Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 82
April 25, 2017
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc ở Đà Nẵng
Apr24
Bài và hình ảnh của Nguyễn Quang Chơn
Bs Đỗ Hồng Ngọc nói chuyện về
“Hạnh phúc trong đời sống hiện đại” ở Hội An – tháng 4.2017
(từ trái: Bs Huỳnh Kim Hơn, Bs Đỗ Hồng Ngọc và Cô giáo Khiếu Thị Hoài)
Anh Đỗ Hồng Ngọc nổi tiếng mọi thứ. Là bác sĩ nhi giỏi. Nhà thơ tài năng từ khi còn đi học. Nhà học Phật uyên áo. Tay viết ký tài ba. Thiền hành bền vững…
Tháng tư năm 2017 này ở Đà Nẵng có hội sách. Công ty Phương Nam mời anh ra nói chuyện và giao lưu cùng độc giả. Tháng ba anh đã gởi email báo tin. Tháng tư Tâm đã soạn kế hoạch “hành Bắc phương”, không biết có trùng ngày anh ra không, nên chỉ trả lời “hờ hững”. “Dạ, hẹn gặp anh!” Vậy là… anh giận. “Chơn có vẻ không nhiệt tình!”…
Hi hi, mình biết tính anh. Rất thận trọng chu đáo mọi việc. Dẫu đi làm hay đi chơi anh đều như thế. Nên luôn muốn có sự chuẩn bị rõ ràng, chứ không chung chung được!…
May quá, chuyến đi của 2 vợ chồng kết thúc ngày 19 thì 20 anh ra. Vậy là được dành thời gian trọn vẹn cho anh…
Anh Ngọc được ban tổ chức bố trí ở một phòng khách sạn nhìn ra bờ sông Hàn thơ mộng cho hợp với tâm hồn đầy thơ của ông bác sĩ . Và tình cờ chỉ cách căn hộ vợ chồng tôi chưa tới 100 bước chân. Vậy là quá duyên. Quá vui. Quá tiện…
Ngay buổi chiều, chúng tôi đưa anh thăm “Biên cương hành” Phạm Ngọc Lư. Hai anh tay bắt mặt mừng. Mừng vì anh Lư bị K, bệnh viện đã chữa trị hết thuốc, cho về nhà để…, thì bỗng anh khỏe ra, hôm nay da dẻ hồng hào, tóc mọc lại, hân hoan như trẻ nít, biểu diễn cho bác sĩ Ngọc thấy những bước đi tới đi lui vững vàng. Thật là cảm động!
Đỗ Hồng Ngọc đã gần 80 mà bước chân vẫn trầm ổn. Giọng tự tại. Thần sắc ung dung… Hội “Không gian đọc” ở Hội An mời anh nói chuyện về “Hạnh phúc trong đời sống hiện đại“. Một không gian ấm đẹp bên sông Hoài với gần 70 thân hữu cùng những người ái mộ đã đến nghe và giao lưu cùng anh. Có nhà thơ Hoàng Lộc đến gặp anh để chỉ bắt tay chào mừng rồi bay đi Mỹ. Có thi sĩ bụi đời Nguyễn Như Mây đi xe máy từ Phan Thiết ra chơi, biết tin, cũng ở lại rộn ràng, làm không khí thêm náo nhiệt, thêm vui. Nhiều người trẻ tuổi cũng có mặt. Đặc biệt, thượng tọa Như Giải từ Duy Xuyên cũng hạ san gặp bác sĩ nhà thơ, nhà Phật học!…
Buổi sáng sau cà phê, tôi lên kế hoạch đưa anh vượt Hải Vân Quan. Đỗ Hồng Ngọc thích lắm. Anh ghét chui qua những đường hầm khô khan. Chỉ thích sông biển núi đèo. Đèo Hải Vân đã có hầm chui từ lâu. Đường đèo hiểm trở chỉ thường dành cho du lịch. Chúng tôi lên giữa lưng chừng thì trời trở gió, mây mù và mưa nặng hạt, tầm nhìn chưa tới 2 mét. Lên đến đỉnh mưa gió vần vũ. Mù che kín Hải Vân Quan. Tôi sợ anh cảm lạnh thì sẽ hỏng cuộc nói chuyện tối nay của anh nên vội quay về. Dầu biết rằng bên kia đèo có mấy người nổi tiếng khác cũng đang sắp vượt đèo vào Đà Nẵng, đang hẹn hò cùng anh. Đó là vợ chồng luật sư, nhà giáo, đại gia Ngô Tiến Nhân và nhà báo lỗi lạc tài hoa Nguyễn Trọng Chức.
Anh Nhân và chị Bình người gốc Huế nhưng sinh ở Hà Nội. Học tập tại Hungary. Sống tại Sài Gòn. Và, Huế là “một cõi đi, về”. Anh chị rất quảng giao và cũng là người học Phật. Giới văn nghệ sĩ… “heo may” trong và ngoài nước, đa số đều quen thân với anh chị…
Anh Chức thì khỏi nói. Người cao đẹp. Dáng dấp như tài tử xi nê với hàng ria mép rất Charles Bronson! Anh làm báo từ trước 75, đã từng thư ký tòa soạn Tuổi Trẻ Chủ nhật và nhiều báo khác. Anh lại dây mơ rễ má với Tâm. Cô ruột anh lấy chú ruột Tâm nên hai gia đình thân quen đã lâu. Anh Ngọc ngạc nhiên khi thấy chúng tôi mới gặp mà đã thân tình!…
Thật là vui. Anh Chức quen biết tùm lum. Có nhiều kỷ niệm với sông Hàn nên bạn bè nghe tin rủ rê loạn xạ…
Anh Chức và anh Nhân vừa có máu văn nghệ lại có máu… tửu đồ nên chúng tôi thật hợp. Mấy ngày với thiền sư Đỗ Hồng Ngọc không được đối ẩm cho đã. Nay gặp hai bằng hữu của Lệnh Hồ đại ca thật sướng. Chúng tôi hể hả uống rượu vui đùa. Đỗ Hồng Ngọc cứ nhìn chai rượu vơi dần mà nhăn mặt. “Sư thầy” cái chi cũng biết, cái chi cũng giỏi, chỉ có rượu là lơ tơ mơ. Thấy chúng tôi khoái hoạt về các loại whisky, cognac, anh như… vịt nghe sấm. Khuôn mặt thờ ơ. Rồi. Đành lòng… đàm đạo với Tâm và chị Bình!
Thấy tôi sung sướng ẩm tửu để anh… lạc loài, anh bảo tôi “trả thù”. “Quân tử… ba ngày trả thù chưa muộn! “Hi hi!…
Đêm giao lưu với độc giả bên bến sông Hàn, bên cây cầu Rồng màu sắc, trong một đêm se lạnh với gió mùa đông bắc thổi về, thật tuyệt! Mọi người nghe anh nói về an lạc. Nghe ca sĩ Thu Vàng hát, và đặt những câu hỏi cho anh…
Buổi giao lưu của Bs Đỗ Hồng Ngọc với độc giả Đà Nẵng, 22.4.2017
Có những người đi bộ 5 cây số đến từ sớm để hỏi anh một câu rồi hân hoan đi bộ trở về. Có một nhà báo trẻ đẹp từ Hà Nội vào công tác biết tin cũng có mặt đặt cho anh câu hỏi mở màn thật đặc sắc và thực tế. Nhiều. Nhiều cánh tay giơ lên để xin hỏi và được nghe anh nhỏ nhẹ từ tốn ấm áp trả lời, để thấy một chút “an lạc trong nếp sống” như chủ đề cuộc nói chuyện hôm nay!…
Trời đã khuya. Mọi người già, trẻ vẫn vây anh xin chụp hình lưu niệm và xin chữ ký. Tâm cả ngày cùng tôi sát cánh bên anh cũng nhõng nhẽo mua tập thơ Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc “Thư cho bé sơ sinh” để được anh ký tặng riêng!…
Vậy là “công việc” anh đã hết. Chúng tôi lên “kế hoạch” đi chơi! Sáng hôm sau, đoàn chúng tôi thuê xe đi Tam kỳ, thăm làng bích họa Tam Thanh… Bãi biển hoang sơ. Người dân chân chất. Cái làng chài nhỏ bé, bỗng nên thơ bởi những bích hoạ của các họa sĩ Hàn quốc, đã trở thành điểm đến trữ tình. Nhiều bạn trẻ đổ về đây để thăm viếng. Selfie. Chúng tôi ngồi trong bóng mát nhà quê. Uống ly nước dừa. Ăn ly chè đậu đen mà nghe mát ruột…
Tôi tranh thủ thời gian để đưa các anh chị đi thăm hồ Phú Ninh. Một hồ thủy nông hữu ích đã giúp bao ruộng lúa của Quảng Nam vàng óng… Công trình thủy lợi này đã có kế hoạch xây dựng từ thời VNCH nhưng vì chiến tranh nên không thực hiện được. Sau 75, chính quyền mới tiếp quản và kêu gọi tất cả các thanh thiếu niên trong tỉnh góp sức dựng xây, đã tưới tiêu cho cả một vùng ruộng rộng lớn bao la Thăng Bình, Tam Kỳ, Núi Thành…
Chúng tôi đi thuyền ra giữa lòng hồ. Neo ở một mỏ nước khoáng mãi tuôn lên từ một đường ống cắm sâu vào lòng đất, với nguồn nước nóng đến 64 độ nhiều khoáng chất tốt cho cơ thể. Được nhà nước chế biến thành nước khoáng Phú Ninh thơm ngọt và bổ dưỡng…
Trên đường về ngang Vĩnh Điện, chúng tôi ghé ngang Thạch Trúc Viên để thăm kỳ sĩ ẩn cư Mạc Phụ Đynh Trầm Ca. Anh là nhạc sĩ nổi danh với “mười năm tình cũ”, với bài thơ nhớ quê đầy chất giang hồ mà tình quê lai láng….
…. Quán cóc bốn thằng ngồi cụng ly
Quê nghèo một thuở rủ nhau đi
Chiều nay quê cũ thổi mây nhớ
Xuống đậu ngang đầu bốn miệng ly…”
Trời. Những người xa quê ngồi uống bia hoài hương vườn cũ. Thấy bọt bia trắng mà tưởng mây từ ải vân quan thổi về, đậu gieo thương nhớ. Ý tưởng thật tài tình!…
… Quán cóc bốn thằng ngồi như mê
Có ai vừa nhắc chuyện ngoài quê
Ai ca giọng Quảng nghe thương quá
Bốn cốc hoài hương chảy ngược về!
Quá hay. Tuyệt cú với Mạc Phụ tài hoa!…

Mạc Phụ Đynh Trầm Ca
phác thảo của Nguyễn Quang Chơn
Kịp sketch cho Mạc Phụ hai bức chân dung rồi chia tay bịn rịn. Chiều nay mấy anh còn đi Hội An. Tôi còn nhóm bạn từ Úc về chơi. Ngày mai tôi cũng phải đi Sài Gòn. Anh Chức cũng bay. Nghe thấy phone của nhóm văn nghệ Đà Nẵng, nghe đâu có nhiều nhà thơ, thầy thuốc nam, đạo sĩ, “hùng anh quần hội”, gọi mời anh Ngọc ngày mai giao lưu. Anh quá bận rộn, vậy mà cứ “an lạc”, thật hay!….
Cuộc vui nào rồi cũng phải chia tay. Cám ơn anh Đỗ Hồng Ngọc. Cám ơn anh Nguyễn Trọng Chức, anh Ngô Tiến Nhân, chị Bình, bằng hữu của các anh. Và, cám ơn Tâm nữa, đã làm cho Đà Nẵng những ngày đầu hè thơm thảo, ấm tình!…
Nguyễn Quang Chơn
24/4/2017
( theo tranthinguyetmai blogspot.com)
Đọc ‘Lang Thang Nghìn Dặm’ của Nguyễn Thị Khánh Minh
Apr20
Nguyễn Xuân Thiệp
Đọc tản văn của Nguyễn Thị Khánh Minh – Bóng Bay, Gió Ơi chẳng hạn – nhiều người bị mê hoặc bởi vẻ đẹp của tác phẩm. Tầng tầng những vẻ đẹp hiển lộng trước mắt: vẻ đẹp của tu từ, vẻ đẹp của hình ảnh, ý tưởng và cảm xúc. Nói chung là nghệ thuật trứ tác và tâm hồn của Nguyễn Thị Khánh Minh.
Lang thang nghìn dặm…
Thú thiệt khi nghe tác giả nói sẽ lấy cụm từ Lang Thang Nghìn Dặm làm tựa đề cho tập tản văn của mình, tôi không nhìn thấy ý nghĩa gì đặc biệt cả. Bây giờ đọc lời mở đầu tác phẩm mới ngộ ra: Có ai đó lại nói, con đường từ trái tim này đến trái tim nọ là con đường thăm thẳm của cảm thông, lại có khi chỉ cần nghe một nhịp đập của cảm ứng là khoảng cách trở nên vô nghĩa. Trên hành trình nghìn dặm này, tôi đã cảm được điều vô nghĩa ấy của không gian tâm linh. Một hành trình mà theo Tim Cahill thực sự không phải được tính bằng dặm mà bằng những người bạn… Mời các bạn đọc hết lời đầu sách của tác giả để biết ta sẽ gặp những gì cùng với những người bạn ấy.
Đọc Lang Thang Nghìn Dặm của tác giả, ta lại thấy mình một lần nữa bị mê hoặc bởi vẻ đẹp của văn chương NTKM. Chiều ấy rất nhiều gió / đàn chim nhớ phố bay về. Và ta thấy Đinh Cường như một linh hồn trong suốt đang bay. Và trái tim ai kia mãi lang thang ngoài nghìn dặm khi ngoại chờ bên kia sông để nhận một đóa hồng. Và ai, ai về như hài cỏ trong lặng im của lá. Tôi bắt gặp hồn chữ (của VHT) phiêu du trong âm âm tiếng gió va vào ô cửa kính, trong ảo hóa mây trời trong dòng mưa vũng nắng. Đọc thơ người thấy mình nhỏ bé đi dưới cái huyễn lộng, hay chỗ nào, vì sao hay, hỏi như hỏi mây xanh, theo như đuối dòng nước trôi hoài kia. Chuyện trăng tàn là chuyện gì, chưa nghe thấu nỗi đã thấy rúng động. Trăng tàn giật mình thấy sững sờ cái núi lạnh biển im, tấm lòng kiên định băng khiết. Vân vân… Những con chữ của Khánh Minh như những cái lá, những tia nắng đưa ta vào cõi thơ, cõi đẹp.
Còn hơn thế nữa, đọc Lang Thang Nghìn Dặm ta sẽ thấy cái nhìn thấu thị của tác giả khi phân tích những tác phẩm dưới mắt mình. Nhưng xin đừng nghĩ rằng đây là những bài essays, những tiểu luận nặng tính cách phê bình, nhận định, kiểu như Tác Giả Và Tác Phẩm. Phải nói rằng bao nhiêu năm nay chưa hề có một tác phẩm viết về văn học như Lang Thang Nghìn Dặm. Tác giả đã nhìn bằng con mắt tâm linh con mắt thơ và thấy được ở Lữ Kiều chàng lãng tử của thời gian, ở Phan Tấn Hải người về như mộng, ở Lữ Quỳnh con mắt của giấc mơ, ở Nguyễn Hồi Thủ cánh chim cô độc, ở Vũ Hoàng Thư hạt nắng phiêu du, nghe trong giọng ca Thu Vàng tiếng hát của gió, thấy ở tám câu lục huyền âm và năm câu năm chữ của Nguyễn Lương Vỵ những viên cuội thời gian lung linh… Và tiếng hài cỏ của Trịnh Y Thư. Và dòng sông ra biển của Du Tử Lê… Và…
Tất cả là những bức tranh của Nguyễn Thị Khánh Minh. Những bức tranh không treo trong phòng triển lãm mà nhìn thấy trên khắp mọi chốn mọi nẻo đường. Ở những con đường nắng Nha Trang. Ở góc phố Duy Tân với lá dầu bay và tiếng cười của bạn bè. Ở những quán cà phê La Pagode, Givral, Khúc Ban Chiều, Thềm Xưa, Old Friends, Trieste, Gipsy, Mozart… Trên bãi biển Nha Trang, Sunset Beach. Ở Thong Dong Ca. Trong liêu chùa Già Lam thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn. Trong khu vườn ở Gia Định với nhà thơ và chiếc võng treo cùng sách vở. Ở bất cứ nơi nào có bạn bè, và văn chương nghệ thuật.
Tới đây thì người viết không còn lời để diễn tả hết vẻ đẹp trong văn NTKM. Xin mời các bạn cầm cuốn Lang Thang Nghìn Dặm lên và tự mình khám phá những vẻ kỳ ảo trên từng trang văn của thi sĩ mến yêu.
Nguyễn Xuân Thiệp
Khi ở Garland, ngày 19 tháng 4. 2017
April 17, 2017
Khuất Đẩu: MÙI NHỚ
Khuất Đẩu
Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình
Nguyễn Du
Mùi đầu tiên, ấy là mùi của mẹ. Không chỉ là mùi sữa tanh tanh nồng nồng mà còn là mùi thịt da ngọt bùi, mùi của mồ hôi và mùi của nước mắt. Ở mẹ còn có mùi bồ kết rịn rịn trong từng kẽ tóc, mùi bã trầu cay xè mỗi khi mẹ ôm tôi vào lòng nựng nịu. Rồi miếng cơm đầu đời do mẹ nhai đút vào miệng chưa có răng, nghe ra có mùi của nước bọt. Những mùi không hợp vệ sinh ấy chẳng những đã không làm hại mà còn nuôi tôi phổng phao bụ bẫm.
Khi biết ăn biết chơi, thích nhất vẫn là mùi của những món quà quê mùa. Bánh ú gói lá chuối mở ra thơm ngậy mùi đậu, bánh ít đen bóng thơm mùi lá gai, bánh thuẫn vàng rực thơm mùi trứng, cốm bắp trộn đường thơm mùi mật và bánh xèo kêu xèo xèo thơm mùi mỡ.
Cây trái, thì mùa nào thức ấy, mùi ổi chín thơm ngầy ngậy, mùi xoài tượng thơm như tẩm mật ong, còn mùi mít thì đố ai mà giấu nổi.
Hoa, thì hoa bưởi hoa chanh thơm như là nước hoa hảo hạng. Còn hoa cau, thì hương của nó như hương của đất trời. Có lẽ vì tỏa hương từ ngọn cây cao vút, nên chẳng những nó trong suốt như khí trời mà còn mênh mang lồng lộng, nhất là trong những đêm trăng sáng. Cũng có thể bảo, những đêm ấy trăng trong vườn rất thơm.
Lớn hơn một chút, cảm nhận được cái mùi rất xôn xao trong những ngày giỗ chạp. Đó là mùi hoa vạn thọ hăng hăng trên bàn thờ, mùi chuối chín trên cỗ bồng, mùi chiên xào thơm đến ngạt mũi, mùi nhang trầm huyền ảo, mùi rượu đế lênh đênh…
Đến khi xa quê, lạc bước vào phố thị ồn ào, thì cái mùi tôi nhớ nhất, ấy là mùi nước mưa. Không phải mùi của mặt đất khê nồng khi cơn mưa bắt đầu. Mà là mùi của những giọt nước trên mái tranh còn tí tách rơi trên thềm nhà trong khi mưa đã tạnh, mùi của cây lá trong vườn vừa được tắm gội, mùi của không khí trong veo, mùi của sự yên bình, mùi của nhịp đời đi rất chậm.
Đó là mùi của tuổi thơ tôi, một tuổi thơ lấm lem, nghịch phá, nhưng đáng yêu xiết bao, giờ đã thành mùi nhớ đôi lúc đến nôn nao cồn cào.
Còn đây là mùi nhớ của một cô bé.
Cô ấy gọi là “Bùa Hương”.
“Thứ hương gì một lần cảm nhận đến ngỡ ngàng, để rồi mỗi lần cảm xúc dấy lên là Nó lại ùa về sống động rủ rê mình tan theo? Nó đến, Nó ở, Nó theo như một thứ bùa ấm áp, như có bầu có bạn, làm mình thật hạnh phúc lẫn bâng khuâng. Làm mình bay bổng. Lơ lửng. Hay quay chong chóng. Nghĩa là một kẻ bị bỏ bùa.”
Cái “Bùa Hương” ấy là “phút này đây…nghe được hương trâm trâm bên vệ đường rầy xe lửa về quê nội…hương nồng của sân gạch đỏ sau cơn mưa bất chợt mùa Hạ, không biết nắng thơm hay mưa thơm hay mùi gạch đỏ đẩy đưa mình ngào ngạt thế…và mênh mang hồ sen của một ngôi chùa sư nữ ở cạnh nhà thời thơ ấu chắp cho tâm linh ta đôi cánh …đã để mình tan ra trong mùi hương rằm…cái mùi hương vô nhiễm ấy…hương nắng lẫn hương xuân thì nhẹ lòng những phôi phai…mùi sum vầy của những ánh đèn hắt ra từ những ô cửa sổ…nghe hương lá tre khô quê nội, ngồi bên thềm nhà hít hà cái mùi nắng…buổi sáng hớp một ngụm cà phê nóng, nắng vàng vương trên ly theo vào lưỡi, mm…”
Còn có một mùi bỏ bùa cô nữa, ấy là mùi nước giếng cổ đóng đầy rêu trong đêm trăng: “ chị Bích ơi, em biết sẽ có ngày chị em mình lại về nhà nội và tắm khuya bên bờ giếng ấy, phải là đêm có trăng để em thấy được những mảnh trăng sáng bắn tung tóe từ người chị…” Cái mùi của nước thẳm sâu từ trong lòng đất ấy chan rưới trên thịt da của tuổi “em tuy mới mười lăm/ mà đã lắm người thăm”* nó mát rượi đến tận tuổi bảy mươi. Cái mùi ấy, đúng là mùi hương thời gian của Đoàn Phú Tứ, một mùi hương không nồng mà thanh thanh.
Cô bé ấy không giống với các cô gái tân thời mà rất giống với cô gái đi chùa Hương cách đây gần 100 năm của Nguyễn Nhược Pháp. Nghĩa là rất trong sáng, rất tinh tế và cũng rất nhiều mộng mơ. Và vì vậy, dường như suốt đời, ngay cả lúc đau bệnh nằm một chỗ, cô cũng chỉ biết có mỗi một việc rất tiền định là làm thơ.
Cô bé ngày xưa ấy giờ là nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh. Thơ của cô thì nhiều người “khen hay, hay quá! Ai nghe mà (chẳng) ngẩn ngơ”*. Tôi chỉ muốn nói đôi điều về quê nội của cô (cũng là quê ngoại của các con tôi). Cái ấn tượng đầu tiên để lại trong tôi, chính là những hàng cau trong ánh hoàng hôn khi xe lửa vừa qua khỏi ga Ninh Hòa, những ngọn cau bỗng sáng bừng lên như những cây nến khổng lồ.
Đẹp và buồn lạ lùng.
Khi đọc những trang đầu tập tản văn Bóng Bay Gió Ơi, tôi kêu thầm, sao mà giống quê mình quá vậy. Cũng có hoa trâm trâm, có đồng lúa chín vàng, có những con mương nhỏ và cái giếng gạch nước trong và mát, có những giọt mưa rơi trên thềm nhà, có bà có mẹ…Thế nên, dù cách nhau một đại dương bao la, tôi vẫn thấy rất gần, hay nói đúng hơn tôi cũng bị cái mùi hương tuổi nhỏ của cô bỏ bùa.
Cô viết “theo cảm xúc mà đi”, và cảm xúc của cô mênh mang bất tận. Rất nhiều hương, rất nhiều màu, rất nhiều tiếng chim và tiếng người.
Tôi đang “ăn theo” xúc cảm của cô, nên xin thú thực rằng, có được bài viết này là nhờ đọc những trang thơ xuôi của cô, những trang thơ “thanh thanh tím ngát hương thời gian”.
Xin được cảm ơn cô dù rằng chính danh phải thưa “bà”.
Ninh Hòa, 18/4/2017
Khuất Đẩu
*mượn thơ Nguyễn Nhược Pháp
(Nguồn: phovanblog.blogspot.com)
Chia sẻ kinh nghiệm: Dạy và Học
Đỗ Hồng Ngọc
Tg Trần Thiện Tùng: Thầy cảm ơn em đã “tiếp thị” thầy với các bạn giảng viên trẻ nhiều nơi nên gần đây thầy nhận được nhiều “meo” của các bạn, muốn có thêm tài liệu về Dạy và Học để tham khảo, thầy gởi bài này để em và các bạn tùy nghi nhé.
ĐHN.
Thư của một Giảng viên trẻ gởi ngày 5.2.2017
Con chào thầy ạ,
Lời đầu tiên con xin chúc thầy sức khỏe và bình an, sức khỏe của thầy là tài sản của rất nhiều người khác.
Con là NN, hiện con đang công tác tại Bộ môn Y tế công cộng TB, con được biết thầy qua trang dohongngoc.com và được anh Trần Thiện Tùng giới thiệu. Con đã muốn viết thư cho thầy rất lâu rồi, nhưng con cứ ngại và chần chừ mãi, hôm nay con mới dám bày tỏ cùng thầy.
Trước khi được anh Thiện Tùng giới thiệu, con đã có lần lên trang nhà của thầy để tìm tài liệu dạy học và nuôi con. Con rất ngưỡng mộ kiến thức và tâm huyết của thầy, và mong ước có ngày được thầy chỉ bảo để con có thêm hiểu biết, niềm tin trong công việc giảng dạy của mình. Mong muốn của con là trở thành người giảng viên có ích cho sinh viên: Có thể khơi dậy tình yêu và cái Tâm làm nghề cho các em, truyền đạt cho các em những kỹ năng cần thiết về Truyền thông – Giao tiếp – Lập kế hoạch, và cổ vũ các em tự học.
5 năm công tác vừa qua, con đã cố gắng là 1 giảng viên nhiệt tình (với mong muốn sự nhiệt tình của mình sẽ phần nào lan tỏa được tới các em) . Nhưng con cũng nhận thấy mình còn rất nhiều hạn chế cần khắc phục để đáp ứng được công việc khi mà xã hội có nhiều thay đổi:
– Học trò của con nhiều bạn ra trường chưa xin được việc. Học trò thiếu niềm tin và chính con cũng có lúc xót xa mà thiếu niềm tin.
– Về tài liệu học tập và cách thức tổ chức dạy học còn hạn chế. Con dạy Khoa học hành vi – Truyền thông Giáo dục Sức khỏe và Nâng cao Sức khỏe – Giao tiếp – Tâm lý y học – Tổ chức quản lý y tế cho các đối tượng Cao đẳng Điều dưỡng, Trung cấp Dược. Con thấy nhiều nội dung còn nặng lý thuyết.
– Con tốt nghiệp Đại học y tế công cộng, kiến thức lâm sàng rất hạn chế mà lại dạy cho các đối tượng chuyên môn nên cũng có nhiều khi mình chưa sâu sát được với các em.
Con tự hỏi:
– Làm thế nào để các em tin rằng học điều dưỡng là có cơ hội, các em yêu nghề và sau này muốn gắn bó với nghề?
– Làm thế nào để các em có thể tăng cơ hội xin việc – thông qua tăng kỹ năng?
– Tổ chức dạy học thế nào để các em có thể nhạy cảm với người bệnh? tư vấn tốt cho người bệnh? Biết cách chọn hình thức truyền thông phù hợp và Lập được kế hoạch can thiệp phù hợp với vấn đề sức khỏe cộng đồng?
– Bản thân mình cần có chiến lược tự học như thế nào? Nguồn tài liệu nào? Trong khi được đào tạo về Y tế công cộng nhưng lại dạy cho đối tượng sinh viên chuyên môn.
Con có rất nhiều thắc mắc muốn được thầy trợ giúp và mong thầy dành chút thời gian cho con cũng như học trò của con!
Con cảm ơn Thầy rất nhiều.
Một lần nữa con Kính chúc Thầy sức khỏe và Chúc một năm mới Bình an tới Thầy cùng toàn thể gia đình!
Con NN.
Tg NN,
…………………………………………………………………………………………………….
16.2.2017
Thầy rất vui nhận thư con.
Năm còn mới nên thầy chúc con và gia đình một năm an vui, hạnh phúc.
Cài lý tưởng “trở thành người giảng viên có ích cho sinh viên: Có thể khơi dậy tình yêu và cái Tâm làm nghề cho các em và cổ vũ các em tự học” rất đáng quý, không dễ tìm thấy ở thời buổi này nên phải nói là thầy rất khen con.
Thầy bây giờ đã già, gần 80 rồi, không còn đứng lớp như xưa, thầy chỉ có một số bài chia sẻ về kinh nghiệm giảng dạy (giáo dục chủ động), các bài về Chăm sóc Sức khỏe Ban đầu (Primary Health Care), Giáo dục Sức khỏe (Health Education) và Nâng cao Sức khỏe (Health Promotion) , đào tạo Nhân viên Sức khỏe Cộng đồng (Community Health Worker)… và Y Đức con có thể tìm thấy rải rác trên trang dohongngoc.com .
Những năm gần đây thầy nghiêng về lãnh vục Phật học như con đã biết. Vì thế, thầy không có gì để giúp được con nhiều. SV của con phải giỏi cả lý thuyết lẫn kỹ năng điều dưỡng thì có thể đi làm việc ở Nhật hoặc các nước khu vực v.v… Ngành y còn bị coi rẻ và thiếu quan tâm nên SV chán nản không lạ. Con đọc thêm các bài viết về Y Đức của thầy nhé.
Thầy Đỗ Hồng Ngọc.
…………………………………………………………………………………………………………………………..
18.2.2017
Con cảm ơn Thầy,
Con rất vui nhận được thư của Thầy. Con cũng đã vào trang nhà dohongngoc.com để tham khảo tài liệu cho các bài giảng. Con xin phép Thầy, con đã lấy bài thơ dành cho các bạn Nữ hộ sinh, tài liệu về Nâng cao sức khỏe, và tham khảo những tổng hợp khi thầy chuẩn bị Hội thảo về Y đức cho sinh viên trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch. Con cũng lên diễn đàn của trường Phạm Ngọc Thạch để down tài liệu của Thầy và bác sỹ Trương Trọng Hoàng. Tuy nhiên, có nhiều chỗ con đọc cũng chưa hiểu hết.
Con biết là tuổi Thầy đã cao, thực lòng con tiếc là không biết Thầy sớm hơn, khi học Y tế công cộng mà lại dạy về Truyền thông cho Điều dưỡng viên và Y sỹ, con nhận thấy một Bác sỹ nhiều kinh nghiệm mà lại có nhiều kinh nghiệm về Truyền thông như Thầy thât đáng quý. Con mong ước những kinh nghiệm và tài liệu của Thầy được nhiều học sinh, giảng viên trẻ biết đến.
Vậy con xin Thầy có thể cho con xin thêm tài liệu về Giáo dục sức khỏe và Y đức, khi Thầy có thời gian,được không ạ.
Con NN!
…………………………………………………………………………………………………………………………….
Tp HCM 18.4.2017
Tg NN và các bạn,
Gần đây, không biết sao thầy thấy nhiều bạn vào trang www.dohongngoc.com tham khảo bài Giáo dục Sức khỏe, Nâng cao Sức khỏe, Chăm sóc Sức khỏe Ban đầu, Y đức… Thầy cũng nhận được nhiều “meo” từ các giảng viên trẻ ở Phú Thọ, Huế, Thái Bình, Bà Rịa Vũng Tàu, Cà Mau… hỏi thêm về phương pháp giảng dạy sao cho đỡ nhàm chán và có hiệu quả.
Trên trang web này, thầy cũng có vài bài về phương pháp “giảng dạy người lớn” (Giáo dục chủ động), cũng sẽ cần thiết cho các bạn tham khảo, vì phải luôn nhớ rằng sinh viên là những “người lớn”, đừng dạy kiểu nhồi nhét như học sinh cấp 4 nữa thì mới thành công.
Phần thầy, dù đã tham gia giảng dạy ở Trường Đại học Y dược Tp HCM từ năm 1981 và ở Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch từ năm 1989 (Chủ nhiệm Bộ môn, bây giờ già, Cố vấn), thầy chưa bao giờ là một giáo sư… thứ thiệt (khó lắm!), mặc dù văn bằng ngày xưa, tốt nghiệp năm 1969 Y khoa đại học đường Saigon của thầy, đã là Tiến sĩ Y khoa Quốc gia (học 7 năm) và với 2 năm Cử nhân xã hội học Đại học Vạn Hạnh Saigon trước 75. Có lúc Trường kêu làm hồ sơ lấy Phó Tiến sĩ nhưng thầy xin từ chối. Cho nên nhớ đừng gọi thầy là giáo sư gì cả đó nhé.
Gần đây, trong lúc thu dọn sách vở, tài liệu cũ, thầy tìm thấy vài “giáo án” viết tay hơi kỳ cục này, nghĩ có thể chia sẻ với các em để tùy nghi. Thời đó chỉ dùng Overhead nên viết tay trên giấy trong (transparency) như vầy thôi em ạ.
Dạy học là một khoa học và là một nghệ thuật phải không? Vậy, trước hết, phải “say mê” với nghề nhé!
Thầy chỉ chụp hình đưa lên đây thôi. Dĩ nhiên thỉnh thoảng sẽ “bàn rộng” khi cần.
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
April 14, 2017
Lõm bõm học Phật: Bất Nhị và Như Lai
Nhưng hình như , Bất Nhị chính là… Như Lai!
Hãy nghe Duy Ma Cật “mô tả“ Như Lai: “… chẳng ở bên này, chẳng ở bên kia, chẳng ở giữa dòng; không tối, không sáng; không danh, không tướng; không mạnh, không yếu; không sạch, không nhơ. Chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi… Chẳng lại, chẳng đi. Chẳng ra, chẳng vào, chẳng thủ, chẳng xả…“.
“Không phải hữu tướng, không phải vô tướng, không tác, không khởi, không sanh, không diệt, không sợ, không lo, không mừng, không chán; không phải đã tồn tại, không phải sẽ tồn tại, không phải đang tồn tại…”.
Cho nên với Như Lai “Chẳng thể dùng trí mà hiểu, chẳng thể dùng thức mà biết“. “Không thể dùng tất cả ngôn thuyết để hiển thị hay phân biệt, tất cả ngôn ngữ đàm luận đều dứt tuyệt“
Đến với Như Lai chỉ còn cách ú ớ, quơ tay quơ chân, đánh đấm la hét thôi… hoặc giỏi lắm thì im lặng như Duy Ma Cật. Ờ há! Vậy hả? Thì ra thế!
Thế nhưng,
”Nói ra là bị kẹt/
Không nói cũng không xong”
(Thiền sư Chơn Nguyên, Thế kỷ XVII).
Còn Tăng Triệu, viết tựa cho bản dịch Duy Ma Cật sở thuyết từ thế kỷ thứ V thì viết:
“…Thưa, Thánh trí vốn vô tri, mà muôn vàn phẩm loại đều được soi tỏ. Pháp thân vốn vô tướng, nhưng lại ứng hiện theo từng hình tướng đặc thù. Vần điệu chí cao thì vẫn không lời, mà thư tịch huyền vi khắp nơi quảng bá.
… Vả, chúng sinh mãi ngủ vùi, phi ngôn thì lấy gì để đánh thức? Đạo không vận chuyển đơn côi. Đạo hoằng do người.
Cho nên, Như Lai sai Văn Thù nơi phương khác; triệu Duy-ma từ quốc độ kia; cùng tụ hội Tỳ-da-ly để chung truyền đạo ấy”.
(Tăng Triệu, tựa Duy-ma-cật sở thuyết, thế kỷ thứ V.
Tuệ Sỹ dịch Việt, mùa Thu, PL. 2548)
“Chúng sanh trong cõi này cang cường, khó chuyển hóa, nên Phật phải giảng thuyết bằng ngôn ngữ cứng rắn để điều phục. Bày ra thiên đàng địa ngục, ngạ quỷ súc sanh cho họ sợ, để họ tự sửa cái tâm mình”.
Có người lùng sục truy tìm Như Lai mà không thấy đâu, có người tình cờ thấy biết Như Lai qua tiếng gió, tiếng sóng, tiếng ngói vỡ, tiếng lá rụng ngoài sân, mảnh trăng treo đầu bẹ chuối, sương mai lấp lánh hạt kim cương…
Phật đã mở toang kho tàng bí mật của Như Lai khi Phật vào bảo tháp, tay bắt mặt mừng, chuyện trò rôm rả với Như Lai Đa Bảo đã diệt độ từ lâu xa. Phật đã “khai thị” cho chúng sanh “ngộ nhập” Tri kiến Phật từ đó.
“Thấy biết” Như Lai, sống với Như Lai, sống trong Như Lai, nên Phật mới tủm tỉm cười một mình. Thôi nhé. Đừng làm phiền Ta nữa nhé.
“Bên trời xanh mãi
Những nụ mầm mới
Để lại trong cõi thiên thu hình dáng nụ cười…”
(Trịnh Công Sơn).
Đỗ Hồng Ngọc
(Văn hóa Phật Giáo, số 271, tháng 4/2017)
Lõm bõm học Phật: “Nói không được”
Buổi hôm đó Duy Ma Cật hỏi: “Thưa các nhân giả, Bồ-tát nhập pháp môn Bất-nhị như thế nào?”.
Một vị trả lời : “ Sanh và diệt là hai. Pháp vốn không sanh, tức không diệt. Đắc vô sanh pháp nhẫn ấy là nhập pháp môn Bất nhị.”
Bất Nhị (Không hai) dĩ nhiên không phải Một. Sanh có chứ. Tử có chứ. Nhưng sanh tử không hai bởi là một dòng chảy liên tục do duyên sinh. Chết là sự chấm dứt tạm thời của một hiện tượng tạm thời. Sanh với tử không hai, sóng với nước không hai, thì cao với thấp, giàu với nghèo, sang với hèn, da xanh da đỏ da vàng da đen đều “bất nhị”. Cho nên phải giữ ‘’trực tâm’’ làm gốc. Chánh giác luôn đi cùng Chánh đẳng là vậy.
Phật dạy Bảo Tích và năm trăm vị Bồ tát tương lai xuất thân từ trí thức, đại gia, vương tôn công tử ở Tỳ-da-ly hôm đó: “Bồ Tát tùy lòng ngay thẳng (trực tâm) mà khởi làm. Tùy chỗ khởi làm mà được lòng sâu vững (thâm tâm). Tùy lòng sâu vững mà tâm ý được điều phục….”.
Cho nên Thường Bất Khinh mới chắp tay xá lạy mọi người, cho nên Dược Vương mới đốt hai cánh tay đến mấy ngàn năm …
Nhưng làm sao để vào cửa Bất nhị (nhập Bất nhị pháp môn)? Làm sao để sống trong “bất nhị”, sống với “”bất nhị”? Thì, trước hết phải “hành thâm” Bát Nhã, phải thấy không, thấy duyên sinh, thực tướng vô tướng…
Một vị nói: “Ta với vật của ta là hai. Nhân có cái ta nên có vật của ta. Nếu không có cái ta, ắt chẳng có cái gọi là vật của ta. Đó là vào pháp môn Bất nhị”
Một vị nói: “Cấu và Tịnh là hai…” rồi Tận và Bất tận, Minh với Vô minh, Động với Niệm… Từng cặp từng cặp có vẻ đối kháng nhau chan chát vậy mà thực ra là “bất nhị”.
Các vị Bồ tát mỗi người trình bày con đường tu chứng nhập pháp môn Bất Nhị của mình rồi, bèn thưa hỏi Bồ-tát Văn Thù:
“Thưa ngài Văn Thù, thế nào là Bồ tát vào pháp môn Bất Nhị?”
“Thưa các vị, theo như ý tôi, đối với tất cả các pháp thì không nói, không thuyết, không chỉ danh, không giải thích, lìa khỏi mọi sự vấn đáp. Đó mới là nhập pháp môn Bất Nhị.” Bồ-tát Văn Thù trả lời.
Rồi liền quay sang hỏi Duy-ma-cật: “Chúng tôi mỗi người đều nói ra cả rồi, vậy nhân giả cũng nên nói ra, thế nào là Bồ-tát nhập pháp môn Bất nhị?”
Duy Ma Cật làm thinh. Chẳng nói chẳng rằng chi cả!
Văn-thù bèn vỗ tay khen: “Tuyệt diệu! Thật là tuyệt diệu! Cho đến không có cả ngữ ngôn, văn tự, đó mới thật là nhập pháp môn Bất Nhị vậy.”
Lúc đó mọi người mới ngớ ra.
Thì ra là vậy!
Cứ tưởng Duy-ma-cật… bí!
Đỗ Hồng Ngọc
(Văn hóa Phật giáo, số 271, tháng 4/2017)
“…sóng lao xao bờ tôi’’ (*)
tặng Nguyễn Xuân Thiệp
Đỗ Hồng Ngọc
Thiệp biết không,
Không phải tự dưng mà khánh minh thiệt thà kể chuyện tỉnh dậy sau cuộc mổ:
“Tôi tỉnh dậy nỗi sợ ập tới
Chợt nhớ giờ vòm cây mở rộng hơi đêm
Cho những con chim bên thềm nhà tôi đi ngủ
…
Cơn đau vỡ sóng
… Và tôi biết. Tôi đã trôi qua vết cắt bằng sự chờ đợi của những trái tim
Tôi đi qua con đường mê bằng ánh mắt lời kinh thắp sáng”
Không phải tự dưng mà đỗ hồng ngọc cũng kêu lên xin cám ơn, cám ơn:
“xin cám ơn cám ơn
cơn bệnh ngặt nghèo quật ta kịp lúc
… cho ta trở về làm con thú trinh nguyên
cho ta trở về làm em bé sơ sinh
không lý trí không nghĩ suy không toan tính ”
Rồi, không phải tự dưng mà hồ đình nghiêm cũng viết:
‘’như con nít tập đánh vần hoạn nạn
sinh lão bệnh . rồi cà lăm
…Tôi ra viện làm bạn với cây gậy
tập giữ thăng bằng đi với ba chân’’
Không phải tự dưng mà khánh minh mà đỗ hồng ngọc mà hồ đình nghiêm
cùng tấu lên màn hợp xướng
ở đó, nguyễn xuân thiệp làm nhạc trưởng
vung chiếc đũa thần
emergency
“như chiếc lá khô. bay.đảo” (**)
không có kiếm phổ
chẳng có phượng cầu hoàng
không có người xuống ngựa kẻ dừng chèo
mà kiếm phong rào rào
vương phủ
“nằm trong emergency chiều nay
không có mảnh trăng thượng huyền trên tuyết
chỉ có cánh bướm màu hổ hoàng. trong mê sảng. và thơ
khuôn mặt bạn bè. những con đường đã đi
từ vương phủ”
“bây giờ cuối tháng ba. vẫn trong emergency
nằm nhớ. như cây
… như chim về. hoàng hôn. đồi cỏ tía
có khi nhìn mây trôi. nghĩ tới ngày phiêu bạt
đêm nằm mơ. thấy bạn xưa. khóc cười trên những nhánh phố
đời sống. mùi cỏ khô”
còn lâu Thiệp ơi, còn lâu mới như cây trăm cành nhớ. Còn lâu.
Chỉ là chiếc lá mong manh.
Như chiếc lá cuối cùng. Trước cơn bão tố.
tôi bây giờ
sống như lá rụng
…tôi. như chiêc lá
rụng
bên vệ đường
khi mùa đông tới
Phải rồi. Nó vậy đó. mưa và tuyết / trắng. miền trung tây.
Nó cứ vậy đó. Tathàgata.
‘Không hẹn mà đến/ Không chờ mà đi/ Bốn mùa thay lá thay hoa thay mãi đời ta…’ (*).
Cho đến lúc nào đó, ta nhìn ra ta từ cõi không nào kia
một mình. trong bệnh viện
nằm nghe gió
từ cõi mạn đà la nào
thổi qua trang kinh cổ
…nơi trò chuyện với basho. nghe dế gáy. trăng tàn
với ức trai. khi ráng trời phủ xuống chòm cây
và pablo neruda. trong ngày đầy tin bão
và nghĩ thầm rằng
màn đã hạ. vở kịch không hồi vĩ thanh
còn ai nhớ ai
những mẩu chuyện cũ không người kể lại
vậy mà không phải vậy.
người ta vẫn còn kể lể đó, rằng xưa…
“Có người thi sĩ
đem vần thơ. trải xuống cuộc đời
đến tận, tâm hồn chúng ta
một bến bờ. xa xôi lắm…”
như Duyên.
Và, Tô Thẩm Huy khi nói về
‘’hình ảnh của một con người còn giữ được cái chất thiên lương của kẻ sĩ phương Đông’’,
Cho nên Thiệp ơi, một hôm khi người ta quán tưởng chính mình, sẽ chợt nhận ra
a. cuộc đời. những mẫu cắt dán
một cơn gió
cuốn đi. như lá khô
bởi, khi có cái “Tri Kiến’’ cuộc đời là những mẫu cắt dán, là trò chơi puzzle của trẻ con, một thứ ngũ uẩn chắp vá, tạm thời, thì tức khắc từ cõi mạn đà la / thổi qua trang kinh cổ:
Gaté, gaté, paragaté, parasamgaté, Bodhi Svàha!
Ở đó sẽ thấy ngón tay chỉ trăng
đi về phía ngọn đồi. bàn tay chỉ
mặt trăng
Và rồi tuyết sẽ tan. Và rồi gió sẽ ngừng thổi. Và rồi nắng sẽ lên.
nhưng tôi vẫn tin
tuyết rồi sẽ tan. gió ngừng thổi lộng qua những con đường
và nắng sẽ lên
người gặp lại người. trong bàn tay ấm
lại thấy
những bông hoa loa kèn. đỏ
người đứng. trông theo người
và những đám mây. trôi
Thiệp ơi, người gặp lại người. trong bàn tay ấm
bởi khúc hợp tấu emergency vẫn còn lay động, vẫn còn làn ‘’sóng lao xao bờ tôi’’…
cùng bạn bè như từ muôn kiếp trước, khi
‘’…hạt bụi lang thang
dính vào hơi thở
duyên sinh vô ngã
ngũ uẩn giai không
từ đó thong dong
thõng tay vào chợ’’
(ĐHN)
phải vậy không?
(4/2017)
……………………………………………..
(*) Trịnh Công Sơn
(**) Bold, thơ Nguyễn Xuân Thiệp.
April 12, 2017
Ngày Hội Ngộ Gia đình Nữ Hộ Sinh Việt Nam
Đôi lời phát biểu trong Ngày Hội Ngộ
Gia đình Nữ Hộ Sinh Việt Nam
Ghi chú: Hằng năm, cứ vào sáng ngày Chủ nhật đầu tháng 12 là Ngày Hội Ngộ Gia đình Nữ Hộ Sinh được tổ chức tại Bệnh viện Từ Dũ Saigon (Tp HCM). Năm 2017, lại là năm kỷ niệm 70 năm Ngày Thành lập Trường Nữ Hộ sinh Quốc gia, tôi xin post lại đây bài phát biểu của tôi ngày 4.12.2016 vừa qua, đã được các bạn Nữ hộ sinh thu âm và phiên tả, và có nhã ý gởi tôi như một kỷ niệm.
Xin cám ơn Phan Thị Ngọc Mai và các bạn.
(ĐHN)
BS ĐỖ HỒNG NGỌC
Tôi đã đến đây dự buổi họp mặt Gia đình Nữ Hộ Sinh nhiều năm, cũng đã 5 – 6 năm rồi, mỗi năm cảm nhận có sự rơi rụng. Chẳng hạng trước đây có Bs Nguyễn Văn Truyền, Bs Nguyễn Lân Đính là những người Thầy đã cùng với tôi giúp cho Trường NHSQG hồi xưa, bây giờ các anh cũng đã đi xa hết, và một số các chị cũng vắng dần. Chuyện đời “ sinh bệnh lão tử” là vậy. Nhưng hôm nay đến đây tôi thấy không khí mới lạ hơn những năm trước. Không khí sôi động hơn, văn nghệ hơn, trẻ trung hơn… Không ngờ được nghe chị Thúy Lan ( K7 Huế ) hát, còn hay hơn ca sĩ chuyên nghiệp nữa, rồi hai cô vừa hát bài Về Miền Trung cũng thật bất ngờ dù không “chuyên nghiệp’’ như chị Thúy Lan, nhưng hát với tinh thần rất phấn khởi, vui vẻ, nhiệt tình đáng quý.
Xem hình ảnh trên màn hình tôi ngạc nhiên thấy nhóm GĐNHS sinh hoạt hay quá. Hết lên núi đến xuống biển. Đó là không khí rất đáng mừng cho một hội đoàn , một gia đình mà bây giờ đã mở rộng ra cả nước.
Hôm nay tôi cũng mừng thấy có riêng hẳn một nhóm các bạn NHS Huế. Các bạn văn nghệ giỏi lắm, nếu chúng ta tổ chức được những buổi họp mặt cả nước như vầy thì thật là sôi động, vui tươi.
Hôm nay tôi cũng được gặp mấy em sinh viên NHS chừng mười tám, đôi mươi, giật mình, các em nhỏ hơn mình hơn nửa thế kỷ, không ai biết ai cả, còn với các cô các chị NHS lớn tuổi ở đây thì lại rất thân quen.
Tôi may mắn năm 1972 vào dạy Trường NHSQG, môn Nhi Khoa. Lúc đó tôi đang là bác sĩ ở bệnh viện Nhi Đồng Saigon. Mỗi năm dạy 40 tiết, không nhiều, nhưng rất thân thiết vì Sản với Nhi đâu có xa cách nhau. Sau năm 1975 tôi được mời tiếp tục dạy cho tới năm 1982 mới nghỉ, nên có sự gắn bó với nhiều thế hệ NHS.
Các Thầy Cô và Ban phụ trách GĐ NHS
Tôi còn nhớ những buổi hỏi thi vấn đáp cùng với Bs Nguyễn Thị Ngọc Phương rất vui. Trong lúc hỏi thi vấn đáp các em, chúng tôi vẫn cho cả lớp tham dự để cùng nghe, coi như một cách ôn tập, nâng cao, mang tính thực tế trong lúc hành nghề, chắc nhiều bạn ở đây còn nhớ.
Nghề NHS rất lạ, từ hồi chưa có trường đào tạo nghề NHS, người đỡ đẻ được gọi là Cô Mụ. Người ta quý trọng cô Mụ lắm. Nào cô Mụ dạy trẻ cười, cô mụ dạy trẻ khóc, dạy trẻ làm duyên… Chuyện gì cũng đổ cho cô Mụ. Cô Mụ nắn trẻ thành con trai, con gái. Trước đó nữa, trước khi có cô Mụ vườn, người ta cũng biết chạy vô rừng đẻ, ôm gốc cây đẻ, xong rồi bồng đứa nhỏ nhúng xuống nước cho nó khóc thét lên vì lạnh ngắt như bây giờ người ta xịt alcool, đét vào đít cho bé khóc. Khóc càng to càng tốt.
Ở thôn quê bà mẹ mới sanh còn phải nằm lửa. Vì lúc mang thai, kiêng cử quá đáng, sợ con to, đẻ khó, nên trẻ thường bị sanh thiếu ký, do đó cần ủ ấm. Thế nhưng nằm lửa nhiều lại gây tại hại như ta biết. Mà lạ, ăn uống đơn sơ rau lang bí đỏ, đu đủ… mà sữa rất nhiều.
Bây giờ có nhiều loại sữa nhân tạo ngoài hộp ghi chữ “ sữa có chứa chất tạo thông mình”,làm như hồi xưa chúng ta không có sữa đó để uống thì ai cũng ngu hết trơn vậy!
Có nhiều tập tục về hộ sanh ngày xưa rất hay, như ở thôn quê khi sản phụ đẻ khó, lâu, chậm, người ta bắt ông chồng phải nhảy qua nhảy lại cái mương hoặc quậy cái lu nước như để làm trơn tru cho vợ dễ đẻ; có khi ông chồng phải leo lên mái nhà mở mấy cái nút lạt (xưa nhà tranh, nhà lá, buộc bằng những nút lạt) giống như mở toang cửa nhà cho vợ dễ sanh. Những chuyện đó có vẻ “mê tín dị đoan’’ gì đó, nhưng thật ra nó có ý nghĩa về mặt tâm lý. Bà vợ đang đau đẻ nằm trong nhà đang rên, đang đau, vất vả, khó khăn như vậy mà biết có ông chồng thương yêu mình, đang quậy lu nước, leo mái nhà gỡ nút lạt, nhảy qua nhảy lại cái mương… hẳn là trong lòng rất vui, yên tâm có người chia sẻ khó khăn với mình thì việc sanh đẻ trở nên dễ dàng, cũng như bây giờ người ta cho ông chồng vào phòng sanh, nắm tay sản phụ, nói những lời động viện, khích lệ. Có điều bây giờ có khuynh hướng mổ đẻ, nằm máy lạnh… nên ông chồng đành ngồi quán bia chờ vợ sanh thôi! Hồi xưa khi đẻ xong người ta chôn nhau, giữ lại một phần cuống rún treo trên nóc bếp (hong khô), bây giờ ta ngạc nhiên thấy cuống rún được lưu giữ để tạo tế bào gốc chữa bệnh!
Gần đây những tiến bộ của khoa sinh sản ở Thụy Điển rất hay, hay hơn cả Nhật, Mỹ… là nhờ trở lại với thiên nhiên, thí dụ như: Cho bà mẹ sanh đẻ tự nhiên, không phải nằm trên giường sanh, buộc tay buộc chân… Trong lúc đau bụng có thể ngồi, bò, ôm chân bàn mà đẻ cũng được, miễn sao thoải mái tự nhiên nhất; bất đắc dĩ, có bệnh lý mới phải mổ đẻ. Bé sinh ra được cho nút vú mẹ ngay. Nhờ nút mới có phản xạ tiết sữa.
Vì sanh tự nhiên thì có sự co bóp nhồi nắn của cơn co tử cung rất cần thiết giúp trẻ hô hấp được tốt sau này, khi bé ra khỏi lòng mẹ còn chậm cắt rún để máu được truyền thêm qua cho đứa con.
Một điều cũng đáng ngạc nhiên nữa là không biết tại sao bây giờ người ta ngày càng khó có con. Cưới nhau xong rồi bị vô sinh ngày càng nhiều. Hồi xưa nghèo khó hơn bây giờ về vật chất, sao người ta đẻ dễ dàng, đầu năm sanh con trai cuối năm sanh con gái. Có lẽ xưa nhà cửa chật chội chỉ có mỗi một cái giường chung cả gia đình, lăn qua đụng lăn lại đụng thành ra đẻ hoài. Bây giờ nhà cao cửa rộng, vợ một nơi chồng một ngã, muốn găp nhau phải điện thoại trước, lên kế hoạch thành ra trứng rụng cũng khó, tinh trùng ngày càng yếu liệt. Đó cũng là những chuyện chúng ta cần phải để ý để làm sao cho con người càng sống gần gũi với thiên nhiên càng tốt phải không?
Tôi có một kỷ niệm nhỏ xin trình bày ở đây nhé. Tôi sẽ đọc một bài thơ tôi đã viết tại bệnh viện Từ Dũ, lúc còn là sinh viên y khoa năm thứ ba, đi thực tập tại đây. Thời đó mỗi sinh viên y khoa năm thứ ba phải đỡ đẻ tối thiểu 20 cas không bệnh lý.
Đó là năm 1965, cách đây 51 năm, lần đầu tiên tôi nhận một ca, để chuẩn bị đỡ đứa bé tôi đã làm tròn hết công việc cần thiết rồi, nhưng khi tôi đỡ được đứa bé đầu tiên ra đời mẹ tròn con vuông thì tôi rất xúc động.
Thời đó là thời chiến tranh bắt đầu lan tràn ơ nước ta. Đứng ở phòng sanh Từ Dũ nhìn xuống đường bây giờ là Nguyễn Thị Minh Khai, hồi xưa là Hồng Thập Tự thấy người ta đi lại rần rần, hò hét biểu tình…
Tôi viết bài thơ tựa là “Thư Cho Bé Sơ Sinh”. Tôi như là người anh lớn, ra đời trước bây giờ viết cái thư cho em bé sơ sinh mới ra đời. Bài thơ như vầy.
Khi em cất tiếng khóc chào đời
Anh đại diện đời chào em bằng nụ cười
Lớn lên nhớ đừng hỏi tại sao có kẻ cười người khóc
Trong cùng một cảnh ngộ nghe em!
Anh nhỏ vào mắt em thứ thuốc màu nâu
Nói là để ngừa đau mắt
Ngay lúc đó em đã không nhìn đời qua mắt thực
Nhớ đừng hỏi vì sao đời tối đen.
Khi anh cắt rún cho em
Anh đã xin lỗi chân thành rồi đó nhé
Vì từ nay em đã phải cô đơn
Em đã phải xa địa đàng lòng mẹ.
Em là gái là trai anh chẳng quan tâm
Nhưng khi em biết thẹn thùng
Sẽ biết thế nào là nước mắt trong đêm
Khi tình yêu tìm đến!
Anh đã không quên buộc étiquette vào tay em
Em được dán nhãn hiệu từ giây phút ấy
Nhớ đừng tự hỏi tôi là ai khi lớn khôn
Cũng đừng ngạc nhiên sao đời nhiều nhãn hiệu!
Khi em mở mắt ngỡ ngàng nhìn anh
Anh cũng ngỡ ngàng nhìn qua khung kính cửa
Một ngày đã thức giấc với vội vàng với hoang mang
Với những danh từ đao to búa lớn
Để bịp lừa để đổ máu đó em…
Thôi trân trọng chào em
Mời em nhập cuộc
Chúng mình cùng chung
Số phận…
Con người…
Đỗ Hồng Ngọc
( BV Từ Dũ, Saigon,1965)
Câu chuyện về bài thơ này cũng có nhiều thú vị.
Bài thơ được đăng trên các báo Bách Khoa, Tình Thương… thời đó và in trong tập thở đầu tay của tôi, tập Tình Người, năm 1967.
Năm 1973 Bác sĩ Lương Phán xin bài này để đăng trên một tập san y học của ông. Tôi cũng hơi bất ngờ vì lúc đó ông trả nhuận bút cho tôi rất cao, gấp trăm lần các báo khác. Ông bảo tại vì ông thích bài thơ này lắm.
Thú vị là tờ báo y học đó đã lọt vào trong nhà tù. Nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu đang ở tù, đọc được bèn phổ nhạc. Sau năm 1975 ông tìm tôi để tặng tác giả thơ. Ông nói ông định phổ nhạc bài này cho Thái Thanh hát, nhưng bây giờ thời cuộc thay đổi rồi, cất làm kỷ niệm thôi.
Sau này bài thơ đã thấy có người dịch sang tiếng Anh, tiếng Pháp.
Gần đây có ca sĩ Thu Vàng hát lại bài hát đó của Phạm Trọng Câu. Và mới đây nhạc sĩ Võ Tá Hân ở Mỹ, cũng phổ nhạc bài thơ này và ca sĩ Hoàng Quân hát. Có thể tìm thấy trên youtube.
Không ngờ sau này khi tôi làm việc ở Trung tâm Truyền thông – Giáo dục sức khỏe Sở Y Tế Tp HCM, có 3 vị bác sĩ ở tỉnh Phú Thọ vào làm việc, một vị tình cờ biết tôi là tác giả bài thơ, mừng rỡ ôm chầm lấy tôi và nói là ở ngoài Bắc sau năm 75 có một người lính mang về cho ông bài thơ này chép tay mà không ghi tên tác giả, năm học nào ông cũng đọc cho học trò lớp Nữ hộ sinh Phú Thọ nghe và nói tác giả “khuyết danh”.
Đó là những kỷ niệm chung quanh bài thơ đã quá xưa rồi, đã hơn nữa thế kỷ rồi. Nhưng xin được chia sẻ nơi đây và cám ơn các bạn đã lắng nghe.
(Saigon, ngày 4.12.2016)
April 8, 2017
Hội sách Hải Châu Đà Nẵng 2017
Thư gởi bạn xa xôi,
Hội sách Hải Châu Đà Nẵng 2017
Mình được mời đi dự Hội sách Hải Châu Đà Nẵng 2017 chủ đề “Tận hưởng niềm vui đọc sách”, kéo dài cả tuần lễ từ 19-23/4/2017 . Nghe nói có đến 150 gian hàng sách, có nhiều hoạt động văn hóa phong phú, sôi nổi, cả những buổi giao lưu với các nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, Đỗ Hồng Ngọc, Đoàn Thạch Biền, Lê Minh Quốc, Anh Khang, Nguyễn Phi Vân, Bùi Tự Lực, Hamlet Trương, Trần Vũ Nguyên… Nghe nói những buổi giao lưu này đều được thực hiện livestream để bạn bè dù ở đâu xa cũng có thể trực tiếp theo dõi được, thậm chí đặt câu hỏi trực tiếp cho các ‘diễn giả’ nữa! Lạ quá, không ngờ truyền thông internet thời buổi này hay vậy!
Riêng buổi gặp gỡ trò chuyện thân mật của mình với bạn bè, thân hữu Đà Nẵng trong dịp này thì chủ để là “Nếp sống An lạc”, vào lúc 19-21h, ngày Thứ bảy 22/4/2017.
Vậy, thu xếp đến chơi nghe!
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
April 4, 2017
Một hôm có chàng Huy Cận
Một hôm có chàng Huy Cận
Đỗ Hồng Ngọc
Ông Lê Phương Chi, cậu họ tôi, phone nói muốn nhờ tôi cho mượn một chỗ yên tĩnh ở nhà tôi để ông phỏng vấn Huy Cận. Huy Cận nhà thơ à? Phải. Cậu cứ đến. Tôi nói. Tôi hình dung một Huy Cận nhà thơ mà tôi vốn ngưỡng mộ từ hồi còn nhỏ, Huy Cận của Lửa Thiêng và ông Huy Cận thứ trưởng bây giờ với một lô chức tước bộn bề. Bảy giờ rưỡi tối, cậu Lê Phương Chi đến với một ông già lùn mập, trông giống như Bất Giới hòa thượng, ì ạch leo lên cầu thang. Trời, Huy Cận bằng xương bằng thịt đây sao? Người mà “em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây” đây sao? Lê Phương Chi so vai vế, nói: Cháu kêu bằng bác, bác Huy Cận, nhưng gọi bằng anh Huy Cận cũng được, ổng thích gọi vậy hơn. Tôi nói cũng chẳng cần gọi bằng anh nữa, Huy Cận là đủ rồi. Huy Cận nói bằng một giọng Trung lai hơi khó nghe. Lê Phương Chi đưa tôi cuốn bản thảo bảo tôi ngồi coi lời tựa Huy Cận viết cho cuốn sách của ông, câu giờ trong khi ông phỏng vấn Huy Cận với chiếc máy ghi âm nhỏ xíu. Tôi ngồi nép qua bên, đóng vai con cháu trong nhà. Vừa đọc vừa nghe lóm. Bài thơ đầu tiên của Huy Cận? Lê Phương Chi hỏi. Dở lắm! Dở lắm! Huy cận nói. Dở cũng được. Bài thơ đầu tiên ông làm lúc nào, về đề tài gì, và còn nhớ câu nào đọc cho vài câu? Dở lắm. Dở lắm. Làm đâu hồi 10 tuổi, học lớp nhất, cho thầy cho bạn. Dở lắm. Huy Cận trả lời, bất đắc dĩ. Rồi ông cũng ráng đọc hai câu. Dở thiệt. Rồi cứ thế cuộc phỏng vấn tiếp diễn. Tôi bỗng giật mình nghe Lê Phương Chi hỏi: Huy Cận biết yêu vào lúc mấy tuổi? Tôi quan sát Huy Cận kỹ hơn. Một ông già Tết này đã 78, bụ bẫm, tay chân ngắn ngủn, mũi hỉnh, trán dẹt, môi dưới dài hơn môi trên, tóc lưa thưa bạc, cổ có nọng, bụng to quá cỡ, quần chật cứng, túi phình như con cá phồng mang, thắt cái cà vạt hơi chật, to bản, đánh một vòng cung quanh bụng, ngồi dựa ngửa trên ghế salon không thoải mái lắm. Ông phì cười vì câu hỏi ngộ nghĩnh của Lê Phương Chi. Và nụ cười làm ông bỗng có vẻ gì trẻ thơ ngơ ngác như chàng Huy Cận thuở nào. Tôi chăm chú nghe. Đâu hồi tám tuổi. Ông nói. Tám tuổi à? Phải, nhưng đó chỉ là mối tình bâng quơ thôi mà. Nhưng người đó là ai vậy? Bây giờ người đó ở đâu? Lê Phương Chi tấn công tới tấp. À, một cô gái quê, ở nông thôn… Hiện nay Huy Cận có mối tình già nào không? Huy Cận ú ớ, trả lời sao tôi không nghe rõ. Phỏng vấn tiếp diễn. Tôi lại giật mình nghe Lê Phương Chi hỏi à còn mối tình của Huy Cận và Xuân Diệu? Có phải là… Không không, Tô Hoài viết bậy đó. Huy Cận có vẻ quạu. Tôi với Xuân Diệu là tình bạn thân thiết, không phải tình trai, đồng tính luyến ái chi đâu. Tôi lại quan sát ông. Cái ông già cũng ngộ. Lúc bẽn lẽn, lúc quạu quọ khá dễ thương dù ngó bên ngoài thấy ông giống Bất Giới hòa thượng, nhưng trong ông như lại có Nghi Lâm tiểu sư muội. Tôi bỗng nổi hứng lấy mảnh giấy trắng phác họa thực nhanh hình ảnh ông, ráng diễn tả cho được cái trán trẹt, cái mũi hỉnh, cái miệng hơi ngạo nghễ mà dễ thương, cái nọng ở cổ, cà vạt ôm vòng cái bụng, rồi cái túi quần phình to như mang cá, với mấy sợi tóc lưa thưa phía sau ót…
Tôi phác thật nhanh, không để cho ông và Lê Phương Chi kịp thấy. Buổi phỏng vấn hình như đã xong. Ông đòi về. Còn mấy câu này dài dòng quá, hẹn dịp khác. Giờ bận rồi, phải đi ngay. Rồi bỗng ông quay sang tôi đột ngột: Vẽ mình đấy à? Tôi cười, chìa cho ông hai bức phác họa tôi vừa làm xong, trong khi Lê Phương Chi hoàn toàn bất ngờ thì ông bình: Được, cái này được. Ơ, ơ, còn tấm này anh vẽ tôi cái trán và cái mũi thế này thì… tôi thành người Phi châu mất! Lê Phương Chi khoái quá cười ha hả. Giống quá, y chang Huy Cận rồi! Cho cậu đi. Tao sẽ in vào bài phỏng vấn. Tôi lấy lại bức “Huy Cận Phi châu” và đưa cho ông bức kia, ông trao lại cho Lê Phương Chi. Lê Phương Chi giới thiệu: Ngọc nó là bác sĩ mà thỉnh thoảng cũng có vẽ và làm thơ nữa. Tôi đứng dậy, rút từ tủ sách tập Giữa Hoàng Hôn Xưa và ghi: Kính tặng nhà thơ Huy Cận của Lửa Thiêng, rồi trao ông. Ông chồm lên: “Huy Cận của Lửa Thiêng à, được được”, ông nói, vẻ cởi mở. Ngon trớn, sẵn tập thơ bản thảo vừa viết tay xong, dự định ra mắt năm nay tôi bèn đưa ông xem.
Huy Cận cầm lấy. Chăm chú đọc. Rồi đọc lớn tiếng. Rồi ư ử. Rồi gật gù. Có bài đọc lướt qua. Có bài đọc đi đọc lại. Bài Văn miếu, ông đọc lớn: “Dưới những tàng cây–con đường quanh co khúc khuỷu–ai đã qua đây ngàn năm cũ–mà hơi thở còn thơm tho vậy–ta sờ tay vào cột gỗ–nghe thầm thì–đẽo gọt–nét đường thi” Được. Ta sờ tay vào cột gỗ–nghe thầm thì–đẽo gọt–nét đường thi. Tứ được. Ông nói.
Rồi ông lật tới bài Hoa sữa. Mùa này Hà Nội hết hoa sữa rồi. Ông nói, rồi đọc lớn: “Ta đi trên đường Nguyễn Du–mùa này không còn hoa sữa–cây với cành thôi mà cũng ngộ–khẳng khiu quấn quít không ngờ.” À à, được. Rồi gật gù. Khẳng khiu quấn quít. Hay. Cây với cành thôi mà cũng ngộ! Tiếng miền Nam phải không? “Con nhỏ này ngộ quá ta! Con nhỏ này coi ngộ quá hén! Tôi cũng biết tiếng miền Nam lắm đó nghe”, rồi ông cười sảng khoái. Chắc là ông đã có lần gặp một “con nhỏ miền Nam nào đó ngộ quá ta” rồi nên mới thấm thía vậy. Không thấy ông đòi về nữa. Huy Cận bỗng trở thành một người khác hẳn. Với thơ. Lạ thật.
Rồi đọc tới bài Nhật thực. Mớ i thấy cái tựa, ông đã kêu lên. A, mình cũng có một bài nhật thực. Đâu coi nào. “Chim bay về núi tối rồi. Em ngày nhật thực cũng ngồi bên anh”. Bài thơ chỉ có hai câu ngắn ngủn như vậy. Ông ngẫm nghĩ một chút. Lại đọc lại. Lại ngẫm nghĩ. “Nên đổi vẫn thay vì cũng. Chim bay về núi tối rồi. Em ngày nhật thực vẫn ngồi bên anh. Một sự khẳng định, mạnh hơn”. Ông nói. Nhưng trời ơi, cũng với vẫn khác nhau xa quá mà. Đâu có thay được. Cũng mới là vấn đề chứ, cũng không phải là vẫn, mà là bất ngờ, mà là sợ hãi, mà là lo âu… Nhưng tôi không nói ra. Ông đọc bài thơ Nhật thực của ông cho tôi và Lê Phương Chi nghe. Bài ý rằng mặt trăng che lấp mặt trời như cái xấu che lấp lương tâm trong sáng của con người – không sao cứu vãn nổi. Ông lại đọc thêm một bài thơ mới viết về kẻ mất vàng, buồn đến mất ăn mất ngủ, đến ốm o gầy mòn, còn kẻ mất lương tâm thì càng ngày càng béo tốt ra. Tôi biết ông đang có những ưu tư về thời thế. Rồi im lặng giây lâu, ông đọc tiếp bài Huế trong tập thơ bản thảo của tôi: “Một ngày lăng tẩm cung vua–một ngày đi sớm về trưa một ngày–một ngày Vỹ Dạ trăng soi –“ Ông ư ử ngâm. Đột nhiên ông im bặt. Tôi sợ ông không đọc được chữ “bác sĩ” nên đọc giúp ông… “Một ngày Đập Đá…” nhưng ông khoát tay. Im. Im đi. Tôi đọc được mà. Rồi ông lại ư ử. Hay. Câu này hay. “Một ngày Đập Đá nghiêng vai biếc người”.
Tôi nhớ lại lúc viết câu đó. Rõ ràng như có cái gì đó dẫn dắt. Một ngày Vỹ Dạ trăng soi, một ngày Đập Đá nghiêng vai biếc người. Ngày thì trăng không soi được rồi, mà tại sao lại biếc người? Không phải chỉ là cái quán cà phê bên dòng nước xanh um bóng cây kia mà chính là, à phải rồi, chính là con thuyền ai đó có chở trăng về kịp tối nay và vườn của ai kia lá có còn mướt xanh như ngọc. Vâng, xanh nên biếc và người nên ngọc. Ông Huy Cận này ghê thiệt. Quả là danh bất hư truyền. Ông đọc và cảm nhận thơ tinh tế không thể tưởng. Mới vừa thấy ông là Bất Giới hòa thượng đó bỗng đã thành Nghi Lâm tiểu sư muội, rồi bây giờ lại là Lệnh Hồ huynh đệ, chỉ dùng kiếm ý mà không cần kiếm chiêu. Tôi bắt đầu phục ông. Ông lại ư ử tiếp phần kết: “… Một ngày ngày xửa ngày xưa–một ngày ở Huế đã vừa trăm năm”. Không ổn. Chữ đã như có gì không ổn. Ông nói. Thay bằng chữ gì? Tôi hỏi. Ông ngẫm nghĩ. Một ngày ở Huế đã vừa trăm năm… Tứ được, nhưng đã không ổn. Chà, cũng không biết thay bằng chữ gì nữa. Ông bứt rứt. Lê Phương Chi góp ý: hay là cũng, cũng vừa trăm năm… Cũng? Đã? Không ổn. Thôi hôm nay không phải lúc bình thơ. Để khi khác. Ông nói. Rồi ông đọc tiếp đến bài Lá. “Lá chín vàng–lá rụng về cội–em chín vàng–chắc rụng–về anh”. Ông đập nhẹ tay lên đùi. Tứ tuyệt. Đọc đi đọc lại vài lần.
Không thấy ông đòi về nữa. Lại đọc đến Nhớ. Thôi hết cồn cào–thôi không quặn thắt–chỉ còn âm ỉ–chỉ còn triền miên–thì thôi cấp tính–thì đành kinh niên.” Ông lại trầm ngâm. Kinh niên? Kinh niên ư? Tôi lên tiếng, định giải thích, một từ y học… Không, ông gạt đi, tôi biết rồi chứ. Nhớ. Nhớ… kinh niên, đọc cái tựa là biết rồi. Được. Bài này cũng được. Lê Phương Chi nhắc, đi thôi, trễ rồi. Bỗng nhiên ông hỏi: “Duyệt chưa?” Tôi trả lời: “Chừng nào in mới đưa Nhà xuất bản duyệt”. “Không, vợ duyệt chưa?” Trời đất quỷ thần cái ông Huy Cận này. Lại có vụ đó nữa ư? Tôi ấp úng đành cười trừ. Lê Phương Chi cười ha hả: “Cái ông Huy Cận nhứt vợ nhì trời này, mày không biết sao?” Thì ra thế. Rồi ông cho tôi địa chỉ và số điện thoại cơ quan và cả nhà riêng, dặn “bao giờ ra Hà Nội nhớ ghé chơi nhé”. Dặn đi dặn lại hai ba lần. Khu Ba Đình, dễ tìm lắm. Nhớ nhé. Vừa đi xuống cầu thang vừa nói.
Và đã có một chàng Huy Cận như thế, một hôm.
Saigon 7.2.1996
Đỗ Hồng Ngọc
Ghi chú: tập Thơ Đỗ Hồng Ngọc, 1996, gồm 31 bài thơ ngắn, viết tay trên giấy dó thô, với phấn màu Pastel, để kỷ niệm, không in. Một số bài trong tập này đã được chọn in trong tập Vòng Quanh, do Lữ Quỳnh thực hiện, 1997 (Nhà xuất bản Trẻ). Gần đây lúc thu dọn sách vở, tư liệu, tôi bắt gặp bài viết “Một hôm có chàng Huy Cận” khá thú vị, hồi đó đánh máy đen kịt, bèn gởi Nguyệt Mai nhờ Đèn Biển chịu khó gõ giùm. Xin chia sẻ cùng các bạn xa xôi.
Chân thành cảm ơn Nguyệt Mai và Đèn Biển.
ĐHN
(3/2017)
Bìa tập thơ Đỗ Hồng Ngọc, viết tay trên giấy dó thô, độc bản, 1996.
Đỗ Hồng Ngọc's Blog
- Đỗ Hồng Ngọc's profile
- 12 followers

