mà các bạn trẻ cũng đọc, rồi kêu bác đổi tựa đi, tựa này nghe đầy “hù dọa”, bác nghĩ coi, con để cuốn sách này trong túi xách, đặt trên bàn, hay cầm trên tay vào quán càphê thì người ta dòm con… ra sao?


Vì thế mình đã đổi Tựa là: “Về thu xếp lại…. ” cũng là một ca từ của Trịnh. Một bạn trẻ viết: Tựa này con nghe thân mật, gần gũi hơn, cũng nhắn nhủ đó, nhưng nhẹ nhàng, không “hù dọa”…


Thiệt ra, lúc đầu khi viết, nghĩ viết để mình mình đọc, để tự “nhắc nhở” mình: Gate, Gate, Paragate, Parasamgate… thôi.


Nhưng đúng là “Về thu xếp lại…” có vẻ nhẹ nhàng hơn, dù cuối cùng thì “thu xếp lại” cũng là để “đến bờ” mà, phải không?


Thế rồi, Nhà xuất bản Tổng hợp Tp. HCM, nơi trước đây đã in Gió heo may đã về, Những người trẻ … lạ lùng, Già ơi… chào bạn!… đã sẵn sàng để in “Về thu xếp lại…”.


Gởi bạn cái bìa… coi trước cho vui.


Thân mến,


Đỗ Hồng Ngọc.


 



 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 28, 2019 20:55

February 26, 2019

“Về thu xếp lại…” (kỳ 5, tiếp theo và hết)

 


 


“Về thu xếp lại…”

(kỳ 5, tiếp theo và hết)


Đỗ Hồng Ngọc


 


tranh Lê Ký Thương


 


9.      Trời cao đất rộng một mình tôi đi…


 


“Đời như vô tận, một mình tôi về,


 Một mình tôi về với tôi…”


 (TCS).


 


Ở một nơi không có thời gian, không có không gian, không còn ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả gì nữa cả, thì nơi đó chính là Chánh định (Samadhi). Thiền là “kỹ thuật” để đạt tới chánh định.


Bí quyết thực hành căn bản nằm ở Tứ niệm xứ (Satipathana), bốn lãnh vực quán niệm. Có rất nhiều phương pháp hướng dẫn cụ thể trong Tứ niệm xứ. Nhưng tôi chỉ chọn một phương pháp đơn giản nhất nhưng cũng sâu sắc nhất, khoa học, sinh lý học đúng đắn nhất, không sợ “tẩu hỏa nhập ma” lúc thực hành. Đó là Anapanasati: Quán niệm hơi thở (Nhập tức xuất tức niệm/ An-ban thủ ý). Chỉ cần niệm (nhớ, nghĩ) hơi thở vào hơi thở ra… đủ “thấy biết” kiếp người chỉ nằm trong từng hơi thở đó. Người ta cứ sống chết mỗi phút giây như vậy mà chẳng biết. Khi niệm, tức nhớ nghĩ đến cái thở, cái sống cái chết thì thấy… thì ra ai cũng như mình, cũng hít thở như mình, rồi cũng… chết ngủm như mình. Tất cả các sinh vật đều vậy. Từ đó mà có Từ, có Bi. Từ Khí đã chuyển thành Trí. Anapanasati là đã đủ để thực hành (Ana: thở vào; Apana: thở ra; Sati: niệm), nhưng theo tôi cần để ý đến một điểm quan trọng khác nữa. Đó là khoảng trống – một quãng lặng – ở giữa lúc thở ra mà chưa thở vào. Nó thực sự là một quãng “chết” (không thở). Để cho dễ nhớ trong thực hành, tôi đặt tên nó là “Pranasati” (Pra=trước; Ana=thở vào; Sati=niệm). Trước thời thở vào có nghĩa là sau thời thở ra. Thở ra vĩnh viễn mà không thở vào nữa chính là cái chết. Đặt niệm vào quãng lặng đó để “thấy biết” (cảm nhận) một cái chết ngắn. Như là một sự “tập chết”. Trở về thời bào thai trong bụng mẹ. Ở đây là mẹ Như Lai, “bào thai Như Lai”. Loài người có trí thông minh vượt trội là nhờ vỏ não phát triển, với hàng trăm tỷ tế bào thần kinh, hàng trăm nghìn tỷ tỷ các mối nối… dày đặc nhưng sự điều hành hô hấp của ta lại không nằm ở vỏ não. Nó nằm ở hành tủy, dưới vỏ não. Các trung khu hô hấp nằm ở đó, điều hành sự thở. Vì thế mà dù vỏ não không hoạt động (ngủ, hôn mê…)  thì sự thở (hô hấp) vẫn được duy trì. Khi tập trung (sati) vào hơi thở là ta đã giải phóng cho vỏ não được nghỉ ngơi! “Tâm an” nhờ đó.


Thực ra ở giai đoạn thiền cao hơn, thì chẳng còn cần phải để ý, đặt niệm vào hơi thở vào, hơi thở ra, hay quãng lặng gì nữa cả. Thở sẽ tự động điều chỉnh theo nhu cầu năng lượng của hành giả. Nhu cầu năng lượng này rất thấp nên nhiều khi ta thấy hành giả thở như “sợi chỉ”, gần như không cần thở nữa. Cảm nhận lúc đó như tan vào hư không. Không còn ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả gì nữa.


“Quán niệm” hơi thở chính là “thiền quán” (vipassana). “Quán” là không còn “dõi theo” hơi thở đơn thuần nữa (giai đoạn chánh niệm) mà đã có sự phân tích, soi sáng (quán chiếu) dưới nhiều góc cạnh khác nhau để nhìn cho ra những điều mà bình thường không “thấy biết”. Cái thấy biết bấy giờ đã vượt khỏi cái trình hiện, cái giả tướng bên ngoài để nhìn được cái thực tướng bên trong, bờ bên kia.


Vi, tiếp đầu ngữ có nghĩa là “một cách khác”, “một cách đặc biệt”, còn passana là “thấy”, là “biết”. Vipassana là thấy biết một cách khác, một cách đặc biệt!


Một chiếc lá vàng rơi, người thi sĩ có thể thấy cả mùa thu, thấy con nai vàng ngơ ngác, thấy mùa thu không trở lại nhưng người có quán chiếu lại thấy sự vô thường, vô ngã, sự bất sinh bất diệt…


Khi vào sâu trong định, hành giả sẽ không cảm nhận mình thở nữa. Hơi thở nhẹ gần như ngưng. An tịnh. Hòa tan. Tan biến. Đó chính là quãng lặng ở cuối thì thở ra – thường kéo dài, thong dong, nhẹ nhàng, yên tĩnh, vì không tốn năng lượng. Như chim lượn bay, không phải vỗ cánh, như xe ngon trớn chạy ở số không, không tốn nhiên liệu! Đó chính là giai đoạn “Prana”. Khi cơ thể đã chùng xuống, thả lỏng toàn thân thì tiêu hao năng lượng đã giảm một cách đáng kể rồi thì cũng sẽ bớt nhu cầu phải cung cấp các dưỡng chất qua thức ăn! Ăn ít mà vẫn đáp ứng thì cơ thể đỡ vất vả, các tế bào đỡ hùng hục làm việc. Các nghiên cứu trên sinh vật cho nhịn đói vừa phải thì thấy sống lâu hơn và trẻ hơn!


Ai có thể thở giùm ai? Ai có thể thiền giùm ai? Cho nên chỉ có thể nương tựa vào chính mình thôi. “Duy ngã độc tôn” thôi vậy!


Thiền tập là đẩy cái “thân hơi” ra khỏi cái “thân xác”. Thân xác là cát bụi, là tứ đại, đất nước gió lửa, là cái “sắc”, thô phù, còn “thân hơi” là phần “thọ tưởng hành thức” trong cái gọi là “ngũ uẩn” của cái ta .


Có lần tôi viết:


Lắng nghe hởi thở của mình


Mới hay hơi thở của nghìn năm xưa


Một hôm hơi thở tình cờ


Dính vào hạt bụi thành ra của mình


Của mình chẳng phải của mình


Thì ra hơi thở của nghìn năm sau”...


(ĐHN)


Nói tình cờ chớ chẳng phải tình cờ chi đâu, do duyên, do nghiệp cả đó thôi. Nói cho cùng thì cái thân hơi – hơi thở – kia là của ngàn năm trước, ngàn năm sau, chớ chẳng phải của ta, riêng ta gì đâu. Đừng tưởng bở! Nó đến nó đi vô tình, ngạo nghễ. Nó Như lai. Không phân biệt.


 


Tôi ngờ rằng thiền là kết quả của một tình trạng “thiếu dưỡng khí’ tế bào. Ở một mức độ vừa phải, sự thiếu dưỡng khí đó cho phép tế bào nghỉ ngơi. Khi cơ thể không cần quá nhiều năng lượng dùng cho sự co cơ (tonus musculaire), khi trí não (vỏ não) không còn tiêu tốn quá nhiều năng lượng cho những chuyện không đâu, thì cơ thể không cần phải hấp thu nhiều Oxy nữa, thở sẽ rất nhẹ, tối thiểu, chỉ để duy trì chuyển hóa cơ bản (métabolisme basal) lúc này cũng đã giảm thiểu. Các tế bào toàn thân được “xả hơi’ không phải vất vả, hùng hục làm việc. Mitochondrie (bộ máy sản xuất năng lượng trong từng tế bào) cũng sẽ giảm hoạt động, nghỉ ngơi. Tình trạng đó có thể xem như cơ thể đang sống trong trạng thái yếm khí, co cụm lại, thành một “bào tử” (spore) để tự bảo vệ, sống dai, khó bị hủy bởi môi trường. Nhiều hành giả thích tu tập trên núi cao, ở đó Oxy rất loãng, và họ thường không sợ lạnh, có khi họ ngồi thiền giữa tuyết giá như ta từng biết.


Trạng thái “thiếu oxy” giống như bệnh nhân bị sốt rét Plasmodium falciparum, vỡ hồng cầu hàng loạt. Tôi có kinh nghiệm sốt rét rừng trong nhiều năm, ở vùng Bình Châu, Láng Găng, Bưng Riềng, Rừng khỉ… khi theo cha tản cư về sống ở đó. Khi ông mất, tôi mới về thành phố. Những cơn sốt rét nhức đầu, nóng dữ dội rồi run bần bật, toát mồ hôi lạnh ngắt… và sau đó thấy sảng khoái, thân thể nhẹ nhàng, lâng lâng như đi trên mây do thiếu máu tán huyết (!). Dĩ nhiên, đó là do không còn đủ lượng hồng cầu để chuyên chở oxy cho cơ thể. Mỗi cơn sốt rét  thường kéo dài cả tiếng đồng hồ, sau đó, cơ thể rả rời, chóng mặt thường xuyên vì thiếu máu. Nhiều năm sau, coi như sống sót, lá lách sưng to. Sau này, khi đã là bác sĩ, tôi khám bệnh cho mấy bé ở vùng sốt rét về chỉ cần nghe người nhà nói bé bị “thư” một con rùa vào bụng thì đã biết là sốt rét, lá lách sưng to, có ngằn, có cạnh, lớn độ 3, độ 4 có thể vượt qua rún, sờ thấy như mu một con rùa đang bơi trong ổ bụng vậy.


Điều muốn nói ở đây là cái cảm giác “sảng khoái” lâng lâng, bay bổng, sau cơn sốt rét như thế, do hồng cầu bị vỡ (tán huyết), do cơ thể thiếu Oxy chẳng khác hành giả ngồi thiền, có thể gọi là “thiền duyệt” chăng?


Thiền sâu sẽ không còn vướng vào hơi thở vào (ana) thở ra (apana) hay quãng lặng (prana) gì nữa. Lúc đầu có năng có sở. Năng là chủ thể (hành giả), sở là đối tượng (hơi thở). Khi vào sâu trong định, chánh định (samadhi), thì không cần để ý gì đến hơi thở nữa. Kệ nó. Nó biết phải làm gì. Nghĩa la chẳng còn “năng” còn “sở” gì nữa, gọi là “năng sở song vong”. Chẳng còn trâu chẳng còn người chăn gì nữa cả. Trâu cũng mất mà người chăn cũng mất.


“Tam-ma-địa”, phiên âm Samadhi là Chánh định trong Bát chánh đạo. Nghe cứ rờn rợn như “đất của ba con ma” nào đó vậy.  Nhưng hiểu “đất của ba con ma” cũng hay chứ! Ma tham, ma sân và ma si.  “Một ông Phật hiện ra / Ba con ma biến mất!” như một bài đồng dao trẻ con thường hát! Nơi nào ông Phật hiện ra thì “ba con ma” tham sân si phải biến mất thôi! Hay nói cách khác, nơi nào có “ba con ma” hiện ra thì lập tức có ông Phật xuất hiện. Nếu chẳng có ba con ma Tham, Sân, Si thì Phật hiện ra làm gì cho mất công! Cho nên muốn biết Phật ở đâu thì hãy tìm trong… tham sân si. Tham sân si càng lớn, Phật càng to.


Mỗi tế bào là một sinh vật. Chúng cũng sanh trụ dị diệt. Tế bào sinh vật có bộ phận tự sản xuất năng lượng để sử dụng cho mình. Oxy được mao mạch mang đến tận nơi, thức ăn dưới dạng đường glucose mang đến tận nơi, và mitochondrie lo sản xuất năng lượng. Hôm nào thiếu Oxy thì sẽ tìm cách xoay sở để có năng lượng tối thiểu cần thiết dưới một dạng chuyển hóa khác. Một vài loại vi khuẩn khi thiếu Oxy thì co cụm lại, gom tụ lại để tồn tại. Gọi là những “bào tử” (spore). Chúng sống rất dai và bền vững ở môi trường thiếu Oxy đó. Thí dụ loại vi khuẩn clostridium. Ta biết sự hô hấp thực sự xảy ra trên từng tế bào chớ không phải ở phổi. Phổi chỉ là cái ống thụt… dùng để hút khí, bơm khí, nhờ máu chuyển khí đến từng tế bào. Cho nên nói rằng trong Thiền, ta có thể đưa tâm ta, ý chí ta đến từng tế bào để an ủi, khuyến khích, chữa trị khi cần không phải là chuyện nhảm nhí.


Thú vị là thai nhi trong bụng mẹ không cần thở! Suốt chín tháng mười ngày nằm đó, lớn nhanh như thổi mà không cần thở lấy chút nào! Chỉ khi sanh ra khỏi bụng mẹ mới bắt đầu hơi thở đầu tiên bắng tiếng “khóc chào đời” đầy thi vị.


Thai nhi cũng có phổi, nhưng là một cái phổi xẹp lép, để dành đó, như người lính nhảy dù đeo trên lưng chiếc dù xếp gọn, sẵn sàng bung ra bọc gió khi tung mình ra khỏi phi cơ. Tất cả nhu cầu năng lượng để hình thành và phát triển của thai nhi được cung cấp từ bào thai của mẹ.


Vì sao Khí mà có thể trở thành Trí? Khí trong trường hợp này chỉ là một phương tiện, là công cụ để đạt đến trạng thái Vô Ngã. Chánh tri kiến, “thấy biết” ở đó. Cho nên Chánh định sẽ dẫn đến Chánh kiến. Từ đó sẽ có Chánh tư duy, nghĩ đúng và làm đúng, sống đúng với… chánh pháp, tự tại, an vui.


Nhiều hành giả chưa vượt qua được cái ngưỡng để “thấy biết” trọn vẹn các pháp. Vượt qua cái gì? Qua bờ bên kia. Paramita. Vực thẩm. Hố thẩm. Đó là điểm không đòi hỏi tốn năng lượng, là điểm giao thoa giữa âm và dương, áp suất trong hô hấp bằng không. “Thân nhẹ nhàng như mây”. Điều quan trọng, ý thức vẫn sáng suốt, không phải là hôn mê, vô thức, mà hoàn toàn tỉnh giác, thấy mình hòa vào vũ trụ, vũ trụ với mình như một. Thế, tôi có đạt tới điểm này chưa? Dạ thưa, chưa!


Đó là điểm mà Quán Tự Tại Bồ-tát đã “chiếu kiến ngũ uẩn giai không” (thấy rõ ngũ uẩn đều không có tự tánh riêng) nên đã “độ nhất thiết khổ ách” (vượt tất cả mọi khổ đau ách nạn) vậy.


Chẳng ai có thể thở giùm ai được đâu. Chẳng ai có thể “thiền” giùm ai được. Cho nên phải quay về nương tựa chính mình “một mình tôi đi, một mình tôi về… với tôi” mà thôi.


Phải “duy ngã độc tôn” thôi!


 


…………………………………………………………………………………….


 


 


10.  Để lại trong cõi thiên thu hình dáng nụ cười…


 


“Bên trời xanh mãi 

Những nụ mầm mới…” 


(TCS)


Hỏi vậy chớ học Phật mấy năm qua thì đựơc gì? Được nhiều lắm chứ. Thứ nhất là ăn được, ngủ được, tức ăn ngon, ngủ yên, làm việc, nghiên cứu giảng dạy viết lách ít mệt mỏi, suy nghĩ tập trung tốt… Sau đó biết thưởng thức cuộc sống hơn, bớt lo toan, bớt tính toán, bớt sợ hãi… Nhìn mọi sự thoáng hơn, biết con người có đến năm mắt (ngũ nhãn), biết con người có đến sáu nẻo đường (lục đạo) để mà chọn lựa tùy nghi. Biết những phương pháp thực hành, rèn luyện thân tâm, như Tứ diệu đế, Bát chánh đạo, Lục độ ba-la-mật các thứ và thử nghiệm trên chính bản thân mình rồi rút ra bài học thực tiễn, không lý thuyết viễn vông. Nghiền ngẩm, thể nghiệm và sau đó chia sẻ cùng người khác. Đó là một cách học tốt. Càng về sau tôi đọc các kinh sách thấy trơn tru, dễ dàng hơn, biết chỗ đúng sai, biết chỗ bày đặt, thêm thắt, phiền não, mê tín dị đoan… Kinh sách chân chính luôn có sự nối tiếp hay rộng mở một cách nhất quán, không phân biệt. Thấy tám vạn bốn ngàn pháp môn tông phái gì đó chỉ là một. Đọc kinh sách thấy thú vị như đọc truyện tình cảm, trinh thám, kiếm hiệp thuở xưa. Khi viết ra những điều ngẫm ngợi, thể nghiệm, thì đó là một cách để học hỏi sâu hơn.  Mỗi khi bí thì lạ thay như được ai đó chỉ bày, qua một sự kiện, một bài viết, một gặp gỡ ngẫu nhiên tình cờ nào đó làm tôi cũng chưng hửng.


Cái nền tảng kiến thức y học cũng giúp soi sáng nhiều điều, và ngược lại học Phật đã giúp tăng cường hiệu quả cho y học nhờ tiếp cận toàn diện, thân tâm, khổ đau, bệnh hoạn…  Các “hạnh bồ-tát” không xa lạ với tham vấn trong y học, tâm lý học. Những hình tượng Bồ-tát gần gũi biết bao! Nào trung thực, chân thành, “ai thấy cũng vui, ai gặp cũng mừng” như Dược Vương; nào tôn trọng, không phân biệt đồi xử, như Thường Bất Khinh; nào lắng nghe, thấu cảm, ngàn mắt ngàn tay như Quán Thế Âm với nhành dương liễu, bình tịnh thủy… Rồi nào “tam Thân tứ Trí” để rèn tập cho có diệu quan sát trí, nhất thiết chủng trí, để nhìn thấy  rõ Pháp thân với tâm bình đẳng. Rồi nào Từ nào Bi nào Hỷ nào Xả… Nhìn rõ cái vô thường, khổ, không, vô ngã, duyên sinh, thực tướng vô tướng… trong mọi sự vật, hiện tượng. Các pháp vận hành tự nó tròn đầy trong cuộc sống. Điều quan trọng của học Phật là hành, là “văn tư tu”, là giới, định, huệ. Có hành thì mới nên hạnh, có hạnh mới nên…duyên.


Tôi thấy mình đến với Phật giáo không chút ngại ngần, khó khăn, mà như một sự trở về chốn thân quen. Tôi hiểu Phật vì sao phải dạy từng bước với Tứ diệu đế, Bát chánh đạo, Thập nhân duyên… các thứ, để rồi rốt cuộc khẳng định “Ta chưa từng nói một lời nào, chưa từng dạy một điều chi. Mọi thứ đều sẵn đó rồi!”. Vô trí diệc vô đắc (Tâm kinh). Tôi hiểu vì sao Phật tự xưng mình là Như Lai, bởi chỉ có xưng là Như Lai thì mới không còn thấy có ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả gì nữa! Phật là Như Lai nhưng Như Lai không phải Phật. Như Lai là Như lai.  Nhân vô ngã và pháp vô ngã như hai cánh của một con chim hồng bay vút vào hư không. Từ đó, tôi chú ý những chuyện lặt vặt của Phật như cách ăn, cách ở, cách đi lại, nói năng… nôm na là cách sống. Nhờ nền tảng y học, tôi thấy vô thường, vô ngã, duyên sinh… không khó. Đừng tìm kiếm đâu xa cho mất công. Cứ “nương tựa chính mình” là đủ. Những môn Cơ thể học, Tế bào học, Sinh lý học, Di truyền học, Phôi thai học, Bệnh lý học… qua cái nhìn Phật học cũng đủ để giúp tôi “thấy biết” (Tri kiến).


Tôi “đặc biệt” coi kỹ cách Phật dạy con… ruột của Ngài: La-hầu-la ra sao. La-hầu-la là người con huyết thống, lúc Phật còn là Thái tử, quy y theo Phật từ lúc 7 tuổi. Phật giao ngay cho ông “thầy dạy kèm” là Xá-lợi-phất, vị đệ tử trí tuệ bậc nhất của Ngài. Ngài không giao cho Mục-kiền-liên, đệ tử bậc nhất về thần thông vì sợ La-hầu-la mê thần thông, quên trí tuệ.


La-hầu-la được dạy thở trước hết, sau đó mới dạy cách nhìn đời: “không phải của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta” để từ bỏ tham sân si, đi vào Giới Định Huệ. Thở là cho thân và cách nhìn đời là cho tâm. May thay, tôi đến với Phật không có thầy. Nếu có thầy thì đã phải suy nghĩ thực hành theo thầy! Không có thầy nên tôi cứ nhởn nhơ như không. Chỉ cần nắm lấy cái cốt lõi.  Tuy vậy, tôi phục Duy-ma-cật, Huệ Năng, Tuệ trung Thượng Sĩ, Trần Nhân Tông… Họ đúng là Bồ-tát, đem đạo vào đời, đem an lạc hạnh phúc đến cho mọi người. Tôi học Phật thấy… không khó.  Tôi học Tâm kinh và thấy mình hiểu Bát Nhã (Prajna paramita) không khó.  Không có tự tánh riêng biệt, Duyên sinh, Vô ngã, Thực tướng vô tướng… Cho nên núi Tu-di to đùng kia có thể cho vào đầu hạt cải, nước bốn biển mênh mông kia có thể cho vào một lổ chân lông, “bố thí thân mạng” mỗi ngày nhiều như cát sông Hằng… không khó hiểu. Prajna (Bát nhã) là cái thấy biết “như thật”, cái thấy biết hiện tiền, thấy tròn đầy sự vận hành của pháp, không có sự can thiệp của cái ta tích cóp, cái ta học tập, cái ta thành kiến.  Pra là trước; Jna trí thức. Prajna là một “cái biết trước cái biết”. Cái biết Prajna (Bát Nhã) kia có thể dẫn thẳng tới… vô vi, trực tâm. Cho nên “tri kiến lập tri tức vô mình bổn”: cái biết khi đã hình thành (lập tri, thành kiến) là nguồn gốc của vô minh. Chẳng phải do vì “thành kiến” (lý tưởng nọ kia, triết lý này khác… anh sai tôi đúng) mà loài người vẫn cứ đánh nhau, giết nhau với những danh từ đao to búa lớn. Cho nên mới nói “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (đừng có trụ (dựa) vào đâu cả để mà sanh cái tâm)!  Đừng có sinh sự, đừng có can thiệp vào cái “thanh tịnh bổn nhiên” vốn sẵn có kia!


“Cái thấy chỉ là cái thấy/ cái nghe chỉ là cái nghe”… thiệt ra chỉ muốn nhắc một điều: cái thấy nó vậy đó, do căn với trần tiếp xúc nhau. Chấm hết. Tại cái “ta” (ngã) xen vào mà sinh sự. Cái “ta” luôn phê phán, nhìn ngắm với những cặp kính màu khác nhau để rồi chí chóe, thượng cẳng tay hạ cẳng chân. Khi cái thấy do “Ta” thấy. Nó sẽ khác với người khác thấy. Nó hay hơn, giỏi hơn, tốt hơn người khác. Khi cái thấy trần trụi căn với trần, thì ai cũng như ai. Hết chuyện. Vì thế, thật đơn giản khi tách cái “tâm’ ra, tức là tách cái “của ta, là ta” ra thì nó trơ trụi, bình đẳng. Trần Nhân Tông nói “ Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền” là vậy.


Tuy nhiên, vẫn phải đi từng bước, thực hành từng bước. Không cần phải phân biệt tông này phái nọ môn kia. Phải có thực hành mới “thấy” được bên trong. Mới reo lên “Không ngờ…, Khong ngờ…!” được như Huệ Năng.


Thực ra, Phật chỉ dạy có 2 điều: Khổ và Diệt khổ. Nhận diện được khổ để từ đó có phương pháp Diệt khổ tận gốc chẳng khác gì thầy thuốc chẩn đoán đúng bệnh và điều trị đúng, đem lại an vui hạnh phúc cho con người. Kinh sách nào, pháp môn nào dạy ta khiến ta… thêm khổ, thêm phiền não thì chắc chắn không phải của Phật rồi!


 


Nỗi khổ lớn nhất của kiếp người là sợ. Sợ… chết. Ta từ đâu đến, ta sẽ đi về đâu… là những câu hỏi không lời đáp từ ngàn xưa. Câu trả lời đơn giản nhất có lẽ là ta đã từ bào thai mẹ mà đến và sẽ trở về… “bào thai Như Lai”. Quả có một sự giấu nhẹm thú vị. Ta bỗng dưng mà có thì cũng sẽ bỗng dưng mà không. Nhưng có và không lại là một. Thú vị ở đó. Xà quần chút chơi vậy thôi. Nó sẽ vận hành theo pháp. Sanh trụ dị diệt. Sanh chẳng phải sanh mà diệt chẳng phải diệt. Nên mới bảo “bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm” (Tâm kinh). Hằng tỷ tinh trùng loi ngoi và một con duy nhất chui vào quả trứng. Có tình cờ không? Có xếp đặt không? Stefan Hawking nói có. Có xếp đặt đó, nhưng không có người xếp đặt. Vũ trụ còn 95% khoảng đen chưa khám phá. Nàng Hằng Nga chỉ là cục đất, chú Cuội là cục đá. Đất với đá thì cũng như nhau. “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau” là vậy. Mỗi hạt cát là một vũ trụ. Cứ khám phá nữa đi. Bên dưới hạ nguyên tử sẽ là những hạt và những sóng, rồi dưới nữa thì không có gì cả: “Bổn lai vô nhất vật” (Huệ Năng). Không có gì cả mà có tất cả. Thú vị chứ. Đừng nhìn đâu xa. Nhìn vào ta thôi. Nó vậy đó. Không phút giây nào tĩnh lặng, nhưng hoàn toàn tĩnh lặng. Một thứ thanh tịnh bổn nhiên.


Vô thường dễ thấy mà vô ngã thì khó. Vì cái ngã đã được bồi đắp xây dựng từ thuở còn trong bụng mẹ cho đến lúc vào đời, được nhào nặn trong một môi trường ở bầu tròn ở ống dài, tích tụ, nhồi nhét đủ kiểu. Thoát ra thật khó. Tham ái và chấp thủ dày đặc, như cái kén bọc kín nhiều lớp. Phủi bỏ không dễ. Khi Stephen Hawking nói có sự “xếp đặt” nhưng không có người xếp đặt (có designe, nhưng không có designer) thì ông đã thấy pháp. Mà thấy Pháp tức là thấy Phật. Pháp nó tự vận hành. Không có người vận hành. Không có ta. Cho nên Phật dạy cách khác đơn giản hơn: Cái thấy chỉ là cái thấy. Cái nghe chỉ là cái nghe. Chỉ vậy. Khi có cái “ta” xen vào: Ta thấy, ta nghe… thì đã sinh sự. Có ta hay không có ta thì pháp nó cũng cứ vận hành như vậy. Nhưng bằng cách nào để sống được “cái thấy chỉ là cái thấy”? Vì ta không phải là gỗ đá, vô tri. Vấn đề chỉ ở chỗ không dính mắc. Cô hoa hậu xinh đẹp thì thấy là xinh đẹp, nhưng dính vào thì tiêu!


Tóm lại, tại vì có cái ta mà phát sanh phiền não, khổ đau. Pháp vận hành theo pháp, chẳng vì ta. Chẳng vì ta mà hoa nở hoa tàn. Nếu không can thiệp thì nó vậy là nó vậy. Sự phân biệt chính là can thiệp, dính mắc. Ta là Tâm, là lòng muốn, lòng tham dẫn đến sân mà gốc thì từ si mà ra. Thuốc đã sẵn có. Phật giáo nhìn cái chết là sự vận hành của pháp. Chết là sự chấm dứt tạm thời của một hiện tượng tạm thời, cái sống. Cho nên chết không phải là hết. Cái sống, một hiện tượng tạm thời và vận động không ngừng, vô thường thú vị, một bonus, nên cái chết cũng là vô thường, một bonus khác.


Để lại cái gì? Thiên thu là bao lâu? Nào ngã nào nhân nào chúng sanh nào thọ giả? Cái còn lại, ấy là nụ cười. Nụ cười không phải từ khóe miệng. Không phải từ ánh mắt. Mà từ trăm ngàn tỷ tế bào, nhiều như cát sông Hằng, hàng ngày vẫn bố thí. Nụ cười vừa an vui vừa từ bi.  Thôi, đừng làm phiền ta nữa nhé. Biết tỏng cả rồi. Hù dọa nhau chi. Khi đã tay bắt mặt mừng, chuyện trò rôm rả cùng Đa Bảo trong tháp báu hôm nào nơi núi Thứu.


Khi hiểu thêm về Phật, tôi tự nhiên thấy gần gũi lạ thường. Nhiều lúc tôi thấy mình cũng muốn nói: À, hoá ra là thế. Hèn chi mà không thể nói ra được, không muốn nói ra cho ai biết, không dám nói ra cho ai biết. Rồi cũng cảm nhận được là không phải chỉ một mình mình thấy, một mình mình biết mà nhiều lắm, từ xưa đến nay vô số người đã thấy, đã biết và cũng không nói ra được, chỉ có họ, khi gặp nhau mới trao đổi vài từ với nhau đã đủ thấy người kia và mình đang ở đâu. “Văn tự” hình như rất hạn chế ở đây, rất dễ gây nhầm lẫn và chính vì thế mà Phật phải dùng một cách nói gián tiếp hoặc dặn đi dặn lại nhiều lần, nói vậy mà không phải vậy “tức phi thị danh” thôi nhé.


Khi chưa hiểu thì tất cả những điều này có vẻ bất thường, kỳ cục, vô lý, khi hiểu được rồi thì thấy nó quá rõ ràng, chính xác, hoàn toàn hợp lý. Nhờ đó, có thể thấy xuyên suốt những pháp này pháp no, tông này tông kia chẳng qua cũng chỉ là một.


Không phải là lý thuyết suông, mà là sự thực nghiệm, thể nghiệm ngay trên bản thân mình.  Hãy đến và nếm thử. Mô tả không được! Xưa nay chưa ai mô tả nổi một sự “cực khoái”. Nếm trải mới biết.


Nụ cười ấy là sự giác ngộ, giải thoát. Đã thấy biết Như Lai. Đã sống cùng Như Lai. Đã là Như Lai. Ai đã thấy biết Như Lai, đã sống với Như Lai, đã là Như Lai mà không cười như vậy?


 


Đỗ Hồng Ngọc


Saigon, Kỷ Hợi, tháng 2.2019


***


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 26, 2019 01:22

February 24, 2019

“Về thu xếp lại…” (kỳ 4)

“Về thu xếp lại…”

(kỳ 4)


Đỗ Hồng Ngọc


 


tranh Lê Ký Thương


 


7. Chìm dưới sương thu là một đóa thơm tho…


Chìm khuất trong ta


Một lời nói vu vơ


Chìm dưới sương thu


Là một đóa thơm tho…”


(TCS)


 


Tôi ngờ rằng có một phần thưởng quý giá nào đó cho kiếp nhân sinh, mà thiên nhiên đã mất công tạo ra, không thể nào có một mục đích duy nhất là làm cho nó phải khổ đau từ lúc sanh đến lúc bệnh, lão và tử. Điều này hoàn toàn vô lý. Bởi nếu vậy thì thiên nhiên đã không tạo ra vạn vật, nhất là sinh vật. Thử nhìn xem, vạn vật luôn đẹp đẽ, sinh vật luôn đẹp đẽ muôn màu muôn sắc, Hai con bọ ngựa yêu nhau, ve vãn nhau, giao hợp, xong con đực chết ngay và trở thành thức ăn cho con cái. Con cái mang cái trứng đã thụ tinh, nuôi nấng và sinh sản, xong cũng chết. Nếu chỉ làm cái việc giao hợp rồi chết như con bọ ngựa hay những con ong đực, thì nhiệm vụ duy nhất của nó chỉ là làm vật trung gian, truyền giống, khi hoàn thành nhiệm vụ thì không có lý do gì để tiếp tục tồn tại. Vậy thì ít ra phải có chút tưởng thưởng gì cho cái vất vả của nó chứ? Có lẽ vì thế mà thiên nhiên đã tặng cho nó chút khoái lạc trong lúc giao hợp. Nhưng sự giao hợp là sự truyền trao chủng tử, còn chuyện “bố thí thân mạng” kia có ý nghĩa gì không? Có được tưởng thưởng gì không?


Chẳng hạn, ăn là một hiện tựơng để tạo năng lượng duy trì sự tồn sinh và phát triển cho đến lúc có thể “hoàn thành nhiệm vụ”, vậy mà thiên nhiện còn phải tưởng thưởng một chút khoái cảm cho cái sự ăn. Nếu không, đâu có sinh vật nào ăn làm chi cho mệt. Nó phải đổ mồ hôi sôi nước mắt để kiếm lấy cái ăn, phải tranh giành vất vả để có cái ăn và phải trăm mưu ngàn kế để tìm cách ăn… cho nhiều. Từ một con mối mù lòa, rào rào ăn cột gỗ, đến một con bọ hung, hùng hục trong đống phân, tranh giành chí chóe để vo tròn được một cục phân to gấp đôi gấp ba thân hình chúng, khuân đi, đào lỗ, chôn giấu, để dành cho con bọ hung cái đang đẻ trứng có thức ăn dư trữ mà nuôi con. Các con thú – từ loại hung dữ ăn thịt sống đến những con thú hiền lành ăn cỏ – thì mạnh được yếu thua, con này làm mồi cho con khác. Có một điều ngộ nghĩnh duy nhất là con nào cũng hết lòng hết sức vì con của mình, vì sự tồn vong của nòi giống mình. Cây cỏ cũng vậy, cũng đưa những cái vòi bạch tuộc của nó ra mà hút lấy nhựa nguyên, chuyển thành nhựa luyện nuôi lá nuôi hoa, rồi ra quả ra hạt, truyền giống. Lá cứ rào rào rơi xuống làm phân cho  lá khác vươn ra. Lá rơi có buồn không?  Chắc là không. Chuyện cây cỏ hút nước, hút phân chắc cũng phải có cái gì sảng khoái, không, dại gì hút cho mệt. Con mối nhai gỗ rào rào chắc phải có cái gì sảng khoái, không, nhai làm gì cho mệt. Rồi con bọ hung giànhh nhau cục phân cũng phải có cái gì chứ… Con người cũng không khác. Các bữa ăn phải đem lại sự sảng khoái con người mới chịu ăn, và từ chịu ăn mà chịu làm, chịu giành giựt đấu đá, chém giết nhau… lúc nào cũng muốn muôn năm trường trị, nhất thống giang hồ, trường sanh bất tử chứ. Cái ăn thì đã vậy, ngủ cũng phải có sự sảng khoái để tích lũy năng lượng, phục hồi sức sống. Con nào cũng ngủ, cách này cách khác. Có con treo ngược hai chân lên trời mà ngủ như giống dơi, có con co một chân đứng một chân để ngủ như giống chim. Và sản sinh năng lượng thì phải có thải bã. Con voi ăn cỏ hàng ngày thải hằng trăm ký phân chắc cũng phải khoái mới thải. Con người cũng phải thải vậy. Câu hỏi đặt ra là con người hay mọi sinh vật không sống mãi để hưởng thụ cái khoái đó của mình? Không, có lẽ còn có một cái khoái lớn, còn được giấu kỹ. Nói ra sợ người ta biết thì triệt tiêu mục đích tối thượng của sự sinh tồn. Đó là cái chết. Chết gần như là lẽ tất yếu sau khi đã sinh ra, đã sống, dù như con phù du ngẳn ngủi hay như con voi, con rùa nhiều trăm năm. Vậy chết hẳn phải là một sự tưởng thưởng cho kẻ có công sinh tồn. Và như vậy nó phải là một sự sảng khoái lớn nhất. Không phải như một triết gia bảo chỉ có cái chết mới làm cho con người đựơc nghỉ ngơi. Nói thế chưa thấy sự sảng khoái? Sảng khoái ư? Môt sự xuất tinh lúc giao hợp là một sự sảng khoai, nói không được, mô tả không được. Sảng khoái của sự “mất” đi. Mất đi hằng tỷ tinh trùng, hằng tỷ sự sống. May ra, có một tinh trùng gặp trứng và thụ tinh, còn thì tự hủy diệt. Nó đi đâu? Kẻ phóng tinh đã đựơc một sự sảng khoái đền bù vất vả. Kẻ nhận tinh cũng vất vả không kém, và cũng sẽ đựơc đền bù cách nào đó chứ.


Trước khi sinh ra thì con người ở đâu? Trong cõi mênh mông đó, không thể biết. Cái phần dài nhất – trong trí tưởng của ta – là phần trước và phần sau của cõi nhân sinh. Phần dài nhất đó phải có ý nghĩa gì chứ? Có thể nó lại trở lại những thành tố riêng lẻ, chờ cấu trúc lại, như những miếng hình rời chờ lắp ghép ra một cái hình thù khác, một sinh vật khác. Nhìn qua những thành tố thì thấy nó rõ ràng không mất đi, không thêm lên. Và cả năng lượng nữa, cũng được “bảo toàn”. Nó chỉ tich trữ lại, lắp ghép lại, như một đứa nhỏ chơi trò puzzle với những lắp ghép tình cờ. Khi vật chất bị hủy diệt thì thời gian và không gian cũng không còn. Thời gian và không gian là một cách nhìn tương đối của sinh vật. Khi sinh vật không là sinh vật thì không còn thời gian và không gian. Nghĩa là một hình thái bất sinh bất diệt, và dĩ nhiên bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Nó đựơc tái sử dụng một cái phù hợp vậy thôi. Vậy thì không phải không có lý khi bảo cuộc sống sinh vật – và con người – là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh, thì hẳn phải có cái thường, lạc, ngã, tịnh, cái đó chính là niết bàn rốt ráo, niết bàn vô dư, tức cái chết.


 


“Chìm dưới cơn mưa


 Một dấu chân đi 

  Chìm dưới đất kia


 Hạt cát bao la…” (TCS)


………………………………………………………


 


 


8. Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt


 


Vừa tàn mùa xuân rồi tàn mùa hạ

Một ngày đầu thu nghe chân ngựa về chốn xa…”


(TCS)


 


“Nhật nguyệt”, ấy là Minh. Minh để trừ Vô minh. Vô minh dẫn tới hành rồi thức, danh sắc, lục nhập… con đường sinh sự đưa tới khổ đau, sanh tử. Bởi còn vô minh thì còn ái, thủ, hữu, còn sanh, còn lão, tử.  Tâm kinh nói “Vô vô minh diệc vô vô minh tận”. Không có vô minh mà cũng chẳng bao giờ hết vô minh!


Duy-ma-cật hỏi Bồ-tát Văn Thù:


Những gì là hạt giống Như Lai?”


 


VănThù đáp:  Có thân này là hạt giống Như Lai.


Vô minh với ái là hạt giống Như Lai.


Tham, sân, si là hạt giống Như Lai.


Bốn điên đảo, năm triền cái, tám tà pháp, chín não xứ, mười bất thiện… đều là hạt giống Như Lai.


Rồi Văn Thù kết luận: Tất cả phiền não đều là hạt giống Như Lai.


 


Thì ra vậy. Thì ra mọi thứ phiền não khổ đau của kiếp người đều là hạt giống của Như Lai. Tham sân si là hạt giống Như Lai. Mà tấm thân tứ đại ngũ uẩn này của ta cũng là hạt giống Như Lai. Đã là hạt giống thì nó phải mọc tùm lum lên mới đúng điệu chớ phải không? Cho nên tham sân si cứ còn mãi, ngày càng nhiều thêm, tranh giành đấu đá ngày càng mạnh mẽ thêm. Cái “Ngã” của ta cũng vậy, cũng ngày càng mọc sum suê hơn, lúc nào cũng muốn muôn năm trường trị, nhất thống giang hồ, trường sanh bất tử…! Đừng quên, Phật là Như Lai nhưng Như Lai không phải Phật. Như Lai là Như Lai, không từ đâu đến, chẳng đi về đâu! (vô sở tùng lai diệc vô sở khứ).


Muốn dứt phiền não thì tâm phải an. Làm sao để tâm an? Tìm tâm đâu thấy? Chỉ có cách tiếp cận qua thân. Thân tâm nhất như mà.  Cho nên « giả bệnh » là cách tốt nhất của Duy-ma-cật.


Bởi bệnh thì rất bình đẳng. Mọi người đều bình đẳng trước… bệnh! Khố rách áo ôm hay đại gia tỷ phú khi đau gan thì cũng như nhau thôi. Cũng vàng da, cũng ói mửa, cũng nhức đầu đau bụng… Hoa hậu hay cô gái bán hoa khi đau ruột thừa cũng giống nhau thôi. Cho nên Duy-ma-cật nói: “ Thân này không thể tin cậy được. Nó không phải của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta. Phải thấy thân Phật, tức thấy Pháp thân.”


Phật hỏi Duy-ma-cật: Ông quán Như Lai thế nào? Tôi quán Như Lai qua pháp thân cũng như quán Phật và tôi, không có gì khác nhau cả.


Muốn thấy Pháp thân thì phải “quán”. Phải nhìn sâu vào bên trong, nhìn xuyên qua bên kia, qua cái “giả tướng”, cái trình hiện bên ngoài may ra mới thấy.


Còn “chúng sanh” lại là những ảo vật do nhà ảo thuật là ta tạo ra. Ta tạo ra rồi ta hồng hộc chạy theo, bám lấy, giành giật, khổ đau, hạnh phúc… Chẳng qua là những bóng hình trong gương, mặt trăng đáy nước, dấu chân chim giữa hư không…


Khi thấy biết thực tướng là vô tướng, thì hòa nhập nhau có chi ngăn ngại vì cùng bản chất, pháp tánh. Cái núi Tu-di to đùng kia mà đem đặt vừa vào đầu hạt cải, nước bốn biển mênh mông nọ mà rót đầy lỗ chân lông thì có chi là lạ? Bởi núi Tu-di cũng không mà đầu hạt cải cũng không. Nước bốn biển cũng… không mà lỗ chân lông cũng không.  Không đây không phải là không có. Vẫn có chứ, nhưng không có “tự tánh riêng biệt”, thế thôi. Cho nên mới gọi là “chân không” . Chân không mà diệu hữu, diệu hữu mà chân không.


 


Nghe nói tới Ma thì ai cũng sợ. Nhưng Duy-ma-cật Bồ-tát thì “nuôi” rất nhiều ma để làm « thị giả » cho mình, luôn ở cạnh mình, “trợ lý” cho mình.


“Ma phiền não” chẳng hạn nhắc nhở ta sẵn có bốn vạn tám ngàn cách thoát ra sao chẳng thử một vài; “Ma ngũ uẩn” thì càng thân thiết, nhắc rằng mấy thứ lăng nhăng nó quấy ta chỉ là những thứ kết hợp tạm bợ, lắp ghép lai rai như trò chơi puzzle của trẻ con, phá ra lắp lại mấy hồi; “Ma trời” (thiên ma) luôn cảnh giác ta đừng tưởng bỡ, đừng tưởng muốn « làm trời » gì thì làm nhé. Rớt vào địa ngục như chơi. Lên voi xuống chó mấy hồi. Còn “Ma chết” (tử ma) lại là bạn thiết gắn bó với ta từ thuở còn trong bụng mẹ…


Cái thấy của mắt cái nghe của tai chỉ là ‘giả tướng’. Còn cái ‘tướng thiệt’ ở đâu? Ở bên kia kìa. Vượt qua cái giả tướng mới thấy được. Phải ở bên bờ kia mới thấy được. Ta chỉ bị gạt gẫm thôi. Và lâu nay ta sướng khổ với sự gạt gẫm đó mà không biết.


 


“Kiến tánh” (thấy biết Tánh) là Giác ngộ. Dễ không? Còn lâu! Nói chung thì vì cái tâm mình nó lờ mờ, nó tù mù, nó u tối nên sanh ra tham lam. Gì cũng muốn. Bao nhiêu cũng không đủ. Lòng tham không đáy. Được voi đòi tiên. Tham nên mờ mắt. À không phải. Mờ mắt mới tham. Nếu sáng mắt thấy rõ các pháp “bất tăng bất giảm”, không thêm không bớt thì tham làm chi.  Rồi cũng vì cái tâm mình nó lờ mờ, nó tù mù, nó u tối nên sanh ra sân (giận). No mất ngon. Giận mất khôn. Mà không biết chân lý dưới chân núi bên này thì không còn là chân lý ở chân núi bên kia.


Nhiều khi, ta ngồi yên đây mà quên là trái đất đang bay vù vù với tốc độ ba chục ngàn cây số một giây. Một ngày đêm đã bay được hơn 2 triệu rưởi cây số quanh mặt trời! Nhiều khi ta ngồi đây mà quên rằng cứ mỗi giây trôi qua đã có hằng trăm triệu hồng cầu trong cơ thể mình hủy diệt đi để sinh ra trăm triệu hồng cầu mới. Các chất liệu của hồng cầu hủy hoại đó chẳng mất đi đâu, nó tích chứa vào lá lách (gọi là nghĩa địa của hồng cầu) để rồi được nối ráp lại, tạo ra những hồng cầu mới, tươi mát hơn… Cái hệ tiêu hóa, ruột non ruột già của ta dài cả 5m kia cứ mỗi tuần lễ lại thay đổi toàn bộ lớp tế bào niêm mạc. Có hàng ngàn tỷ vi khuẩn đang sống trong đường ruột đó, mỗi loại hùng cứ một phương, rất ít khi tranh chấp với nhau …


 


 


Khi tôi học y khoa, cách đây gần 60 năm, người ta khiêng ra cho mỗi nhóm 8 sinh viên một chiếc giỏ cần xé (giỏ mây to) đựng xương người. Mỗi sinh viên ôm lấy một cục xương đó, học thuộc từng đường gân sớ thịt… Có bạn còn mượn một cái đầu lâu về đặt trên bàn học, mỗi ngày học thuộc từng chiếc lỗ trên đó, có những dây thần kinh nào chạy qua, rồi học về bộ não, vùng nào chịu trách nhiệm việc gì…! Môn cơ thể học dạy cho biết bộ xương người đã hình thành như thế nào, các tế bào xương tạo xương và hủy xương ra sao… Sinh lý học dạy cho biết cơ thể vận hành cách nào, làm sao có đủ nhiên liệu để xài cả đời người ? Ấy là nhờ oxyd hóa « đốt » những thứ thức ăn để tạo ra năng lượng ra sao.


Người giác ngộ hơn người khác ở chỗ trong lúc người khác đang sống thì không ai chịu nghĩ tới cái chết, còn người giác ngộ thì coi cái chết cái sống là một. Nói người giác ngộ là người đã “vượt thoát sinh tử” là vậy. Có sinh ắt có tử, có tử ắt có sinh.


 


Luân hồi luôn đi với sanh tử. Luân hồi sanh tử. Nghe cứ rờn rợn. Nhưng… không còn sanh tử, không còn luân hồi nữa, sống đời đời kiếp kiếp thì… chán chết! Không luân hồi sanh tử nữa thì mọi thứ khựng lại. Trái đất chẳng buồn quay. Chẳng còn xuân hạ thu đông. Chẳng sáng trưa chiều tối. Chẳng vô thường. Chẳng đổi thay. Chán chết! Cho nên cứ phải luân cứ phải hồi, cứ phải sanh cứ phải tử hoài hoài. Lòng vòng  luẩn quẩn loanh quanh vậy mới công bằng, mới phải điệu. Ba cõi sáu đường phải thênh thang rộng mở cho chúng sanh lũ lượt vào ra mới phải điệu!


”Luân hồi sanh tử”, “nghiệp báo oan gia” các thứ… ở đâu mà ra? Thì ở đâu nữa. Ở ngay trong ta thôi. Ôi, cát bụi tuyệt vời! Khi vẽ được bản đồ hệ gene người, các nhà khoa học bật ngữa thấy tinh tinh, chuột bọ, cải ngồng, cổ thụ… đều có những gène y như vậy với một tỷ lệ khác nhau nhiều ít. Tinh tinh có đến 99% cấu trúc gen giống hệt bộ gen người, chuột bọ thì có đến 97,5% gen người… Ai dám bảo hôm nào đó chẳng “luân” chẳng “hồi” một phen, cho tinh tinh thành cải ngồng, cải ngồng thành chuột bọ…? Có cái nhìn xuyên suốt ngàn năm chắc thấy biết, còn ta mắt trần (nhục nhãn) chưa thấy được đâu, đành lớ ngớ, loay hoay.


Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na. Từ sáng đến chiều, từ trưa đến tối ta đã… lang thang sáu nẻo biết bao lần. Hết thiên, nhân lại đến atula rồi ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục, xà quần không ngưng nghỉ. Sáng bảnh mắt ra, tắm táp xong, người sảng khoái, lâng lâng, quần là áo lượt có thua gì… tiên đâu, vậy mà tới trưa nghe một cú điện thoại từ đâu đó bỗng đùng đùng nổi giận, đỏ mặt tía tai, bầm gan tím ruột, lọt tõm vào địa ngục… Chỉ một thoáng thôi, đã từ thiên đàng rơi xuống địa ngục, từ thiên nhân thành Atula, ngạ quỹ…


Biết rõ “cơ chế” bệnh sinh thì điều trị không khó. Có khi chỉ cần chữa triệu chứng. Có khi phải điều trị căn nguyên để không còn tái phát. Cái gì làm ta xà quần nổi trôi trong cõi luân hồi sanh tử? Cái gì có vẻ như mãi cợt đùa không mệt mỏi với ta? Chính cái “Ta” đó. Nó đó. Nó tạo nghiệp. Nghiệp từ thân, khẩu, ý mà nên. Cho nên chỉ có “ta” mới cứu được “ta” thôi! Cho nên phải quay lại với mình, phải nương tựa chính mình, còn tìm kiếm đâu xa?  Khi nhận ra “không phải của ta/ không phải là ta/ không phải là tự ngã của ta” thì có lẽ đã có một nụ cười thanh thản, an nhiên.


Phật có đến có đi. Có từ bi có hỷ xả. Có nói năng có im lặng. Có thể dùng âm thanh dùng ánh sáng dùng chuông mõ, tiếng tụng niệm mà thấy Phật. Nhưng Như Lai thì không. Không thể dùng âm thanh, ánh sáng mà thấy Như Lai. Kinh nói Như Lai thọ lượng mà không nói Phật thọ lượng vì Phật thọ lượng chỉ có hơn 80 năm! Kinh nói Như Lai thần lực mà không nói Phật thần lực vì Phật chẳng ưa chuyện thần thông. Kinh nói vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai mà không nói vào nhà Phật, mặc áo Phật, ngồi tòa Phật… Cho nên, Phật là Như Lai, mà Như Lai không phải Phật. Như Lai là Như Lai. Nó vậy đó.


 


Mây che trên đầu và nắng trên vai 

Đôi chân ta đi sông còn ở lại…” (TCS)


 


Đỗ Hồng Ngọc


Saigon, 2.2019


(còn tiếp)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 24, 2019 18:01

Đỗ Hồng Ngọc's Blog

Đỗ Hồng Ngọc
Đỗ Hồng Ngọc isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Đỗ Hồng Ngọc's blog with rss.