Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 71

February 1, 2018

Kỳ 13: Phật học & Đời sống: Thực hành Thiền

 


Kỳ 13: Sinh hoạt Phật học & Đời sống


Thứ bảy, ngày 20.01.2018, từ 15-16h30 tại Chùa Xá Lợi, 89 Bà Huyện Thanh Quan, quận 3 Tp HCM, tiếp tục Chủ đề BÁT CHÁNH ĐẠO.


8. Chánh Định


Thực hành Thiền “Anapanasati” (Quán Niệm Hơi Thở)


do Cư sĩ Minh Ngọc giới thiệu.


Sau buổi sinh hoạt này, ” Lớp lỏng lẻo” của chúng ta sẽ nghỉ Tết theo Lịch của Ban Phật Học đến Thứ bảy ngày 03.03.2018 ( 16 tháng Giêng năm Mậu Tuất) sẽ được tiếp tục. Từ đây đến đó hình như có vài buổi họp mặt “ngoại khóa”…


Cảm ơn nvquyen.


Đỗ Hồng Ngọc.


 


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 01, 2018 03:03

January 31, 2018

SAO LÒNG TA CHƯA NGUÔI (Đọc THƠ NGẮN ĐỖ NGHÊ)

 


SAO LÒNG TA CHƯA NGUÔI


(ĐỌC THƠ NGẮN ĐỖ NGHÊ)


 


Nguyễn Thị Tịnh Thy – Đại học Sư phạm Huế


 


Xưa, Vĩ Sinh yêu một người con gái. Hai người hẹn gặp nhau ở dưới chân cầu. Cô gái không đến. Vĩ Sinh vẫn cứ đứng dưới chân cầu đợi người yêu. Chiều tối, thủy triều dâng lên ngập chết Vĩ Sinh.


Câu chuyện trên là một trong những tiểu thuyết đầu tiên của văn học Trung Quốc. Tiểu thuyết – thể loại có dung lượng đồ sộ nhất – ban đầu chỉ nhỏ bé như lòng bàn tay. Vì vậy, nó được đặt tên là tiểu thuyết (tiểu là nhỏ, thuyết là lời nói, lời dạy; tiểu thuyết nghĩa là lời nói, lời dạy nhỏ không đáng coi trọng). Tên gọi đó cho thấy đây vốn là thể loại nhỏ nhất, ngắn nhất, kém giá trị nhất của văn học Trung Quốc. Vậy mà, qua trường kỳ lịch sử, tiểu thuyết dần lớn lên, vượt qua các thể loại khác, trở thành người khổng lồ của văn học.


Cầm trên tay tập Thơ ngắn Đỗ Nghê, tôi chợt nghĩ đến tên gọi của tiểu thuyết. Bởi vì tác giả Đỗ Hồng Ngọc đặt tên cho đứa con tinh thần của mình là Thơ ngắn. Thế nào là ngắn? Thế nào là dài? Ngắn nhất là tiểu thuyết, dài nhất cũng là tiểu thuyết. Ngôn hữu tận, ý vô cùng. Làm sao so ngắn dài khi Lý Bạch đã từng khẳng định: “Thi thành thảo thụ giai thiên cổ” (Bài thơ làm xong, cỏ cây đều đã trở thành thiên cổ). “Thiên cổ” là nghìn xưa, là quá khứ. Đối với người phương Đông, quá khứ bao giờ cũng gắn với giá trị. Con dấu thời gian mỗi khi đã chạm khắc vào một sự vật hiện tượng gì thì bản thể đó mặc nhiên có giá trị. Bài thơ làm xong, tất cả thoắt trở thành thiên cổ. Câu thơ hay thường được khen là “thiên cổ lệ cú” (câu thơ đẹp ngàn năm). Giá trị của thơ ca, của văn học không thể đo bằng sự ngắn dài của câu chữ, mà chỉ có thể đo bằng sự ngắn dài của ý nghĩa nhân sinh, của thành tựu nghệ thuật và sức sống của nó trong lòng người đọc. Tuy nhiên, khi thơ càng ngắn, độ hàm súc càng cao, ý nghĩa càng bung tỏa thì lại càng thú vị. Có lẽ đây là quan niệm về thơ mà tác giả Đỗ Hồng Ngọc tâm đắc, nên đã lấy thể thơ ngắn làm đại diện cho cả những bài thơ dài trong toàn tập.


Đề tài của Thơ ngắn Đỗ Nghê khá rộng: vũ trụ, quê hương, tình yêu, nỗi nhớ, thiền tập… Hầu như tác giả đã “chắt mót” tất cả các cảm xúc với thiên nhiên, tôn giáo và con người để dồn vào tập thơ này. Nếu gọi tập thơ là Tạp thi thì đúng hơn. Tạp thi nghĩa là thơ lặt vặt. Lặt vặt ở đây không có nghĩa là vặt vãnh, mà là gần gũi, giản dị, quen thuộc, thô mộc… Đó có thể là một thoáng suy tư, một chút bâng khuâng, một niềm nhung nhớ, nỗi luyến tiếc hoặc một trò tinh nghịch… Tất cả đều nhẹ nhàng, hồn nhiên và rất đỗi thẳm sâu. Có những bài thơ, câu thơ ngắn như một hơi thở, một cái trở mình nhưng ý nghĩa lại cứ dài ra theo dòng suy ngẫm của người đọc:


“Giữa đêm


Thức giấc


Giữa ngày…” (Trái đất)


Đêm của nơi này là ngày của nơi kia. Một cái tỉnh giấc nơi đất khách, nhớ đến quê nhà, chợt nhận ra sự mênh mông của Trái đất và sự luân chuyển khôn cùng của thời gian. Bài thơ còn mang ý nghĩa triết lý về tính tương đối: đêm ngày, khái niệm, nhận thức, chân lý… tất cả chỉ là tương đối. Sự tương đối đó chính là cái hữu hạn của con người trước cái vô hạn của thế giới đầy bí ẩn, bao la.


Bài thơ Sóng lại nhắc nhở người đọc về quan niệm duyên khởi của Phật giáo: “Sóng/ Quằn quại/ Thét gào/ Không nhớ/ Mình/ Là nước”. Bài Nước lại mang triết lý về sự trôi chảy của thời gian, sự miên viễn của vũ trụ, sự huyền nhiệm của tính thiền:


“Nước từ đâu đến


Nước trôi về đâu



Nước vẫn muôn đời


Không đi chẳng đến


Ai người nỡ hỏi


Nước đến từ đâu


Ai người nỡ hỏi


Nước trôi về đâu…”


Không đi chẳng đến, vô thủy vô chung, mềm mại như sông và quằn quại thét gào như sóng, nước vẫn an nhiên trôi chảy từ ngàn năm trước đến ngàn năm sau. Khi ta cảm nhận được sự mênh mông ấy của nước, gió, trăng, sao thì tâm hồn và thể xác ta đã hòa cùng vũ trụ: “Vũ trụ chừng nhỏ lại/ Còn chút xíu trong ta!” (Vũ trụ). Ta không còn “là Một, là Riêng, là Thứ nhất” như ông hoàng Xuân Diệu nữa, ta đang “bay vù vù trong không gian” trong từng sát-na. “Mỗi ngày ta rơi rụng/ Mỗi ngày ta phục sinh/ Mà cứ tưởng không hề thay đổi…”. Đó chính là Vô thường, là sự đổi thay qua từng chớp mắt. Vô thường mà không mất mát, vô thường để thấy ta trong vạn vật và vạn vật trong ta. Sự hòa điệu giữa con người – tiểu vũ trụ và vạn vật – đại vũ trụ trong thơ Đỗ Hồng Ngọc theo quan niệm vô thường và duyên khởi mang lại cho người đọc cảm nghiệm mới về thời gian, về sự sống trong guồng quay của tạo hóa. Nó thôi thúc con người ý thức về mối quan hệ của cá nhân và vũ trụ, để kết nối, để sống hết mình trong sự sống chứ không phải để thở than nhân sinh như mộng.


Vô thường trong thơ Đỗ Hồng Ngọc nhiều khi là sự hiện hữu chứ không phải hư vô, ở cái còn chứ không phải là cái mất. Trong những bài thơ về Mẹ, về La Ngà, ta học được cách quên nỗi đau, chấp nhận lẽ tử sinh từ những hình ảnh, chi tiết bình dị nhất. Ánh mắt người mẹ luôn dõi theo con, nụ cười mẹ như thấu hiểu mọi hỷ nộ ái ố, lúng túng, lần khân, láu lỉnh… của con. Nụ cười của mẹ trên bàn thờ trở thành tấm gương soi của con. Đó là nụ cười sống động, nụ cười bất tử mang tâm trạng và tình cảm yêu thương trìu mến của người ngắm nhìn qua mỗi ngày mỗi tháng mỗi năm. Đối diện với nụ cười của mẹ, hẳn rằng người con luôn phải tự sửa mình. Cũng trong mạch cảm nhận đó, đọc những bài thơ viết cho La Ngà, ta hiểu được cách vượt qua nỗi mất mát của nhà thơ khi “có một dòng sông đã qua đời”:


“Không bài học nào


Như ba đã học


Từ con


 


Nỗi mất!”


Con “mãi mãi tuổi đôi mươi” dẫu tất cả cứ già đi theo năm tháng. Mà bài học về nỗi mất thì cứ tươi nguyên, khoảng trống của nỗi mất dường như thêm sâu rộng. Có thể thanh thản được không khi xem nghiệt ngã là bài học? Có nỗi đau nào lớn hơn không, khi bài học không muốn nhớ, không muốn thuộc nhưng vẫn cứ ghim vào tâm trí? Con “mãi mãi tuổi đôi mươi”, cha vẫn day dứt nỗi đau khổ của kiếp người! Hóa ra, vô thường còn là chấp nhận, là “đành lòng vậy, dầu lòng vậy”, là gào thét trong lặng câm, là bão tố trong bình yên, là chôn chặt trong đào xới, là cồn cào trong thanh thản… Những vô thường như thế này cần phải được đọc từ phía sau câu chữ, bởi câu chữ chỉ là cái bình phong, nó che đậy cảm xúc, nó không cho người khác nhìn thấy nước mắt tuôn rơi. Trang Tử từng nói: “Ngôn giả sở tại ý, đắc ý nhi vong ngôn” (Lời là để diễn đạt ý, được ý hãy quên lời). Những bài thơ này, tôi đọc “ý”, không đọc “lời”; đọc để hiểu, cảm thông và chia sẻ…


 


 


Có một nỗi nhớ quê hương đong đầy trong tập Thơ ngắn. “Đi giữa Sài Gòn/ Phố nhà cao ngất/ Hoa nở rực vàng/ Mà không thấy Tết. Một sáng về quê/ Chợt nghe gió bấc/ Ơ hay xuân về/ Vỡ òa ngực biếc!” (Gió bấc). Xuân không đến từ hoa vàng rực rỡ, xuân chỉ đến khi người yêu quê được đi giữa trời quê.


 



 


 


Ở bài thơ Thu, Đỗ Hồng Ngọc không dùng hình ảnh, mà khuấy động lòng ta bởi một âm thanh:


“Chiều thu


Nghe tiếng quạ


 


Giật mình


Nỗi xa nhà


 


Nhớ sao


Mà nhớ


 


Quá!”


Mùa thu gắn với nỗi buồn. Bởi vậy nên người Hán đã ghép chữ thu với chữ tâm để biểu ý thành chữ sầu (mùa thu đọng lại trong tim thành một nỗi sầu). Chiều thu là thời khắc của ngày tàn, của những nỗi buồn không tên, nỗi sầu thiên cổ bàng bạc như sương khói. Nó khiến lòng người chơi vơi, mang mang; khiến cho “Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói. Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì” (Xuân Diệu). Giữa chiều thu ấy, thơ thẩn nơi đất khách, bỗng nghe tiếng quạ, giật mình nỗi xa nhà… chợt thấy nhớ sao mà nhớ quá. Bài thơ độc đáo ở cấu tứ. Đó là cấu tứ sắc sắc không không. Không có hình ảnh nào cụ thể: chiều thu, tiếng quạ, nỗi xa nhà, nỗi nhớ đều không hiện hữu. Tất cả đều trừu tượng, lơ lửng trong không trung, vương vấn trong hồn người. Chủ thể trữ tình cũng chỉ xuất hiện trong động thái “nghe” và “giật mình”: nghe tiếng quạ và giật mình nỗi xa nhà. Nghĩa là người đọc chỉ nhận ra thi nhân qua âm thanh trên không trung và nỗi lòng kẻ tha hương. Niềm cô tịch bao trùm toàn bài thơ. Thi pháp chân không được sử dụng rất đắc địa. Và cuối cùng, tiếng quạ kêu bất ngờ kết thúc bài thơ, nhập vào làm một với đỉnh điểm của nỗi nhớ nhà: “Quá!”. Âm thanh đó vút cao, thảng thốt, xuýt xoa, khắc khoải, tê tái, quặn thắt… Từ tượng thanh trùng âm với phó từ chỉ mức độ cao trong tiếng Việt thể hiện sự hòa điệu tuyệt vời của cảnh và tình, của tiếng quạ và tiếng lòng. Nó khiến cái vô hình trở thành hữu hình, cái khó nắm bắt trở nên dễ nắm bắt. Tiếng quạ kêu lan tỏa trong thinh không, mang nỗi nhớ thả vào vũ trụ, để rồi len vào hồn người tâm thức “tư cố hương”. Cảnh nhạt mà tình nồng, bài thơ vừa có cái diệu của thi pháp chân không, của bút pháp lấy động tả tĩnh, huyền ngoại chi âm, và cả bút pháp tá thanh truyền ảnh rất hiếm ở trong thơ. Bởi, từ âm thanh xao động ở câu hai đến se thắt ở câu cuối, ta có thể hình dung được vẻ ngơ ngác ngước nhìn, kiếm tìm, trầm tư mặc tưởng của người thơ.



Thơ tình chiếm tỷ lệ khá lớn trong toàn tập Thơ ngắn Đỗ Nghê và đa số là những bài thơ không ngắn, thậm chí là khá dài. Mảng đề tài này thể hiện rõ tâm hồn thuộc “cái nòi đa tình” và tính cách dí dỏm của nhà thơ.


“Em tin có Chúa


Ngự ở trên cao


Còn anh tin Chúa


Ngự ở trong nhau” (Đi Lễ)


Với niềm tin ấy, “mỗi ngày anh chánh niệm về em chánh niệm sáng chánh niệm chiều chánh niệm đêm… em ngồi đó vô biên vô số với phép màu không có thời gian cho anh trở về tuổi hai mươi em mười tám…” (Chánh niệm).


Tình yêu như tôn giáo, tình yêu là tôn giáo của riêng anh. Và nhịp tim, hơi thở luôn thao thiết vì em:


“Ai bảo áo em vàng hoàng hậu


Cho tôi phải thở nhịp quân vương” (Đồng hương)


Và nếu thiếu em, quân vương ấy chẳng màng đến ngai vàng nữa:


“Ta về lối cũ


Nghe lòng lạnh băng


Thiếu em hoàng hậu


Ngai vàng như không…” (Giữa hoàng hôn xưa)



 


 


Anh viết tên em lên cát, cho sóng cuốn đi, cho gió cuốn đi. Để “tên em mênh mông đại dương…”, mang tình anh đi muôn phương, cho thỏa dạ kẻ si tình (Viết tên lên cát). Nỗi nhớ em trở thành căn bệnh – bệnh nhớ, khi cấp tính thì cồn cào, quặn thắt; trở thành kinh niên thì âm ỉ, triền miên (Nỗi nhớ). Mà thật lạ, hình như anh chẳng muốn chữa lành căn bệnh tương tư này. Bởi nghe trong tiếng thở than có niềm hạnh phúc, nghe trong nỗi buồn vẫn có thú đau thương.


Rồi “tình xa” sẽ biến thành “tình sầu”, “tình nhớ”, để ngày gặp lại, luyến tiếc gọi nhau bằng hai chữ Cố nhân:


“Mới đó mà em đã cố nhân


Lòng đau như cắt hiểu gì không


Hoa vàng đã rụng đầy sân vắng


Tình cũng ngùi phai theo tháng năm…”


Tình “ngùi phai theo tháng năm” nhưng lòng không ngùi phai. “Lòng đau như cắt hiểu gì không” – Câu thơ như một nhát cắt cứa vào tim nhau. Trách móc? Giận hờn? Tiếc nhớ?… Không! Chỉ thấy vẫn yêu. Và đau! Yêu ngay cả khi dùng từ ngữ có tính chất ngăn chặn, chấm dứt, thuộc về quá khứ: “cố nhân”. Vậy đó, sự trớ trêu của tình cảm thật khó mà cắt nghĩa, “cố nhân” nhiều lúc không phải là người cũ, người xưa, mà là người thân thiết, tha thiết một thời… và mãi mãi. Để rồi ta lại đêm ngày chánh niệm về em, và không ngừng cật vấn mình: “Ta làm sao mà lòng ta chưa nguôi!” (Khi gặp lại).


Giả sử là bài thơ tình rất hay ở nhiều phương diện. Nhà thơ nói với người yêu về một tình huống hủy diệt của thiên tai. “Giả sử sóng thần ập vào Nha Trang/ Ập vào Mũi Né/ Anh chỉ kịp quẳng em lên một chiếc thuyền thúng/ Vút qua những ngọn dừa/ Những đồi cát trắng/ Em nhớ mang theo đôi quả trứng/ Vài nắm cơm/ Vài hạt giống/ Đừng quên mấy trái ớt xanh…/ Biết đâu mai này/ Ta làm An Tiêm/ Trở về làng cũ/ Nơi này ta sẽ gọi là Nha Trang/ Nơi kia gọi là Mũi Né…/ Cho nên/ Sao chẳng sớm mà thương nhau hơn?…”. Bài thơ mở đầu bằng sự bất an và kết thúc bằng sự bình an. Tất cả hãi hùng hoang lạnh đó sẽ qua đi nếu ta biết thương nhau, và hãy thương nhau khi còn có thể, vì mấy ai lường trước được chuyện bãi bể nương dâu. Sử dụng những motif thường thấy trong văn chương: yêu trong hoạn nạn, sống sót qua hoạn nạn, cơn đại hồng thủy, tái lập Trái đất và sự sống…; tuy nhiên, trong hoảng hốt hoang hoải đi tìm sự sống, Đỗ Hồng Ngọc vẫn không quên chiếc thuyền thúng, mấy trái ớt xanh, đôi quả trứng, vài hạt giống của An Tiêm, để trở về làng cũ… Cổ tích Việt Nam, văn hóa Việt Nam thấm trong từng hình ảnh thơ khiến ta rưng rưng không phải vì nỗi sợ thiên tai, mà vì vẫn tìm thấy những gì quen thuộc trong sự mất mát. Dĩ nhiên, tất cả chỉ là giả sử, thể hiện những dự cảm bất an về môi trường và quan niệm vô thường của cuộc sống, nhưng mục đích là kết luận: “Sao chẳng sớm mà thương nhau hơn?” Hỏi cũng chính là trả lời, câu thơ khiến người với người xích lại gần nhau hơn như câu hát của Trịnh Công Sơn: “Hãy yêu nhau đi/ Khi rừng thay lá/ Hãy yêu nhau đi dòng nước có trôi xa… Hãy kêu tên nhau trên ghềnh dưới bãi/ Dù mai nơi này người có xa người…”


Tình yêu trong thơ Đỗ Hồng Ngọc vừa nồng nàn mãnh liệt “như đổ dầu vào lửa”, sắc bén như “ánh mắt dao cau”, dại khờ luyến tiếc khi phải “nhận bừa là đồng hương”, day dứt “khi nhìn nhau xa lạ” “nói năng vô nghĩa” mà nghe “thác reo trong hồn”, ranh mãnh mong người ta nhớ đến anh trong “ngày sinh nhật” khi mọi ngày của anh đều là sinh nhật. Và cuối cùng, vẫn chờ đợi một bến đỗ bình yên, chở che, đón nhận, ấp iu và chung thủy đến muôn đời:


“Lá chín vàng


Lá rụng


Về cội


 


Em chín vàng


Chắc rụng


Về anh” (Lá)


“Chắc” là một hư từ (vị từ tình thái) mang tính dân dã của khẩu ngữ được đặt vào trong sự biến tấu của thành ngữ “lá rụng về cội” khiến câu thơ cuối lập tức trở nên giàu ý thơ, chất thơ hơn. Nhìn từ phương diện ngôn ngữ học, “chắc” thuộc loại từ có “lực ngôn trung” gắn với “tình thái phát ngôn”. “Chắc là”, “có thể”, “có lẽ”, “hãy”, “sẽ”, “nên”…; vừa ướm hỏi vừa mời gọi; vừa mang tính khẳng định, vừa mang tính dự định. Chủ thể của lời nói vừa có thể là anh, vừa có thể là em. Tâm trạng của các chủ thể sẽ thay đổi tùy vào cách người đọc mặc định vị trí của họ và nghĩa của từ “chắc” ở trong lời nói. Cả hai chủ thể sẽ có tâm thế hoặc tự tin, yên lòng; hoặc e dè, hoài nghi, phấp phỏng. Tất cả tùy thuộc vào việc người đọc đứng ở bên nào trong tính nước đôi của từ ngữ. Vậy là người đọc có quyền quyết định nghĩa, làm tăng nghĩa, tăng tầng bậc khám phá cho văn học. Theo lý thuyết tiếp nhận, đồng sáng tạo giữa tác giả và độc giả là một trong những tiêu chí thành công của tác phẩm. Một từ thôi nhưng có thể thay chủ đổi ngôi, làm khuynh đảo những gì vững chắc nhất. Tiếng Việt là vậy đó! Hay, đẹp, đa nghĩa và đáo để đến vô cùng nếu được vào tay người nghệ sĩ ngôn từ biết cách giũa mài cho ngọc quý. Giống như Bông hồng cho Mẹ, bài thơ này toàn dùng từ thuần Việt. Mới hay, trong lĩnh vực ngôn ngữ, cái dân dã bình dị có khả năng chuyển tải văn hóa cao nhất chứ không phải cái cao sang. Một nửa của bài thơ là có sẵn, là kết tinh từ triết lý, trí tuệ dân gian, quy luật và ao ước muôn đời của muôn người. Nửa còn lại là sáng tạo của tình yêu, của thi ca; mời gọi, ướm hỏi, đợi chờ, hồi hộp, đón nhận, giao hòa… và hạnh phúc với chân lý của tình yêu.


Đề tài phong cảnh thể hiện nét bút tài hoa của nhà thơ. Đó là bút pháp thi trung hữu họa, lấy động tả tĩnh trong cảnh Hội An sớm:


“Hội An còn ngái ngủ


Mái chùa ôm vầng trăng


Giật mình nghe tiếng chổi


Gà gáy vàng trong sương”


Trăng treo nghiêng trên mái chùa, sương vàng theo ánh trăng. Chỉ cần chấm phá hai hình ảnh, một sắc màu là tạo nên bức cổ họa. Và tiếng chổi, tiếng của nhịp đời xao xác nhẹ nhàng đủ để đánh thức đàn gà ngái ngủ cất lên tiếng gáy. Sau tiếng gà gáy, cả thế giới im lìm sẽ tỉnh giấc. Tất cả mọi đường nét, mọi âm thanh đều vừa vặn, không thừa không thiếu cho việc diễn tả một Hội An trầm mặc cổ kính. Bài thơ gợi nhớ cái giật mình của loài chim núi khi nhìn thấy ánh trăng khuya trong Điểu minh giản của nhà thơ Vương Duy đời Đường. Nhưng ở đây, tiếng chổi tương hợp với ngôi chùa, tiếng gà gần gũi với đời sống. Tiếng chổi quét sân chùa sau buổi công phu sáng sẽ sớm hơn tiếng gà trong vườn nhà. Nếu ngoài đời thường, tiếng gà gáy sáng bắt đầu chuỗi hoạt động của con người, tiếng gà đánh thức tiếng chổi thì ở đây tiếng chổi đánh thức tiếng gà, bởi nhà chùa thường dậy sớm hơn. Bài thơ thể hiện sự quan sát tỉ mỉ, cách cảm nhận tinh tế của tác giả. Chất thiền không chỉ bàng bạc trong hình ảnh mà còn vang vọng trong âm thanh của bài thơ.


Tuyền Lâm mang vẻ đẹp trong trẻo của mùa xuân qua thủ pháp gương soi và tiếng gọi mùa xuân tha thiết, đắm say:


“Nước xanh như ngọc


Sâu đến tận trời


Vốc lên một vốc


Ơi mùa xuân ơi!”


Trời soi bóng nước, nước sâu tận trời, “sâu chót vót” như Tràng giang của Huy Cận, nhưng không cô liêu, tịch liêu mà đong đầy cảm xúc yêu cảnh, yêu mùa, yêu đời của nhà thơ.


Ta sẽ còn có thể nghe hơi thở người xưa, “Nghe thì thầm, Đẽo gọt/ Nét Đường thi” trong bài thơ Văn Miếu; ngắm làn mưa giăng mờ trong Hà Tiên mưa, cảm nhận “sóng lăn tăn gợn vỗ quanh ghế ngồi” Ở Montmartre… Mỗi bước chân trải nghiệm của tác giả đều được ghi dấu bằng hồn thơ.


Tư tưởng Phật giáo thấm đượm trong toàn tập Thơ ngắn. Đỗ Hồng Ngọc đã chuyển tải tư tưởng một cách nhẹ nhàng, giản dị như chính triết lý nhà Phật qua những bài thơ như Thiền, Vè thiền tập… Và đặc biệt, bài thơ Mới hôm qua thôi còn mang nỗi buồn của bi kịch nhân sinh: “Họ ngồi đó/ Hói đầu/ Bạc trắng/ Móm sọm/ Nhăn nheo/ Mới hôm qua thôi/ Nào vương/ Nào tướng/ Nào tài tử/ Nào giai nhân/ Ngựa xe/ Võng lọng/ Mới hôm qua thôi/ Nào lọc lừa/ Nào thủ đoạn/ Khoác lác/ Huênh hoang/… Nói nói/ Cười cười/ Ghen tuông/ Hờn giận/… Ngoài kia/ Tuyết bay/ Trắng xóa/ Ngoài kia/ Dòng sông/ Mênh mông/ Mênh mông…”. Đúng! Mới hôm qua thôi… mà bây giờ đã… Tham hận sân si sẽ tan đi hoặc vơi bớt khi ngẫm lại sự phù du của kiếp người, và sẽ “Giật mình chợt nhớ ra/ Vốn xưa ta là đất” (Đất), mai này ta cũng là đất. Ta cần ngộ ra điều đó, để có thể chứng nghiệm Niết Bàn trong cõi ta bà này, ngay ở đây, lúc này, hiện sinh chứ không phải là huyễn tưởng:


“Tham chẳng còn


Sân cũng hết


Si đã tuyệt


 


Niết Bàn


Tịch diệt


Để làm chi?” (Ngộ)


 Rũ bỏ tất cả, an nhiên tự tại, Niết Bàn trong ta, tùy vào ta. Niết Bàn là lúc ta thõng tay vào chợ, trở về với tâm tướng con người như nó vốn sinh ra…


Thơ ngắn Đỗ Nghê có 59 bài, đa phần là thơ ngắn như tên gọi của toàn tập. Nhan đề của mỗi bài thơ cũng ngắn: Sóng, Nước, Đất, Thiền, Thở, Lá, Ngộ, Trái đất, Chân Không… Có bài chỉ 6 âm tiết, 10 âm tiết. Xem ra, so với Haiku của người Nhật (17 âm tiết), Sloka của người Ấn Độ (32 âm tiết), Lục bát của người Việt (14 âm tiết), Tứ tuyệt của người Trung Quốc (20 – 28 âm tiết) thì quả là Đỗ Nghê đã có những bài thơ ngắn độc đáo. Tuy nhiên, sức cuốn hút của tập thơ không phải ở độ dài ngắn, mà ở sự sôi nổi của lòng yêu cuộc sống, sự chiêm nghiệm về cõi nhân sinh, sự cảm ngộ triết lý nhà Phật đầy mới mẻ, nỗi niềm đau đáu với lẽ được mất và thi pháp thơ đầy sáng tạo. Tất cả như thể hiện nỗi vướng bận của nhà thơ với cuộc đời: “Ta làm sao mà lòng ta chưa nguôi”. Nguôi sao được khi trái tim và tâm hồn thi nhân vốn dĩ đã bị cầm tù trong bể đời ngọt ngào pha lẫn với chua cay mặn đắng. Lòng chưa nguôi, và sẽ mãi mãi không nguôi, sẽ dễ dàng rung lên như những sợi dây đàn mẫn cảm, để cho đời thêm những tiếng thơ hay.


Nếu cần góp ý cho tập thơ, tôi chỉ mong tác giả gạt bớt những bài chưa chín tới về cảm xúc cũng như bút pháp, hoặc không phù hợp với toàn tập như To Edith (vì là thơ dịch), Về quê (vì trùng với danh tác Hồi hương ngẫu thư của Hạ Tri Chương), Đông Boston (vì không điệp vần), Theo già, Tuyết (vì thiếu thi ý), Món quà, Quấn quýt (vì cấu tứ non tay)… Vẫn biết, cắt bài sửa chữ là đề nghị lạnh lùng làm đau lòng người sáng tác. Bởi vì mỗi câu, mỗi bài đều gắn với kỷ niệm, vết xước, nỗi đau và những rung cảm chân thành. Tuy nhiên, nếu không làm điều đó, tác phẩm sẽ thiếu chắt lọc, sa vào ôm đồm và nhạt mất khí cốt. Trong nghệ thuật, có sự trưởng thành nào mà không trả giá bằng nỗi đau, có sự vẹn nguyên nào mà không khởi đầu bằng mất mát? Thiển ý này của người viết cũng thể hiện nỗi niềm “sao lòng ta chưa nguôi”, mong mỏi mỗi bài thơ đều hướng đến cảnh giới “Bút lạc kinh phong vũ. Thi thành khấp quỷ thần” (Hạ bút làm kinh hoàng cả mưa gió. Thơ làm xong khiến quỷ thần phải khóc – Đỗ Phủ).


 


Xứ Huế, Mùa Đông năm 2017


……………………………………………………………………………………………


[Bài đã đăng ở Tập san Quán Văn số 52 – Xuân Mậu Tuất (01/2018)]


* Đã có chỉnh sửa bởi Tịnh Thy (31.01.2018)


** Minh họa của Đỗ Hồng Ngọc (trong Thơ Ngắn Đỗ Nghê).

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 31, 2018 20:29

”Sông Ơi Cứ Chảy…”

 


Ghi chú: Nhạc sĩ Thuần Nhiên (Nguyễn Đức Vinh) Đà Lạt, trong dịp Noel 2017 vừa qua đã phổ nhạc bài thơ “Giỗ một dòng sông” trong tập Thơ Ngắn Đỗ Nghê và ôm guitar hát ngay trong đêm với đầy xúc cảm, đã được chia sẻ cho bè bạn trên trang này… (xem Giỗ một dòng sông).


Tối qua, nhạc sĩ Thuần Nhiên và anh Nguyễn Phu vừa gởi tôi bản nhạc hoàn chỉnh, với tựa mới (cho phù hợp hơn với bài hát) là Sông ơi cứ chảy… cùng với lời Anh của Phan Tấn Hải Flowing forever dear river, xin gởi đến các bạn.


Trân trọng cảm ơn,


Đỗ Hồng Ngọc.


 



 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 31, 2018 04:52

January 30, 2018

NGÔN NGOẠI

Ngôn Ngoại

Ghi chú: Tôi đọc được truyện này trên trang Luân Hoán, rất dễ thương. Xin phép Tâm Thanh chia sẻ cho bà con đọc Tết nhé. Đa tạ. (ĐHN).


 


Tâm Thanh


Tôi về Việt Nam ăn Tết, khi trở ra, gặp một chuyện trên máy bay, tới bây giờ vẫn còn lấy làm lạ. Tôi cũng hơi áy náy nữa, nên mong bà ngồi bên tôi chuyến đó, ghế số 27E, tình cờ đọc được bài này sẽ cho tôi biết tin bà có bình an không, mặc dầu khi chia tay, bà ra dấu hiệu ‘Cứ yên tâm’.


Đầu tiên khi lên máy bay tôi đã thấy bà chiếm chỗ của tôi, 27D, mà ngủ li bì. Lạ thật, mới lên máy bay đã ngủ. Tôi không dám đánh thức vì thấy mặt bà co giật một cách khổ não, chỉ sợ đụng phải lỡ bà lăn đùng ra thì mang vạ. Đấy, cái gì tôi cũng cứ nói thật, xin bà bỏ qua. Cuối cùng, vì bị hành khách đi sau thúc quá, tôi đành bước qua người bà mà vào chỗ ngồi tạm. Trước khi máy bay chuyển bánh ra phi đạo để cất cánh, cô tiếp viên tới kiểm soát, thấy bà chưa cài dây an toàn, lại bảo tôi cài cho bà. Một sự lầm tưởng tai hại. Nhưng tôi không đủ lanh trí để cải chính một cách tế nhị, chẳng lẽ tự dưng tôi nói ‘bả không phải vợ tôi’? Vả lại, cài giùm cái dây có cần gì phải là vợ chồng? Tôi nghiêng qua người bà tìm mối dây bên kia, nghe nồng nực mùi dầu cù là. Tôi nín thở cài khóa, tiếng kim loại ăn khớp kêu crắc xác nhận là tôi đã làm chu đáo một nhiệm vụ nhỏ, nhưng có thể trở thành lớn, nếu nói dại có trục trặc gì xảy ra. Nhưng máy bay cất cánh an toàn. Khi đèn báo hiệu cho phép cởi dây an toàn, tôi cởi cho mình, rồi tần ngần nghĩ đã cài cho bà, thì tôi cũng nên cởi cho bà.


– Ê! Làm gì kỳ vậy, cha già mắc dịch!


‘Chát!’ Bàn tay tôi bị bắt quả tang đang thò sang lòng bà. Tôi vừa giận vừa xấu hổ, ức quá mà không dám gây sự lại. Thôi thì phải tự an ủi là bà chưa ngoác mồm tuôn ra một tràng xỉ vả nặng hơn nữa, và còn may là hành khách chung quanh coi bộ không ai chú ý tới lời ‘vu cáo’ trắng trợn kia. Tôi đành im lặng chịu trận cho tới khi nghe bà nói trổng:


– Mắc đái thấy mụ nội. Bao giờ máy bay mới ghé đổ nước, cho hành khách đi đái không biết?


Được dịp ‘đáp lễ’ sự lỗ mãng của bà bằng sự đàng hoàng và kẻ cả của mình, tôi chỉ giùm làm phước:


– Toilette ở trước mặt kia kìa, bà.


Bà ngơ ngác nhìn lên rồi ngơ ngác nhìn lại tôi:


– ‘Toa với lết’. ‘Lết’ đi đâu cha nội? Tui mắc đái xón ra quần bây giờ nè. Chạy te không kịp, ở đó mà ‘lết’.


Tôi bỗng nhận ra bên cạnh tôi là một người đàn bà, mặt thuôn dài, lưỡng quyền cao, khá đẹp, nhưng quê như một cục đất. Tôi hết giận:


– Bà có biết đọc … xa tới đằng kia nổi không?


– Chữ ta thì đánh vần được chớ, sao không? Mắc cái chữ Tây ôn dịch gì đâu. Mà biển gì kẻ chữ bằng con kiến!


– Bà khỏi cần đọc chữ cũng được. Lên đó, thấy có cái cửa nào có vẽ hình ông Tây với bà Đầm, thì bà vào mà … đái.


Bà vừa nhổm dậy đã bị sợi đai trì lại, la to:


– Ối chu cha! Con mẹ đứa nào nó cột eo ếch tui, tế mồ tế mả nhà nó!


Tôi im thin thít, không dám tự thú nhận ‘tội ác’ của mình, chỉ giúp bà mở khóa


dây. Giữa lúc không hề dám mong đợi, tôi lại được bà ban cho một nụ cười tươi rói, và một giọng ỏn ẻn:


– Té ra hồi nãy chú tính cởi trói cho tui hả? Không biết đứa mắc dịch nào đi tầu đi xe mà còn phá.


Rồi bà lảo đảo đi lên cầu tiêu, lâu lắm mới thấy trở lại:


– Không thấy nhà cầu đâu hết. Chú giắt tui đi được hôn?


Tôi tính nói ‘bảo đảm bà không kiếm ra cái cầu cá tra trên máy bay đâu’, nhưng lại im lặng hướng dẫn bà lên cầu tiêu, mở một cửa trống chỉ cho bà vào. Bà ngạc nhiên:


– Thì hồi nẫy người ta cũng chỉ cho tui cái tủ kín bưng như vầy. Có cầu kiều mẹ gì đâu?


Đã trót thì trét, tôi kéo bà vào hẳn bên trong, chỉ cho bà cách ngồi cầu, xé giấy, cách bấm nút xối cầu, rửa tay bằng xà bông, và thoa nước thơm, đủ lễ bộ. Để chắc ăn, tôi bảo bà làm ơn thực tập thử cái thủ tục quan trọng nhất là nhấn vào cái nút xối cầu. Bà vừa thò tay nhấn nút, tiếng cống hút rồ lên như cọp táp gà con, bà ôm chầm lấy tôi la:


– Trời đất thiên địa ơi! Con gì nó rống quá trời!


Khi tôi để bà ở lại và đi ra, có một một cậu Việt Nam đứng chờ, nhìn một cách hóm hỉnh nói nhỏ:


– Ông bà tình ghê!


Câu này, chắc hôm đó bà không nghe đâu, nhỉ? Về chỗ, tôi vẫn ngồi vào cái ghế đã bị đổi, đầu tràn ngập những dấu hỏi về người đàn bà kỳ lạ.Bà đi với ai? Đi đâu? Làm gì? Khi bà trở lại, lò dò mãi không tìm thấy chỗ, tôi phải vẫy tay, kêu:


– Bà ơi! Đằng này nè!


Tôi nghe từ hàng ghế sau, phía bên trái có giọng đàn bà, tiếng Việt:


– Ông già lấy được bà vợ đẹp, chỉ tội quê không để đâu hết.


Bụng tôi thon thót theo mỗi bước chân của bà, chỉ lo ngại cho những cái đầu người ngồi dẫy bìa bị tay bà quơ phải, lỡ mà bà nhằm cái đầu tóc giả của một ông Tây mà vịn thì tôi phải tuyên bố ‘ly dị’ ngay tại chỗ. Nhưng tôi thở phào khi cuối cùng bà tới được chỗ ngồi bình an, gieo bàn tọa cái rầm, thả ra mùi ‘eau de Cologne’ pha lẫn mùi dầu cù là lổn ngổn.


– Bà đi máy bay lần đầu?


– Chớ lần mấy?


– Bà đi đâu ạ?


– Phần-lan.


– Bà đi thăm bà con bên đó, chắc?


– Bà con hồi nào? Theo chồng.


– Ông nhà sang Phần-lan lâu chưa?


– Chả người Phần-lan …


Bà kể bà làm nghề chèo ghe đưa khách tại bến đò Vĩnh Long. Chở bạn hàng cũng có, mà sau này chở khách du lịch cũng có. Thường thì bà chậm chân, không tranh được mấy mối khách du lịch béo bở. Một hôm bà để ý có một ông khách Tây cứ ngồi uống cà phê đá mà nhìn bà cả buổi, ‘cái đầu xồm không nhúc nhích’ và ‘cái môi đỏ chót liếm lia’. Cuối cùng ông đứng lên ra bến, đưa tay gạt hết mấy thằng giành mối ra một bên, mà tiến thẳng lại ghe bà, chẳng nói chẳng rằng, bước xuống, và bà chèo ghe cho ông coi cảnh trên sông Cổ Chiên. Bà nói tiếp:


– Tối về chả rút bóp ra một xấp tiền đô. Tui hổng dám lấy. Thằng chả xòe ra biểu lấy một ít cũng được. Nhưng chú tính coi – ai lấy kỳ vậy?


Cô tiếp viên đưa khay ăn tới. Tôi giúp bà hạ bàn con xuống, chọn nước uống, và chỉ bà cách dùng mấy thứ lỉnh kỉnh như dao nĩa, khăn ăn v.v. Và tôi ngạc nhiên tại sao một người chèo đò nhà quê mà có bàn tay búp mang đẹp như vậy. Bà cầm dao ăn như cầm búa, nhưng ăn vén khéo và rất … bạo -so với các mệnh phụ phu nhân khác. Vẻ tự nhiên của bà và những món ăn hấp dẫn với rượu vang khiến tôi phấn chấn tinh thần. Tôi thấy đã đủ thân mật để nói đùa:


– Bà không lấy tiền, chứng tỏ bà mê ông rồi?


Bà cười khinh khích:


– Mê cái mốc xì họ. Bộ ghe chùa sao? Tôi lấy cái tờ có vẽ số 1.


– Sao bà không lấy tờ vẽ số 10 hay 20?


– Lấy đủ công mình thôi chớ.


– Rồi sau đó?


– Sau đó hả? Mấy bữa sau, bữa nào chả cũng trở lại thuê ghe tui đi chơi lòng vòng… Rồi chả đòi lấy tui.


– Ý! Chết mẹ người ta chưa!


Dầu biết trước bà đang trên đường đi về nhà chồng, tôi buông ra một câu sững sờ như thế vì hồi kết cuộc tới một cách đột ngột quá. Không ngờ tiếng reo của tôi đã đậm đà giọng của bà, thốt ra mà thấy sướng cổ họng.  Nhưng thấy sau đó bà im bặt, tôi lại lo bà giận tôi lỗ mãng.


– Xin lỗi nhé!


– Lỗi gì?


– Dạ, không.


Tôi chờ đợi một câu truyện hấp dẫn, có đầu đuôi hơn. Tôi muốn biết buổi hẹn hò đầu tiên ở đâu? ông tỏ tình thế nào? tại sao bà biết ông thương mình thiệt? cái gì làm cho bà thích ông? ông làm nghề gì? có tổ chức đám cưới không? Nhưng bà không kể nữa, tiếp tục ăn món tráng miệng, khen ngon.


Tôi uống sang ly Cognac thứ ba, nghe ra giọng nhừa nhựa của chính mình:


– Dô! Dô! Mừng cho mối tình của bà! Đẹp thấy … mẹ!


Bà nhìn tôi, cau mặt:


– Ê! Chú hổng nên bắt chước tui ăn nói cái kiểu ẩu tả đó.


Thế ra bà vẫn biết mình ăn nói khác thường. Tôi chữa:


– Bà nói ngon lành hết xảy, chứ đâu có … ẩu tả.


– Chú nói thiệt tình hay xí gạt tui?


– Tui xí gạt bà làm mẹ gì? Bà là người tốt muốn chết.


– Chú coi bộ cũng được, nên tui khuyên chú đừng bắt chước tui. Tui trót học thói xấu, không sửa được. Không muốn sửa. Thằng khốn nạn đó …


Tôi ngạc nhiên, tại sao mới ‘thằng chả’ thân mật đã lên cấp ‘thằng khốn nạn’?


– Bà nói ai … khốn nạn?


– Thằng chồng của má tui.


– ‘Chồng của má’, tức thị là cha ?


– Cha ghẻ tui đó. Mà tui có kêu chả bằng cha đâu.


– Sao vậy?


– Nó nhậu say rồi đánh đập mẹ tui tối ngày. Một hôm nó định giở trò súc vật  với tui, mẹ tui bắt gặp, nó đánh mẹ tui bất tỉnh nhơn sự, tui quơ con dao yếm, huơ cho nó ớn mà giang ra, ai dè nó tự lao thây vào lãnh dao, chết ngắt. Đúng là số chả chết. Bị thần Lưu Linh vật. Tui .. tui không cố ý. Ông ta cũng thông cảm cho tui như vậy. Tui chỉ bị ba năm cải tạo. Lúc má tui đau nặng, người ta lại thả cho về sớm gần năm để nuôi bả.


Bà ngưng kể, khóc. Tôi im lặng để bà khóc tự nhiên, nhưng thấy bà khóc mãi, tôi an ủi:


– Việc đã qua rồi. Bà đừng buồn nữa.


Bà mủi lòng, khóc mùi hơn:


– Tui nhớ má tui với thằng Mẫn quá. Tui bỏ đi thiệt là tệ. Không ai coi chừng má tui với nó hết trơn.


– Thằng Mẫn là ai?


–  Nó là em cùng mẹ khác cha với tui. Nó bị tàn tật, què giò.


– Cha em là ai?


– Thằng chồng mắc toi của mẹ tui, chứ ai?


Tôi quay nhìn khuôn mặt hiền lành đẫm nước mắt và nghĩ có lẽ chính khuôn mặt này đã làm cho các quan tòa giảm khinh cho bà tội vô ý giết người. Phải tay tôi, đã cho bà trắng án. Rồi như bấm nút, bà nín bặt, chùi nước mắt, nói ráo hoảnh:


– Bảy năm cãi lộn với thằng cha ghẻ và hai năm cải tạo, hết thảy chín năm, tui quen ăn nói ba trợn. Sửa lại thấy … miệng lạt nhách.


Bà nói xong than:


– Tui mắc ói quá. Trước khi lên máy bay đã uống ba viên thuốc, mà còn mắc ói.


– Hèn gì bà vừa lên máy bay đã ngủ li bì.


Tôi vừa kịp banh cái bao ói thì bà ọc ra. Bà lại lấy dầu cù là ra xức. Cái nồng nàn của những chuyến đò đêm, cái ngất ngưởng của những chuyến xe đò trưa nắng, cái bệnh viện lưu động đó, dầu cù là con hổ. Hai mươi năm mới gặp lại, gặp lại vẫn nồng. Tôi bật ghế cho bà nằm nghỉ.Tôi cũng ngả người, nhắm mắt, suy nghĩ miên man về câu truyện của bà. Thỉnh thoảng tôi hé mắt, thấy bà chăm chú coi phim trên bàn ảnh truyền hình. Tôi chỉ cho bà đeo ống nghe. Tay chạm phải bộ tóc thật rậm, khỏe mạnh.


Không biết máy bay đã bay tới đâu và mấy giờ ở dưới mặt đất. Tôi có cảm tưởng thời gian và không gian như đọng lại ở một nơi xa lạ, không liên quan tới trái đất. Nhưng tôi vẫn tưởng tượng dưới đó hàng mấy tỉ người đang lao xao cười, khóc, nói thật và nói dối, thông cảm và ngộ nhận, bằng nhiều thứ ngôn ngữ, chân ngôn xen lẫn ngụy ngôn.


Tôi thức giấc đã nghe nhiều người rục rịch. Bà đã bật ghế thẳng, ngồi đan áo, tôi hỏi:


– Bà không ngủ?


– Ngủ mẹ gì được. Vừa chợp mắt đã nghe tiếng gà gáy.


Tôi ngạc nhiên:


– Trên máy bay, làm gì có gà kìa?


Bà không do dự:


– Chắc nó gáy trong đầu tui. Bị ở nhà quê, nghe gà gáy riết, quen đi, cứ gần hừng sáng là nghe gà gáy trong tai.


Hình như bà giao tiếp với thế giới bên ngoài bằng trực giác. Thuần trực giác. Tôi chắc người đàn ông gặp bà trên bến đò Vĩnh Long cũng có trực giác rất mạnh. Tôi thích nghe tiếp câu truyện về họ.


– Tại sao ông không về Việt Nam … rước dâu?


– Chú đừng kiêu ngạo tui… Chả đòi sang đó chớ. Nhưng tui không cho. Tui nói dìa chi tốn tiền. Tui xin món tiền đó cho thằng Mẫn ăn học, chả bằng lòng, gởi tiền dìa rồi.


Khi bà dẹp len và kim đan để chuẩn bị ăn điểm tâm, tôi hỏi:


– Bà đan áo cho ông?


– Bển nghe nói lạnh lắm.


Chúng tôi ăn xong, máy bay qua một vùng ‘ổ gà trời’, hổng lên hổng xuống. Đèn báo nhắc cài dây an toàn. Lần này tôi chỉ cho bà cái khóa.Hành khách đi máy bay gặp những báo hiệu cài dây thế nào cũng ít nhiều lo lắng. Rủi ro, ai biết? Loa phóng thanh loan báo có bão, nhưng hành khách có thể yên tâm. Tôi lòn tay dưới gầm ghế, lấy cái phao cấp cứu. Bà hỏi:


– Cái gì vậy?


– Cái phao cấp cứu. Tôi chỉ kiểm soát xem nó có đó không, để mình yên tâm.


– Tui đi sông đi nước hai chục năm trời, chẳng phao phiếc gì, cũng chẳng chết. Hôm đầu thằng chả xuống ghe cũng bày đặt hỏi phao, tui nói không cần, chả cũng chịu. Riết rồi chả nói đi ghe với tui mà không mang phao mới thích.


Bà không lộ một thoáng lo âu nào. Tôi có cảm tưởng người đàn bà này bay trên 10 ngàn bộ cao mà tưởng mình đang bơi xuồng trên sông Cổ Chiên, xuồng lật, chỉ việc nhào xuống nước bơi. Tôi cất phao trở lại chỗ cũ, hỏi:


– Bà có chắc ông sẽ ra đón không?


– Tui chắc mà. Tui biết ai là người tin được. Tui biết thằng cha này không bao giờ nói xạo.


Tôi nhớ một sự tích trong Tân ước: Một hôm thuyền của các môn đệ gặp sóng gió, Chúa Giêsu đi trên mặt nước ra với họ, nhưng họ càng sợ hơn vì tưởng là ma. Chúa nói ‘Thày đây, đừng sợ’. Đại môn đệ Phêrô mừng quá nói ‘Nếu là Thày thì xin cho con đi trên mặt nước đến với Thày’.Chúa phán ‘Con lại đây!’ Phêrô bước xuống, đi trên mặt nước, được mấy bước, thấy sóng to quá, ông đâm hoảng, và chìm xuống, Chúa phải đưa tay ra đỡ lên thuyền. Ngài trách yêu ‘Cái đồ yếu lòng tin!’


Tôi cảm phục lòng tin của bà lắm, bà ạ: Bà bước thẳng lên mây đến với chồng. Tôi nghĩ mọi người trên chuyến bay này đều biết trước về cuộc hành trình, và biết điểm tới. Chỉ có bà nhắm mắt mà bước lên mây, không biết điểm tới nằm chỗ nào trên mặt đất. Bà đi tới với chồng, chứ không đi tới một nơi nào cả. Không một giây hồ nghi. Câu hỏi ‘Liệu ông chồng có tới đón không?’ chỉ bám vào đầu tôi, một con người thường thấy quá nhiều sóng lớn trên biển đời, lòng tin thường bị nhận chìm, đến nỗi mỗi bước đi về sau trở thành một dấu hỏi.


Tôi phải chờ bảy tiếng đồng hồ tại Copenhagen để được chuyển máy bay đi Oslo. Lịch trình bay đã ghi như vậy từ đầu. Còn bà, theo lịch trình lẽ ra chỉ phải chờ ba tiếng để chuyển máy bay, nhưng vì trục trặc đình công sao đó, phải thêm hai tiếng trễ nải. Chính hai tiếng trễ nải này khiến cho tôi lo ngại giùm bà. Tôi đề nghị:


– Bà nên báo cho chồng bà biết máy bay trễ.


– Chả biết mà … Cái gì chả cũng biết hết đó.


‘Cái gì chả cũng biết’, đã tin ắng đi như vậy, thì thôi, kệ bà. Tôi hướng dẫn bà  đi coi các gian hàng trong sân bay. Bà bị kích thích mạnh vì vẻ choáng lệ và đồ vật bày trong các cửa hiệu. Bà trầm trồ, reo vui. Tôi hỏi bà có định mua cái gì làm quà cho chồng không, vì đồ ở đây miễn thuế, rẻ hơn ở ngoài, bà nói:


– Tui mang theo nhiều đồ lắm, khỏi cần mua. Chú đừng cười nghe, tôi may ba bộ birama, kho một nồi tôm, và mua năm ký bánh phòng tôm, hai ký kẹo dừa. Nghe nói mấy thứ này ở bên tây không có. Mèn ơi! Tây u gì mà nó thích ăn tôm kho tầu gì đâu …


Đi với bà, tôi có cái vui thích như đi bên cạnh một đứa trẻ tò mò. Trẻ ngoan nữa, vì bà từ chối khi tôi đề nghị mua tặng một cái máy sấy tóc mà bà rất thích.


– Ai lại để chú mua, kỳ chết. Để chả mua cho tui, nếu tui còn thích.


Theo tôi, bà có một bộ tóc mây quá đẹp. Tôi hy vọng ông chồng sẽ thuyết phục được bà đừng uốn tóc. Tôi thăm dò:


– Tóc bà để tự nhiên như thế đẹp hơn.


– Biết đâu thằng chả.


‘Biết đâu thằng chả’, thế là cả nhan sắc bà cũng giao cho ông luôn.


– Hèn gì.


– Chú lẩm bẩm cái gì?


– Dạ, không. À, tôi định nói con gấu bông kia nhỏ bé quá, hèn gì ai cũng muốn bồng.


Tuy nhiên, bà càng tin tưởng, phó thác một cách ngây thơ, đầu óc đầy sạn của tôi càng nghi ngại. Rủi chồng bà không tới, bà sẽ xoay xở ra sao ở nơi xa lạ? Khi đi qua một trạm điện thoại, tôi đề nghị:


– Bà nên điện thoại cho ông báo tin báy bay trễ, để ông khỏi lo.


Bà ngẫm nghĩ, rồi trả lời:


– Chú nói có lý. Nhưng làm sao ra nhà dây thép gió bây giờ?


Tôi lấy cái thẻ nhựa của tôi tra vào máy điện thoại, và quay số bà ghi trong một tờ giấy nhét cẩn thận trong bóp. Chuông điện thoại reo. Bỗng tôi ngại ngùng, có thể nào người đàn ông nghe tiếng tôi ở đầu dây bên này, biết tôi đứng bên cạnh vợ ông và đâm ghen không. Tôi vội trao máy cho bà trước khi đầu dây bên kia trả lời. Tôi nghe bà la oang oang bằng tiếng Việt :


– Ê! Ông Ron đó hả! Ê ông có nghe không, Ron, Ron, Ron?!


Bà nói liên hồi, xăng xái. Bà bụm bàn tay trước ống nói mà hét lên, cũng không có tiếng trả lời. Tôi nhớ chúng ta thử lại nhiều lần, bà nhỉ.Nhưng không ai trả lời. Tôi an ủi:


– Có lẽ ông đã đi đón bà, và đang chờ ngoài phi trường.


Sắp tới giờ bà phải lên máy bay, tôi cần được giải đáp vấn nạn lớn nhất rằng tại sao một con người ăn nói mộc mạc như bà lại có thể làm cho một người đàn ông lạ say mê cưới làm vợ. Và, mặc dầu bà thường kể ‘chả biểu, chả nói’, nhưng nói bằng ngôn ngữ gì? Suốt cuộc hành trình, tôi biết bà không hiểu một chữ tiếng Tây tiếng Mỹ, làm cách nào ông bà hiểu nhau, hiểu một cách thâm sâu như thế? Cụ thể nhất là có thiệt ông hẹn bà sang Phần-lan chuyến này? Và có chắc tất cả mọi truyện không bắt đầu từ một sự … hiểu lầm nào đó do bất đồng ngôn ngữ? Tôi hắng giặng hỏi:


– Tôi hỏi không phải, ông bà nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt hay tiếng Phần-lan?


Bà xăng xái:


– Tiếng Việt mình, thằng chả có hiểu con mẹ gì.  Còn cái tiếng quỉ tiếng ma gì của chả, tui cũng đách hiểu.


Cũng hay. Nhờ không biết tiếng Việt, ông khỏi cần hiểu ‘con mẹ’ với ‘cái đách’ là gì. Có lẽ chỉ cần hiểu gật đầu là ‘có’ và lắc đầu là ‘không’ , hai tín hiệu mà nếu thông suốt, minh bạch, con người đỡ được bao nhiêu phiền trược trong cái biên giới u minh nửa không, nửa có, của ngôn ngữ. Tôi nghe nói bộ óc điện toán cũng chỉ biết ‘gật đầu’ và ‘lắc đầu’. Phương chi, con người, không phải chỉ có bộ óc, mà còn trái tim kỳ diệu. Điều này làm cho tôi, khi tiếng loa mời hành khách đi Helsinki vang lên, cảm thấy bớt áy náy. Cái gì làm cho một người đàn ông từ Helsinki sang tận bến đò Vĩnh Long gặp bà, thì cũng đang hướng dẫn bà từ Vĩnh Long sang Helsinki bình an.


Bà le te ra cổng số 39, tươm tất trong cái áo vét xanh đậm và quần tây thẳng nếp. Tôi đứng ngoài, bịn rịn nhìn theo, bà quay lại vẫy tay. Cái vẫy tay cũng không giống ai, bàn tay đưa ngang vai, lòng úp xuống, ngón tay phẩy phẩy ra phía ngoài, như giục tôi cứ đi đi. Cứ yên tâm.


Tâm Thanh

(Nguồn: QGHC Miền Đông)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 30, 2018 16:25

January 28, 2018

Buổi trò chuyện về Thiền “Quán Niệm Hơi Thở”

 


Em nvquyen vừa gởi video clip buổi ”Gặp gỡ & Đối thoại” về Thiền ”Quán Niệm Hơi Thở” (Anapanasati) dưới góc độ khoa học tại Cà phê Thứ 7, ngày 20.1.2018.


Xin gởi đến các bạn để Tùy nghi và Tùy hỷ,


Thân mến,


Đỗ Hồng Ngọc.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 28, 2018 21:07

January 25, 2018

Quán Văn… ăn Tết!

 


Quán Văn… ăn Tết!

Quán Văn số 52 Xuân Mậu Tuất sẽ “linh đình” họp mặt bạn bè ở Cafe Embassy Nhà hát Bến Thành sáng Chủ Nhật 28.01.2018.


Nghe nói có người từ Huế, có người từ Quy Nhơn, có người từ nhiều nơi xa xôi khác nữa cũng “vân tập” về chung vui cùng nhà văn Nguyên Minh, “chủ xị” và nhóm bạn.


Lai nghe nói có nhiều bài vở đặc sắc lắm, trong đó bài Sao Lòng Ta Chưa Nguôi, của Nguyễn Thị Tịnh Thy đọc “Thơ Ngắn Đỗ Nghê”(!?).


Tôi vẫn chưa biết nội dung bài viết này vì Nguyên Minh và Tịnh Thy đều muốn giữ bí mật đến giờ chót cho nên tôi cũng sẽ “khăn gói quả mướp” đến một phen.


Bạn mình rảnh, đến nhe,


Đỗ Hồng Ngọc.


 


 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 25, 2018 19:22

 
Quán Văn… ăn Tết!
Quán Văn số 52 Xuân Mậu Tuất sẽ “linh...

 


Quán Văn… ăn Tết!

Quán Văn số 52 Xuân Mậu Tuất sẽ “linh đình” họp mặt bạn bè ở Cafe Embassy Nhà hát Bến Thành sáng Chủ Nhật 28.01.2018.


Nghe nói có người từ Huế, có người từ Quy Nhơn, có người từ nhiều nơi xa xôi khác nữa cũng “vân tập” về chung vui cùng nhà văn Nguyên Minh, “chủ xị” và nhóm bạn.


Lai nghe nói có nhiều bài vở đặc sắc lắm, trong đó bài Sao Lòng Ta Chưa Nguôi, của Nguyễn Thị Tịnh Thy đọc “Thơ Ngắn Đỗ Nghê”(!?).


Tôi vẫn chưa biết nội dung bài viết này vì Nguyên Minh và Tịnh Thy đều muốn giữ bí mật đến giờ chót cho nên tôi cũng sẽ “khăn gói quả mướp” đến một phen.


Bạn mình rảnh, đến nhe,


Đỗ Hồng Ngọc.


 


 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 25, 2018 19:22

Càphê Thứ 7: Trao đổi về Thiền ”Quán Niệm Hơi Thở”

Thư gởi bạn xa xôi,


Càphê Thứ7: Trao đổi về Thiền “Quán Niệm Hơi Thở”


Thứ bảy 20.1.2018, Cà phê Thứ7 của nhạc sĩ Dương Thụ có một buổi sinh hoạt “Gặp Gỡ & Đối Thoại” đầu năm khá thú vị về Thiền Quán Niệm Hơi Thở (Anapanasati), do Bs Đỗ Hồng Ngọc phụ trách và Gs Nguyễn Văn Trọng ”chủ trì”!


Thú vị vì trước đó một tuần, Gs Trọng đã có buổi trình bày về cuốn sách mới dịch của ông: Một hướng dẫn cho người bối rối của E.F.Schumacher.  Có vẻ như buổi nói chuyện chủ đề Thiền ”Quán niệm hơi thở” của mình cũng là để giới thiệu một cách cụ thể hơn giúp cho người ta “bớt bối rối, bớt hoang mang” trong một xã hội ngày càng có vẻ phức tạp chăng nên có khá đông bạn bè tham dự.


Trong Lời dẫn, mình đã viết:


Hơn hai ngàn năm trăm năm trước, một nhà minh triết phương Đông – Đức Phật – bảo đừng vội tin, hãy đến nếm thử đi rồi biết! Đến là thực hành. Nếm thử là cảm nhận. Phải tự mình thực hành và tự mình cảm nhận. Không thể nhờ ai khác. Rồi Ngài vạch ra một con đường “thoát khổ” cho chúng sanh:


« Đây là con đường độc nhất dẫn tới thanh tịnh cho chúng sanh, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng đắc Niết-bàn »…(Satipathana, Thích Minh Châu dịch).


Đó là Thiền Anapanasati còn được gọi là An-Ban Thủ Ý, “Nhập tức xuất tức niệm” hay Quán Niệm Hơi Thở. Ana là thở vào, Apana là thở ra và Sati là niệm, là nhớ, nghĩ.  


Chỉ có vậy thôi sao ? Chỉ có vậy. Mà vô vàn.


Gần đây các nhà y sinh học, tâm lý học, hợp tác cùng các nhà sư, dùng các kỹ thuật mới như EEG, PET, fMRI…  nhằm khám phá những “bí nhiệm” của Thiền để ứng dụng vào đời sống. Hiệu quả đã có thể chứng minh. Nhưng Thiền Phật giáo không dừng ở đó, mà còn nhằm đến sự giải thoát, giác ngộ.


Thời nay dù vật chất ngày càng đầy đủ, khoa học kỹ thuật tiến bộ như vũ bão mà đời sống con người thì ngày càng căng thẳng, lo âu, luôn sống trong đe dọa của chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh… Gần đây, một thứ bệnh mới, trầm trọng, khó chữa là S.A.D, chữ viết tắt của Stress (căng thẳng), Anxiety (lo âu, sợ hãi) Depression (trầm cảm). Các nhà Tâm lý trị liệu, các nhà y học, phải tìm đến Thiền định đã có từ ngàn xưa để chữa trị như MBSR, MBCT… Ngành Giáo dục Mỹ gần đây cũng đưa ra một chương trình giảng dạy về sự Tử tế, gọi là Kindness Curriculum, cũng lại dựa trên Thiền định.


Buổi trao đổi hôm nay chỉ nhằm cung cấp thêm một cái nhìn từ góc độ y sinh học của một người thầy thuốc về Thiền Quán Niệm Hơi Thở.


BTC cho biết gần trăm người hiện diện, vì phòng ốc quá hẹp, một số không ít phải ra về. Tuy nhiên, vì có thực hiện live stream nên đã có trên 800 người theo dõi qua facebook.


Hôm đó có nvquyen quay một video clip, nay mai sẽ post lên đây để nếu muốn bạn có thể theo dõi chi tiết. Hôm nay bạn xem trước vài hình ảnh thôi nhé.


Hôm nay cũng sẽ trả lời vài câu hỏi của các bạn đồng nghiệp trẻ (chừng mươi bác sĩ, dược sĩ tham dự) muốn mình chia sẻ một chút kinh nghiệm riêng về ”tào lao” sao cho thành công. Thực tế, mình chẳng bao giờ có sự chuẩn bị nghiêm túc ”giáo trình giáo án” chi cả, chỉ là trao đổi, đối thoại thôi mà, những điều từ trong bụng, từ kinh nghiệm bản thân, với tất cả sự chân thành thế thôi.


Dĩ nhiên trước mỗi buổi ”tào lao” như vậy, mình cũng tự hỏi: Nói với ai đây? Nói cái gì đây?… như thường lệ, và ghi chú vòng vèo một ”sơ đồ” để giúp trí nhớ. Thực tế, tùy đối tượng mà sơ đồ này hoàn toàn có thể ”sụp đổ”, không được ngó tới! Vậy đó, cho nên buổi giao lưu thường rất nhẹ nhàng, vui vẻ. “Vui thôi mà”.


Thứ hai, mình không thích trình chiếu slides. Nó có vẻ ”bó buộc” quá, cứng ngắc quá, trang trọng quá… Chỉ ở một số trường hợp mới phải dùng đến. Lạm dụng không nên. Thực tế khi không có máy chiếu, bị cúp điện… thì có thể bị gãy đổ. Trao đổi, giao lưu, trò chuyện trực tiếp bao giờ cũng sinh động hơn, ”tâm truyền tâm” hơn, không bị máy móc, kỹ thuật che lấp. Nhớ Socrates cũng thường đứng ngoài đường mà trò chuyện, Phật cũng ngồi dưới gốc cây mà ”thuyết” đó thôi…


Dĩ nhiên đây chỉ là những câu trả lời cho buổi ”phỏng vấn bỏ túi” của mấy bạn đồng nghiệp trẻ về ”kinh nghiệm tào lao” đó thôi (!).


 


”Lá bùa” để giúp trí nhớ cho buổi giao lưu!


 


 


 


 


Đỗ Hồng Ngọc và Nguyễn Văn Trọng thoải mái trong một buổi cà phê sáng thứ bảy!


 



 


Sử dụng Flipchart để viết vẽ rất tiện, linh hoạt hơn dùng máy chiếu slides.


Thở bụng: Cơ hoành là cơ hô hấp chính, chịu trách nhiệm 80% hoạt động hô hấp.


Trung khu hô hấp nằm bên ngoài vỏ não. ”Quán niệm hơi thở” giúp ”giải phóng” vỏ não, nơi tiêu thụ quá nhiều năng lượng cho những chuyện vô bổ!


Buổi trò chuyện khá sôi nổi, hào hứng. Nhiều câu hỏi-đáp thực tế, trao đổi kinh nghiệm bản thân…


 


Hẹn thư sau,


Thân mến,


Đỗ Hồng Ngọc.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 25, 2018 02:03

January 21, 2018

Thơ Ngắn Đỗ Nghê (bản Anh ngữ: Phan Tấn Hải)

 


Thơ Ngắn Đỗ Nghê


(bản Anh ngữ Phan Tấn Hải, 01.2018)


Gởi bạn vài bài trong tập Thơ Ngắn Đỗ Nghê được dịch sang Anh ngữ bởi nhà thơ Phan Tấn Hải (Nguyên Giác):


 


Trái đất


Giữa đêm

Thức giấc

Giữa ngày…


Đỗ Nghê, Boston 1993

.

Earth

In middle of the night

Awakening

In middle of the day…


Do Nghe, Boston 1993


………………………………..


Sóng


Sóng

Quằn quại

Thét gào


Không  nhớ

Mình

Là nước


Đỗ Nghê


Waves


The waves

Wriggle

Roar


Forgetting

Of being

Water


Do Nghe

…………………………………….

         


Nước


Nước từ đâu đến

Nước trôi về đâu

Từ con suối nhỏ

Từ dòng sông sâu

Từ khe núi lở

Từ dưới nhịp cầu

Từ cơn thác lũ

Từ giọt mưa rơi


Nước đến từ đâu

Nước trôi về đâu

Từ cơn gió thoảng

Từ làn mây trôi

Từ hơi biển mặn

Từ phía mặt trời


Nước vẫn muôn đời

Không đi chẳng đến

Ai người nỡ hỏi

Nước đến từ đâu

Ai người nỡ hỏi

Nước trôi về đâu…


Đỗ Nghê, Paris 1997


 


Water


From where the water comes

To where the water flows

From a small stream

From a deep river

From a steep ravine

From beneath the bridges

From a massive flood

From falling raindrops

.

From where the water comes

To where the water flows

From a breeze of wind

From a floating cloud

From salty sea air

From the sun’s rays


Water forever

neither comes nor goes

Who has the heart to ask

from where the water comes

Who has the heart to ask

to where the water flows


 


Do Nghe, Paris, 1997


…………………………………………………………………………….


Bông hồng cho mẹ


Con cài bông hoa trắng

Dành cho mẹ đóa hồng

Mẹ nhớ gài lên ngực

Ngoại chờ bên kia sông…


Đỗ Nghê, 2012


A rose for Mom


I put on myself a white rose

and give Mom a red one

Mom, be sure to put it on a lapel

Grandma is waiting at the other shore of the river…


Do Nghe (2012)


…………………………………………………………………….


Giỗ một dòng sông


.


Sông ơi cứ chảy


Cứ chảy về trời


Cứ về biển khơi


Cứ làm suối ngọt


Cứ làm thác cao


Cứ đổ ầm ào


Cứ làm gió nổi


Cứ làm mây trôi…


Sông ơi cứ chảy


Chảy khắp châu thân


Chảy tràn ra mắt


Chảy vùi bên tai


Dòng sông không tắt


Dòng sông chảy hoài…


Đỗ Nghê


 


 


Memorial service for a river


Dear river, just keep flowing


keep flowing to the sky


keep flowing to the ocean


keep being a sweet stream


keep being a high waterfall


keep swirling and gushing 


keep becoming the howling wind


keep becoming the floating clouds


Dear river, just keep flowing


flow all over the body


flow throughout the eyes


flow all through the ears


The river doesn’t give up


The river flows forever…


Do Nghe


………………………………………………………………………………………….


 


 


Vè thiền tập




Thả lỏng toàn thân

Như treo móc áo

Ngồi xếp bằng tròn

Vai ngang lưng sổ

Dõi theo hơi thở

Như mượn từ xa

Khi vào khi ra

Khi sâu khi cạn


Chú tâm quãng lặng

“Pranasati”

Hơi thở xẹp xì

Thân tâm an tịnh

Không còn ý tưởng

Chẳng có thời gian

Hạt bụi lang thang

Dính vào hơi thở

Duyên sinh vô ngã

Ngũ uẩn giai không

Từ đó thong dong

Thõng tay vào chợ…


Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê)

 


 


Meditation verse


Relax your whole body

just like to hang clothes on a coat hanger

Sit in cross-legged position

with your back straight, shoulders horizontal

Focus your mind on the breaths

just like borrowing something from afar

Breathing in and out


Breathing deep and low

Focus your mind on the quiet between

Pranasati

When the breaths almost vanish

your mind and body become still and pure

Thoughts cease to exist

Time  disappears

Only the wandering dust

attaches to the breaths

See that all things are dependent arising and non-self

See that the five aggregates are emptiness

Thereafter you can leisurely

enter the marketplace.


Do Hong Ngoc (Do Nghe)

(translated by Phan Tấn Hải, 01-2018)


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 21, 2018 18:25

January 20, 2018

Kỳ 12: Phật học & Đời sống, ngày 13.1.2018

Kỳ 12: Phật Học & Đời Sống, 

Bát Chánh Đạo


8. Chánh Định (tiếp theo)


Thiền Quán Niệm Hơi Thở (Anapanasati/ Nhập tức xuất tức niệm)


 


Ghi chú:


Do nvquyen bận đi Từ thiện ở Tây nguyên nên lần này có sự chậm trễ. Mong các bạn thông cảm.


Cảm ơn Nga và Trung đã thu hình cho buổi sinh hoạt PH & ĐS kỳ 12, ngày 13.1.2018 tại Chùa Xá Lợi. Ngày 20.1.2018 đã tiếp tục có buổi sinh hoạt Kỳ 13. Sẽ post nay mai.


Sau buổi này, “Lớp lỏng lẻo” sẽ nghỉ Tết đến Thứ bảy 3.3.2018 mới sinh hoạt trở lại theo lịch của Ban Phật học Chùa Xá Lợi. Xin thông báo để các bạn được biết.


Nhớ, Thứ bảy, ngày 3/3/2018 sẽ ”học” tiếp. Các buổi sinh hoạt Phật học & Đời sống luôn rộng mở, ai cũng có thể tham dự.


Chúc các bạn Tết Mậu Tuất 2018 vui khỏe nhé.


Thân mến,


Bs Đỗ Hồng Ngọc.


 


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 20, 2018 18:04

Đỗ Hồng Ngọc's Blog

Đỗ Hồng Ngọc
Đỗ Hồng Ngọc isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Đỗ Hồng Ngọc's blog with rss.