Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 84
March 5, 2017
Nghiêm Nguyễn: Khi bài hát bị hát sai lời
Ghi chú: Một bài viết rất hay, và cần thiết! Xin phép tác giả Nguyên Nguyễn được chia sẻ với bạn bè nơi này. Đúng là mỗi khi nghe một ca sĩ nào đó hát sai lời, thấy chua xót và tội nghiệp cho cả nhạc sĩ, ca sĩ và người nghe. Gần đây, trên Karaoke có rất nhiều bài viết sai lời, sai chánh tả, và mọi người cứ thế mà hát…
Cảm ơn bạn HV đã chuyển cho đọc bài này.
Đa tạ,
Đỗ Hồng Ngọc
………………………………………………………………………………………………………………………………..
Khi bài hát bị hát sai lời
Nghiêm Nguyễn
January 29, 2017
Hiện tượng ca sĩ hát sai lời bài hát xảy ra càng lúc càng nhiều, ở trong nước cũng như hải ngoại. Với đa số khán thính giả, có thể đây chỉ là chuyện nhỏ, không đáng quan tâm, vì chính họ cũng không biết chính xác lời của bài hát. Tuy nhiên với một số người quan tâm, nhất là các nhạc sĩ, các tác giả viết ra bài hát, họ đã buồn lòng không ít về vấn đề này.
Trong bài “Mộng Dưới Hoa”, Nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ từ bài thơ “Tự tình dưới hoa” của thi sĩ Đinh Hùng, câu “Mắt em lả bóng dừa hoang dại”, nhiều người đã hát thành “Mắt em là bóng dừa hoang dại”. Chữ “lả” diễn tả một hình ảnh nên thơ đôi mắt của người thiếu nữ đẹp như bóng dừa rủ xuống. Hát thành “là” thì câu hát hoàn toàn mất chất thơ đi. Có một giai thoại về chuyện này. Sau khi sáng tác bản nhạc này, nhạc sĩ Phạm đình Chương thỉnh thoảng có trình diễn bài hát này ở phòng trà Đêm Màu Hồng. Khi hát đến câu “Mắt em lả bóng dừa hoang dại”, ông đột ngột ngừng lại, rồi nói “Lả bóng, các bạn ạ, đừng hát Là bóng, mất đẹp của câu thơ đi”. Sau đó ông lại say sưa hát tiếp.
Nhạc sĩ Tuấn Khanh cũng từng bộc bạch là mỗi lần nghe ca sĩ hát câu đầu của bài “Chiếc lá cuối cùng” ông hết sức hồi hộp vì nhiều ca sĩ đã hát “Đêm qua chưa” thành “Đêm chưa qua”. “Đêm qua chưa” là một câu hỏi bâng khuâng, trước sự chia ly không còn ý niệm rõ rệt về thời gian, trong khi đó “Đêm chưa qua” đầy tính xác định. Nếu so sánh, “Đêm qua chưa” nghe hay hơn, đầy tính nghệ thuật hơn là “Đêm chưa qua”.
Cố ca sĩ Quỳnh Giao khi viết về bài hát “Ngọc Lan” của người cha kế là nhạc sĩ Dương thiệu Tước cũng không kềm được sự bực tức khi một câu trong bài hát đã bị hát sai hoàn toàn. Trong tạp ghi Quỳnh Giao, bà đã viết:
Không chỉ là một bài hát, Ngọc Lan là một bài thơ, một bức họa và một đóa thơm lãng mạn. Ca khúc này được nhiều người trình bày, nam lẫn nữ, nhưng có lẽ thích hợp với giọng nữ hơn là nam. Ðiều này hơi lạ vì nội dung gợi ý về bậc nam tử thấy người ngọc trong “giấc xuân yêu kiều” bỗng mê đắm mà… lùi lại để tơ vương trong tâm tưởng. Ngợi ca đóa hoa như vậy thì phải là nam tử chứ?
Về nhạc thì vậy, về lời từ thì thật đáng thương cho Dương Thiệu Tước, cháu nội cụ Dương Khuê.
Ông viết nhạc đã hay mà dùng chữ rất tài cho một hậu thế lại coi thường chữ nghĩa và nỗi dụng công của ông. Khi viết “ngón tơ mềm, chờ phím ngân trùng, mạch tương lai láng”, ông dồn hết thi họa và nhạc vào một câu làm người ứa lệ trước cái đẹp. “Mạch tương lai láng” là một điển cố nói về giọt lệ. Nhưng đời sau lại hát ra “mạch tương lai sáng”. Dẫu có buồn thì cũng chưa đáng khóc bằng “mạch tuôn” hay “mạch tuông lai láng”!
Trong một buổi trình diễn ca nhạc của TT Thúy Nga, nữ ca sĩ TTH tức HT cũng đã hát “Mạch tương lai sáng”. Rõ ràng là người nữ ca sĩ này hoàn toàn không hiểu biết gì về ý nghĩa của ca từ này.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng là nạn nhân của rất nhiều trường hợp. Những bài hát của ông ngoài giai điệu mượt mà, trong ca từ ông thường sáng tạo những từ vựng rất độc đáo, lạ lẫm, tạo nên nét nhạc rất riêng của họ Trịnh. Chẳng hạn như trong bài “Chiều một mình qua phố”. Khi ông viết “Khi nắng khuya chưa lên”, ông muốn dùng chữ “nắng khuya” thay thế ánh trăng lên, thế mà có một nam ca sĩ vì không hiểu nên đã hát “Khi nắng mưa chưa lên”, làm mất đi cái hình ảnh thi vị đó. Thật uổng cái công sáng tạo chữ nghĩa của ông.
Trong bài “Quỳnh Hương” có câu “Nụ cười khúc khích trên lưng”, vẽ lên một hình ảnh rất dễ thương của người thiếu nữ áp sau lưng chàng trai, miệng cười khúc khích. Nhưng chắc vì quên lời nên một số ca sĩ đã hát cương thành “Nụ cười khúc khích trên môi”, làm mất đi cái hình ảnh dễ thương đó. Trong bài “ Một cõi đi về”, những chữ “ngọn gió hoang vu thổi suốt xuân thì” thì bị hát thành “thổi xuống” hay “thổi buốt” , sai lạc cả ý nghĩa. Hoặc trong bài “Biết đâu nguồn cội”, lời của bài hát là “Em đi qua chuyến đò, thấy con trăng đang nằm ngủ”, thì bị hát thành “thấy con trâu đang nằm ngủ”, từ một hình ảnh lãng mạn hóa thành hình ảnh trần trụi, đời thường.
Nhạc tiền chiến cũng không ngoại lệ. Bài “Hướng về Hà Nội” của nhạc sĩ Hoàng Dương có quá nhiều câu sai khiến tác giả không ít lần muốn đính chính. “Tiếng guốc” trong câu “thanh bình tiếng guốc reo vui” bị hát thành “tiếng hát reo vui”. Với ông, tiếng guốc là âm thanh riêng của Hà Nội, vậy mà thay bằng “tiếng hát” thì còn gì là Hà Nội nữa. Rồi “Hãy tin ngày ấy anh về” hát thành “Cứ tin ngày ấy anh về”, và câu “đắm say chờ những kiếp sau…” bị hát thành “đắng cay chờ những kiếp sau…”.
Trong câu mở đầu đầy chất thơ bài “Bến Xuân” của nhạc sĩ Văn Cao: “Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước/ Em đến tôi một lần” đã bị hát thành “em đến chơi một lần” hay “em đến thăm một lần”, chỉ đổi một chữ mà làm mất hết hồn thơ của câu hát.
Hiện giờ hầu như các bản in đều in nhầm khiến các ca sĩ đều hát sai câu “Muôn kiếp bên đàn” thành “Muôn kiếp bên nàng” trong bài “Dư Âm” của nhạc sĩ Nguyễn văn Tý. Lòng muốn bên nàng nhưng người xưa không muốn nên phải nói tránh ra là bên đàn, tác giả đã có lần tâm sự, kể lại chuyện tình thời trai trẻ của ông.
Trong bài “Lá đổ muôn chiều” của Đoàn Chuẩn, câu hát “còn nhớ phương nào hoa đã rơi” đã bị một nam ca sĩ sửa thành “còn nhớ hôm nào hoa đã rơi”. “Phương nào” nói về không gian, nơi chốn, trong khi “hôm nào”, nói về thời gian. “Còn nhớ phương nào” nghe thi vị, khoáng đãng hơn “còn nhớ hôm nào”.
Tiếng hát vượt thời gian Thái Thanh, ca sĩ được xem diễn tả những sáng tác của Phạm Duy hoàn hảo nhất cho đến chính tác giả cũng phải khen ngợi là không ai có thể thay thế được, thỉnh thoảngvẫn tự ý sửa lời bài hát, hoặc hát sai khi trình diễn . Có trường hợp nhờ bị sửa mà câu hát trở nên sâu sắc hơn, có ý nghĩa hơn, nhưng không phải lúc nào cũng thành công.
Chẳng hạn như bài “Cho Nhau”, Phạm Duy viết:
Cho nhau ngòi bút cùn trơ….
Cho nhau, cho những câu thơ tàn mùa
Cho nốt đêm mơ về già
Thái Thanh hát:
Cho nhau ngòi bút còn lưa….
Cho nối đêm mơ về già
Lưa là chữ cổ, có nghĩa còn sót lại, nhưng mang một âm thanh u hoài, luyến lưu, tiếc nuối. Dĩ nhiên ngòi bút cùn trơ mang ý nghĩa chính xác hơn, nhưng nghe không thi vị bằng ngòi bút còn lưa. “Cho nốt đêm mơ về già”có nghĩa là cho hết đi, không còn chừa gì cả, nhưng “Cho nối đêm mơ về già”, nghe sâu nặng, thủy chung hơn.
Phạm Duy viết: Cho nhau thù oán hờn ghen. Cho nhau cho cõi âm ty một miền.
Thái Thanh hát: Cho nhau cho nỗi âm ty một miền.
Chữ “nỗi” mang ý nghĩa sâu xa, hay hơn chữ “cõi”. Vì từ “cõi” một ý niệm hữu hình về không gian, tuy có vẻ bao la nhưng hữu hạn. Còn “nỗi”, một ý niệm vô hình, diễn tả tâm trạng con người, tưởng chừng như nhỏ bé so với “cõi” không gian, nhưng thật ra mông mênh vô tận lòng người.
Tuy nhiên trong bài “Về miền Trung”, Thái Thanh đã hát sai hai chỗ làm lệch ý nghĩa của bài hát. “Tan thân thiếu phụ, nát đầu hài nhi” bị hát sai thành “Thương thân thiếu phụ, khóc đầu hài nhi”, và “Một chiều nao đốt lửa rực đô thành”, Thái Thanh hát thành “Một chiều mai đốt lửa rực kinh thành”. Chữ “nao” mơ hồ, mông lung, không xác định rõ thời gian, có thể là không bao giờ, trái lại chữ “mai” có vẻ như một xác quyết, mong muốn. Nhạc sĩ Phạm Duy muốn gây một ấn tượng mạnh mẽ cho người nghe chứ chẳng bao giờ mong có ngày đốt kinh thành Huế.
Chuyện các ca sĩ hát sai lời từ trước đến giờ có lẽ viết mãi cũng không hết. Đó là chưa nói đến chuyện sửa “anh” thành “em” hay ngược lại để phù hợp giới tính của ca sĩ. Có những bài hát không thay đổi ý nghĩa gì nhiều khi bị sửa đổi, tuy nhiên không phải lúc nào cũng xuôi chèo mát mái mà nhiều khi nghe rất ngô nghê, buồn cười. Phải hiểu là nhạc sĩ sáng tác một bài hát là gửi gấm tâm tình của mình vào trong đó. Vì thế khi thể hiện một bài hát cho có hồn, cho bài hát được thăng hoa hơn, ngoài việc hoà nhập cảm xúc và tâm hồn của mình vào đó, người hát không nên sửa đổi theo ý mình mà làm sai lệch ý tưởng và ý nghĩa của bài hát.
Thử tưởng tượng như trong bài Ngậm Ngùi, Phạm Duy phổ thơ Huy Cận, nếu đổi anh thành em và ngược lại, sẽ nghe một nữ ca sĩ hát như sau:
Tay em anh hãy tựa đầu,
Cho em nghe nặng trái sầu rụng rơi… Thì với thân hình nặng hơn 60 kí lô của chàng tựa vào, chắc chắn cả thân người của nàng sẽ rụng rơi chứ không phải trái sầu nào cả.
Tương tự, nghe hết sức kỳ cục khi: “Anh vuốt tóc em” sửa thành “em vuốt tóc anh” và “Em khóc trên vai anh” sửa thành “Anh khóc trên vai em” (Một lần cuối, Hoàng Thi Thơ). “Em ơi nép vào lòng anh” sửa lại là “Anh ơi nép vào lòng nhau” (Đôi ngả chia ly, Khánh Băng).
Trong bài “Này em có nhớ” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, chữ “em”, một người con gái phụ bạc, khiến “tôi”, một người đàn ông phải trách móc, buồn phiền. Thế mà một ca sĩ trong nước khi trình diễn đã đổi ngược lại làm mất hết tính tự sự đầy biểu cảm trong bài nhạc.
Ca sĩ hát sai lời có nhiều nguyên nhân. Từ việc các băng đĩa nhạc phát hành cẩu thả, đến việc những quyển sách nhạc in sai lời mà không bao giờ đính chính. Nhưng xét cho cùng, chủ yếu là từ các ca sĩ; họ đã không chịu tham khảo, tìm hiểu ý nghĩa của bài hát một cách thấu đáo trước khi trình diễn. Ở mỗi tác phẩm, tác giả khổ công gọt giũa từng nốt nhạc, trau chuốt từ câu ca, để qua bài hát chuyển tải những cảm xúc, những tâm tình của họ đến người nghe. Thế mà khi nghe một bản nhạc, hầu như người ta chỉ quan tâm đến ca sĩ trình bày chứ chẳng ai thèm nhớ hay biết tên tác giả. Ngay cả một số trung tâm sản xuất băng nhạc và một số ca sĩ cũng thế. Cách nay khá lâu nhà văn Bùi Bảo Trúc kể, có lần ông mua một băng nhạc của trung tâm nào đó sản xuất. Khi đọc trên bìa băng nhạc, thấy chỉ liệt kê tên những bản nhạc và ca sĩ trình bày mà không để tên tác giả, ông bực quá vứt băng nhạc vừa mua vào sọt rác. Ông bảo đây là sự vô ơn đối với tác giả.
Cho nên khi thưởng thức hay trình bày một bài hát, người nghe cũng như người hát cần biết đến ai là người đã sáng tác ra bài hát, và sau đó người hát cố gắng hát cho đúng lời, đúng ý. Đó là cách chúng ta tôn trọng tác giả cũng như thể hiện sự biết ơn của chúng ta đối với họ; những người mà từ trong cuộc sống với định mệnh đau thương, nghiệt ngã hay với hạnh phúc êm ả, ngọt ngào; đã chắt lọc thành chất liệu để cống hiến cho đời những tác phẩm thật tuyệt vời.
Nguyên Nghiễm
March 3, 2017
Hoa đào năm ngoái…
Phật là Như Lai nhưng Như Lai không phải Phật.
Như Lai là Như Lai.
Là cánh hoa mai nở thiên thu giữa đêm trừ tịch.
Là cánh hoa đào “năm ngoái” vẫn còn cười với gió đông.
Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong…
(Thôi Hộ)
internet
Năm ngoái ngày này dưới cánh song
Hoa đào ánh má mặt ai hồng
Mặt ai nay biết tìm đâu thấy
Chỉ thấy hoa cười trước gió Đông
(Đỗ Bằng Đoàn & Bùi Khánh Đản dịch)
Thật ra làm gì có hoa đào năm ngoái !
Hoa đào thiên thu thì có. Đời đời kiếp kiếp thì có. Chẳng sinh chẳng diệt thì có.
Nó cứ việc nở với gió đông và ngộ thay, nó cười mỉm, cười mũi cái anh chàng thi sĩ ngờ nghệch kia cứ tưởng hoa đào năm ngoái của anh còn đó để mà than thở nhân diện đào hoa nay đã về đâu?
Về đâu?
Chẳng về đâu cả. Bởi chẳng đến từ đâu. « Vô sở tùng lai diệc vô sở khứ… ».
Cái hoa đào đó nó cười tủm tỉm anh chàng thi sĩ chưa thấy biết Như Lai kia.
Còn người đẹp « nhân diện đào hoa » nọ có mất đi đâu bao giờ. Có nhạt phai đi đâu bao giờ !
Ngàn trước ngàn sau vẫn vậy. Vẫn « tương ánh hồng » mãi đó thôi.
Chỉ có chàng thi sĩ loay hoay trong cái ngã của mình, tưởng của ta, tưởng là ta, nên mới buồn rầu mà than thở…
Đỗ Hồng Ngọc
Gì đẹp bằng sen…
internet
Từ những ngày còn thơ dại ai mà chẳng nghêu ngao
Trong đầm gì đẹp bằng sen/ Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng…
Thế rồi khi dấn bước vào đời người ta đã quên bài học ngày xưa đó, mãi mê tìm kiếm một búp sen vàng sen bạc rực rỡ hào quang ở tận chân trời. Cho đến một hôm giật mình ngó lại: thì ra cái Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng kia rốt cuộc cũng chỉ là « Nhị vàng bông trắng lá xanh » đó thôi.
Chẳng thêm chẳng bớt.
Nó vậy đó. Nó như thị. Nó Như Lai.
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng coi lăng xăng, chen chúc, quần quật, xanh đỏ tím vàng vậy cũng chỉ để rồi rốt cuộc Nhị vàng bông trắng lá xanh… Đừng tìm đâu nữa cho mất công.
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích (Trần Nhân Tông). Của báu trong nhà sẵn đó rồi! Viên ngọc trong chéo áo người cùng tử sẵn đó rồi. Chẳng qua vì không thấy biết.
Cái đóa sen đó cứ xòe ra rồi khép lại. Khép lại rồi xòe ra. Từ nghìn xưa cũ. Đóa sen của thiên thu vẫn lung linh giữa gió và nước, như tủm tỉm cười, tỏa ngát hương thơm…
Mà chợt ngộ một điều cốt lõi: Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn!
Nó tuyệt vời bởi nó giản đơn. Nó chung thủy. Nó chẳng vì ai để tỏa hương. Nhưng cũng đủ làm cho cái mùi bùn kia trở nên nhu mì, yểu điệu…
Khai thị là để ngộ nhập. Nhập về đâu? Về Như Lai tạng. Về bào thai Như Lai. Về Chơn tâm thường trú. Về thể tánh tịnh minh.
Nhưng, không chỉ vậy. Nhập còn là nhập thế. Đóa sen không chỉ nhập vào cõi Phật mà còn nhập vào cõi bùn nhơ giữa chốn Ta Bà : Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Sen vậy đó. Tìm kiếm đâu xa.
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
(Ca dao / Quốc văn Giáo khoa thư)
Đỗ Hồng Ngọc
March 2, 2017
Thu Vàng ” VỌNG NGÀY XANH”
Thư gởi bạn xa xôi
Thu Vàng ” VỌNG NGÀY XANH”
Tìm địa chỉ quá khó. Nhiều người có lẽ đã phải trở về. Một số đi lạc ra tận bờ sông. Mình cũng chạy lòng vòng mãi, hỏi thăm cả chục người mới ra cái… hang động âm nhạc này, nằm heo hút tận trong cùng của một ngôi trường dạy yoga… ở Bình Thạnh. Địa chỉ ghi không chính xác. Chui xuống gầm cầu Bình Lợi, vượt qua đường xe lửa, rồi đến một nơi… có cái tên đường khác, có số nhà khác, trùng lấp vừa cũ vừa mới… Vậy mà cuối cùng cũng gần đầy thính phòng chứng tỏ bạn bè của Thu Vàng thật dễ thương.
Do vậy mà bắt đầu trể đến 45 phút. Có chừng hơn 50 thân hữu. Ai cũng kêu trời sau một hồi lặn lội tìm kiếm mệt mỏi nhưng ai nấy đều rất vui, tay bắt mặt mừng, ríu rít chuyện trò không ngớt. Đây là phòng thu âm của nhạc sĩ Đức Thịnh, tĩnh lặng, ấm cùng, thân tình và phải nói là trang nhã dành cho buổi giới thiệu tiếng ca Thu Vàng với đĩa CD mới: Vọng Ngày Xanh!
Thân Trọng Mẫn nói, thôi bắt đầu đi anh Ngọc. Như đã hẹn trước, Mẫn và Thu Vàng nhờ mình phát biểu vài câu khai mạc. “Em giới thiệu anh gì đây? thi sĩ Đỗ Nghê, bác sĩ ĐHN nhé. Thi sĩ quan trọng hơn bác sĩ, phải giới thiệu trước”. Sao cũng được mà. Nhưng cho anh mấy phút? Mấy cũng được. Ba phút là đủ vì mọi người đang nóng nghe Thu Vàng.
(hình: Thân Trọng Mẫn giới thiệu Đỗ Hồng Ngọc).
Nói gì ư? Mình nói trước hết rằng cảm ơn các anh chị, các bạn và cám ơn cả tôi (mọi người cười ồ) vì sau một hồi vất vả mới đến được cái hạng động này để nghe Thu Vàng. Rằng đã có nhiều người viết về giọng ca TV như Khánh Minh, như Hoàng Quốc Bảo, Trúc Chi, Du Tử Lê v.v… Với tôi, TV là một giong ca đặc biệt, nó làm tôi nhớ lại những giọng ca trời cho như Thái Thanh, Thanh Thúy, Lệ Thanh, Hà Thanh, Khánh Ly… những giọng ca không qua một trường lớp nào, không có bằng cấp nhạc viện nào… Họ ca như Xuân Diệu nói: “… đến từ núi lạ/ ngứa cổ hát chơi”. TV cũng là một giọng ca trời cho như thế.
Rằng, không chỉ vậy, ở TV còn có tấm lòng. Cái tình. Tôi không thể quên NQC kể lần TV ôm bó hoa vào tận BV ở ĐN, thăm người bạn thơ của chúng tôi, nhà thơ PNL đang bệnh nặng. Cô ôm vào một bó hoa và hát cho nhà thơ nghe. Hôm đó nhà thơ đã khóc. Những bệnh nhân nằm cùng phòng cũng khóc. TV còn thường hát cho bạn bè bất cứ nơi đâu… khi Hội An, lúc Huế, Saigon… và cả ở trong chùa Xá Lợi, hôm tôi nói chuyện trong ngày lễ Vu Lan…năm đó.
(hình: Đỗ Hồng Ngọc… bèn có đôi lời)
Nhưng hôm nay ta hãy nghe TV hát Vọng Ngày Xanh? Sao lại Vọng Ngày Xanh?… nhiều anh chị ở đây cùng lứa với chúng tôi, trên dưới 70 cả rồi, có lẽ vì thế mà vọng… ngày xanh chăng? Mà nhớ lại thuở ấu thơ có cha ngồi đọc báo, mẹ ngồi may áo bên ngọn đền dầu hao, với tiếng còi tàu… chăng? (Kỷ Niệm, PD)…
Bây giờ hãy dành cho tiếng hát TV. Tôi còn nhớ có lần mời TV lên nói đôi câu trước khi hát, cô bảo “Em không biết nói, em chỉ biết hát…”
Và TV cất tiếng hát.
(hình: Thu Vàng hát với tất cả tấm lòng thiết tha cùng bè bạn trong một không gian thật ấm cúng, gần gũi…)
rồi Vân Châu và Thu Vàng… hai “chị em” song ca nữa chứ!
Đạo diễn Lê Cung Bắc phát biểu đôi lời giữa buổi trình diễn… Anh nói như đã lâu lắm rồi mới được nghe lại tưởng chốn thân quen…
(hình: Đạo diễn Lê Cũng Bắc, rồi bạn Nguyễn Hữu Liêm cùng phát biểu…)
Và cuối cùng, lạ thay, TV cùng mọi người họp xướng … Thu Vàng của Cung Tiến.
“Một mình đi lang thang trên đường…Buồn hiu hắt và nhớ bâng khuâng…Lòng xa xôi và sầu mênh mông. Có nghe lá vàng não nề rơi không… ”
điệu valse áo não mà hát tập thể mới lạ cho chứ! Một màn hợp xướng ngoài chương trình! Mọi người đều cùng hát sảng khoái, và rồi như cùng “rống” lên:
Mùa Thu vàng tới là mùa lá vàng rơi
Và lá vàng rơi, khi tình Thu vừa khơi
Nhặt lá vàng rơi, xem màu lá còn tươi
Nghe chừng đâu đây màu tê tái …
Rồi dịu dặt:
Chiều hôm qua lang thang trên đường
Nhớ nhớ buồn buồn với chán chường
Chiều hôm nay trời nhiều mây vương
Có mùa Thu Vàng bao nhiêu là hương…
(Cung Tiến)
Mình cũng vậy, cũng thấy sảng khoái nhất là lúc này đó bạn ơi!
Mọi người chia tay đầy quyến luyến.
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
………………………………………………
(Hình ảnh do Vân Châu cung cấp)
February 24, 2017
Bài thơ Nước Mắm
Chia sẻ của Huyền Chiêu:
“Đọc trên blog của anh Ngọc (www.dohongngoc.com) có bài của tác giả Phạm Sanh viết về nước mắm thật hay nên HC làm bài thơ này tặng cho những ai có “Quê tôi là miền quê hương nước mắm”. Nhìn tấm hình mấy cái ú mắm có quai xách thấy nhớ thời chưa có nước mắm giả.”
Nguồn: Internet
Tôi là người Việt Nam
Và tôi yêu nước mắm
Chưa có một ngày nào
Mà tôi xa nước mắm
Từ thuở tôi còn thơ
Đã thấy chén nước mắm
Trong mâm cơm đơn sơ
Vì nhà tôi nghèo lắm
Thỉnh thoảng đi học về
Mẹ đưa tôi cái chai
Dặn ra hàng bà Hai
Mua năm đồng nước mắm
Mắm được đựng trong ú
Loe ngoe mấy con giòi
Bà Hai mỉm miệng cười
Có giòi là mắm thật
Rót chút mắm ra dĩa
Xắm một trái ớt xanh
Vắt vào một chút chanh
Cả nhà ngồi chung quanh
Cơm nồi đồng bốc khói
Chén cơm nóng trên tay
Gắp một miếng bầu luộc
Chấm vào chén mắm cay.
Từ đó tôi lớn lên
Chưa một ngày xa mắm
Tôi là người Việt Nam
Và tôi yêu nước mắm
Huyền Chiêu
Vọng Ngày Xanh: Tiếng hát Thu Vàng
February 23, 2017
Những bài thơ (?) viết ở Boston
Thư gởi bạn xa xôi
Những bài thơ (?) viết ở Boston
Đánh dấu hỏi (?) vì không biết có phải là thơ không, có nên gọi là thơ không? Mới rồi bạn nói nếu lúc đó ở Boston mà gặp nhau thì đã đưa mình đi thăm khu vườn nhiều cây kỳ lạ của Đại học Harvard rồi, và cũng sẽ đưa đi khám phá thu Boston không chỉ bằng “nghe” (*) mà còn bằng “thấy”…!
Mình scan lại vài trang viết tay như vầy, hy vọng bạn có thể đọc được, cho vui nhé. À mà, lúc đó (1993), Đinh Cường cũng đã gởi đến mình mấy bức minh họa này nữa, cho một tập thơ…
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
……………………………………………………………..
(*) Nghe “Tiếng thu” giữa Boston, ĐHN, 1993
February 21, 2017
Nguyễn Thị Khánh Minh: ”Đỗ Hồng Ngọc, lang thang nghìn dặm trái tim”
Đỗ Hồng Ngọc, lang thang nghìn dặm trái tim
Nguyễn Thị Khánh Minh
(https://tuongtri.com/2017/02/17/do-ho...…)
Trong Lời Ngỏ sách Nghĩ Từ Trái Tim, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc (ĐHN) có nói, tôi viết bằng cảm xúc, bằng sự thể nghiệm đời sống chứ không phải bằng suy luận lý trí. Theo tôi, không chỉ với cuốn Nghĩ Từ Trái Tim, mà tất cả tác phẩm của ông từ thơ, văn, bàn về kinh sách, hay những đề tài có vẻ chuyên khoa (tôi nói có vẻ vì ngay trong những đề tài ấy, ông viết không đơn thuần là khô khan của khoa học, mà đầy tính văn chương), đều được chữ ông chuyên chở những cảm xúc thực từ trái tim.
Tôi hình dung một chiếc xe -chữ- lọc cọc trên con đường đất nâu quê nhà thơm ngấu mùi bùn cỏ nắng trưa, chở đầy hoa đồng nội -cảm xúc-, trên con đường đi cứ tỏa hương tỏa hương… Đấy, nghìn dặm lang thang của một chàng lãng tử rất đỗi nghệ sĩ, mộng mơ… Và Con Đường mà chàng miệt mài đi, nghe ngóng, kiếm tìm ấy là Trái Tim. Nơi khởi đầu và chung cuộc để con người nhìn ra nhau nhân ái yêu thương. Những điều chàng chắt chiu được trên con đường ấy lại làm quà tặng cho chúng ta -những tác phẩm-. Người nghĩ và sống được như ý nghĩ mình đầy thiện tâm như thế, thật là không dễ. Và không nhiều. Nên chính ông, cũng là một tặng phẩm cho cuộc đời này.
Cũng khởi đi từ nhiệm mầu ấy cộng thêm những trải nghiệm cảnh ngộ trong cuộc đời mà ông đã được người đọc, người nghe, tin cậy. Nếu đọc ông một cách tuần tự rất dễ nhận ra được những tình cảm, kinh nghiệm ấy được nuôi dưỡng, lớn lên, giàu thêm theo thời gian. Giàu thêm chứ không già đi -Cảm Xúc-. Điều lạ ở ĐHN đấy. Kinh nghiệm càng nhiều, càng nghịch cảnh thì cảm xúc càng trẻ trung, cái nhìn về cuộc sống càng giản dị, tình dành cho tha nhân càng thông hiểu bao dung. Phải chăng là một đền đáp của Cảm Xúc cho người biết lắng nghe nó?
Đó là điều tôi cảm nhận về phong cách cùng văn chương của Đỗ Hồng Ngọc.
Tôi cũng có được duyên may để quen và được xem ông như một người anh. Có một ngẫu nhiên, tôi là người thích những ngẫu nhiên đem lại cho mình may mắn bất ngờ, hồi tháng 4. 2014, tôi qua một cuộc mổ cột sống khá nặng, vào ngày phải tập đi thì tôi đã không thể bước được, nằm trên giường sợ và khóc, rồi vào mạng tìm nghe đây đó thì tình cờ tôi nghe được buổi nói chuyện của Bác Sĩ ĐHN trên Hoa Mặt Trời, nói về niềm hạnh phúc khi ông bước đi những bước đầu tiên sau cuộc mổ sinh tử, nghe xong tôi thấy mình bình tĩnh hơn, và sáng hôm sau tôi tập đi được 2 phút, trong niềm vui, càng thấy thấm thía những điều ông nói, hạnh phúc hóa ra là những điều rất giản dị, sáng mở mắt tai nghe được tiếng chim hót, biết được nỗi tuyệt vời của thiên nhiên muôn loài. Bước được bằng hai chân, cảm được hạnh phúc của một thân thể lành lặn. Phone reo nghe tiếng bạn hỏi thăm, nghe được nỗi ấm áp sẻ chia, từ đó thấu được nỗi đau của những mất mát quanh ta… Vậy đó, từ cảm ngộ của người vừa nhảy qua bờ tử kia đã khiến tôi biết tận hưởng, trước hết, là hơi thở của mình. Cái kho báu đang-là ấy chẳng bao giờ vơi. Càng lấy nó cứ càng đầy. Đó là duyên tôi có được sau khi chỉ nghe một buổi ĐHN nói chuyện trên Hoa Mặt Trời. Tôi biết đóa hướng dương ấy luôn cười và chỉ cho anh em, kia mặt trời đang mọc, xin hãy nở…
Đúng như nhà thơ Duyên nói trong một e-mail cho anh em, Đỗ Hồng Ngọc ảnh hưởng tới mọi tầng lớp và mọi lứa tuổi, khi họ tìm đến thơ văn ông để tùy hoàn cảnh mà rút ra được những cần thiết cho mình. Chính vì có trải nghiệm và tu tập chiến thắng nghịch cảnh, bịnh tật, ông mới có được phong thái giản dị và nói lời trầm tĩnh khiến văn chương ông có sức hút lạ kỳ. Ông hóa giải những điều buồn khổ bằng sự hóm hỉnh duyên dáng khiến nó trở nên nhẹ tênh. Rất rất nhiều người đã viết về ông, đều cảm nhận như thế, và người đọc ông cũng không phủ nhận được sức quyến rũ, thuyết phục từ những áng văn uyên áo mà dung dị ấy.
Tôi chỉ muốn góp thêm chút cảm xúc của mình khi nghe nhịp đập lang thang của một thời tuổi trẻ phập phồng cùng chiến cuộc. Thời mà tôi gọi các anh là những chàng lãng tử, của Bi Thương và Mơ Mộng. Mỗi người một cách thế để sống và tồn tại trong quãng thời gian khắc nghiệt ấy. Với ĐHN ngày ấy, là Thơ.
Một tập thơ in cách nay gần nửa thế kỷ (1967) có tên Tình Người, với bút hiệu Đỗ Nghê [1], ông nói về một ước mơ,
Súng dòn
Ánh sáng lóe lên
Đạn đan trên nền trời
Thành hai chữ Việt Nam
Những kẻ tử thù nhìn rõ mặt nhau
Khóc vì mừng
Anh em
(Ước Mơ)
Định mệnh một cuộc chiến… Đã biết bao gia đình, trong một nhà anh cầm súng vì bên này, em ra chiến trường cho bên kia. Hai phía ngỡ ngàng khi súng đạn lóe sáng nhìn ra nhau anh em… Người thơ ước sao cho đường đi của súng đạn đan thành hai chữ Việt Nam, để thức tỉnh nhau còn khóc được vì mừng… Và dường như có một đau lòng, nỗi chia cắt đất nước, nỗi phân ly ý thức hệ,
Khi ta đưa các con 50 người xuống biển
Và vợ ta đưa 50 đứa lên rừng
Lòng ta đã rất đỗi băn khoăn
Có một điều gì khiến ta linh cảm…
…
Các con sẽ không bao giờ quên
Đã cùng sinh ra trong một bọc
Một trăm trứng
Một trăm con
Các con sẽ không bao giờ quên…
…
Hãy tha thứ cho nhau- tha thứ hết
Rồi nắm tay cùng gầy dựng lại quê hương…
(Tâm Sự Lạc Long Quân)
Bạn ơi, lời ước nguyện này trải qua mấy mươi năm vẫn tươi rói hiện thực tình cảnh quê hương chúng ta. Mảnh sao băng kia đã thành bụi hư vô rồi mà chưa thành tựu được một ước mơ tưởng là rất dễ dàng đối với những đứa con sinh cùng một bọc Việt Nam này! Trái tim người thơ ấy đã thổn thức gần nửa thế kỷ, và vẫn còn theo thời gian,
… Lịch sử sẽ ghi bằng những lời nói dối
Mặc kệ – chúng mình thương nhau
…
Cho anh, tôi dám nhìn vào mắt nhau
Không một ai cúi mặt
Nếu anh vẫn một mực chối từ
Và nhất định đòi cho tổ quốc một chiếc áo màu -dù xanh dù đỏ-
Hay khoác một định nghĩa -dù trắng dù đen-
Tôi đành nhặt một cọng cỏ rất xưa về làm tổ
Rồi khóc trên đó
Loài chim bỏ đi
(Tổ Quốc)
Nhân bản làm sao và thương cảm làm sao nỗi bé mọn trước tình yêu được gói vào tựa đề là Tổ Quốc. Thân phận khốn khổ nên lớn mãi mộng mơ, ước nguyện. Nên mới có Tình Người. Tác phẩm này theo tôi là một dấn thân của tác giả vào thời cuộc, biểu lộ một thái độ, nhân danh Con Người. Trong đó tôi thích nhất bài này,
Tôi cho mấy người mượn
Con đường độc nhất về quê nội
Để thử những quả mìn mới
Tôi cho mấy người mượn
Những nhà hàng phố xá đông đúc
Để thử lựu đạn, plastic,
Tôi cho mấy người mượn
Cửa nhà vườn tược ruộng nương
Để thử sức tàn phá của bom
Tôi cho mấy người mượn
Tuổi trẻ căng đầy nhựa sống
Làm bia thử vũ khí cá nhân
Tôi cho mấy người mượn
Ông già bà lão con nít thiếu niên
Để thử các chính sách chăn dân cai trị
Tôi cho mấy người mượn
Khối óc linh hồn
Để thử thuốc nhuộm đen nhuộm đỏ
Tôi cho mấy người mượn hết rồi đó
Xin dành lại cho tôi
Những nỗi căm hờn
Và tấm lòng độ lượng rất đông phương
(Cho Mượn)
Tôi trích trọn bài này để thấy được tất tật vốn liếng của người đã cắn răng cho mượn. Rộng lòng hay cam chịu hàm nỗi bất lực? Hỏi tức trả lời. Trước những mất mát và bi phẫn đến nỗi, tự an ủi, thôi thì coi như cho mượn! Và lịch sử cho chúng ta thấy, không lạ gì thói quịt nợ của những tên phú hộ. Và chàng, và chúng ta chỉ còn, chí ít, nỗi căm hờn thường tình. Nhưng, diệu kỳ thay, lại không thường tình chút nào, một tấm lòng độ lượng rất đông phương! Đúng là Đỗ Hồng Ngọc mà ta thấy trong những tác phẩm sau này lấp lánh bóng một thiền giả. Khởi đi từ thời gian viết bài thơ này mới hiểu vì sao mỗi ngày ĐHN mỗi cống hiến những tác phẩm đầy lòng nhân ái, vì người và thương người đến vậy. Và tôi đã nghĩ, cho đến ngày hôm nay thì chắc chắn trong ông không còn “nỗi căm hờn” nào nữa mà lồng lộng cái Đông Phương nhân bản kia. Mặc kệ tất cả, miễn là chúng mình thương nhau, ơi anh em ngọt bùi một bọc… Tôi muốn nói lại lời mà ông đã viết gần nửa thế kỷ trước, Hãy tha thứ cho nhau- tha thứ hết / Rồi nắm tay cùng gầy dựng lại quê huong… … Chợt nghe tiếng thì thầm sâu ý nghĩ / Bàn tay gầy làm dấu quê hương /…
Nhưng để kiếm một tha thứ, để quên đi, sao khó đến vậy? Hết nghiệt ngã này đến khác buộc vào cái quang gánh ốm o chữ S những oan cừu. Nên chàng và những ai kia, cứ mãi lang thang trên nghìn dặm trái tim để nhặt nhạnh những nhịp yêu thương…
Trong tập này còn có một bài thơ khác của ông, rất nổi tiếng, Thư Cho Bé Sơ Sinh, được trích dẫn và nói đến rất nhiều, mỗi người nói một chút, niềm hân thưởng của mình về nó, khiến bây giờ tôi nói một chữ nào thêm nữa thì cũng lọt vào một ý đã nói rồi, thế nên, chỉ biết nói, a, tôi cũng thích bài đó như bạn vậy. Tôi thích hình ảnh tiếng khóc của bé sơ sinh và cái cười của ông mụ (xin lỗi bác sĩ) “Vì từ nay em đã phải cô đơn. Em đã phải xa địa đàng lòng mẹ…” Tôi thấy ở đây ẩn trong tình cảm thiêng liêng -qua những việc làm đón em bé ra đời- là nét nhìn dí dỏm về thân phận con người. Một tâm hồn mẫn cảm và lạc quan. Nhà phê bình văn học Huỳnh Như Phương khi viết về bài thơ này đã nói “Thật kỳ lạ, ở tuổi 25, Đỗ Hồng Ngọc tự đặt cho mình một cột mốc thơ ca mà chính ông không dễ gì vượt qua. Ni sư Giải Nghiêm có lý khi cho rằng nhiều bài thơ và bài viết của Đỗ Hồng Ngọc về sau này dường như là một sự nối dài Thư Cho Bé Sơ Sinh” [2] Tới đây thì xin thưa với Nhà Thơ Lữ Kiều, ông nói về bạn ông, ĐHN là một người nghiêm túc, tôi muốn thêm, một người mơ mộng nghiêm túc, một người yêu đời nghiêm túc. Một cây viết nghiêm túc giản dị. Thế cho nên, mỗi khi nói chuyện, email với ông hay nghe ông trên những diễn đàn, cái nghiêm túc ấy không làm nặng nề mà luôn đem đến những tiếng cười thoải mái ý nhị, những vui vẻ nhẹ nhàng.
Trên nghìn dặm trái tim ấy, tôi sững sờ đến đau mênh mang, khi nghe bật lên những tiếng đập như từng tiếng đàn đang dồn dập bỗng đứt phựt. Đó là những bài thơ về La Ngà, đứa con gái yểu mệnh,
Con đã lớn lúc nào mà ba má không hay
… Ba dạy con ca dao trước khi học chữ
Con làm thơ trước khi biết nói
… Ba má nhìn con lớn lên
Thấy mình nhỏ lại
… Con đã lớn lúc nào mà ba má không hay
Cứ tưởng con còn nhỏ xíu
Đến khi con mất đi rồi
Mới biết con đã lớn
(Con Đã Lớn)
Trước mộ con còn ướt
Ba nói với bè bạn ba rằng
Từ nay hãy yêu con mình cách khác
Đừng như ba
Giấu kín trong lòng
Bởi tình yêu có bao giờ cho đủ
Có đâu sợ dư thừa…
(Tình Yêu)
Ba viết trăm lần lý lịch
Cứ mỗi lần viết đến tên con
Ba lại ngẩn ngơ
Như một kẻ mất hồn
Biết trả lời sao
Câu hỏi
Hiện con đang làm gì?
Ở đâu?
(La Ngà 2)
Ba dạy con
Mỗi ngày
Một chút
Không bài học nào
Như ba đã học
Từ con:
Nỗi mất
(La Ngà 5)
Hồi đó khi đọc xong những bài thơ này, tôi nhìn hai con mình như nhìn vào kho báu. Tôi biểu lộ một cách sôi nổi hơn tình yêu ấy, với chồng, với con, với gia đình bạn hữu quanh mình, như thể, họ hay chính mình sẽ mất đi bất cứ lúc nào, trước khi kịp làm điều gì đó cho nhịp tim nhau biết được niềm thiết tha, trọn vẹn.
Dường như tôi đã nói được điều tôi muốn nói từ lâu, với Nhà Thơ Đỗ Nghê. Điều đó nếu nói gọn, là hai chữ Hàm Ơn, những cảm xúc tôi có được khi đọc văn thơ ông.
Và ngay lúc này, khi tuổi đang vào lúc đi xuống đồi ngắm mặt trời hoàng hôn, qua những đớn đau bệnh tật, tôi tập tành tu dưỡng, đến với Thiền Và Sức Khỏe [3], để học biết được Thiền định qua cách thở. Đến với Nghĩ Từ Trái Tim [4], xem thiền giả kia lắng nghe mình ra sao sau khi qua đường ranh sống chết, và trái tim đã mở con đường dẫn người đến Tâm Kinh Bát Nhã. Ngẫm nghĩ rồi nghe ngóng. Nghiền ngẫm rồi ngập ngừng [5]. Tôi hình dung được nỗi miệt mài tìm hiểu nghiêm túc này. Và đó là điều cần để đi vào hành trình gian nan ấy. Cái gian nan tủm tỉm một mình… thiền hành mỗi phút mỗi giây. Cũng như những lúc say đọc Gươm Báu Trao Tay. Viết, luận về kinh với một văn phong như thế thật đã kéo được người đọc ngồi lại với mình để nghe như to nhỏ chuyện trò. Ông dùng hình ảnh trong Chinh Phụ Ngâm, Chín tầng gươm báu trao tay / Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh… ví von thanh gươm báu Kim Cương trao cho người thiện tâm để truyền bá đạo giải thoát chặt đứt mọi khổ nạn kiếp người [6]. Với những sách như thế đâu chỉ đọc một lần.
Có một ngẫu nhiên hết sức vui, vừa mới đây, vợ chồng em gái Khanh Minh &Wayne mời vợ chồng tôi một chuyến cruise nhân tôi vừa khỏi bệnh, em gái viết, chị nhớ đem quần áo đẹp, rực rỡ để ăn tối. Tôi tần ngần trước tủ áo, rực rỡ là thế nào đây. Chọn bộ cánh để đi dạo công viên, đi ra ngồi quán cà phê với bạn văn chương thì dễ, mình sao mặc vậy rất không suy nghĩ gì, nay nhỏ em bảo phải rực rỡ, thiệt tình… suốt buổi sáng không quyết định được gì, lúc nằm nghỉ, thường theo thói quen, khi nằm xuống giường tôi hay lấy không định một cái gì đó để đọc, tôi vớ tình cờ ra cuốn Những Người Trẻ Lạ Lùng [7], và lật ngẫu nhiên, trang 58, có những dòng này, …Ở cái tuổi chín muồi đó, người ta không chỉ biết quan tâm đến mình, mà quan tâm đến những xung quanh, đến tại sao, ai đó, ở đâu, lúc nào…, nghĩa là đến phần hồn kia, người ta biết tìm cái vượt trội hơn những phù phiếm tàn phai…
…Chính cái tuổi chông chênh đó của người phụ nữ, cái tuổi có những cột mốc thì thầm, tuổi chuyển mùa như lá trên cành, từ cái bồng bột sôi nổi, sang cái nền nã dịu dàng, giản dị mà sang trọng…
Tôi bật cười la lên A! Ngẫu nhiên như thể, tôi đang thắc mắc, và có người anh ở cùng nhà, vừa kêu anh ơi, là đã nghe được cách đối phó. Vấn đề của tôi lúc ấy chẳng có gì là đao to búa lớn, chỉ là… và tôi đã biết cách chọn những bộ nào, phải rồi, chỉ có “nền nã” mới trụ được bên cạnh “rực rỡ”. Ông Đỗ Hồng Ngọc này! nói đủ khía cạnh trong cuộc sống mà ta phải chạm đến, ngoài thơ, kinh sách, y học, tâm tình chuyện đời, còn có cả, Thời Trang.
Có phải lang thang qua nghìn dặm Trái Tim mà chàng có được cái lịch duyệt đôn hậu đến thế?
Nguyễn Thị Khánh Minh
Santa Ana, Tháng 4. 2015
………………………………………………………………………………………………..
[1] Năm 2013, tôi được Nhà Thơ ĐHN tặng một tập thơ được chụp lại, tập Tình Người- Thơ Đỗ Nghê- Bìa 4 có những dòng in: Tác giả trình bày. Bìa Lữ Kiều. Hình Cocteau. Ấn hành giới hạn dành cho bạn bè và anh em. Năm 1967.
[2] Huỳnh Như Phương- Thơ Đỗ Hồng Ngọc: Ẩn Hiện Giữa Cuộc Đời (Trong phần Phụ Lục tập thơ Thư cho Bé Sơ Sinh Và Những Bài Thơ Khác…)
[3], [4], [7] Tên những tác phẩm của Đỗ Hồng Ngọc
[5] trích trong Lời Ngỏ, Nghĩ Từ Trái Tim
[6] trích trong trang 5, Gươm Báu Trao Tay
February 20, 2017
“Hạnh phúc bình quân đầu người”
Thư gởi bạn xa xôi,
“Hạnh phúc bình quân đầu người”
Bạn nhớ đúng, năm 2009, cô Lương Lệ Huyền Chiêu (Nha Trang) đã có bài “Mùa Xuân Chuyện Trò Cùng Nhà Văn Đỗ Hồng Ngọc” phỏng vấn tôi, đăng trên Ninhhoa.com, trong đó tôi đã đề cập tới “hạnh phúc bình quân/ đầu người” (per capita happiness) lấy ý từ “thu nhập bình quân/ đầu người (per capita income)”…
…“Đó là ở Bhutan, một quốc gia nhỏ bé dưới rặng Hy mã lạp sơn đã đưa ra khái niệm “Tổng hạnh phúc quốc gia” (GNH= Gross National Happiness) để thay cho GNP (Tổng sản lượng quốc gia) để đánh giá sự phát triển của đất nước họ. Tôi đã mượn khái niệm “Tổng hạnh phúc quốc gia” của Bhutan để đặt ra cái gọi là “Hạnh phúc bình quân đầu người” (per capita happiness) … cho vui vậy thôi! Nhưng thật bất ngờ đựơc nhiều bạn đọc quan tâm chia sẻ.
Vài năm gần đây là thời kỳ của khủng hoảng kinh tế trên toàn thế giới, “thu nhập bình quân đầu người” (per capita income) đã giảm rõ rệt, số người thất nghiệp ngày càng đông, tuy vậy, theo tôi, hình như nhìn chung thì “hạnh phúc bình quân đầu người” (per capita happiness) lại có vẻ… tăng lên! Có lẽ nhờ khủng hoảng kinh tế mà mọi người mới có cơ hội để giật mình, thấy ra hạnh phúc không chỉ là tiền bạc của cải, từ đó nhìn lại cách sống hưởng thụ vật chất, chạy theo tiêu thụ bấy nay của mình là phù phiếm, là vô nghĩa. Bây giờ người ta lại nhận ra những giá trị “mới”. Đầu năm 2009, báo chí Mỹ kêu gọi mọi người nên ăn uống lành mạnh, vừa để tránh béo phì (một đại dịch hiện nay ở Mỹ và đang toàn cầu hóa…) vừa để tăng nghị lực, tăng lòng tự tín, một thứ hạnh phúc không ngờ! Báo chí Anh thì khuyên mọi người nên có nếp sống lành mạnh như năng đi nhà thờ nghe nhạc… miễn phí, năng tập thiền định, quán từ bi và năng vận động thể lực, đặc biệt khuyên nên tự trồng rau trong vườn nhà để ăn vừa “an toàn vệ sinh thực phẩm” , vừa tiết kiệm, nhất là nhờ đó sẽ tìm thấy hạnh phúc, sự thanh thản trong tâm hồn! Họ nói, lạ lắm, cứ cuốc đất trồng rau đi rồi khắc biết: lúc đó nó làm cho ta không còn phải vướng bận so đo tính toán nát óc với những con số chứng khoán, tiền vàng lên xuống chi nữa, trái lại tìm thấy niềm vui lạ lùng khi nhìn những rau cải xanh tươi mơn mởn từ bàn tay ta làm nên… Như vậy, trên toàn cục, ta thấy hình như có sự “tỉnh giác” chút đỉnh rồi đó, người ta đã bắt đầu nói nhiều hơn tới bảo vệ môi trường sống, phát triển bền vững, chăm lo đời sống tinh thần, làm từ thiện, phục vụ cộng đồng v.v…!”.
Đó là vài “trích đoạn” trả lời phỏng vấn năm 2009 và 2010 của Lương Lệ Huyền Chiêu. Vừa đây, thấy trên mạng có vài bản tóm tắt rất hay về GNH ở Bhutan, cùng các biện pháp thực hành GNH để mang lại “hạnh phúc bình quân đầu người” ngày càng cao cho người dân đáng được quan tâm.
Xin chia sẻ nơi đây cùng các bạn vậy.
Đỗ Hồng Ngọc
February 16, 2017
Nước Mắm Phan Thiết
Ghi chú: Đọc bài Nước Mắm Phan Thiết của Phạm Sanh trên blog Phan Bội Châu Phan Thiết tôi không khỏi cảm động vì mình cũng là dân Phan Thiết thứ thiệt, ăn nước mắm tĩn suốt một thời tuổi nhỏ, lội sông Cà Ty, lang thang Đá Ông Địa, leo núi Tà Cú, tắm biển Kê Gà…
Cho nên đã liên hệ với tác giả Phạm Sanh, xin phép post lại nơi đây để chia sẻ cùng bè bạn.
Cảm ơn Phạm Sanh. Cảm ơn Nước Mắm Phan Thiết.
Đỗ Hồng Ngọc
NƯỚC MẮM PHAN THIẾT
Phạm Sanh
(http://pbchoingo.blogspot.com/2015/10...)
Năm đầu tiên vào học Sài Gòn, bạn bè cư xá Phú Thọ cứ kể câu chuyện trêu chọc, đang ngủ trên xe đò đi ngang Phan Thiết là bật tỉnh dậy biết ngay ở đâu. Lúc đó vừa thẹn vừa giận lại vừa thương cho quê hương nước mắm của mình. Nhỏ, ở nhà Ngoại, xung quanh toàn là thùng lều, bà Ngoại nhỏ nước mắm Mậu Hương, bà Ngoại lớn nước mắm Nam Hương, bước ra đường là thấy bà con thân thuộc chữ Hương và chữ Hồng, Hồng Hương, Vạn Hương, Hoàng Hương, Tân Hương, Hồng Sanh, Hồng Xuyên, Hồng Hòa… Mùi cá, mùi nước mắm, cũng như mùi biển mặn đã ăn sâu vào hơi thở lối sống tính cách những người con xứ biển.
Nghe kể, nghề nước mắm Phan Thiết có bề dày trên 300 năm do những ngư phủ người Quãng Nam, Quãng Ngãi, Bình Định, Phú Yên theo chân đội quân Nguyễn Hữu Cảnh tiến vào miền đất phương Nam, vượt biển đưa cả gia đình vào vùng đất mới Phan Thiết, đất lành chim đậu. Khi thành lập Tổng Đức Thắng (1809), tên khai sinh của Phan Thiết, nước mắm đã ra đến đàng Ngoài. Đến đầu thế kỹ 20, nước mắm Liên Thành hiệu con voi đã có mặt khắp mọi miền đất nước, khắp Đông Dương và qua tận trời Tây dự triển lảm Marseille (1922).Những năm 1930, Bình Thuận đã sản xuất hàng năm đến 40 triệu lít nước mắm, chiếm 70% lượng nước mắm cả nước.
Nhờ hai dòng hải lưu ngược chiều ven bờ kéo theo hiện tượng nước trồi, tạo ra nhiều thức ăn phù du “dụ khị” các loài cá nổi về đầy vịnh Phan Thiết từ Mủi Né cho đến Mủi Dinh. Tiếng lành đồn xa, Phan Thiết đã thu hút đông đảo ngư dân miệt ngoài về dựng lều chòi tạm sinh sống dọc theo cửa sông, bãi biển. Dần dần, có của ăn của để, xây dựng nhà cửa kiên cố, nhớ ơn Tiền hiền Trời Phật Thánh Thần cùng nhau xây Dinh xây Vạn thờ “Ông” (cá voi). Vạn Thuỷ Tú Đức Thắng lập vào năm 1762 là ngôi Vạn sớm nhất ở Phan Thiết. Hình thành nghề nước mắm, có thể lúc đầu cá nhiều không tiêu thụ hết, ướp muối hoặc làm mắm để ăn dần bán dần, nhưng đến mùa cá nục cá cơm, cá nỗi đầy biển, cá nặng muốn chìm ghe, cá nhiều quá phải nghĩ ra cách kéo rút lấy nước mắm từ thủ công lu mái ảng sành ngoài trời đến công nghiệp thùng lều trong các dãy nhà lều to như nhà máy.
Thùng lều hình trụ thường bằng gỗ mềm như bằng lăng, mít, bờ lời để dễ niền lại bằng dây song chạy quanh mặt ngoài thân thùng, các mảnh ván gỗ được siết chặt vào nhau, không còn khe hở. Có thùng trổ, thùng phơi, thùng chứa. Các loại thùng này có kích thước khác nhau, thùng nhỏ hơn gọi là thùng ba, thùng lớn hơn gọi là thùng tư. Thùng muối cá, xuống ngang mặt đáy thùng có một lỗ lù để rút nước mắm. Trước khi muối cá phải đắp lù, dọn thùng thật sạch, để khô ráo, lấy vỏ ốc để phía trong lỗ lù, đắp bao tải trấu rồi đắp một lớp muối hạt lên trên.
Phan Thiết nổi tiếng thương hiệu nước mắm cá cơm. Cá cơm đánh bắt về được chọn lựa kỹ, bỏ những con to hay nhỏ quá hoặc không tươi, nên chọn cá cơm than hoặc sọc tiêu để nhiều nước mà ngon. Cá cơm được đem vào muối không cần rửa lại vì trước khi đem lên bờ, cá đã được rửa bằng nước biển. Khi muối tỷ lệ thường dùng là 3 cá 1 muối, hai thành phần đó trộn chung cho thật đều mà không để nát, gọi là chượp, cũng có thể lớp cá lớp muối. Sau khi cho chượp vào đầy thùng, rải một lớp muối lên trên rồi cài lá dừa, vỉ tre trên mặt và xếp đá hộc đè chặt xuống.
Sau 2-4 ngày người ta mở nút lù ở đáy thùng tháo dịch cá chảy ra. Dịch này gọi là nước bổi, do các enzymes trong ruột cá giúp thuỷ phân phần nội tạng cá. Nước bổi có thành phần đạm cao, nhưng có mùi tanh, chưa ăn được, thường được vớt bỏ váng bẩn để làm nước châm vào các thùng chượp đã chín nhằm tăng độ đạm. Sau khi rút nước bổi, chượp trong thùng xẹp xuống và bắt đầu quá trình thuỷ phân chính. Tác nhân chính của quá trình này là một loại vi khuẩn kỵ khí, cần thời gian từ 8-18 tháng mới thuỷ phân xong thân cá. Khi quá trình này hoàn thành, tức chượp chín, nước mắm hình thành trong suốt với màu từ vàng rơm tới nâu đỏ cánh gián (tuỳ theo từng loại cá cơm) không còn mùi tanh mà có mùi thơm nồng, nhà lều dùng từ đã ”cẩn”. Nước nhất được rút từ thùng lều được gọi là nước mắm nhỉ, hoàn toàn từ thân cá thuỷ phân mà thành. Sau khi đã rút nước nhỉ, người ta đổ nước cốt châm vào để rút tiếp nước hai gọi là nước mắm ngang hoặc nước long, có long 1, long 2… Trong thời gian chế biến, hàng ngày 2 lần phải múc nước mắm từ thùng trổ đổ lên lại thùng muối, có thể thêm muối thêm cá thêm nước bổi nước cốt nhiều lần.
Nước mắm Phan Thiết còn một loại nổi tiếng danh bất hư truyền, không phải là loại nước mắm nhỉ ăn với cơm nóng, mà là nước mắm lú, lấy nước mắm nhỉ để lâu thật là lâu nhiều khi quên mất (mới gọi là lú), màu cánh gián, bớt mặn bớt mùi, hơi hăng nồng, dùng trị bệnh là chính. Đau bụng, viêm họng, bất tĩnh trúng gió, đặc biệt là ca sỹ cần hơi dài gọng thanh, thợ lặn uống một ngụm ấm người trước khi xuống nước rất tốt.
Những hãng chế biến nước mắm với số lượng lớn gọi là hàm hộ. Có hàm hộ nhỏ, hàm hộ lớn. Việc phân định cũng chỉ tương đối, căn cứ theo số que nước mắm và uy tín của hàm hộ. Mỗi que từ 12 – 20 thùng nước mắm lớn, mỗi thùng lớn có sức chứa từ 5 – 7 tấn cá hoặc nhiều hơn nữa. Mỗi hàm hộ lại có logo khác nhau, Kiết Thành biểu tượng 3 cua xanh, Mậu Hương 2 chữ thập xanh, Vạn Hương cá thu đen, Hiệp Hòa 2 ngôi sao đỏ, Hồng Hương có biểu tượng con tôm được xem là hàm hộ lớn nhất Phan Thiết.
Thật ra, cách chế biến nước mắm của các hàm hộ trước đây đều khác nhau, gần như “bí mật” giấu nghề từ cách chọn cá, dọn thùng, tỷ lệ cá – muối chượp, quy trình pha trộn các loại nước mắm, cả việc bỏ thêm đường cho dịu và bỏ màu cho bắt mắt, người Huế thích màu đỏ đậm, cao nguyên thích mặn, Đà Nẳng thích mùi. Các chủ hãng nước mắm lớn trước đây đều quý người “cọp rằn”, chăm sóc gia đình người này cả đời, giống như cách quản trị nhân sự của các Công ty Nhật hiện nay. Hầu như hàm hộ Phan Thiết ai cũng cho các đầu nậu mượn tiền để có lượng cá làm nước mắm ổn định giá rẽ, đều có đội xe đội tàu, đều có đại lý kho hàng ở các nơi tiêu thụ, một dạng kinh doanh theo nguyên lý khai thác chuỗi giá trị đi trước thời đại.
Nước mắm Phan Thiết ban đầu chứa trong các tĩn nung hình bánh ú bằng đất sét trộn bùn non, mới hình thành xóm Lò Tỉn gần cầu Bốn mươi, mỗi tĩn có dung tích 3,5 lít, có gắn nắp trét hồ kín và dây quai xách. Theo các cụ lớn tuổi thì nước mắm vô tĩn hợp vệ sinh, hương vị màu sắc được giữ nguyên vẹn ở bất kỳ thời tiết nào, để càng lâu lại càng ngon. Nước mắm tĩn được chất lên những chiếc ghe bầu đi khắp nơi, nghe nói cả các nước Đông Nam Á.
Ghe bầu Phan Thiết, đúng ra là ghe bầu Mủi Né khá nỗi tiếng, tiếp thu kỹ thuật đóng ghe của Malaya và Champa, làm kiểu cho ghe bầu miền Trung một thời. Dáng bầu bĩnh, trọng tải hàng 100 tấn chở được khoảng 20.000 tĩn nước mắm tương đương 10 toa đôi xe lửa, 3 buồm, nhiều khi xuôi gió chạy được tới 20km/giờ. Ghe có lái phụ, khoảng 12-14 người bạn chia làm 6 phiên, 1 tổng khậu lo bếp núc ăn uống. Mỗi chuyến đi vài tuần vào Sài Gòn hoặc vài ba tháng ra Trung, chở muối nước mắm đi bán và chở về gạo đường trái cây vải vóc. Công ty Liên Thành có 3 ghe bầu mang tên khá ngộ: Vị thuyền, Phan Thiết, Hải Thuyền.
Ghe bầu trở lái về đông
Con gái theo chồng bỏ mẹ ai nuôi
Khi đường bộ và công nghệ bao bì phát triển, nước mắm Phan Thiết được chuyên chở bằng thùng thiếc và thùng nhựa 20 lít, các chị em súc tĩn đã chuyển sang súc thùng, không còn ghe bầu vì đã có các tàu chở hàng trọng tải trên 200 tấn (những năm chiến tranh, đường bộ bị đắp mô, đường sắt ngừng hoạt động).
Sau 1975, nghề nước mắm Phan Thiết yếu hẳn, các hàm hộ nếu không bị cải tạo tư sản thì cũng phải vào quốc doanh, có người sợ hiến cả sở lều đi làm công nhân múc nước mắm để con cháu được ghi lý lịch tốt tốt một chút. Người ta lại nghiên cứu khoa học, xây bể chượp bằng bê tông gạch đá thay vì thùng gỗ truyền thống, làm nước mắm ngắn ngày thay cho quy trình đảo trộn lụi hụi trước đây. Kết quả thấy rõ, danh tiếng chất lượng thơm ngon nước mắm Phan Thiết chỉ còn trong kỹ niệm hoài cổ, danh hiệu nước mắm Phú Quốc lên ngôi. Dù hiện nay, không còn nước mắm quốc doanh, có tới trên 200 hãng nước mắm tư nhân Phan Thiết, đủ tên đủ tuổi, nhưng ngay cả tôi cũng dặn vợ không nên mua về dùng, vì nếu không giả thì cũng dởm, mang tiếng Phan Thiết mình.
Thật ra tôi rất đắn đo khi viết bài này cho mấy Bạn, sợ viết không hết ý và gợi lại nỗi nhớ những người thân trong gia tộc gia đình đã mất, ngại Má tôi buồn vì cả mười đứa con không ai theo nghề nước mắm của Ông Bà Cha Mẹ, cũng may mà Má đã lãng. Tôi vẫn nhớ hình ảnh những đêm khuya mùa cá nục, từng đoàn người nối đuôi gánh từ Cồn Chà về lều, Mẹ tôi xắn quần muối chượp cả đêm. Tôi không quên đức độ những bà Cửu Sanh, Cửu Mười, Hồng Hương, Hồng Sanh…, những người đàn bà cả đời tận tụy cho danh hiệu nước mắm Phan Thiết, nhưng cái kết lại không được có hậu cho lắm.
(Phạm Sanh, 10.2015)
Đỗ Hồng Ngọc's Blog
- Đỗ Hồng Ngọc's profile
- 12 followers

