Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 9
July 8, 2024
Cao Huy Thuần “Chia tay mà không biệt ly”
“Chia tay mà không biệt ly”
Khi anh Cao Huy Thuần gởi tôi tập Im Lặng, như lời chia tay… , tôi nghĩ: chắc là “Im Lặng thở dài…” đây rồi! “Tôi đang lắng nghe tôi đang lắng nghe im lặng đời mình” (Trịnh Công Sơn)? Nhưng không. Cao Huy Thuần nói về “chia tay mà không biệt ly”…
Nhưng đâu là cách chia tay mà không biệt ly? Cao Huy Thuần dẫn bài thơ Feuille morte (lá chết) của Hermann Hess, tác giả Siddhartha. Anh “phát hiện” một điều thú vị: người Việt không ai nói “lá chết” mà nói “lá khô”, “lá rụng”. Quét lá rụng, quét lá khô, không ai nói quét lá chết như ngôn ngữ Pháp, Đức. Bởi vì, lá không bao giờ chết. Nó khô, nó rụng, rồi nó tái sinh thành lá búp lá non (Im Lặng, CHT).
“Chân lý” ấy do hai con sên của nhà thơ Jacques Prévert trên đường đi dự đám tang một chiếc lá chết, tựa là: “Bài ca hai con sên đi dự đám tang”.
Hai con sên đi đưa
Đám tang chiếc lá chết
Hai cái vỏ thì đen
Hai sừng băng trắng hết…
Hỡi ôi khi chúng đến
Mùa xuân đã đến rồi
Bao nhiêu lá chết xong
Tất cả đều lại sống
Hai chú sên trở về
Với xiết bao cảm xúc
Lòng tràn ngập hân hoan
Và vô biên hạnh phúc…
Ôi, làm sao hai chú sên đi dự đám tang chiếc lá chết buồn xo giữa mùa thu… mà nay lòng lại tràn đầy hân hoan, hạnh phúc? Ấy bởi vì chúng là sên. Chúng “bò như sên”! Bò hết cả mùa đông, chưa kịp đến nơi mà xuân đã về rồi! “Bao nhiêu lá chết xong/ Tất cả đều lại sống…”.
Tiễn mùa thu thì gặp mùa xuân. Tiễn cai chết thì gặp cái sống. Tiễn ảm đạm thì gặp tưng bừng. Hai con sên chia tay mà chẳng biết biệt ly là gì! (Im Lặng,CHT).
Cao Huy Thuần nói: “chúng chẳng có cả khái niệm…”. Dĩ nhiên, Cao Huy Thuần đang nói về Kinh Kim Cang! Khi ta mà biết sống “ly niệm”, khi ta không còn bám chấp vào khái niệm… thì “trí bất đắc hữu vô”. Thong dong. Tự tại.
Descartes nói “Je pense, donc je suis – Tôi tư duy, nên tôi tồn tại”. Ta cũng có thể bắt chước nói: “Tôi thở, vậy có tôi”. Nghĩa là nếu tôi không thở thì không có tôi. Nhưng cái thời tôi còn trong bụng mẹ, tôi cũng không thở mà vẫn có tôi đó thôi. Từ đó, suy ra rằng cái thời tôi… hết thở, ngừng thở, thì tôi vẫn tồn tại đó chứ, sao không? Tôi lúc đó trở lại trong bào thai Mẹ (bào thai Như Lai, Tathagata garbha) đó chứ!
Anh Cao Huy Thuần thân mến, nếu thỉnh thoảng ta mà vào được Tam muội Phổ Hiền, sống trong Như Lai tạng thì ta cũng có thể nhận ra cái “vô tưóng” – bỗng “hiện tướng”… đùa vui giữa chốn Ta-bà chút vậy thôi.
Khi con chim bay, nó không cần biết trời là gì, đâu là giới hạn. Nó chỉ bay. Trong bầu trời vô tận. Cao Huy Thuần đang bay.
Đường bay của hạnh phúc. Lấp lánh ánh vàng!
Đỗ Hồng Ngọc
June 27, 2024
“QUY TẮC 3 V” CHẾ ĐỘ ĂN TỐT NHẤT CHO MỖI NGƯỜI VÀ HÀNH TINH
“QUY TẮC 3 V”
CHẾ ĐỘ ĂN TỐT NHẤT CHO MỖI NGƯỜI VÀ HÀNH TINH
Lena Couffin
Cao Huy Hóa dịch
Sự lựa chọn thực phẩm của chúng ta có thể cứu hành tinh này. Bằng cách áp dụng quy tắc 3V, chúng ta cũng bảo đảm một chế độ ăn uống lành mạnh. Hai chuyên gia Émilie Steinbach và Anthony Fardet sẽ phân tích thêm.
———————-
Hãy bắt đầu với một quan sát kép. Trước hết, thực phẩm chúng ta tiêu thụ, quá trình sản xuất và chất thải của nó có tác động lớn đến hành tinh. Sau đó, một số thói quen ăn uống có hại cho sức khỏe của chúng ta. Quá ngọt, quá giàu chất béo không tốt và phần lớn bao gồm thực phẩm chế biến sẵn… “Vào năm 2030, 50% dân số thế giới có thể bị thừa cân và béo phì, Émilie Steinbach, nhà thần kinh học và Tiến sĩ Sinh học Tích hợp, cảnh báo. Đây là yếu tố nguy cơ chính gây ra bệnh tiểu đường loại 2, bệnh tim mạch, trầm cảm và suy giảm nhận thức.”
“Nhân loại có thể nuôi sống dân số 10 tỷ người trong tương lai bằng chế độ ăn uống lành mạnh trong giới hạn hành tinh không?” Để trả lời câu hỏi này, Ủy ban EAT-Lancet đã được thành lập. Năm 2019, 37 chuyên gia về sức khỏe, dinh dưỡng, về bền vững môi trường, về hệ thống thực phẩm và quản lý kinh tế và chính trị, đến từ 16 quốc gia khác nhau, đã công bố “chế độ ăn hành tinh”, một chế độ ăn có khả năng tôn trọng các giới hạn bền vững của hành tinh, đồng thời dựa trên phân tích dinh dưỡng chuyên sâu.
Làm thế nào chúng ta có thể tích hợp những khuyến nghị này vào cuộc sống hàng ngày của mình? Làm thế nào để ăn lành mạnh và bền vững? Câu trả lời là: tuân theo “quy tắc 3 V”, được phát triển bởi Anthony Fardet, bác sĩ dinh dưỡng, nhà nghiên cứu về ăn uống phòng ngừa và bền vững và Edmond Rock, giám đốc nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Quốc gia về Nông nghiệp, thực phẩm và môi trường (INRAE). Nó bao gồm việc ăn theo quy tắc 3V (theo tiếng Pháp, 3V là: Vrai, Végétal, Varié).
MANGER VRAI (Ăn chân thật)
Ăn chân thật đơn giản có nghĩa là giảm tiêu thụ thực phẩm đã qua chế biến sẵn, được thiết kế bởi các nhà sản xuất thực phẩm – với các tác nhân mỹ phẩm để điều chỉnh hương vị, màu sắc, mùi thơm, hình thức kết cấu – và rất nhiều trong số đó không tồn tại ở trạng thái tự nhiên. Anthony Fardet nhấn mạnh: “Nhìn chung, những sản phẩm này cung cấp ít chất xơ, vitamin và vi chất dinh dưỡng cho cơ thể chúng ta, thường quá ngọt và chứa các chất phụ gia mỹ phẩm”. Tiêu thụ quá mức, chúng có hại cho sức khỏe toàn bộ, tức là con người và hành tinh.” Phần lớn trong số 210 nghiên cứu dịch tễ học được thực hiện trên thực phẩm chế biến sẵn trên thực tế đã báo cáo mối liên hệ đáng kể giữa việc tiêu thụ quá nhiều các sản phẩm đó và nguy cơ mắc nhiều bệnh mãn tính và tử vong sớm.
Chuyên gia cho biết thêm, không nên quên rằng “chế biến siêu tốc có liên quan đến hệ thống thực phẩm không bền vững, làm giảm đa dạng sinh học, thúc đẩy độc canh và chăn nuôi thâm canh”. Số lượng rác thải nhựa và chất thải liên quan đến hoạt động sản xuất này cũng rất lớn. Đây là lý do tại sao Anthony Fardet khuyên bạn nên hạn chế tiêu thụ những thực phẩm như vậy.
Để ăn chân thật, Anthony Fardet khuyến nghị ba quy tắc khác cho sức khỏe. Ưu tiên thực phẩm ở dạng rắn hơn dạng lỏng “để tạo thuận lợi cho việc nhai và cảm giác chán ngấy”. Thật vậy, tiêu thụ cả quả cam thay vì nước cam ép sẽ cung cấp lượng chất xơ và vitamin tốt hơn, đồng thời điều chỉnh phản ứng đường huyết tốt hơn. Ngoài ra, ông còn khuyên “nên ăn thực phẩm giàu tinh bột hơn là loại đã tinh chế và tránh quá nặng tay khi thêm muối, đường và chất béo khi nấu”.
MANGER VÉGÉTAL (Ăn rau củ quả)
Vì lợi ích của Trái đất, việc giảm tiêu thụ thực phẩm có nguồn gốc động vật là điều không thể tránh khỏi. Anthony Fardet khẳng định: “Thức ăn thực vật trên đĩa của chúng ta làm giảm đáng kể lượng khí thải nhà kính, lượng nước sử dụng và dấu ấn cacbon trên môi trường toàn bộ. Chuyện đó thật đơn giản, chứ không có giải pháp nào khác để bảo tồn hành tinh của chúng ta.” Để so sánh, việc sản xuất một kg thịt bò thải ra 99 kg CO₂ tương ứng, trong khi sản xuất một kg cây họ đậu thải ra chưa đến một kg CO₂ tương ứng.
Những lợi ích cũng được tìm thấy trên sức khỏe của chúng ta. “Ví dụ, người ta đã chứng minh rằng chế độ ăn uống MIND – kết hợp chế độ ăn Địa Trung Hải truyền thống với DASH (chế độ ăn kiêng chống tăng huyết áp) và chủ yếu bao gồm thực phẩm thực vật (ngũ cốc nguyên hạt, trái cây và rau quả, các loại đậu, quả hạch và hạt) – có liên quan đến việc giảm nguy cơ mắc các bệnh thoái hóa thần kinh và làm chậm quá trình suy giảm nhận thức,” nhà khoa học thần kinh Émilie Steinbach bảo đảm. Ngược lại, tiêu thụ thịt đỏ có liên quan đến nguy cơ béo phì, bệnh tim mạch và ung thư.
Ở đây, không có vấn đề gì về việc giảm tổng lượng protein của chúng ta. Nhà thần kinh học cho biết: “Nó liên quan đến việc thay thế một lượng thịt nhất định bằng thực phẩm giàu protein có nguồn gốc thực vật”. Trong số đó, người ta tìm thấy đậu khô, đậu lăng, hạt có dầu, các loại hạt và thậm chí cả các sản phẩm làm từ đậu nành… “Trái ngược với suy nghĩ thông thường, những thực phẩm này không phải lúc nào cũng có lượng protein thấp hơn thịt, Émilie Steinbach giải thích. Nhiều nghiên cứu cho thấy chế độ ăn của người ăn chay thường có chất lượng dinh dưỡng tốt hơn chế độ ăn của người ăn tạp, vì nó cung cấp nhiều loại thực phẩm hơn và do đó có nhiều chất dinh dưỡng đa dạng hơn.
MANGER VARIÉ (Ăn thay đổi)
Và đây là toàn bộ mục tiêu quy tắc cuối cùng của 3V. Thay đổi chế độ ăn uống của chúng ta trên thực tế là điều cần thiết để kích thích đa dạng sinh học, đa canh và nâng đỡ các hệ sinh thái khác nhau. Nhà nghiên cứu Anthony Fardet lưu ý: “Ngày nay, FAO (Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc) báo cáo rằng chỉ có 12 loại động vật và thực vật cung cấp hơn 50% lượng calo hàng ngày cho 8 tỷ người trên Trái đất. Tuy nhiên, có nhiều ngàn không gian thực vật và động vật trên hành tinh này.” Từ đó nói lên tầm quan trọng của việc thay đổi thói quen ăn uống của chúng ta.
Đa dạng hóa đĩa thức ăn của chúng ta cũng sẽ thúc đẩy sức khỏe tốt hơn. Émilie Steinbach giải thích: “Chúng ta càng ăn nhiều loại thực phẩm đa dạng thì chúng ta càng cung cấp một loạt các phân tử phức tạp khác nhau để nuôi dưỡng sự đa dạng của hệ vi sinh vật, góp phần cải thiện sức khỏe đường ruột và tổng thể của chúng ta”.
Trên thực tế, các chuyên gia khuyên bạn nên tiêu thụ từ 35 đến 40 loại thực phẩm khác nhau mỗi tuần. Anthony Fardet giải thích: “Tương ứng với khoảng ba sản phẩm khác nhau cho mỗi loại thực phẩm”. Như vậy, trong nhóm ngũ cốc, chúng ta có thể tiêu thụ cả lúa mì, gạo nguyên hạt và bắp. Trong số các loại đậu, bạn có thể chọn ăn đậu lăng, đậu đa dạng và đậu xanh. Trong số các loại trái cây, chúng ta có thể chuyển sang chuối, táo và lê… “Như vậy, người ta đảm bảo đáp ứng mọi nhu cầu dinh dưỡng nhờ hấp thụ các chất chống oxy hóa, chất xơ, khoáng chất và vitamin,” bác sĩ dinh dưỡng tiếp tục. Cuối cùng mời bạn tiêu thụ trái cây và rau quả từ hệ sinh thái nông nghiệp, địa phương và theo mùa.
———————————-
Nguyên tác: “La «règle des 3 V», le meilleur régime alimentaire pour soi et la planète”; Le Figaro.fr, 01/5/2024.
June 21, 2024
Khoá hè học sinh tại Ni Viện Viên Không 2024 (tiếp theo)
Thư gởi bạn xa xôi (tiếp theo)
Khoá hè học sinh tại Ni Viện Viên Không 2024
Tạo không khí sinh đông và tích cực tham gia của các em không gì tốt hơn… kể chuyện xưa và cho các em đặt câu hỏi “một cách bí mật” trên giấy, không ghi tên tuổi gì cả, dĩ nhiên là vẫn trong chủ đề “Lối sống lành mạnh về Ăn uống, Ngủ nghỉ và Giải trí… của tuổi học sinh.
Và các em đã rất vui:

Tôi mời các “tình nguyện viên”, các Sư cô rỗi rảnh cùng tham dự, kể cả phụ huynh…
Dưới đây là vài câu Hỏi-Đáp gởi các bạn đọc vui:
Đâu có! Người chết thì không còn biết gì. Nỗi buồn thường là ở người thân, bạn bè. Ông thì hy vọng điều cuối cùng… để lại là nỗi nhớ của các con về buổi học hôm nay dưới mái chùa này…
Giả bệnh để chi? Để trốn học hả? Uổng lắm. Sau này, trong đời ta còn có chút kỷ niệm là buổi học hôm nay, tại chốn này, cùng bạn bè bốn phương đó con.
Nhiều người sống khỏe đến tuổi trên 100 đó con ạ. Sống lâu, sống khoẻ nhưng phải sống an vui, hạnh phúc nữa.
Bác cứu con hổng nổi! Bác cũng vậy thôi. Con biết nhà thơ Đỗ Trung Quân không? Ông có bài thơ viết hồi còn đi học như con bây giờ: “…là bài thơ cứ còn hoài trong cặp/ giữa giờ chơi mang đến lại mang về”…
Chỉ có một cách là con biến bài học thành… chuyện “tào lao” thì sẽ nhớ tốt. Nguyên tắc là làm cho bài học vui, bằng cách kể chuyện, đố nhau, hoặc giả bộ làm thầy cô đặt câu hỏi cho mình, hay giảng bài cho người bạn cùng lớp…
Tuổi con mà cao 172cm là tốt rồi, còn dài thêm được không thì bác cũng chịu thua! Hỏi khó quá!
Phải có điều kiện gì mới cần phải giữ “tế bào gốc” theo lời khuyên của bác sĩ chuyên môn con ạ.
Con phải chỉ chị ấy là ai thì bác mới hỏi giùm con được. Bác sẽ nói với chị rằng có em nhỏ kia muốn biết tên và tuổi của chị nè!
Cám ơn con.
Cuối giờ, một số các em xin chụp chung tấm hình kỷ niệm, một vài em còn tìm đến hỏi riêng…
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc
(22.6.2024)
Khoá hè học sinh tại Ni Viện Viên Không 2024
Thư gởi bạn xa xôi (tháng 6)
Khoá hè học sinh tại Ni Viện Viên Không 2024
Sư Cô Liễu Pháp, trụ trì Ni viện Viên Không mời tôi giảng dạy cho các em học sinh Khoá I tuổi từ 12-18, (học sinh cấp 2 và cấp 3) mùa Hè này trong “Chương trình Sống Trong Tỉnh Thức”.
Có khoảng hơn 80 em tham dự, từ khắp các nơi về. Các em được học 1 tuần ở chùa rất nghiêm túc, kỹ luật, có cả thiền tập, tâm lý do các Sư cô và Chuyên gia giảng dạy.
Tôi được mời dạy 2 giờ, chiều Chủ Nhật 9/6/2024 tại Ni viện Viên Không, Bà Rịa, một khung cảnh cây cao bóng cả, tựa lưng vào sườn núi đá rất đẹp vốn không xa lạ với tôi lâu nay.
Nội dung dành cho tôi: Lối sống lành mạnh về Ăn Uống, Ngủ Nghỉ và Giải trí…
Toi đã từng có nhiều buổi trao đổi, trò chuyện với các em, từng giữ Mục Phòng Mạch Mực Tím (báo Mực Tím, cho tuổi mới lớn) cả mười năm từ thuở mới thành lập 1989!
Tôi cũng đã có những cuốn sách viết cho các em: Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò, Bỗng nhiên mà họ lớn, Những câu hỏi của Tuổi mới lớn, và Khi người ta lớn…
Tôi hiểu tuổi này các em quan tâm nhiều về vấn đề thay đổi Tâm sinh lý, giới tính… và nhiều vấn đề xã hội khác trong đời sống… nhưng nhà Chùa rất nghiêm chỉ “đặt hàng” 2 giờ về Lối sống lành mạnh trong Ăn uống, Ngủ nghỉ, Giải trí… mà thôi!
Tôi nghĩ làm cách nào cho giờ học được sinh động, tạo sự tham gia của các em ngay từ đầu, vì thế, tôi chon cách cho các em viết câu hỏi trên giấy, và tôi dùng Flipchart để viết vẽ…
Tôi bắt đầu bằng cách đặt câu hỏi: Tại sao phải ăn? Ăn để làm gì? Ăn thức ăn gì? Ăn bao nhiêu? Ăn cách nào? Thức ăn thể chất và thức ăn tâm hồn? Rồi, tại sao phải Thở…? Tại sao phải bảo vệ môi trường, cây xanh, không khí trong lành? Thở sao cho tốt? Tại sao phải ngủ? Ngủ để làm gì ở tuổi mới lớn? Ngủ bao nhiêu là đủ? v.v…
Và sau đó, do các em đã gởi hằng trăm câu hỏi… trên giấy, tôi chỉ đủ thì giờ giải đáp được hơn phân nửa.
Xin chọn một vài hỏi-đáp gởi bạn coi vui thôi nhe.
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
(21.6.2024)
June 15, 2024
Ngày Của Cha: NGƯỜI CHA TRONG THƠ CA & ÂM NHẠC
NGƯỜI CHA TRONG THƠ CA & ÂM NHẠC
PHẠM HIỀN MÂY
Người Cha Trong Thơ Ca
Cha trong ca dao, tục ngữ, trong thơ, thì nhiều lắm lắm, nêu ra, có mà cả ngày.
Nào là: công cha như núi Thái Sơn. Nào là: ơn cha nặng lắm ai ơi.
Rồi thì: còn cha gót đỏ như son / một mai cha mất gót con lấm bùn. Rồi thì: ơn cha dưỡng dục bằng non; ơn cha bóng núi âm thầm.
Chưa hết: khi con tát cạn biển Đông / thì con mới hiểu tấm lòng của cha. Rồi đây nữa: Cha một đời oằn vai gánh nặng. Hay: con giữ cha, gà giữ ổ.
******
Còn thơ thì, tôi nhớ hoài, một bài thơ đã từng làm tim tôi rúng động. Không phải là bài thơ con viết cho cha, con viết về cha, con ca ngợi cha, mà ngược lại, đó là lời từ biệt của người cha đối với con của mình, khi con gặp tai nạn bất ngờ, và qua đời trong sự đau đớn tột cùng của người cha.
Khi cha mất con, con chỉ vừa ngưỡng tuổi hai mươi, thanh xuân, tươi trẻ, xinh đẹp, giỏi giang. Đó là bài thơ của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ, khóc con của mình, Đỗ Châu La Ngà, một bác sĩ tương lai.
Đọc, để biết cha thương con đến thế nào
TÌNH YÊU
Trước mộ con còn ướt
Ba nói với bạn bè ba rằng
Hãy yêu thương con mình cách khác
Đừng như ba
Giấu kín trong lòng
Bởi tình yêu
Có bao giờ cho đủ
Có đâu sợ dư thừa
Ba đã sai lầm bao nhiêu
Hãy tỏ bày đi
Vồ vập đi
Âu yếm ồn ào đi
Tình yêu
Có bao giờ cho đủ
Có đâu sợ dư thừa
Ba đã sai lầm bao nhiêu
Vì cứ chờ cứ đợi
Có biết đâu
Đời như mây nổi
Như gió thổi
Như chiêm bao
Ơi bài học tự thuở nào
Sao bây giờ mới hiểu
Muốn vồ vập con hôm nay
Muốn âu yếm con mãi mãi
Thì đã muộn rồi
Có bao giờ thừa thãi
Tình yêu?
(1990)
Vậy thì các bạn ơi, đừng nén, đừng giấu sự thương yêu trong lòng. Vì chẳng có lý do nào hợp lý cho việc che đậy những tình yêu thiêng liêng ấy.
Tình yêu cho cha, có bao giờ cho đủ?
Tình yêu cho cha, có đâu sợ dư thừa?
Tình yêu cho cha, sao phải chờ, phải đợi?
Hãy nói thật nhiều lời yêu thương khi còn có thể.
******
Người Cha Trong Âm Nhạc
Nhạc Việt, phải kể đến các ca khúc như: Cha Và Con Gái của nhạc sĩ Nguyễn Văn Chung. Sao Cha Không của Phan Mạnh Quỳnh. Cha Và Con của nhóm Bức Tường. Làm Cha của Dương Trường Giang. Cảm Ơn Cha của Nguyễn Hồng Thuận. Cha của Anh Tuấn. Ba Kể Con Nghe của Nguyễn Hải Phong. Cây Vĩ Cầm của Lê Yến Hoa.
Nhạc nước ngoài thì có các ca khúc như: Father And Son của nhạc sĩ người Anh Cat Stevens. The Father’s Day Song của Bryant Oden. Thank You For Being My Dad của Jon Barker. Father And Daughter của Paul Simon. Seeing My Father In Me của Paul Overstreet. Daddy’s Little Girl của nhóm The Shires. That’s My Job của Conway Twitty. Daddy’s Hands của Holly Dunn. My Old Man của Zac Brown Band.
******
Nhưng hay và đặc biệt nhứt, vẫn là ca khúc vinh danh Papa của Paul Anka, một nhạc phẩm pop xúc động về tình phụ tử, được viết bởi nhạc sĩ người Canada, sinh năm 1941, một trong những khuôn mặt được yêu thích của giới trẻ vào cuối thập niên năm mươi của thế kỷ XX.
Papa ra mắt vào năm 1974, cho đến nay, đã vừa tròn năm mươi năm. Thế mà, chưa một ca khúc nào có thể qua mặt được nó, kể cả về nội dung, giai điệu lẫn số lượng người hâm mộ, yêu thích.
Được coi là ca khúc kinh điển nhất về cha, Papa của nam ca sĩ Paul Anka đã từng được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Những ca từ đầy ý nghĩa về tình yêu thương vô bờ bến của một người chồng dành cho vợ và của một người cha dành cho các con mình, đã làm đắm say biết bao thế hệ người yêu nhạc.
Papa là lời kể của một người con khi hồi tưởng lại quá khứ cùng với nỗi nhớ cha da diết. Người cha trong ca khúc đã trải qua biết bao vất vả, khó khăn và cả những giọt nước mắt của sự hy sinh thầm lặng để đem lại cuộc sống ấm no cho gia đình mình.
Có những lúc tưởng như người cha ấy đã gục ngã trước những đắng cay, oan nghiệt của cuộc sống. Nhưng không, ông vẫn luôn mạnh mẽ và vững vàng để nuôi dạy con mình nên người. Papa mang một lời nhắn nhủ rằng: Cha luôn là người vĩ đại nhất và là tấm gương sáng nhất để con cái noi theo.
******
PAPA
Every day my papa would work
To help to make ends meet
To see that we would eat
Keep those shoes upon my feet
Every night my papa would take and
Tuck me in my bed
Kiss me on my head
After all my prayers were said
Growing up with him was easy
Time just flew on by
The years began to fly
He aged and so did I
I could tell that mama wasn’t well
Papa knew and deep down so did she, so did she
When she died, Papa broke down and cried
All he said was, God, why not take me
Every night he sat there sleeping
In his walkin’ chair
He never went upstairs
All because she wasn’t there
Then one day my papa said
Son, I’m proud the way you’ve grown
Make it on your own
Oh, I’ll be ok alone
Every time I kiss my children
Papa’s words ring true
Your children live through you
They’ll grow and leave you, too
I remember every word
My papa used to say
I live that every day
He taught me well that way
Every night, my papa would take me
And tuck me in my bed
Kiss me on my head
All my prayers were said
Every night, my papa would take me
And tuck me in my bed
Tuck me in my bed
All my prayers were said.
******
NGƯỜI CHA DẤU YÊU
Tại sao phải đợi đến Ngày Của Cha?
Vì ngày đó, ta mới được nghỉ? Vì ngày đó, ta mới rảnh rỗi để mua quà? Vì ngày đó, nếu không thăm cha, nếu không có quà cho cha, cha sẽ buồn?
Không cần rình rang, không cần lớn lao, to tát chi. Lâu lâu, đôi, ba ngày, một cuộc gọi, một tin nhắn, ba khỏe không ba? Thấy gì ngon, thấy gì hay, thấy gì cha thường thích, ghé mua, tạt qua về nhà, gõ cửa phòng cha, đưa món quà, hỏi, đúng ý ba hơm ba? Rồi nhận lại từ ba một cái gật đầu. Nhận lại từ ba ngón tay cái đưa lên. Thấy lòng rộn vui xiết bao.
Là mình vui.
Không ai có thể đoán trước được điều gì. Nên cố gắng đừng hẹn với lòng mình, đừng tặc lưỡi một cái, thôi cuối tháng này, thôi cuối tuần này, dzìa nhà thăm ba cũng được mà.
Có ai đó nói nhỉ, hãy sống như bạn sẽ chết ngày mai, à, ông Mahatma Gandhi. Thì bây giờ, sửa lại chút, hãy cứ đối xử với cha mình, người thân mình, như thể, họ chỉ còn hôm nay để sống.
Ưu tiên cho ba, thời gian và tình cảm, chuyện đó dễ thương xiết bao. Và nhớ nữa, những lời ba dặn: Con trai à, cha tự hào vì con đã khôn lớn. Hãy bước ra và làm chủ cuộc đời của riêng con. Đừng lo cho cha, cha ở một mình ổn mà. Con cái con mới là cuộc sống của con.
Hãy sống như thế, mỗi ngày, và.
MÃI KHẮC GHI TRONG TIM LỜI KHUYÊN CỦA NGƯỜI!
Sài Gòn 16.06.2024
Phạm Hiền Mây
June 10, 2024
NGUYỄN THIÊN NGA: Từ Bài Thơ Cùng Tuổi Với Tôi
Từ Bài Thơ Cùng Tuổi Với Tôi
NGUYỄN THIÊN NGA
Trên kệ sách của mình, tôi đang chỉ có trên mười đầu sách của Nhà Thơ – Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Trong đó có một cuốn tôi mới được bạn tặng và có chữ ký của chính tác giả, đó là tác phẩm “Áo Xưa Dù Nhàu…”, xuất bản năm 2022. So với số lượng trên 60 đầu sách của ông ở nhiều thể loại tùy bút, tản văn, Y học, Phật học, Thiền học… thì số sách tôi đang có còn quá khiêm tốn.
Tôi có thói quen đọc sách nên luôn mải mê với từng tác phẩm mình đã có trong tay hoặc đi mượn bạn bè. Tuy nhiên có một tác phẩm của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc mà tôi đọc rất nhiều lần, đó là “Thư Gửi Người Bận Rộn”, NXB Văn Nghệ TP.HCM xuất bản 2005.
Lẽ nào tôi là một trong nhiều người bận rộn nên thích đọc “Thư Gửi Người Bận Rộn” (?)
Cũng có thể lắm chứ!
Cuốn sách này tập hợp 60 bài viết – 60 bức thư thật dễ thương tác giả gửi những người bận rộn. Giọng văn dí dỏm, giàu cảm xúc đan xen nhiều kiến thức y khoa của Đông – Tây khiến người đọc cảm thấy nhẹ nhàng, thú vị. Con số 60 cũng gợi nhớ đến 60 bức thư trong cuốn “Thư Gửi Người Đàn Bà Không Quen Biết” của André Maurois – Dịch giả Nguyễn Hiến Lê (điều này đã được bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc nhắc đến một cách hóm hỉnh trong bài viết thứ 61, tôi hiểu đó như thay lời Bạt của “Thư Gửi Người Bận Rộn”).
Tôi dừng mắt nhiều lần hơn ở bức thư cuối cùng: “Về Một Bài Thơ”. Trong đó, tác giả nhắc trọn vẹn “Thư Cho Bé Sơ Sinh”, bài thơ được viết vội sau ca trực đỡ sanh đầu tiên của mình vào một đêm năm 1965. Vốn cũng là “bé sơ sinh” vào cùng năm ấy, tôi bây giờ đã… sắp già, hóa thân vào bạn ấy ngấu nghiến một lần nữa bức thư bác sĩ gửi và cảm xúc luôn dâng trào.
Thư Cho Bé Sơ Sinh
Khi em cất tiếng khóc chào đời
Anh đại diện đời chào em bằng nụ cười
Lớn lên nhớ đừng hỏi tại sao có kẻ cười người khóc
Trong cùng một cảnh ngộ nghe em!
Anh nhỏ vào mắt em thứ thuốc màu nâu
Nói là để ngừa đau mắt
Ngay lúc đó em đã không nhìn đời qua mắt thực
Nhớ đừng hỏi vì sao đời tối đen!
Khi anh cắt rún cho em
Anh đã xin lỗi chân thành rồi đó nhé
Vì từ nay em đã phải cô đơn
Em đã phải xa địa đàng lòng mẹ…
Em là gái là trai anh chẳng quan tâm
Nhưng khi em biết thẹn thùng
Sẽ biết thế nào là nước mắt trong đêm
Khi tình yêu tìm đến!
Anh đã không quên buộc étiquette vào tay em
Em được dán nhãn hiệu từ giây phút ấy
Nhớ đừng tự hỏi tôi là ai khi lớn khôn
Cũng đừng ngạc nhiên sao đời nhiều nhãn hiệu!
Khi em mở mắt ngỡ ngàng nhìn anh
Anh cũng ngỡ ngàng nhìn qua khung kính cửa
Một ngày đã thức giấc với vội vàng với hoang mang
Với những danh từ đao to búa lớn
Để bịp lừa để đổ máu đó em…
Thôi trân trọng chào em
Mời em nhập cuộc
Chúng mình cùng chung
Số phận… Con người…
Đỗ Hồng Ngọc (Bệnh viện Từ Dũ, Sài Gòn 1965)
***
“Bé sơ sinh” trong bài thơ được sinh ra ở bệnh viện Từ Dũ, Sài Gòn. Còn tôi, cũng năm 1965 ấy, tôi ra đời tại nhà Bảo sanh cô Nhung, gần cuối con đường Đào Duy Từ, Đà Lạt. Cùng một khoảng thời gian, khác về không gian, nhưng những bé sơ sinh chúng tôi đều chào cuộc đời bằng tiếng khóc, hòa vào chuỗi âm thanh buồn của chiến tranh.
Anh nhỏ vào mắt em thứ thuốc màu nâu
Nói là để ngừa đau mắt
Ngay lúc đó em đã không nhìn đời qua mắt thực
Nhớ đừng hỏi vì sao đời tối đen!
Có một sự hồi tưởng nhẹ nhàng về các câu hát của nhạc sĩ Xuân Hồng trong ca khúc “Đôi Mắt”:
Mẹ cho em đôi mắt tuyệt vời
Để nhìn đời, nhìn rõ đục trong
Thôi thì, “thứ thuốc màu nâu” mà bác sĩ đã nhỏ vào mắt dù ngay lúc đó khiến bé “không nhìn đời qua mắt thực”; sau này hy vọng cũng giúp mắt bé sáng hơn để nhìn rõ cuộc đời trong đục.
Bài thơ được tác giả khai thác một cách tinh tế các khía cạnh tương phản của đời sống. Nghe như lời thủ thỉ mà rất thấm, rất sâu. Giật mình nhìn lại, sau bao nhiêu năm nhập cuộc, tôi có bớt ngỡ ngàng, thôi vội vàng, ít hoang mang (?). Chiến tranh đã lùi xa nhưng chưa mất dấu. Cả những cuộc chiến không bom rơi đạn nổ mà tan nát, đau xé lòng từng năm tháng này qua năm tháng khác.
Từ bài thơ bằng tuổi của tôi, tôi tìm đọc những bài thơ khác của cùng tác giả. Những bài thơ ngắn, rất ngắn, súc tích và mang đến cho tôi thật nhiều cảm xúc.
Đó là sự thương yêu dịu dàng, tưởng nhớ “Nụ Cười Của Mẹ” khi Mẹ đã đi xa:
Lúc tủm tỉm,
lúc chế giễu,
lúc mỉa mai,
lúc chua chát,
lúc thứ tha,
lúc trách mắng…
hay ngậm ngùi, tiếc nhớ về đứa con gái bé bỏng, ra đi còn quá trẻ:
Mỗi năm
Mỗi người
Thêm một tuổi
Chỉ mình con
Mãi mãi
Tuổi đôi mươi…
(La Ngà 3 -1990)
Có khi là sự đồng cảm, bùi ngùi khi vào “Trong Một Nhà Giữ Lão Ở Montreal”. Đó cũng có thể là hình ảnh của mỗi chúng ta sau này:
Mới hôm qua thôi
Nào vương
Nào tướng
Nào tài tử
Nào giai nhân
Ngựa xe
Võng lọng
…
Họ ngồi đó
Không nói năng
Không nghe ngóng
Gục đầu
Ngửa cổ
Móm sọm
Nhăn nheo
Bài thơ “Rùng Mình” gây xúc động cho nhiều người. Những câu thơ là những câu hỏi không lời đáp, cả sự rùng mình giận dữ khi thiên nhiên bị săn đuổi, hủy diệt đến tận cùng:
Người rùng mình hỏi vì sao động đất sóng thần cứ triền miên
hết ngày này sang ngày khác?
…
Trái đất cũng đang rùng mình tự hỏi vì sao
những ngọn núi cứ triền miên đổ sập?
vì sao những dòng sông nghẽn tắt?
vì sao những mũi đao cứ ngày đêm xoáy sâu vào lòng đất?
vì sao chim rừng cá biển không chốn nương thân
vì sao cổ thụ mầm xanh bị tận diệt
vì sao lúa bắp phải cấy ghép gen người?…
vì sao và vì sao?
Và đau đớn, khi mà:
Ta nương tựa vào nhau.
Nay có vẻ đã không còn cần nhau nữa!
Đất rùng mình phận đất…
Người rùng mình phận người…
Rùng mình vì lạnh. Cái lạnh buốt khi tình cảm giữa con người và con người với nhau, giữa con người và thiên nhiên, vạn vật đã trở nên quá vô cảm, thờ ơ.
Rùng mình vì sợ hãi. Nỗi sợ hãi khi con người luôn thẳng tay tận diệt tự nhiên, hủy hoại môi trường sống. Nỗi sợ hãi vì những người sống và làm giàu trên mồ hôi, nước mắt của đồng loại một cách thản nhiên. Bao đại án về tham nhũng đang còn đó.
Khủng khiếp quá! Cứ nghĩ về mọi chuyện lại rùng mình.
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc còn rất nhiều bài thơ hay. Tôi tình cờ được “thưởng lãm” phác họa con đường Thơ của ông qua ngòi bút nhà văn Phan Chính – Hội Văn Học Nghệ Thuật Bình Thuận. Bài viết “ĐỖ HỒNG NGỌC – Thơ Mãi Với Đời Và Bảng Lảng Trên Những Trang Văn” giúp người đọc hình dung rất rõ nét về người bác sĩ, nhà thơ tài hoa này.
Tôi xin phép trích nguyên đoạn cuối cùng từ bài viết của nhà văn Phan Chính:
“Cuộc hành trình sáng tạo và chia sẻ của Đỗ Nghê/ Đỗ Hồng Ngọc quả là sinh động và đích thực chân dung Đỗ Hồng Ngọc – một người thông tuệ, nặng tình như lời giới thiệu trên đặc san Văn hóa Phật giáo (2021)/ Viên Giác Tùng Thư, Hannover Đức Quốc: “Ngoài vai trò là bác sĩ, nhà giáo ông còn là một nhà thơ, nhà văn nổi tiếng. Ông viết nhiều tác phẩm đa dạng và rất được độc giả yêu thích”.”
***
Nhà báo Hồng Dung trong một lần gặp Bác sĩ, nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc đã nhận xét: “Trò chuyện với ông, sẽ thấy một nhà khoa học nghiêm túc, nhưng dí dỏm và đầy thi vị.”
Tôi thật tiếc là chưa được gặp ông, tuy nhiên tôi cũng đã nhận ra điều đó khi đọc những tác phẩm của ông. Có thể nói rằng, tôi đã có thêm sự hiểu biết nhất định về Y học Đông Tây để chăm sóc gia đình, chăm sóc bản thân; hiểu thêm về Thiền học, Phật học, để rồi có cái nhìn đa chiều, cởi mở hơn và cảm xúc về cuộc sống dày dặn hơn. Tôi có mặt khá thường xuyên trên “Trang nhà của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc”, để đọc, để học, để hiểu và ngưỡng mộ người bác sĩ – văn thi sĩ này vô cùng.
Tôi rất thích sự gắn bó giữa văn thơ Đỗ Hồng Ngọc với âm nhạc Trịnh Công Sơn. Không chỉ là tựa những tác phẩm: “Áo Xưa Dù Nhàu…”, “Gió Heo May Đã Về”, “Về Thu Xếp Lại…”, … mà trong nhiều áng văn của mình, BS Đỗ Hồng Ngọc cũng thường đưa những ca từ của nhạc sĩ họ Trịnh vào một cách tự nhiên, như một cách chuyển ý thật mềm mại, tinh tế. Chính điều này giúp người đọc đọc hoài mà không thấy khô khan, dù bài đó đang nói về một sự kiện vừa diễn ra ở đâu đó hay đơn thuần là kiến thức nói về cách tự bảo vệ sức khỏe.
Đặc biệt, trong tác phẩm “Về Thu Xếp Lại…”, cả 10 chương đều được đặt tên bằng những ca từ thơ mộng, đầy tính triết học và nhân văn của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn – một người tôi vô cùng yêu kính.
Chương 1: Cát Bụi Tuyệt Vời
Chương 2: Tôi Chợt Nhìn Ra Tôi
Chương 3: Về Thu Xếp Lại… Ngày Trong Nếp Ngày
Chương 4: Con Tinh Yêu Thương Vô Tình Chợt Gọi
Chương 5: Người Đã Đến Và Người Sẽ Về Bên Kia Núi
Chương 6: Đôi Khi Thấy Trên Lá Khô Một Dòng Suối
Chương 7: Chìm Dưới Sương Thu Là Một Đóa Thơm Tho
Chương 8: Trên Hai Vai Ta Đôi Vầng Nhật Nguyệt
Chương 9: Trời Cao Đất Rộng Một Mình Tôi Đi
Chương 10: Để Lại Trong Cõi Thiên Thu Hình Dáng Nụ Cười
Cư sĩ Nguyên Giác đã có một bài viết về tác phẩm “Về Thu Xếp Lại…” đăng trên website Thư Viện Hoa Sen vào 04/04/2019. Bài viết phân tích rất sâu, rất hay và thấm; dĩ nhiên, tôi đã đọc nhiều lần.
Từ ngày xưa, cứ sau mỗi lần nghe lại một ca khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, ngẫm nghĩ, tôi lại như “ngộ” ra được một điều mới mẻ. Tôi cứ nghĩ, những giai điệu thiết tha, những ca từ khúc chiết thấm đẫm tình yêu thương con người mà phảng phất “hơi thở thiền” của ông, phải chăng là một loại “thánh ca” của một thứ tôn giáo nào đó? Tôn giáo đó, bây giờ – khi ông đã vĩnh biệt chúng ta hai mươi ba năm – khoảng thời gian quá đủ để lắng lại – tôi đã gọi được tên: tôn giáo Tình Yêu Con Người. Và trong thế giới tôn giáo đó, ông là một nhà tiên tri, một người truyền đạo không mệt mỏi, một thiên sứ đi lang thang trong cuộc đời để mặc khải cho mọi tín đồ về khoảnh khắc vô thường, ngắn ngủi của kiếp người, để mong mọi người sống nhân hậu hơn, bao dung hơn và yêu thương nhau hơn…
Cho đến bây giờ, đọc “Về Thu Xếp Lại…” và một số tác phẩm khác của bác sĩ, thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc, tôi cũng cảm nhận được nguồn cảm xúc ấm áp tương tự vậy. Có chăng, khác một điều là: tác giả Đỗ Hồng Ngọc vừa là bác sĩ, vừa là nhà thơ nên tác dụng “chữa lành” còn bao hàm cả về Y học nữa. Nếu đọc kỹ, ngẫm ngợi lâu sẽ thấy rất tuyệt diệu.
Ông viết về tuổi già, về bệnh tật, về cả cái chết, nhưng giọng văn không hề bi quan, không chút bối rối, nhiều khi hóm hỉnh dễ thương.
Già ư?
“Già khú” là giai đoạn một, thêm một bước nữa thì gọi là “già khú… đế”. Khú, Từ điển tiếng Việt bảo là “để thâm lại và có mùi hôi”, thí dụ dưa khú, tức là một thứ dưa để lâu quá, sắp hư. “Khú đế” là “vua” của khú đó chăng?
(Chương 2 – Về Thu Xếp Lại)
Chết ư?
Ông viết:
“Lắng nghe hơi thở của mình
Mới hay hơi thở của nghìn năm xưa
Một hôm hơi thở tình cờ
Dính vào hạt bụi thành ra của mình
Của mình chẳng phải của mình
Thì ra hơi thở của nghìn năm sau”…
Nói tình cờ chớ chẳng phải tình cờ chi đâu, do duyên, do nghiệp cả đó thôi. Nói cho cùng thì cái thân hơi – hơi thở – kia là của ngàn năm trước, ngàn năm sau, chớ chẳng phải của ta, riêng ta gì đâu. Đừng tưởng bở! Nó đến nó đi vô tình, ngạo nghễ. Nó Như Lai. Không phân biệt.
… Chẳng ai có thể thở giùm ai được đâu. Chẳng ai có thể “thiền” giùm ai được. Cho nên phải quay về nương tựa chính mình “một mình tôi đi, một mình tôi về… với tôi” mà thôi.
(Chương 9 – Về Thu Xếp Lại)
Nhẹ tênh. Lạc quan.
Cư sĩ Nguyên Giác viết rằng:
“Tác phẩm “Về Thu Xếp Lại…” của Đỗ Hồng Ngọc không chỉ để đọc một lần. Sách này có thể nên đưa vào túi xách, nên mang theo bên người để thỉnh thoảng đọc lại. Để không sợ già, không sợ chết, để biết cách đùa giỡn với bệnh, và cũng để biết cách Thiền tập trong những cách tự quan sát thân tâm mình không rời.”
Tôi đã làm như vậy. Cảm giác thật an nhiên.
***
Trả lời một bạn đọc Báo Thanh Niên, khi được hỏi:
– Bác sĩ có thể kể về một kỷ niệm sâu sắc nhất trong cuộc đời làm nghề y?
Ông vui vẻ:
– Đó là lúc thực tập đỡ đẻ ở Bệnh viện Từ Dũ, năm 1965. Khi đỡ được ca đầu tiên mẹ tròn con vuông, tôi xúc động viết liền một mạch bài thơ Thư cho bé sơ sinh, sau đó còn chép vào bản phúc trình nộp lên thầy. Thầy rầy: Đỡ đẻ không lo đỡ đẻ, lo làm thơ! Hôm sau đã thấy ai đó viết bài thơ lên bảng đen và được nhiều bạn sinh viên thời đó yêu thích. Còn chú bé sơ sinh của tôi lúc đó nay đã gần 40 tuổi rồi còn gì! Mới thôi!
(Nguồn: Báo Thanh Niên, 07/02/2004)
Tôi thấy vô cùng thú vị với điều này.
Dạ thưa bác sĩ, sang năm thôi, chú bé sơ sinh ấy bước vào tuổi “lục thập”, sẽ được liệt kê là người cao tuổi. (Còn với bác sĩ, nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc thì nhẹ nhàng hơn: Già ơi…, chào bạn!)
Tôi – cô bé sơ sinh đồng tuổi với chú bé ấy – dù được gọi là người cao tuổi, đã, đang và sẽ vẫn ngồi bên hiên nhà, sáng sáng chiều chiều đọc văn, thơ của Bác sĩ, thi sĩ Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc.
Cô ấy sẽ mỉm cười thư thái, nhẹ nhàng đọc lại những bức “Thư Gửi Người Bận Rộn” được xuất bản lần đầu còn thơm hoài dấu tay lật từng trang sách; tiếp tục “Về Thu Xếp Lại…” khi ngoài kia nắng gió thời gian ân cần nhắc nhớ: “Già ơi…, Chào Bạn!”.
Chúng tôi luôn cầu mong bác sĩ, thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc bình an, khỏe mạnh để tiếp tục được gặp ông trên văn đàn mỗi ngày, để vẫn được đọc những câu thơ “chan hòa, giản dị, như tự bật ra từ trái tim, và khi thấy lòng mình đã lên tiếng vừa đủ, thì thơ ông nhẹ nhàng rút lui hay ẩn mình trong khói sóng”. (Nhà NCVH Huỳnh Như Phương).
Khói sóng màu lam dịu dàng, khiêm tốn và đượm mùi hương Ngọc Lan.
Dalat, 3/2024
Nguyễn Thiên Nga
(Ngôn Ngữ, số đặc biệt Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc, tháng 5/2024)
June 4, 2024
ĐỖ NGHÊ, ĐỖ HỒNG NGỌC – BẰNG HỮU & VĂN CHƯƠNG
ĐỖ NGHÊ, ĐỖ HỒNG NGỌC – BẰNG HỮU & VĂN CHƯƠNG
Phạm Hiền Mây
I
/
MỐI DUYÊN VĂN NGHỆ
1.
Đầu tháng ba, nhà thơ Luân Hoán nhắn tin cho tôi: Mây có thể viết về bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc một bài được không, tạp chí Ngôn Ngữ dự định tháng Năm này, sẽ thực hiện một chuyên đề về ông ấy.
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc ư. Chèn ơi, tôi nói thầm trong bụng, tôi còn lạ gì ông ấy nữa. Ổng là thần tượng của các bà mẹ trẻ chúng tôi thời ấy, với cuốn sách Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng.
Cuốn sách ấy không chỉ là cẩm nang, mà nó còn như tấm lòng của một người mẹ hiền, hướng dẫn một cách tận tình và chu đáo từ lúc mang thai cho đến lúc đủ chín tháng mười ngày, sinh nở, ẵm bồng, bú mớm, nuôi nấng cho đến khi con nhỉnh nhao ba tuổi.
Tôi trả lời anh Luân Hoán, cuối tháng, em gởi bài, anh nha.
Qua hôm sau, anh Luân Hoán nhắn, à, không phải là tháng Năm, mà tháng Ba này, làm số Đỗ Hồng Ngọc luôn. Thế là, tôi vắt giò lên cổ, ngay đêm ấy, bài viết hoàn tất, và tôi chuyển email liền cho anh Luân Hoán.
Chiếc cầu nối thứ nhứt giữa tôi và bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã hình thành!
******
2.
Đêm qua, tôi nhận email của nhà thơ Trần Vấn Lệ. Ảnh chuyển toàn bộ thư của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc viết, qua cho tôi: Trần Vấn Lệ ui, ông cho tui số điện thoại của Phạm Hiền Mây nhé. Phạm Hiền Mây viết nhận định rất xuất sắc, nhất là về thơ. Mình không có facebook. Bạn cho mình email nữa nhé.
Đây là chiếc cầu nối thứ hai, nối liền mối duyên văn nghệ giữa tôi và bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc.
******
3.
Sáng nay, tôi nhận được tin nhắn trên điện thoại: Gởi Tác Giả Phạm Hiền Mây. Tôi là Đỗ Hồng Ngọc. Tìm mãi mới được số phone này. Tôi không có facebook. Nhờ hai ông bạn là Trần Vấn Lệ và Luân Hoán mới biết Phạm Hiền Mây đó. Làm ơn cho địa chỉ để Grab mang sách Ngôn Ngữ – Đỗ Nghê đến Phạm Hiền Mây nhé. Bài viết tuyệt vời. Chỉ với ba bài thơ Đỗ Nghê mà vẽ nên cả một chân dung. Đa tạ!
Mối giao tình giữa tôi và bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc – một người mà ba mươi năm về trước, tôi thầm biết ơn, nhờ cuốn sách của ông, mà tôi biết cách nuôi trẻ sơ sinh – được bắt đầu từ đây.
Thấy vui vui, thấy cả buồn cười nữa, vì tôi và bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đều ở Việt Nam, vậy mà, biết nhau, phải đi một vòng qua Canada và Hoa Kỳ.
******
II/ ĐỖ NGHÊ, ĐỖ HỒNG NGỌC – BẰNG HỮU VÀ VĂN CHƯƠNG
Cuốn Ngôn Ngữ – Số Đặc Biệt, nặng và dày tới bảy trăm mười bốn trang, được chia làm bốn phần. Gồm:
Phần I: Tác Giả
Phần II: Thơ Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc
Phần III: Văn Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc
Phần IV: Bằng Hữu Viết Về Đỗ Hồng Ngọc
Thư Đầu Sách do nhà thơ Luân Hoán phụ trách. Luân Hoán phụ trách phần này thì khỏi chê rồi. Vì sao tôi nói vậy. Ấy là vì, ngoài việc Luân Hoán là một nhà thơ, một người làm văn nghệ kỳ cựu, kiến thức cũng như kiến văn rộng, thì anh ấy còn là một người làm sách, giới thiệu tác giả, giới thiệu tác phẩm rất chuyên nghiệp, uy tín, được bạn văn và bạn đọc kính trọng, cảm mến, vốn đã từ xưa đến nay.
Trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ xin điểm qua phần thơ của tác giả mà thôi.
******
1. TÁC GIẢ
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc là một trí thức đúng nghĩa của cả trước và sau năm 1975. Thuở nhỏ thì đỗ đạt, khoa bảng. Vào đời thì nổi danh. Danh gì ư? Ông là bác sĩ Nhi số một của Sài Gòn trong nhiều thập niên. Bằng cấp và các chức danh của ông, nếu viết ra cho bằng hết, chắc hai trang A4 cũng không đủ.
Y khoa là một môn khoa học. Thế mà ông lại giỏi chữ, mới là lạ lùng, mới là khó tin. Từ những năm 1960, ông đã cộng tác với các báo và tạp chí uy tín, lừng lẫy thời bấy giờ, tại miền Nam. Những nhật báo và tạp chí, mà nhiều người viết mong tên mình được một lần, ghi lên trang bìa.
Tôi đếm không hết được những sách đã xuất bản của ông, về thơ, về văn, tùy bút, tạp bút và các sách y học phổ cập cũng như các sách về Phật học. Tôi đồ chừng, số sách ấy, nếu để lên bàn cân, chắc là sẽ ngang với trọng lượng nửa tạ của tôi.
******
Trong cuộc trò chuyện giữa ông với Ngô Nguyên Nghiễm, tôi thích câu này của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc: Thơ, bản chất đã là nhân bản, dù được thể hiện dưới hình thức này hay hình thức khác, ở thời đại này hay thời đại khác.
Người ta đẻ ra mà tĩnh, ấy là tính Giời cho nguyên như thế, cảm ở vật ngoài mà động, thời ấy mới là sự muốn của tính. Đã có muốn, thời phải có nghĩ. Đã có nghĩ, thời phải có nói. Đã có nói, thời những cái ý nhị không thể nói hết ra được mà hình hiện ở trong lúc ngậm ngùi, ngợi than, tự nhiên tất phải có những giọng điệu, cung bậc, như không thôi đi được. Ấy tại thế mà sinh ra có thơ.
Chu Hy đã viết như vậy, gần ngàn năm trước, trong Bài tựa tập truyện Kinh Thi, khi có người hỏi ông: Thơ tại sao mà làm ra? (Tản Đà dịch).
Như Không Thôi Đi Được, bạn thấy không? Những người làm thơ trên cõi nhân gian đều vậy đó – Như Không Thôi Đi Được!
******
Trong trò chuyện giữa ông với Trần Thị Nguyệt Mai, tôi lưu ý một đoạn, kể rằng, đã mười hai tuổi, mà ông vẫn chưa được đến trường, thì thời ấy chiến tranh mà, cứ chạy tới chạy lui, tránh đạn tránh bom, cũng nuốt hết thời gian sống. Cậu ông là nhà thơ Nguyễn Ngu Í (nhà thơ này, tôi đã muốn viết giới thiệu từ rất lâu, nhưng không đủ tư liệu), bèn dắt ông đến trường tiểu học của một người bạn thân, gởi học miễn phí. Họ xếp ông vào học lớp Ba; vài tháng sau, cho lên lớp Nhì; vài tháng nữa, cho lên lớp Nhứt luôn. Cuối năm, ông chở phần thưởng dzìa nhà bằng xe xích lô, bị nhiều quá mà. Nghĩ đến hình ảnh đó, thấy dzui thiệt chớ.
Mới nói, những người đặc biệt, kiệt xuất, họ luôn xuất hiện những dị thường, từ lúc tuổi còn thơ.
Vào Đệ Thất, lại tản cư, bỏ học. Tình cờ, ông đọc được cuốn Kim Chỉ Nam Của Học Sinh do học giả Nguyễn Hiến Lê viết, ổng bèn tỉnh bơ, viết thư cho học giả, hỏi ngon lành, chớ con như này, học nhảy nữa, có nên không? Nguyễn Hiến Lê hồi đáp, được, được, đọc thư thôi, tôi cũng đã nhận thấy cháu ngang trình độ với các trò lớp Đệ Tứ rồi.
******
2. THƠ ĐỖ NGHÊ – ĐỖ HỒNG NGỌC
Cuộc đời ông, dành cho Y khoa, nhiều nhứt. Thì chắc chắn rồi, nghề của ông là bác sĩ mà. Lại cộng thêm những công việc liên đới tới bác sĩ như, giảng dạy, nói chuyện, nghiên cứu, viết sách.
Dành thời gian thứ nhì, hẳn là cho việc viết văn xuôi, bao gồm: sách y học phổ cập, tùy bút, tản mạn, tạp văn, thiền, Phật học.
Và cuối cùng, mới là thơ.
Ông làm thơ, tính ra, không nhiều, khi mà số lượng thơ của người ta được tính bằng đơn vị ngàn. Thế mà, dường như, nghiệp thơ lại dành cho ông rất nhiều ưu ái.
Thơ ông thường là những bài thơ ngắn. Không chỉ ngắn về số câu, mà số chữ trong câu, mà số chữ thể hiện trên mỗi dòng cũng ngắn. Nhưng chắt lọc, nhưng không thừa, chữ nào cần có mặt mới được có mặt.
Ông viết đủ các thể thơ: bốn chữ, năm chữ, bảy chữ, tám chữ, lục bát, thơ xuôi.
******
Thơ ông phần lớn, đọc lên, nghe rất mênh mang: Nước vẫn muôn đời / Không đi chẳng đến / Ai người nỡ hỏi / Nước đến từ đâu? Ai người nỡ hỏi / Nước trôi về đâu? (Nước).
Đố bạn vậy chớ, tại sao ông lại dùng từ “nỡ” ở đây, ai người nỡ hỏi? Là vì, nếu hỏi, thì sợ nước buồn. Hỏi, sợ nước đau. Hỏi, sợ nước tủi thân.
Thơ ông đậm chất suy tư, thiền vị: Lắng nghe hơi thở của mình / Mới hay hơi thở đã nghìn năm xưa / Một hôm hơi thở tình cờ / Dính vào hạt bụi thành ra của mình / Của mình chẳng phải của mình / Thì ra hơi thở của nghìn năm sau (Thở).
Và những câu hỏi đặt ra, khiến người đọc cũng thú vị theo. Kiểu như, nhận ra, ừ nhỉ, để làm chi: Tham chẳng còn / Sân cũng hết / Si đã tuyệt / Niết Bàn / Tịch diệt / Để làm chi? (Ngộ)
Hoặc những bài thơ rất đời, rất đúng, nói rất trúng tim gan người ta, nói rất trúng tâm lý cuộc đời. Cái kết thơ, vì vậy, cũng rất đột ngột, và đặc biệt, làm ngẩn tò te: Đừng nói điều hạnh phúc / Chẳng ai tin đâu / Hãy nhắc điều bất hạnh / Ai nấy đều vui. (Niềm Tin)
Có bài, đọc lên nghe rất ngộ, rất thơ, và hay. Câu một, câu hai, câu bốn, sử dụng toàn vần bằng như thơ của Bích Khê: Mưa trên Đông Hồ mưa mênh mông / Tô Châu nghiêng mình nghe mưa giăng / Thuyền câu mấy lá chìm mưa rộng / Ai người xưa mưa trời một phương. (Hà Tiên Mưa)
Phải nói là ông làm thơ chắc tay. Bạn sẽ hỏi tôi, chắc tay là gì. Ờ, thì kiểu như, siêu, ngon lành, đâu ra đó, gọn bâng, tỉnh rụi, và, rất tới: Anh đọc bài thơ tình / Em ngồi nghe lặng thinh / Anh đọc thêm bài nữa / Em vẫn ngồi lặng thinh / Anh thôi không đọc nữa / Em chồm lên hôn anh / Như đổ dầu vào lửa. (Thơ Tình)
******
Hay nhứt vẫn là những bài thơ ông viết cho con gái ông, Đỗ Châu La Ngà. Nỗi đau, đau quá, nên như lận vào bên trong. Nỗi đau, đau quá, nên như bục ngực, vỡ toang ra ngoài. Nỗi đau âm ỉ, không vơi. Nỗi đau cứ thế theo ngày. Nỗi đau cứ thế theo tháng. Nỗi đau cứ thế theo năm.
Hay kế tiếp là những bài thơ ông viết tặng cho một người bạn thơ nào đó, như: Đinh Cường, Trịnh Công Sơn, Trần Hoài Thư, Trần Vấn Lệ.
Nhưng hay và gây một cảm xúc đặc biệt trong tôi là bài thơ, ông viết cho chính ông, thì phải. Ông viết cho chính ông, trong một cơn bạo bệnh, trong một lần đứng trước cửa tử, mà thần chết chê, nên ông được trở lại với gia đình, với người thân, với bạn hữu
XIN CÁM ƠN, CÁM ƠN
Xin cám ơn, cám ơn
Cơn bệnh ngặt nghèo quật ta gục ngã
Như cỏ cây trước cơn bão dữ
Như con thuyền tung hê lên vách núi cao
Cho ta trở về làm con thú hoang sơ
Trần truồng như nhộng
Kẻ cạo đầu người lột da
Kẻ đục sọ người giúp thở
Kẻ đặt ống sonde vào đường tiểu
Người bơm thuốc qua dịch truyền
Cho ta trở về làm con thú trinh nguyên
Cho ta trở về làm em bé sơ sinh
Không lý trí không nghĩ suy không toan tính
Xin cám ơn, cám ơn
Cơn bệnh ngặt nghèo như cơn bão dữ
Bản tin thời tiết chưa kịp loan truyền
Quất qua đời ta cây cỏ
Để khi tỉnh dậy ta nhìn ra em
Nhớ tiếng người này nhìn ra người nọ
Gọi tên người này nhớ mặt người kia
Như đã qua một kiếp khác
Bao năm xa vắng quê nhà!
Nhớ bước chân trâu nhớ giàn bông bí
Nhớ cây khế ngọt nhớ trái dừa xanh
Nhớ tiếng mẹ già nhớ đàn con trẻ
Nhớ người hàng xóm lâu nay còn lạ
Nhớ những người thương nhớ luôn người ghét
Thấy ai cũng tội nghiệp
Như ta
Đã bao lâu ta không sống với mình
Ta có ta mà quên ta phứt.
Xin cám ơn, cám ơn
Cơn bệnh ngặt nghèo quật ta kịp lúc
Cho ta trở lại với mình
Ta muốn ôm hôn tất cả mọi người
Và ôm hôn ta nữa
Cái đầu trọc lóc bình vôi
Hai lỗ thủng và mười tám vết khâu từ ái
Ta ngạc nhiên lắng nghe mình thở
Lắng nghe sự sống cục cựa trong mình.
Xin cám ơn, cám ơn
Những cơn đau vật vã toát mồ hôi
Những nhức buốt thiệt thà thú vật
Khi đứng được hai chân như con người
Thật vô cùng hạnh phúc
Khi bước đi những bước con người
Khi còn được nghe được nói
Được cầm cây viết vẽ bâng quơ
Được đọc vài trang báo
Ôi phép lạ nhiệm mầu!
Những hòn sỏi bỗng có linh hồn
Những lá cây đong đưa lạ lẫm
Tiếng chim và ánh nắng
Như đã lâu rồi ta mới gặp nhau
Như đã lâu rồi ta mới quen nhau
Xin cám ơn, cám ơn
Cơn bệnh ngặt nghèo quật ta gục ngã
Cho ta trở về làm con thú trinh nguyên
Cho ta trở về làm em bé sơ sinh
Tràn đầy hạnh phúc
Để ta biết chắc một điều có thực
Tình yêu
Đã giúp ta tìm lại chính mình
Đã giúp ta vượt thoát!
(Bệnh viện AB 12/97)
Ông phải trải qua một cơn bệnh ngặt nghèo, quật ông gục ngã, ông mới tìm lại được chính mình.
Ông phải trải qua một cơn bệnh ngặt nghèo, quật ông gục ngã, thì ông mới có thể vượt thoát, vượt được cửa tử, thoát được cái chết, chỉ tày gang.
Còn tôi, tôi đọc thơ ông xong thì thẫn thờ, ừ nhỉ, đã bao lâu ta không sống với mình, ừ nhỉ, ta có ta mà ta quên phứt.
Bài thơ Xin Cám Ơn, Cám Ơn, dùng chữ không cầu kỳ mà lại vô cùng thành ý; viết tự nhiên như đương nói chuyện mà lại rất đỗi nhạc, rất đỗi thơ. Mới thấy, cái gì xuất phát từ tim, thì sẽ một đường đến thẳng trái tim mà không cần phải dụng bất kỳ một phương thức phức tạp, một kỹ thuật cao siêu nào.
******
III/ KẾT
1.
Giọng thơ của Đỗ Hồng Ngọc chân tình mà ấm áp; thẳng thắn mà dỗ dành, vỗ về. Trải dài suốt bảy trăm trang là rất nhiều những tâm sự và bộc bạch của ông. Tâm sự nào, bộc bạch nào, cũng hay; cũng ngộ, là ngộ nghĩnh; cũng hết sức có lý có tình. Đến mức, đọc đi đọc lại hai, ba lần rồi, mà vẫn còn muốn đọc nữa, đọc nữa. Là vì, các ý ấy hay quá, đọc thích quá, thậm chí, với tôi, chúng mang ý nghĩa nhiều hơn cả những danh ngôn, những châm ngôn, lãng nhách, lãng xẹt, không hiện thực, mơ hồ, mà tôi hàng ngày thấy đầy rẫy trên trang mạng.
Tỉ dụ: Câu châm ngôn của ông Nguyễn Hiến Lê là “viết để học và học để viết”. Tôi chịu lắm. Chỉ có cách đó mình mới học được nhiều, học được sâu. Tôi bây giờ còn đi dạy và vẫn nghĩ “dạy để học và học để dạy”. Ấy là tôi bắt chước ông Nguyễn Hiến Lê đó.
Tạp Chí Ngôn Ngữ, số đặc biệt về bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, thật sự hay và phong phú. Tôi rất tiếc, vì đã không nói đủ được hết tất cả chuyện hay của sách, trong một bài viết buộc phải giới hạn về độ dài này. Các bạn nếu có thể, mua một cuốn, từ từ đọc. Sách không chỉ nói về một cuộc đời, mà trong đó, chúng ta có thể tìm được, rất nhiều, rất nhiều điều quý giá, tỉ như niềm vui, tỉ như sự san sẻ nỗi buồn, tỉ như giúp chúng ta mở mang hơn về mặt hiểu biết, kiến thức. Tôi tin lắm, như vậy!
******
2.
Dù là tiến sĩ, bác sĩ trưởng khoa hay là thầy dạy trường Y; dù là giám đốc hay từng tu nghiệp tại Harvard – Hoa Kỳ, thì nhà văn, nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc, vẫn là một người vô cùng khiêm cung và bác ái, vẫn là một người vô cùng hiền hòa với tấm lòng yêu thương bao la trước những các cảnh ngộ khổ đau và bất hạnh. Ông bình đẳng và chan hòa, ngay với cả một đứa trẻ sơ sinh vừa mới thoát thai:
Thôi trân trọng chào em
Mời em nhập cuộc
Chúng mình cùng chung
Số phận
Con người.
(Thư Cho Bé Sơ Sinh, 1965 – Đỗ Hồng Ngọc)
******
3.
Năm 1990, Sài Gòn lúc ấy không đông người như bây giờ, nhà nào, cũng thường mua báo xem, không thì ở cơ quan, cũng hay có báo. Tôi nhớ hoài, từng đọc một cái tin, làm rúng động, con gái đầu của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc là Đỗ Châu La Ngà, đột ngột qua đời vì tai nạn xe cộ, trong một chuyến công tác xã hội của trường Y.
Nỗi đau nào mới là nỗi đau lớn? Thiệt là khó để so sánh, bởi vì, nỗi đau nào cũng là những mất mát lớn lao và quá sức chịu đựng của ta.
Con gái mất, Đỗ Hồng Ngọc làm nhiều bài thơ khóc con. Trong đó có một bài, nhan đề là Tình Yêu:
Trước mộ con còn ướt
Ba nói với bạn bè ba rằng
Hãy yêu thương con mình cách khác
Đừng như ba
Giấu kín trong lòng
Bởi tình yêu
Có bao giờ cho đủ
Có đâu sợ dư thừa
Ba đã sai lầm bao nhiêu
Hãy tỏ bày đi
Vồ vập đi
Âu yếm ồn ào đi
Tình yêu
Có bao giờ cho đủ
Có đâu sợ dư thừa
Ba đã sai lầm bao nhiêu
Vì cứ chờ cứ đợi
Có biết đâu
Đời như mây nổi
Như gió thổi
Như chiêm bao
Ơi bài học tự thuở nào
Sao bây giờ mới hiểu
Muốn vồ vập con hôm nay
Muốn âu yếm con mãi mãi
Thì đã muộn rồi
Có bao giờ thừa thãi
Tình yêu?
(Đỗ Hồng Ngọc – 1990)
Đừng nén, đừng giấu sự thương yêu trong lòng. Vì chẳng có lý do nào hợp lý cho việc che đậy những tình yêu thiêng liêng ấy.
Tình yêu, có bao giờ cho đủ?
Tình yêu, có đâu sợ dư thừa?
Tình yêu, sao phải chờ, phải đợi?
Học theo ông, tôi sẽ luôn dặn mình, hãy nói lời yêu thương khi còn có thể.
Bài viết hôm nay, thay cho lòng yêu quý, gởi tặng đến một bậc tài hoa rất mực – bác sĩ, nhà nghiên cứu Đỗ Hồng Ngọc, đồng thời là nhà văn, nhà thơ Đỗ Nghê!
Sài Gòn 05.06.2024
Phạm Hiền Mây
PHẠM HIỀN MÂY: Thơ Đỗ Nghê – Bông Hồng Cho Mẹ
Thơ Đỗ Nghê – Bông Hồng Cho Mẹ
PHẠM HIỀN MÂY
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc sinh năm một ngàn chín trăm bốn mươi tại Bình Thuận. Tính đến năm nay, ông đã bước vào tuổi tám mươi tư, tám mươi lăm, thế mà ông vẫn đều đặn viết sách, viết các tản mạn, làm thơ. Vẫn họp mặt bạn bè, tiếp xúc bạn đọc và nhận lời mời nói chuyện, trao đổi, giải đáp các thắc mắc hoặc tâm tình.
Từ năm hai ngàn không trăm lẻ một, cứ năm năm, ông lại ra một cuốn sách. Các sách ấy, ông dựa vào các vấn đề lớn của Kinh Phật mà viết.
Từ Tâm Kinh, ông viết Nghĩ Từ Trái Tim. Từ kinh Kim Cang, ông viết Gươm Báu Trao Tay. Từ kinh Pháp Hoa, ông viết Ngàn Cánh Sen Xanh Biếc. Từ kinh Duy Ma Cật, ông viết Cõi Phật Đâu Xa. Từ kinh Hoa Nghiêm, ông viết thêm một loạt các bài bổ sung sau này.
Và mới đây nhất, ông cho ra mắt Tôi Học Phật, được xem là một tổng tập Kinh Phật hoàn chỉnh. Dường có một dẫn dắt tâm linh, ông tâm sự như vậy, khiến cuốn sách, tưởng chừng rất khó để đọc với mọi người, nào dè đâu, nó lại hết sức mạch lạc, dễ hiểu.
Ông cho biết thêm, người thầy dẫn dắt lớn của ông, là ngài Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngoài ra, ông còn học được rất nhiều từ các vị thầy khác như thầy Nhất Hạnh, thầy Thanh Từ, thầy Viên Minh và thậm chí, cả tự học với chính mình.
Ông diễn giải, ông học cách tiếp cận vấn đề một cách khoa học. Ông học cách trở về nương tựa với chính mình. Thực hành, thực nghiệm với chính mình mới thấy được điều đúng. Trong kinh Kalama, Phật có nói, đừng vội tin ai cả, kể cả tôi, hãy thực hành đi.
Như tôi có nói ở trên, ông là bác sĩ Nhi Đồng, và là một nhà văn, nhà thơ nữa. Thơ ông thường là các bài thơ ngắn viết theo thể tự do. Ngôn ngữ thơ của ông đơn giản, dễ hiểu, không kiểu cách. Đơn giản như khi ông hướng dẫn người mới đến với thiền, là tập hít vào, tập thở ra, cho đúng cách.
****
Ông viết bài thơ NỤ CƯỜI CỦA MẸ vào ngày giỗ của mẹ mình. Những câu thơ rất bình dị, rất giản đơn, không màu mè hoa lá cành, không sử dụng những mỹ từ cao sang, trọng vọng, chỉ là những từ rất gần gũi, đời thường, vậy mà làm người đọc, cảm thấy như mình chính là tác giả, còn bà mẹ trong thơ, ấy chính là bà mẹ của mình.
Lời thơ đơn sơ, như mẹ vậy, mà nặng biết bao tình, mà rất của đứa con, của người con có hiếu!
**
Nụ cười của mẹ
Mẹ tôi có nụ cười lạ lắm
Lúc nào bà cũng nhìn tôi mà cười cười
Không nói
Lạ là vì mỗi lúc bà cười mỗi khác
Đọc thơ, tôi hình dung ra, giữa người mẹ và đứa con, là tác giả, dường, có một gần gũi khác, kiểu như gần gũi của tri kỷ, nghĩa là, mẹ không chỉ thương yêu con mà mẹ còn là người bạn thấu hiểu con nữa.
Những thế hệ sau này, có ăn có học, lại sanh ít, nên họ có thời gian để bầu bạn cùng con. Chớ sanh nhiều như ông bà, cha mẹ mình thuở xưa, con đông, làm lấm mặt, lấy đâu ra thời gian để mà lắng nghe con tâm sự hoặc giãi bày mà cho con ý kiến, ý cò đặng.
Mở đầu bài thơ, tác giả giới thiệu mẹ của mình, bằng một đặc điểm riêng, đó là nụ cười, và nụ cười này rất lạ.
Nó lạ bởi vì, mỗi lần bà cười, là mỗi lần nụ cười một khác nhau.
**
Lúc nào tôi có vẻ vội vã chào bà
Như để đi đâu đó cho đúng hẹn
Chẳng hạn
Bà cười cười tha thứ
Vậy hả con
Ừ đi đi.
Nụ cười thứ nhứt là nụ cười cảm thông khi đứa con ham ra ngoài, ham đi chơi, ham tụ tập, ham bạn bè, ham bù khú hơn là ham ở nhà với mẹ.
Thay vì bà đợi đứa con nói rõ lý do, nghe xong, chẳng hạn, bà sẽ cằn nhằn, cửi nhửi, một vài câu, hoặc khuôn mặt lộ vẻ không vui, để đứa con phải cảm thấy áy náy, thì đằng này, bà lại cười, cái cười của thừa biết, cái cười của bao dung, cái cười của tha thứ, kèm theo sự đôn đốc, vậy hả con, trễ rồi hả con, ừ, con đi đi, đi cẩn thận nha.
**
Lúc nào tôi thấy mình có lỗi
Lần khân bên bà lâu lâu chút
Thì nụ cười của bà lại như mỉa mai
Biết rồi, khỏi nói.
Cứ vội vội vã vã hoài, nhiều khi, thấy dáng bà ngồi, lụi cụi, cô đơn, cảm ra, đứa con là mình, sao mà có lỗi quá, sao mà tệ quá, bèn lân la, bèn hỏi này hỏi kia, bèn nói thiên nói địa.
Hỏi, nói, vậy thôi, chớ có nhập tâm đâu mà có đầu có đuôi. Những lúc ấy, bà tinh lắm, bà nhận ra ngay, và để cho đứa con không phải tốn thời gian nhiều bên mình, bà cắt đứt mạch chuyện cho con được tự nhiên hơn, chuyện đó hả, biết rồi, khỏi nói.
**
Những lúc tôi mang chuyện bực mình đâu đó về
Thì bà nhẹ nhàng cười, thôi đi, đừng sinh sự
Nhột nhất là khi bà cười có vẻ châm biếm
Khi tôi có ý gì đó thiếu thành thật
Loanh quanh kiếm chuyện.
Nụ cười thứ ba của bà là nụ cười nhẹ nhàng, tháo gỡ, khi nhận ra con mình đang không vui, con mình đang không như ý với cuộc sống, với công việc, với gánh nặng cơm áo gạo tiền.
Thôi đi, thôi đi, đừng sinh sự, lời bà can gián. Chuyện lớn thành chuyện nhỏ. Chuyện nhỏ hóa thành không.
**
Ôi nụ cười của một bà mẹ mới lạ lùng làm sao
Lúc tủm tỉm
Lúc chế giễu
Lúc mỉa mai
Lúc chua chát
Lúc thứ tha
Lúc trách mắng
Những nụ cười đó, tác giả không thể tìm thấy ở đâu, ngoài mẹ. Chỉ mẹ thôi.
Hoặc thế này, hoặc thế kia, nhưng kiểu gì thì tác giả cũng thấy dễ chịu, chưa kịp nói mẹ đã hiểu, chưa kịp làm mẹ đã hay. Và nụ cười nào, cũng là nụ cười san sớt, sẻ chia.
Cùng con!
**
Vậy đó
Mẹ tôi vẫn cười cười như thế suốt ba năm qua
Từ tấm ảnh trên bàn thờ!
Cái tài tình của một người viết văn hay làm thơ, chính là lúc này đây, chính là cái không thể ngờ tới, chính là điều không thể đoán ra, là ngỡ ngàng, là chẳng nói nên lời. Và, ngập tràn xúc động.
Ngỡ ngàng trong quặn thắt và ngập tràn nỗi tiếc thương.
Tiếc thương mấy, hối lỗi mấy, thì cũng đã trễ muộn rồi, không thể làm lại được bất kỳ điều chi nữa!
****
Đỗ Nghê viết bài thơ MỚI HÔM QUA THÔI trong một lần đến nhà giữ lão ở Montréal năm một ngàn chín trăm chín mươi ba.
Chỉ mới đọc tựa đề mà tôi cũng đã thấy niềm xúc động trào dâng. Mới hôm qua thôi, là xanh, là tươi tốt, là niềm vui, là hạnh phúc. Mà hôm nay, đã úa, đã héo hon, đã nỗi buồn và sầu tủi.
Một khoảnh khắc ngày qua, hôm nay, mà biết bao đổi thay. Điều đó, có phải người ta hay gọi là vô thường không?
**
Họ ngồi đó
Bên nhau
Đàn ông
Đàn bà
Không nhìn
Không nói
Họ ngồi đó, ngồi bên nhau, mà cái gì cũng không, không nhìn nhau, không nói năng chi.
Cả đàn ông lẫn đàn bà. Giờ, thì giới tính ý nghĩa gì. Còn sức đâu mà làm màu làm mè. Còn sức đâu để mà hứa hẹn yêu thương. Đến cái ăn cũng phải có người đút, đến cái đi vệ sinh, cũng phải có người đỡ đần, thì còn ham hố chi nữa mà đàn ông với chẳng đàn bà lúc này.
**
Họ ngồi đó
Gục đầu
Nín lặng
Ngửa cổ
Giật nhẹ tay chân
Có người
Trên chiếc xe lăn
Chạy vòng vòng
Có người
Trên chiếc xe lăn
Bất động
Họ ngồi đó, hoặc gục đầu, hoặc ngửa cổ, hoặc bất động, hoặc giật nhẹ tay chân.
Cùng là trên chiếc xe lăn, nhưng có người chạy vòng vòng, lơ ngơ, lẩn thẩn. Lại có người, đặt đâu thì y đó, giống như, người ta hay nói, có xác mà chẳng có hồn.
**
Họ ngồi đó
Hói đầu
Bạc trắng
Móm sọm
Nhăn nheo
Họ ngồi đó, hoặc là hói đầu, hoặc là trắng phơ phơ tóc. Hàm răng thì móm sọm. Da dẻ thì nhăn nheo.
**
Mới hôm qua thôi
Nào vương
Nào tướng
Nào tài tử
Nào giai nhân
Ngựa xe
Võng lọng
Mới hôm qua thôi, ông là vua một cõi, hét ra lửa, vạn người phải sợ.
Mới hôm qua thôi, bà là vợ tướng, bước một bước có người nâng, bước hai bước có người đỡ, cầm giỏ, cầm tay.
Mới hôm qua thôi, nào tài tử, nào giai nhân, nào ngựa xe, nào võng lọng, nào thơm nào đẹp, nào xinh nào tươi, nào hào hoa, nào hương sắc.
Mà bây giờ!
**
Mới hôm qua thôi
Nào lọc lừa
Nào thủ đoạn
Khoác lác
Huênh hoang
Mới hôm qua thôi
Nào galant
Nào quý phái
Nói nói
Cười cười
Ghen tuông
Hờn giận
Mới hôm qua thôi, nào lọc lừa, nào thủ đoạn, nào đoạt người, nào chiếm của.
Mới hôm qua thôi, nào khoác lác, nào huênh hoang, nào xưng tên, nào vỗ ngực.
Mới hôm qua thôi, nào galant, nào quý phái, nào cuộc vui, nào tiệc tùng suốt sáng, thâu đêm.
Mới hôm qua thôi, nào nói nói, nào cười cười, nào nâng ly, nào nhấc đũa.
Mới hôm qua thôi, nào ghen tuông, nào hờn giận, nào vật vã khóc lóc, nào muốn có, muốn được nhiều hơn.
Mà bây giờ!
**
Họ ngồi đó
Không nói năng
Không nghe ngóng
Gục đầu
Ngửa cổ
Móm sọm
Nhăn nheo
Họ ngồi đó, không nói năng, không nghe ngóng, không thắc mắc, không quan tâm.
Họ ngồi đó, hoặc gục đầu hoặc ngửa cổ. Hàm răng thì móm sọm. Da dẻ thì nhăn nheo.
**
Ngoài kia
Tuyết bay
Trắng xóa
Ngoài kia
Dòng sông
Mênh mông
Mênh mông…
Ngoài kia, tuyết vẫn bay, trắng xóa một vùng, cùng giá lạnh.
Ngoài kia, sông vẫn chảy, người vẫn ngồi, đợi phút tàn hơi.
Mênh mông. Mênh mông!
****
Ông viết bài thơ BÔNG HỒNG CHO MẸ vào năm hai ngàn không trăm mười hai. Có bốn câu thôi mà khi đọc lên, không sao ngăn được dòng nước mắt. Chỉ chân tình, mới có thể mở cửa được trái tim.
Con cài bông hoa trắng
Dành cho mẹ đóa hồng
Mẹ nhớ gài lên ngực
Ngoại chờ bên kia sông…
.
Con mồ côi mẹ, nên Vu Lan này, con cài lên ngực con, một bông hoa trắng.
Con dành bông hồng này, tặng cho mẹ, mẹ ơi.
Mẹ nhớ cài nha, đừng quên, hoa ngực đỏ.
Bên kia sông, ngoại đang đợi, để ôm mẹ vào lòng đó, mẹ ơi!
****
Không chỉ là bác sĩ nhi giỏi, danh tiếng lẫy lừng, Đỗ Hồng Ngọc còn là một nhà văn, một nhà thơ và là một người có sức ảnh hưởng đến các bà mẹ trẻ, đến những người lớn tuổi muốn đi vào tu tập, hành thiền.
Tiếp xúc với ông, là tiếp xúc với một người thông minh, trí tuệ, duyên dáng, thú vị và thi vị, nên những cuộc trò chuyện với ông, bao giờ cũng là, hoặc nhận thêm được, hoặc học thêm được, những điều rất bổ ích cho cuộc sống, ví dụ, ông trao đổi, Bát Nhã Tâm Kinh có sáu trăm cuốn, rút gọn còn vài trăm chữ, và cuối cùng, chỉ còn một chữ “không”. Dễ hiểu lầm chữ không này là không có gì, Thực ra vẫn có. Có này không do dự tính mà là do tác động của nhiều yếu tố, gọi là duyên sinh.
Tôi có hai người bạn vong niên, một là nhà thơ Trần Vấn Lệ, hai là nhà thơ Luân Hoán. Cả hai nhà thơ này đều là những người tôi rất kính trọng và mến yêu. Và, cũng cả hai ông này, đều là bạn rất thân của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc.
Anh Luân Hoán nhắn, muốn tôi viết một bài cho cuốn sách anh sẽ ra sắp tới, chuyên đề về Đỗ Hồng Ngọc. Còn Trần Trung Tá, thì tôi có đọc được nhiều câu nồng nàn, ấm áp lắm, khi viết cho Đỗ Nghê: Thơ Đỗ Nghê không rườm rà, không làm duyên làm dáng, không lập dị. Thơ ông là Thơ Hồn Nhiên, Thơ Nhã Nhặn, Thơ Ngọt Ngào. Tôi đọc thơ ông rồi úp cuốn sách lên ngực nghe ấm.
Bút danh ông là Đỗ Nghê. Ông nói, Đỗ là họ cha, Nghê là họ mẹ, không có gì là cao siêu hay bí hiểm trong này cả. Nhưng không hiểu sao, nghe cái tên Đỗ Nghê ấy mà, tôi cứ hình dung ra một chú bê con, chú nghé con, kêu nghé ọ, nghé ọ, dễ thương, hồn nhiên và thơ trẻ.
Cái tên, dù là bút hiệu, cũng vận vào con người ta nhỉ. Phải đủ hồn nhiên và thơ trẻ, thì ông mới có thể viết được những cuốn sách, và làm được những việc mang tính cống hiến cho đời, như ông.
Mong ông nhiều sức khỏe để dâng tặng dài lâu, tài năng, trí tuệ, tấm lòng, cho đời, như đã!
Phạm Hiền Mây
Sài Gòn 08.03.2024
(Nguồn: Ngôn Ngữ: Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc, số tháng 5. 2024)
May 27, 2024
Nguyên Giác: Đọc Ngôn Ngữ Số Đặc Biệt về Đỗ Nghê: Khi Đỗ Hồng Ngọc gặp Cao Huy Thuần
Đọc Ngôn Ngữ Số Đặc Biệt về Đỗ Nghê: Khi Đỗ Hồng Ngọc gặp Cao Huy Thuần
Nguyên GiácĐây là một tuyển tập đặc biệt của Tạp chí Ngôn Ngữ, chủ đề về Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc, ấn hành tháng 5 năm 2024. Nhan đề sách còn là “Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc: Bằng Hữu & Văn Chương.” Sách dày 716 trang, bao gồm tiểu sử, thơ và văn xuôi của vị bác sĩ nổi tiếng, khi làm thơ ký tên là Đỗ Nghê và khi viết văn xuôi ký tên thật là Đỗ Hồng Ngọc. Và phần cuối là tác phẩm của hơn 60 nhà văn, nhà phê bình, họa sĩ và nhạc sĩ viết về, vẽ chân dung, phổ thơ Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc. Tất cả các thơ, văn, bài viết trong tuyển tập đều xuất sắc.
Bìa sách “Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc: Bằng Hữu & Văn Chương”
Hiển nhiên, có thể hiểu rằng tuyển tập là một món quà văn nghệ lưu niệm được nhóm chủ trương — Luân Hoán, Song Thao, Nguyễn Vy Khanh, Hồ Đình Nghiêm và Lê Hân — ấn hành để trao tặng cho Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc, một nhà thơ hy hữu trong dòng văn học Việt Nam, được nhiều nhạc sĩ phổ thơ và đưa các ca khúc này lên YouTube. Các bài thơ ghi lại trong Tạp Chí Ngôn Ngữ Số Đặc Biệt nằm trong Phần II là trọn tập thơ “Thơ Ngắn Đỗ Nghê.”
Phần III trong tuyển tập là văn xuôi Đỗ Hồng Ngọc, được Chủ biên Luân Hoán nhận xét: “Những bài viết này thường ngắn nhưng cũng xuất sắc như thơ, bởi qua đó những nhận xét tinh tế về cuộc sống, tình người, được ông phơi bày một cách đơn giản, nhưng sâu sắc như những bức ảnh chụp đủ chân tình, giàu dí dỏm. Mỗi tạp ghi là một cảnh sống linh động, chúng ta có cảm tưởng ông thật dồi dào vốn sống đời thường. Ông là một bác sĩ cao tay nghề, một người học Phật uyên thâm lại rất thích truyền đạt hiểu biết của mình theo một cách riêng. Tính ít nói cười nhưng sự nghiêm túc, được tâm hồn phóng khoáng giúp ông chơi thêm một trò vẽ vời nữa, cũng thi vị đậm đà không kém những bộ môn kể trên.” (trang 9)
Trong tuyển tập, tôi chú ý đặc biệt tới bài Đỗ Hồng Ngọc nơi các trang 265-270 có nhan đề “Đọc ‘Im Lặng, Như Lời Chia Tay’ của Cao Huy Thuần.” Hy hữu lắm, trong mắt tôi, họ Đỗ và họ Cao là hai đại cư sĩ đương thời của Phật Giáo Việt Nam. Hy hữu lắm, khi hai ngọn núi khổng lồ của nền văn học Phật Giáo bỗng nhiên ngồi chung một bàn, mời nhau ly cà phê và nói chuyện đạo với đời.
Từng dòng nơi bài viết, tôi đọc và có lúc thấy hiện ra trên mặt giấy hình ảnh hai vị lão niên cư sĩ đang ngồi trong nhà nói chuyện với nhau, và tôi, người đang đọc, y hệt như một kẻ hậu sinh còn đứng ngập ngừng nơi cửa, nhìn vào và lắng nghe. Đỗ Hồng Ngọc và Cao Huy Thuần đều ở tuổi U-90 (nói theo kiểu văn học đương thời tại Việt Nam, tức là dưới 90 tuổi và hơn 80 từ lâu). Cả hai đại cư sĩ ngồi bên nhau trong bài viết, y hệt như 2 cuốn tự điển Phật học xuất hiện bên nhau trên kệ sách, nơi đó, tôi đang nhìn vào và lắng nghe. Nơi đây, Đỗ Hồng Ngọc viết gì về Cao Huy Thuần?
Đỗ Hồng Ngọc viết, nơi trang 265: “Anh Cao Huy Thuần gởi tôi tập Im Lặng, như lời chia tay… dặn để đọc mấy ngày Tết. Tôi nghĩ: chắc là Im Lặng thở dài… đây rồi! “Tôi đang lắng nghe tôi đang lắng nghe im lặng đời mình” (Trịnh Công Sơn)? Nhưng không. Cao Huy Thuần không thở dài! Anh nói về “thiêng liêng” về “chia tay mà không biệt ly của cánh hoa rơi”…” (ngưng trích)
Im lặng, như lời chia tay. Lời chia tay của cánh hoa rơi. Đó là những chữ của Cao Huy Thuần được Đỗ Hồng Ngọc ghi lại. Đó là văn xuôi, và cũng là thơ. Một hình ảnh rất đẹp. Trong khi 2 đại lão cư sĩ hiện ra trên giấy như hai vị cõi Thiên có đại uy lực, với tâm được chế ngự, lặng lẽ nhìn chữ viết trong những ngày cuối đời mình như lời chia tay của cánh hoa rơi, tôi nhớ tới một hình ảnh được nói tới trong Kinh Trường Bộ DN 16, khi trái đất này chấn động sáu cách:
“Lại nữa này Ānanda, có vị Sa-môn hay Bà-la-môn có thần thông, tâm được chế ngự, hay hàng chư Thiên có đại thần thông, có đại uy lực; những vị này quán địa tánh có hạn, quán thủy tánh vô lượng, vị ấy có thể khiến quả đất này rung động, chuyển động mạnh. Đó là nhân thứ hai, duyên thứ hai khiến đại địa chấn động.” (Kinh DN 16, bản dịch của Thầy Minh Châu)
Trong khi Cao Huy Thuần nhìn sự chuyển hóa vô thường như chiêm ngắm một cánh hoa rơi, Đỗ Hồng Ngọc đã nói rõ hơn (than ôi, có những người, kiểu như tôi, cần được tác giả nói rõ hơn) rằng đó là Tử ma, là sự chết:
“Phật dạy có bốn thứ Ma thân thiết với ta. Phiền não ma, Ngũ ấm ma, Thiên ma, Tử ma. Tử ma chính là “thị giả” của ta, gần gũi ta và giúp đỡ ta, gắn với ta từ trong trứng nước. Tưởng là kẻ xấu mà không, hắn rất tử tế, luôn nhắc ta từng chút, nhờ vậy mà ta tránh biết bao tai ương, khổ nạn.
Nhìn lại, có hay không có tái sinh? Có hay không có “kiếp” sau? Có lần khi trò chuyện với Ni sư Trí Hải tôi hỏi một kiếp dài khoảng chừng 10 phút không cô? Cô cười, không trả lời. Có lẽ cô muốn nói… một kiếp dài cỡ một sát-na!” (trang 266)
Có phải một kiếp dài khoảng 10 phút, hay chỉ một sát na, hay là hơn 90 năm? Khi một cánh hoa rơi xuống, có phải những cánh bướm vẫn vỗ bay nơi góc rừng. Tử ma hiện diện khắp cõi này, kể cả trên chiếc lá khô. Nơi đây, hiển nhiên là Đỗ Hồng Ngọc rất mực tâm đắc với dòng văn Cao Huy Thuần khi nói về lá khô, lá rụng, rồi tái sinh thành lá búp, lá non. Trích:
“Im lặng bông hoa nở. Im lặng bông hoa tàn. Hoa rụng, nhưng mỗi cánh hoa rơi, bao nhiêu chân bướm vẫn còn lưu dấu… Đâu là cách chia tay mà không biệt ly? (Im Lặng). Rồi Cao Huy Thuần dẫn bài thơ Feuille morte (lá chết) của Hermann Hess, tác giả Siddhartha (Câu chuyện dòng sông, Phùng Khánh, Phùng Thăng dịch, Saigon 1966). Anh “phát hiện” một điều thú vị: ngôn ngữ Việt không ai nói “lá chết” mà nói “lá khô”, “lá rụng”. Quét lá rụng, quét lá khô, không ai nói quét lá chết như ngôn ngữ Pháp, Đức. Bởi vì, lá không bao giờ chết. Nó khô, nó rụng, rồi nó tái sinh thành lá búp lá non (Im Lặng).” (trang 268)
Có một hình ảnh khác nữa. Đỗ Hồng Ngọc nhắc về hình ảnh trong văn Cao Huy Thuần: hai con sên dự đám tang chiếc lá chết mà lòng tràn đầy hân hoan, hạnh phúc. Nhà thơ họ Đỗ ghi lại, trích:
“Ôi, làm sao hai chú sên đi dự đám tang chiếc lá chết buồn xo giữa mùa thu… mà nay lòng lại tràn đầy hân hoan, hạnh phúc? Ấy bởi vì chúng là sên. Chúng “bò như sên”! Bò hết cả mùa đông, chưa kịp đến nơi mà xuân đã về rồi! “Bao nhiêu lá chết xong/ Tất cả đều lại sống…”
Tiễn mùa thu thì gặp mùa xuân. Tiễn cái chết thì gặp cái sống. Tiễn ảm đạm thì gặp tưng bừng. Hai con sên chia tay mà chẳng biết biệt ly là gì! (Im Lặng)
Cao Huy Thuần nói nhỏ: “chẳng có cả khái niệm”. Phải, chúng chẳng có cả khái niệm. Dĩ nhiên, Cao Huy Thuần đang nói về Kim Cang đó! Khi ta mà biết sống “ly niệm”, khi ta không còn bám chấp vào khái niệm… thì “trí bất đắc hữu vô”, thong dong, tự tại.” (trang 269)
Chúng ta sẽ thấy trong từng trang giấy những phong cách dị biệt giữa hai nhà văn Cao Huy Thuần và Đỗ Hồng Ngọc. Trong khi họ Cao nói về Tử ma với hình ảnh cánh hoa rơi, lá khô, lá rụng… thì ngòi bút họ Đỗ lại chỉ vào hình ảnh thõng tay vào chợ, hiện tướng đùa vui giữa chốn Ta bà. Trích:
“Anh Cao Huy Thuần thân mến, nếu thỉnh thoảng ta mà vào được Tam muội Phổ Hiền, thì ta cũng có thể nhận ra cái “thiêng liêng” đó anh à, cái thiêng liêng từ “vô tướng” – trong Như Lai tạng – bỗng “hiện tướng”… đùa vui giữa chốn Ta-bà đó thôi.” (trang 270)
Từ trái: Đỗ Hồng Ngọc, Cao Huy Thuần, Miên Đức Thắng.
Nhìn chung, Tuyển tập này có rất nhiều bài để đọc. Và mỗi bài đều có sức lôi cuốn khác nhau. Danh sách các tác giả viết trong tuyển tập về Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc này là: “Ban Mai, Du Tử Lê, Duyên, Đinh Cường, Đinh Trường Chinh, Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc, Đỗ Thị Thanh Nga, Đỗ Trung Quân, Đỗ Trường, Elena Pucillo Truong, Hồ Đình Nghiêm, Hoàng Quốc Bảo, Huỳnh Như Phương, Huỳnh Ngọc Chiến, Khuất Đẩu, Khúc Dương, Lam Điền, Lê Chiều Giang, Lê Ký Thương, Lê Minh Quốc, Lê Ngọc Trác, Lê Uyển Văn, Luân Hoán, Lữ Kiều Thân Trọng Minh, Lương Thư Trung, Minh Lê, Ngân Hà, Ngô Nguyên Nghiễm, Nguyên Cẩn, Nguyên Giác Phan Tấn Hải, Nguyễn An Bình, Nguyễn Đức Tùng, Nguyễn Hậu, Nguyễn Lệ Uyên, Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Quang Chơn, Nguyễn Thánh Ngã, Nguyễn Thị Khánh Minh, Nguyễn Thị Ngọc Hải, Nguyễn Thị Phương Trinh, Nguyễn Thị Tịnh Thy, Nguyễn Thiên Nga, Nguyễn Xuân Thiệp, Phạm Bảo Kim, Phạm Chu Sa, Phạm Hiền Mây, Phan Chính, Phat’s Blog, Tâm Nhiên, Thu Thủy, Thy Ngọc, Tô Thẩm Huy, Trần Hoài Thư, Trần Thị Nguyệt Mai, Trần Vấn Lệ, Trang Châu, Trịnh Công Sơn, Trịnh Y Thư, Trương Đình Uyên, Trương Trọng Hoàng, Vĩnh Điện, Võ Tá Hân, Ý Nhi.”
Nguyên Giác
(Nguồn: tranthinguyetmai wordpress 27.5.2024)
May 23, 2024
Phạm Bảo Kim: Đọc văn Đỗ Hồng Ngọc
ĐỌC VĂN ĐỖ HỒNG NGỌC
Phạm Bảo Kim
Đỗ Hồng Ngọc là một nhà thơ trước khi tốt nghiệp Bác sĩ Y khoa Đại học đường Saigon vào năm 1969. Bài thơ đầu tiên được đăng trên tạp chí Bách Khoa năm 1960. Sau đó, ông đã có nhiều thơ đi trên các tạp chí Bách Khoa, Mai, Tình Thương, Ý Thức… Năm 1967, khi đang là sinh viên Y khoa, ông đã có tập thơ đầu tay “Tình Người” xuất bản. Thơ ông đẹp, hay. Đã hẳn. Vì được viết từ chính trái tim, từ xúc động chân thành “như không thôi đi được” mà Chu Hy đã nói đến trong Thi Kinh tập truyện. Ông tâm sự: “Tôi không có khả năng ‘hư cấu’ nên không viết được truyện dài truyện ngắn tiểu thuyết như các bạn mình… Tôi chỉ có một truyện ngắn duy nhất “Người thứ hai” đã đi trên tạp chí Mai xuất bản tại Saigon vào năm 1965, sau này được in lại trong tập truyện “Cuộc đi dạo tình cảm” của nhiều tác giả, Nhà xb Trẻ, 1998.
Georges-Louis Leclerc, Comte de Buffon (1707 – 1788) có lần phát biểu: “Phong cách chính là người” (Le style c’est l’homme même) mà người Việt chúng ta thường diễn dịch “Văn chính là người”. Đọc truyện ngắn này của ông, độc giả có thể nhận ra ngay điều đó.
Nhân vật chính trong truyện xưng “tôi” hoặc “anh” là hình ảnh của Đỗ Hồng Ngọc thời đang là sinh viên y khoa mà chắc chắn sản phụ nào cũng mong là người đỡ đẻ cho chính mình. Có thể thấy ông đã đặt cả trái tim mình trong công việc. “Tôi hỏi thật nhỏ nhẹ, lời lẽ cân nhắc đắn đo sao cho người đàn bà nằm đây chờ sanh tin cậy nơi tôi mà không thẹn thùng khi phải trả lời những câu hỏi của tôi đôi khi như chạm đến bí mật riêng tư của bà. Tôi hỏi về gia đình bà, và những đứa con của bà. Tôi giảng giải cho bà nghe những giai đoạn trong việc sanh nở. Tôi nhớ mang máng có đọc trong tạp chí nào đó một phương pháp đẻ không đau nên thử áp dụng… Bây giờ thì bà đã đau rột. Tôi bắt mạch, đo thời gian co tử cung, rồi nói chuyện cho bà nghe để bà quên đau… Người đàn bà cắn môi, nhăn mặt, chuẩn bị rặn. Tôi khuyên hãy đợi một lát, chờ cho cổ tử cung nở hẳn, để tránh nguy hiểm về sau. Bà uốn cong người, nhịn rặn, hả miệng to để thở và những giọt mồ hôi gặp dịp tốt không quên túa ra, tụ lại, chảy xuống thành dòng… Tôi đặt tay lên bụng bà, lo lắng, thầm khấn cho bà sanh dễ dàng, mau chóng…”
Nhớ hồi sinh cháu đầu lòng, cha mẹ hai bên đều không ở gần, không được chỉ vẽ điều gì, lại càng không có cơ may có trong tay cuốn sách “Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng” của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc nơi xứ lạ quê người, tôi đã lúng túng biết bao. Đỡ đẻ cho tôi là bác sĩ R.V. nổi tiếng mát tay ở thành phố nơi tôi sinh sống, nhưng ông không chỉ có tôi là sản phụ duy nhất trong phòng sanh. Chỉ có y tá vào ra, thăm độ nở của cổ tử cung và báo cho ông biết, trong khi ông còn lo cho những sản phụ khác. Không có bác sĩ hay y tá nào ngồi nói chuyện cho mình quên đau, hoặc chỉ dẫn điều này điều nọ. Chỉ khi cổ tử cung đã nở, bác sĩ mới vào cùng y tá, khuyến khích mình ráng rặn để cho con ra.
Từ cơn đau của người sản phụ, “Lấm tấm trên trán, trên mũi bà đọng mấy giọt mồ hôi – giọt mồ hôi của những người mẹ hợp với nước mắt của họ làm thành biển mẹ bình bồng những đứa con – tôi nghĩ về mẹ tôi một cách biết ơn hơn bao giờ hết.” Với trái tim mẫn cảm ông đã nhìn ra mẹ mình và tất cả những người mẹ đã chịu đớn đau cho con được ra đời vuông tròn, để từ đó lòng biết ơn Mẹ đã thêm ngập tràn trong trái tim ông.
Những câu tả cảnh tả tình trong bài cũng rất đẹp, chẳng hạn:
“ Trên bãi cát phẳng lì này, anh đã nằm nghe trời đất tự tình. Những đợt sóng lớn nhỏ đuổi nhau, đùa giỡn trên bãi, cuốn đến chân anh rồi ngại ngùng rút đi. Những con sò ca trên cát trắng. Em thấy còng gió đó không Mai? Nó chạy nhanh hơn gió. Đừng đuổi mất công. Để hôm nào anh đưa em đi xem cách người ta bắt còng nghe. Quê hương anh thật nghèo, thật đẹp. Rừng dương reo vi vu ru mình vào giấc ngủ. ”
Một trong những tác phẩm của ông tôi cũng rất thích là “Áo Xưa Dù Nhàu…”, ghi lại 18 chân dung văn học mà ông có dịp gặp gỡ, quen biết, do Phanbook xuất bản 2022. Tôi yêu những đoạn văn ông tả mùa thu ở Boston rất nên thơ. “… lá như ráng níu lại chút xanh, và vì níu lại nên có vẻ chặt hơn, xanh hơn lên mà thôi. Bởi vì rất nhanh, lá bỗng vàng rượm, vàng rực, vàng tía, vàng buốt… và bầu trời rộng ra, thênh thang, yểu điệu kỳ cục.” Hay: “Tôi bước đi từng bước nhẹ dưới những vòm cây và nghe cho hết tiếng thu về. Dưới chân mình là từng lớp lá rụng, bước chân bỗng như hẫng đi và tôi chợt ngơ ngác. Thấy mình như không còn là mình nữa. Hay mình là nai? Có thể chứ? Con nai vàng ngơ ngác của Lưu Trọng Lư?” Phải đọc mùa thu Boston, tôi mới cảm thấy trân quý với thiên nhiên thời tiết mà mình đang được hưởng. Để biết thưởng thức “… Cái tiếng mùa đi, mùa về, cái tiếng đời của mỗi chúng ta. Nó ở trong không gian dằng dặc, đùng đục thênh thang kia, và ở cả trong thời gian hun hút, héo hon rơi rụng nọ, một thứ ‘tiếng động nào gõ nhịp không hay’ (TCS) đó chăng.”
Cách tả của ông cũng rất độc đáo. Với học giả Nguyễn Hiến Lê ghiền thuốc cỡ “thường thường bậc trung” thì “Lúc nào cũng có lon thuốc rê bên mình, ông vừa trò chuyện với khách vừa vấn vấn vê vê điếu thuốc lá, liếm nhẹ rồi bật quẹt hút. Các ngón tay ông nhanh nhẹn, thuần thục đến vàng sậm màu khói”. Còn với nhà văn Trang Thế Hy, việc hút thuốc đã trở thành một nghệ thuật, một “nghi lễ tôn giáo”: “Thấy cái cách ông ngậm điếu thuốc chếch qua một bên khóe miệng, thấy cái cách ông khum khum đôi bàn tay ấp ủ ngọn lửa như một bông hoa tự dưng thấy lòng xao xuyến… Một người gần 90 tuổi, ghiền thuốc lá từ ngày còn trẻ, ngồi bên cạnh mình, nhẹ nhàng rút một điếu, nâng niu đưa lên miệng, rồi ân cần xoay xoay chiếc hộp quẹt trong tay chuẩn bị bật lửa…” Bằng những nét chấm phá như thế, ông đã cho người đọc thấy được một Trang Thế Hy ghiền thuốc đến cỡ nào!
Văn ông dí dỏm, rất có duyên, khiến người đọc không muốn buông sách, mà cứ muốn tiếp tục đọc cho đến hết để tủm tỉm cười một mình. Như ông tả “chàng” Huy Cận chẳng nên thơ chút nào như trong trí tưởng, “một ông già lùn mập, trông giống như Bất Giới hòa thượng, ì ạch leo lên cầu thang. Trời, Huy Cận bằng xương bằng thịt đây sao? Người mà ‘em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây’ đây sao?” Nhưng khi nói về thơ thì Huy Cận lập tức biến thành một con người khác. “… Rồi ông lại ư ử. Hay. Câu này hay. ‘Một ngày Đập Đá nghiêng vai biếc người’. Một ngày Vỹ Dạ trăng soi, một ngày Đập Đá nghiêng vai biếc người. Ngày thì trăng không soi được rồi, mà tại sao lại biếc người? Không phải chỉ là cái quán cà phê bên dòng nước xanh um bóng cây kia mà chính là, à phải rồi, chính là con thuyền ai đó có chở trăng về kịp tối nay và vườn của ai kia lá có còn mướt xanh như ngọc. Vâng, xanh nên biếc và người nên ngọc. Ông Huy Cận này ghê thiệt. Quả là danh bất hư truyền. Ông đọc và cảm nhận thơ tinh tế không thể tưởng. Mới vừa thấy ông là Bất Giới hòa thượng đó bỗng đã thành Nghi Lâm tiểu sư muội, rồi bây giờ lại là Lệnh Hồ huynh đệ, chỉ dùng kiếm ý mà không cần kiếm chiêu…” Và tôi không thể không tủm tỉm cười khi đọc đến chỗ, “Bỗng nhiên ông hỏi: ‘Duyệt chưa?’ Tôi trả lời: ‘Chừng nào in mới đưa Nhà xuất bản duyệt’. ‘Không, vợ duyệt chưa?’ Trời đất quỷ thần cái ông Huy Cận này. Lại có vụ đó nữa ư? Tôi ấp úng đành cười trừ. Lê Phương Chi cười ha hả: Cái ông Huy Cận nhứt vợ nhì trời này, mày không biết sao?”
Qua tập sách này, tôi cũng thấy được ĐHN còn là một nhà báo có tài phỏng vấn. Như nhà văn Trang Thế Hy đã thổ lộ: “Hôm trước có cô nhà văn gì đó hỏi tôi tại sao không ưa… mà thích Lỗ Tấn? Tôi không trả lời, nhưng hôm nay nói cho Đỗ Hồng Ngọc nghe nha: Tôi thích Lỗ Tấn vì…” Ông đến với mọi người bằng tấm chân tình, nên ông cũng được đối đãi lại như thế. Nhà thơ Quách Tấn đã không ngại chia sẻ với ông về tính dục. “Trước kia tôi có nhiều nhơn tình. Tôi cám ơn họ lắm vì nhờ họ tôi có nguồn cảm hứng luôn. Tôi quan niệm ‘làm thơ cũng như chơi gái’. Làm thơ không phải chỉ thuần có khoái cảm ở tâm hồn, nhiều lúc thấy vibrer cả cơ thể. Làm xong một bài thơ, cơ thể cũng rã rời, mệt mỏi. Có những bài thơ làm bằng nước mắt. Ngược lại, chơi gái cũng phải là một hành động thơ, chứ không phải chỉ là sự giải quyết sinh lý.”
Hiện nay ông tiếp tục dùng ngòi bút văn chương của mình, mang thơ nhạc để giảng giải lời kinh cũng rất hay, giúp người học Phật trình độ sơ cơ hiểu được và từ đó đến với Phật pháp dễ dàng hơn. Tôi rất “mê” cách ông giải thích kinh Kim Cang qua bài viết “Con mắt còn lại”.
“Bùi Giáng, một thi sĩ thấm đẫm Kim Cang thường hạ những câu ‘hà dĩ cố’ trong thơ có lần viết ‘Còn hai con mắt khóc người một con…’ mà Trịnh Công Sơn đã nối theo: Còn hai con mắt một con khóc người! Con mắt còn lại…? Ừ, con mắt còn lại thì sao? Con mắt còn lại… nhìn một thành hai, nhìn em yêu thương nhìn em thú dữ… (TCS). Phải rồi, cái con mắt còn lại quả thực là con mắt gây phiền hà! Nó bị diplopie, nhìn một thành hai! Nhưng người bị diplopie thì nhìn một thành hai giống hệt nhau còn đằng này nó nhìn em… yêu thương thành em thú dữ, rồi còn ‘nhìn tôi lên cao nhìn tôi xuống thấp…’, nghĩa là cái nhìn đầy “phân biệt đối xử”! Nó như của ai khác- nó quan sát ta, nhìn ngắm ta và rồi nó… thở dài thấy mà ghét (Con mắt còn lại là con mắt ai? Con mắt còn lại nhìn tôi thở dài! TCS)! Thở dài, bởi nó thấy ta tội nghiệp! Thấy ta đáng đời! “… đời tôi ngốc dại, tự làm khô héo tôi đây…” (TCS).
Đó chính là con mắt của “Thức”. Của biện biệt, so sánh, đếm đo. Khi “thức” biến thành “trí” thì mọi chuyện đã khác! Lúc đó,
Con mắt còn lại/ nhìn đời là không/ nhìn em hư vô/ nhìn em bóng nắng!
Là không, chứ không phải bằng không! Là không, đó là cái không của có, cái có của không… Tóm lại, còn hai con mắt…“khóc người một con” kia là con mắt của Bi! “Con mắt còn lại nhìn đời là không” này chính là con mắt của Trí. Bi mà không Trí thì cứ sẽ khóc hoài, dỗ không nín!
(trích từ Gươm báu trao tay – Đỗ Hồng Ngọc. Nhà xb Phương Đông 2008)
Nơi đây xin được tỏ lòng biết ơn đến Nhà thơ – Bác sĩ – Cư sĩ Đỗ Hồng Ngọc, ông đã giúp tôi thêm vốn kiến thức văn chương, y khoa, âm nhạc, Phật học… Tôi vẫn thầm nghĩ mình là người may mắn được học hỏi từ những cuốn sách của ông, và từ những điều ông viết chia sẻ trên trang nhà Đỗ Hồng Ngọc cũng như trên các trang mạng khác.
(PBK)
24.3.2024
(Ngôn Ngữ đặc biệt Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc, tháng 5-2024)
Đỗ Hồng Ngọc's Blog
- Đỗ Hồng Ngọc's profile
- 12 followers

