Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 5
February 4, 2025
TẾT: Chuyện của tâm hồn… ăn uống
TẾT: Chuyện của tâm hồn… ăn uống
Đỗ Hồng Ngọc
Hãy lắng nghe sự mách bảo của cơ thể mình! Cơ thể nói… thèm ăn thức gì thì nó đang cần thức đó! Cũng đừng quên ăn uống là chuyện của văn hóa!
[image error]Tranh dân gian Hàng Trống – sưu tập của Nguyễn Huy.
Lý Lạp Ông, một triết gia Trung Quốc thế kỷ XVI viết trong Nhàn tình ngẫu ký: “Xét cơ thể con người, chỉ có hai cơ quan không cần thiết chút nào cả mà trời phú cho là cái miệng và cái bao tử, nguồn gốc tất cả những cái lụy của con người từ xưa tới nay. Có cái miệng với cái bao tử nên sinh kế mới hóa ra phiền phức, sinh kế phiền phức mới sinh ra những mưu mô gian trá; mưu mô gian trá mới phải đặt ra hình pháp”… Rồi ông ao ước: phải chi con người có cái diều như diều chim, có cái dạ dày như loài nhai lại! Loài người mà có cái diều như diều chim thì tất hiền lành, hòa bình, vì loài ăn hạt, trái cây, rau cỏ thì ít hiếu chiến, tàn ác. Gà trống cũng thường đá nhau nhưng không phải vì thức ăn mà vì gà mái. Nếu loài người mà có cái diều… thì chỉ còn những cuộc chiến nho nhỏ để… giành gà mái thôi!
Tuổi teen phải ăn cho no
Tại sao phải ăn? Ấy là bởi vì chúng ta cần năng lượng để tồn tại và để hoạt động. Thức ăn cung cấp năng lượng. Tuổi mới lớn, cần năng lượng nhiều để vừa xây dựng cơ thể, vừa đáp ứng nhu cầu họat động của tuổi này. Cho nên tuổi “teen” mau đói và thường ăn “không biết no”.
Nhớ rằng ngồi bàn viết, đánh vi tính mỗi giờ chỉ tiêu tốn 100-200 calo, hát karaoke mỗi giờ tốn 120 calo, đi nhanh, đạp xe đạp, bơi lội mỗi giờ 300 calo; cử tạ, tennis, cầu lông 400 calo, đá banh 600 calo… Trong khi đó, ăn một tô hủ tiếu, phở, đã “nhập” vào 500-600 calo; bún bò huế, cơm tấm bì cũng vậy; bánh lọt, chè bắp… 400 calo; ly sinh tố 250 calo và nước chanh đường… hơn 100 calo! Biết đại khái vậy ta sẽ tính toán “thu-chi” sao cho hợp lý để cơ thể được cân đối, không bị béo phì hoặc ngược lại bị suy dinh dưỡng. Ăn uống là chuyện của “tâm hồn”. Ta vẫn thường nghe nói có những “tâm hồn ăn uống” đó thôi. Ăn uống là một cái khoái nhưng cũng có khi là một “cực hình”. Có những tình huống “nuốt không trôi”, chẳng hạn bị ép ăn! Không gì khổ bằng ăn trong sự cưỡng bức, ép uổng…
Ở một trường mẫu giáo bên Hà Lan, người ta đã làm thí nghiệm đặt những đứa bé 3 tuổi vào một phòng kín, dọn sẵn thức ăn thịt cá, trứng sữa, rau đậu, trái cây các thứ đầy đủ, rồi quan sát từ bên ngoài cửa kính xem sao. Trẻ chơi đùa một lúc đói bụng, tự động đi tìm thức ăn… phù hợp mà mình đang cần. Có đứa bốc món này, đứa bốc món kia… Có đứa ăn hoài một thứ, có đứa đổi từ món này qua món khác. Người ta theo dõi và cân đo trẻ trong một tuần lễ, thấy trẻ khỏe mạnh, lên cân đầy đủ. Điều đó chứng tỏ ăn… không cần phải ép. Ép dầu ép mỡ ai nỡ ép… ăn! Tản Đà, một thi sĩ nổi tiếng trong nghệ thuật ẩm thực, đã có câu “triết lý” về chuyện ăn sao cho ngon như sau:
– Đồ ăn ngon/ chỗ ngồi ăn không ngon/ người ngồi ăn không ngon: không ngon!
– Đồ ăn ngon, chỗ ngồi ăn ngon/ người ngồi ăn không ngon: không ngon!
– Đồ ăn ngon/ người ngồi ăn ngon/ chỗ ngồi ăn không ngon: không ngon!…
Nghĩa là để ăn cho ngon cần đủ cả ba yếu tố: đồ ăn ngon/ chỗ ngồi ăn ngon/ và người ngồi ăn cùng cũng… phải ngon! Người ngồi ăn mà không ngon – dễ ghét – thì nuốt không trôi! Và dĩ nhiên muốn ăn ngon thì phải có sự thèm ăn, tức phải đói. Đói thì ăn gì cũng thấy ngon! Lâu nay ta quen ăn theo giờ mà không ăn theo… bụng. Một điều đáng tiếc.
“Chỗ ngồi ăn ngon” thì ba trăm năm trước, Trương Trào đã viết: “Trà như ẩn sĩ, rượu như hào sĩ. Rượu để kết bạn, trà để hưởng tĩnh. Trong cuộc lễ, uống nên khoan thai. Trong cuộc họp bạn, uống nên nhã. Mùa xuân nên uống ở sân. Mùa hè nên uống ở ngoại ô. Mùa thu nên uống ở trong thuyền. Mùa đông nên uống ở trong nhà. Ban đêm nên uống dưới bóng nguyệt”. (U mộng ảnh, bản dịch Huỳnh Ngọc Chiến).
Nhưng cách ăn ngon nhất có lẽ là ăn mà biết rõ mình đang ăn. Ý thức về chuyện đang ăn. Quan tâm nó. Để ý nó. Biết ơn nó. Bốn nhóm thức ăn cùng với nước uống chẳng phải cũng là “ngũ uẩn” đó sao? Chúng kết tập lại một cách nhuần nhuyễn để giúp ta tinh tấn trong tu tập của mình.
Tuổi già ăn theo mệnh lệnh của… bao tử
Cho nên mới nói rằng ăn là chuyện của tâm hồn! Ăn uống rất quan trọng đối với người cao tuổi. Một trong những lý do người già dễ bị uể oải, lừ đừ… là do thiếu năng lượng. Ở người cao tuổi, còn thêm nỗi khổ vì “hàm răng chiếc rụng chiếc lung lay”, dạ dày teo nhỏ, dịch vị tiết ra không đủ, dễ bị bón, dễ bị rối loạn tiêu hóa. Con cháu thương tình, tìm món ngon vật lạ ép ăn, tìm thuốc bổ vitamin các thứ ép uống… thì tình trạng càng bi đát hơn vì càng làm cho ăn mất ngon, không còn thấy thèm ăn!
Người già thiếu ăn, thiếu năng lượng phần lớn là do sợ bệnh, do kiêng khem quá đáng. Bác sĩ lại hay hù dọa. Khám bệnh xong bác sĩ dặn phải kiêng món này cữ món kia… và không quên cho một đống thuốc bổ trong khi người già uống đầy bụng thuốc bổ đâu cần ăn chi nữa! Không kể bạn bè hàng xóm bày vẽ, không kể nghe lời quảng cáo bùi tai… ra rả suốt ngày! Nhưng khi bác sĩ thật thà tốt bụng khuyên nên ăn uống thoải mái, “muốn ăn gì cứ ăn”, thì hiểu ngay là bệnh đã “hết thuốc chữa rồi”! Ông nọ đi khám bác sĩ về cứ bần thần buồn bực, bà vợ gặng hỏi, ông nói bác sĩ nói bệnh anh phải uống thuốc suốt đời mà ông ta chỉ cho có… 10 viên!
Chuyện ăn uống của người cao tuổi nói chung nên nghe theo mệnh lệnh của… bao tử. “Listen to your body”. Hãy lắng nghe sự mách bảo của cơ thể mình! Cơ thể nói… thèm ăn thức gì thì nó đang cần thức đó! Cũng đừng quên ăn uống là chuyện của văn hóa! Món ăn gắn với kỷ niệm, gắn với thói quen, gắn với mùi vị từ thuở còn thơ! Người già có thể thích những món ăn… kỳ cục, không sao. Miễn đủ bốn nhóm: bột (glucid), đạm (protid), dầu (lipid), rau (vitamin, khoáng)… Mắm nêm, mắm ruốc, tương chao, các thứ gia vị… đều tốt cả. Miễn đừng quá mặn, quá ngọt… Hãy “tự tại” đến mức có thể, miễn là món ăn vệ sinh, an toàn. Đừng ép ăn, đừng đút ăn, đừng làm “hư” các cụ! Nhưng khi các cụ đột ngột gầy ốm, sụt cân nhanh thì đã có vấn đề. Suy dinh dưỡng chăng? Trầm cảm chăng? Có triệu chứng khởi đầu của Alzheimer chăng? Hay đang mắc một thứ bệnh nặng nào đó? Những bữa ăn gia đình có cha mẹ già cần tránh tất cả những sự căng thẳng, những lời nói đắng cay, tranh chấp, không vui… Men tiêu hoá được tiết ra từ tâm hồn chớ không chỉ từ cái bao tử là vậy.
Đỗ Hồng Ngọc (theo Giai phẩm xuân TGHN)
January 27, 2025
AI – KHÔNG THỂ THAY THẾ PHẨM CHẤT CON NGƯỜI
AI – KHÔNG THỂ THAY THẾ PHẨM CHẤT CON NGƯỜI
TS Lê Nguyên Phương
Trong khi trí tuệ nhân tạo (AI) đang ngày càng xâm nhập mọi khía cạnh cuộc sống của con em chúng ta thì những phẩm chất của con người trong việc nuôi dạy con cái là không thể thay thế và chưa bao giờ quan trọng hơn lúc này. Mặc dù AI mang lại sự tiện lợi, hiệu quả và khả năng thích ứng, nó vẫn thiếu đi chiều sâu cảm xúc, sự đồng cảm, và định hướng đạo đức chỉ có ở con người.
EARTH- Đồng cảm, Chân thật, Kiên cường, Khéo léo, Hài hước
Để giúp các bậc phụ huynh tập trung vào việc phát triển những phẩm chất mà công nghệ không thể tái tạo, đảm bảo mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái vẫn luôn bền vững và sâu sắc. Dựa vào những nghiên cứu cá nhân về việc dạy con trong bối cảnh AI, tôi muốn giới thiệu bạn đọc mô hình EARTHWISE, một khuôn khổ lý thuyết được thiết kế để giúp cha mẹ nhận biết và phát huy những giá trị độc đáo của mình, đảm bảo mối quan hệ cha mẹ-con cái luôn bền chặt trong thời đại công nghệ phát triển nhanh chóng.
Sự đồng cảm (Empathy). Đây là khả năng của cha mẹ trong việc thấu hiểu và chia sẻ cảm xúc của con cái, để từ đó xây dựng một mối quan hệ gắn kết sâu sắc và tạo cảm giác an toàn. Điều này bao gồm việc nhận biết và xác nhận cảm xúc của trẻ, giúp củng cố niềm tin và tạo ra một môi trường hỗ trợ, nơi trẻ cảm thấy được hiểu và trân trọng. Sự đồng cảm đóng vai trò trung tâm trong việc kết nối cảm xúc, đòi hỏi cha mẹ phải hiểu cảm xúc của con mình và đáp lại bằng sự quan tâm chân thành. Khả năng của AI trong lĩnh vực này đạt khoảng 40%, khi AI có thể nhận diện và phản hồi hỗ trợ dựa trên dữ liệu, nhưng không thể tái tạo sự chân thành hay những trải nghiệm cảm xúc được chia sẻ, vốn là cốt lõi của sự đồng cảm thực sự trong việc nuôi dạy con cái.
Tính chân thật (Authenticity), thể hiện sự chân thành và thật tâm trong mọi tương tác, giúp trẻ cảm thấy tin tưởng và an toàn khi thể hiện bản thân. Trong vai trò làm cha mẹ, tính chân thật đòi hỏi sự trung thực, liêm chính và nhất quán giữa lời nói và hành động, từ đó tạo ra một môi trường mà trẻ được tôn trọng và trân trọng vì chính con người thật của mình. Mặc dù AI có thể giả lập sự chân thành thông qua các phản hồi được lập trình, bản chất của nó chỉ là hành vi “diễn xuất” dựa trên thuật toán, chứ không phải sự chân thành xuất phát từ ý chí và cảm xúc thực sự. Trẻ em nhận ra sự chân thật không chỉ qua lời nói mà còn qua hành động, giọng điệu và ngữ cảnh—những yếu tố mà AI không thể tái tạo đầy đủ. Khả năng của AI trong việc thay thế phẩm chất này được ước tính khoảng 20%, khi nó có thể trình bày sự thật nhưng không thể liên kết lời nói với giá trị hay ý định một cách chân thật.
Tính kiên cường (Resilience), khả năng của cha mẹ trong việc không ngừng vượt qua khó khăn và thích nghi với thách thức khi nuôi dạy con cái. Phẩm chất này giúp cha mẹ duy trì thái độ tích cực và chủ động, mang lại sự ổn định và hỗ trợ cần thiết cho con cái, ngay cả trong những thời điểm khó khăn. Điều này gắn liền với kinh nghiệm sống, sự tự phản tỉnh và khả năng điều chỉnh cảm xúc của con người. Khả năng của AI trong việc thay thế phẩm chất này chỉ đạt khoảng 30%, vì dù có thể xử lý và thích nghi với các thông tin mới, AI không thể mô hình hóa hay truyền cảm hứng cho sức mạnh cảm xúc và sự phát triển cá nhân trong những hoàn cảnh khó khăn.
Sự khéo léo (Tact), liên quan đến việc xử lý những tình huống nhạy cảm, giúp trẻ cảm thấy được tôn trọng và thấu hiểu, đồng thời hướng dẫn chúng vượt qua những cuộc trò chuyện hoặc trải nghiệm khó khăn. Phẩm chất này đòi hỏi sự nhạy bén, nhận thức cảm xúc, và khả năng phán đoán theo ngữ cảnh, đặc biệt trong các tình huống đòi hỏi sự tinh tế trong giao tiếp. Mặc dù AI có thể phân tích ngôn ngữ để tránh những phản hồi mang tính thiếu tế nhị, nó không thể hoàn toàn nắm bắt được sự phức tạp của các mối quan hệ con người hoặc đoán trước những sắc thái chưa được nói ra trong các tương tác giữa cá nhân. Khả năng của AI trong việc thay thế phẩm chất này ước tính đạt khoảng 50%, vì dù có thể xử lý ngôn ngữ một cách nhạy cảm ở mức độ nào đó, AI vẫn thiếu nhận thức văn hóa, cảm xúc và bối cảnh tình huống để thực sự thể hiện sự khéo léo một cách trọn vẹn.
Sự Hài hước (Humor). Đây là khả năng của cha mẹ mang lại niềm vui và sự nhẹ nhàng trong hành trình nuôi dạy con cái, giúp xoa dịu căng thẳng, tạo nên những kỷ niệm vui vẻ và xây dựng bầu không khí gia đình tích cực. Trong những khoảnh khắc cười đùa cùng con, cha mẹ không chỉ củng cố mối quan hệ gắn bó mà còn làm cho những tình huống khó khăn trở nên dễ dàng hơn và dạy con cách nhìn cuộc sống một cách lạc quan hơn. Sự hài hước là một phẩm chất tinh tế, đòi hỏi sự đúng lúc, hiểu biết văn hóa, và khả năng cảm nhận, phản hồi các dấu hiệu ngữ cảnh phức tạp. Khả năng của AI trong việc thay thế phẩm chất này chỉ khoảng 25%, khi nó có thể tạo ra các câu nói hài hước cơ bản và phản ứng với các ngữ cảnh hài hước, nhưng thiếu đi chiều sâu và sự tự nhiên cần thiết để thể hiện sự hài hước mang ý nghĩa thực sự.
WISE: Trí tuệ, Trực giác, Thiêng liêng, Đạo đức
Nếu năm điều nói trên nhấn mạnh nhiều đến khía cạnh tương tác thì các điều sau quan tâm hơn đến phẩm chất nội tại của cha mẹ trong việc dạy con.
Trí tuệ (Wisdom). Đây là phẩm chất của cha mẹ trong việc cung cấp những lời khuyên sâu sắc và thấu đáo, dựa trên kinh nghiệm sống và đạo đức. Phẩm chất này giúp trẻ định hướng trong sự phức tạp của cuộc sống, xây dựng nền tảng đạo đức vững chắc và nuôi dưỡng ý thức về mục đích sống. Trí tuệ được hình thành từ kinh nghiệm cá nhân, khả năng nhận thức đạo đức, và sự hiểu biết sâu sắc về các thách thức của cuộc sống. Mặc dù AI có thể cung cấp thông tin chính xác và phân tích logic, nó thiếu đi kinh nghiệm sống và chiều sâu đạo đức cần thiết để truyền tải trí tuệ một cách ý nghĩa. Khả năng của AI trong việc thay thế phẩm chất này được ước tính khoảng 35%, khi nó vượt trội trong việc cung cấp thông tin nhưng không thể tổng hợp thành trí tuệ dựa trên trải nghiệm cá nhân hoặc nhận thức đạo đức.
Trực giác (Intuition) là khả năng gần như bẩm sinh của cha mẹ trong việc cảm nhận và đáp ứng nhu cầu cũng như cảm xúc của con cái mà không cần đến lý luận có ý thức. Sự hiểu biết sâu sắc và mang tính bản năng này giúp cha mẹ xây dựng một mối quan hệ nuôi dưỡng và đáp ứng, đảm bảo rằng con cái cảm thấy được lắng nghe, thấu hiểu và hỗ trợ, ngay cả khi chúng không thể diễn đạt cảm xúc của mình thành lời. Trực giác đòi hỏi sự nhạy bén sâu sắc với nhu cầu và cảm xúc của người khác, thường vượt xa những gì được truyền đạt rõ ràng. AI chỉ dựa vào dữ liệu đầu vào rõ ràng và mô hình xác suất để đưa ra dự đoán và suy luận vì vậy khả năng của AI trong việc thay thế phẩm chất này ước tính khoảng 30%, nó có thể dự đoán và suy luận nhu cầu dựa trên các mẫu hình, nhưng lại thiếu khía cạnh cảm xúc và tiềm thức vốn là cốt lõi của trực giác con người.
Sự thiêng liêng (Sacre) là phẩm chất tiếp theo. Nó bao gồm sự tôn kính cha mẹ và là mối quan hệ độc nhất và không thể thay thế giữa cha mẹ với con cái mình, nuôi dưỡng tình yêu, sự tin tưởng và mối gắn kết bền vững suốt đời. Phẩm chất này xuất phát từ ý thức nhân văn, chiều sâu tinh thần và khả năng cảm nhận sự kỳ diệu trong mối quan hệ gia đình. Sự tôn kính và trân trọng vốn có trong khái niệm này gắn chặt với nhận thức, tâm linh và khả năng cảm xúc của con người, điều mà AI—chỉ là một công cụ—không thể sở hữu hay tái tạo. Khả năng của AI trong việc thay thế phẩm chất này chỉ đạt khoảng 10%, do nó không thể chạm tới các chiều sâu tinh thần và nhân văn vốn là cốt lõi của sự thiêng liêng trong mối quan hệ cha mẹ – con cái.
Đạo đức [Ethic]. Phẩm chất này không chỉ đơn thuần là những bài học được giảng dạy mà còn được thể hiện qua chính lối sống, cách hành xử và quyết định của cha mẹ trong cuộc sống hằng ngày. Khi cha mẹ sống với đạo đức rõ ràng và kiên định, họ không chỉ truyền cảm hứng cho con cái mà còn tạo ra niềm tự hào và lòng kính trọng ở con khi chúng trưởng thành. Sự hiện diện của phẩm chất này giúp xây dựng nền tảng giá trị bền vững trong gia đình, nuôi dưỡng lòng tin và định hướng cho con cái một cách tự nhiên. Khả năng của AI trong việc thay thế phẩm chất đạo đức của cha mẹ chỉ đạt khoảng 20%, bởi AI có thể giải thích nguyên tắc nhưng không thể hiện được chiều sâu nhân văn và sự dẫn dắt đạo đức thông qua chính cuộc đời và hành động thực tế như cha mẹ có thể làm.
Ngoài ra những chữ đầu trong bộ năng lực và phẩm chất giáo dục con cái này tạo thành chữ EARTHWISE- cũng có nghĩa là trí tuệ của trái đất, chúng ta học để trở nên có năng lực trí tuệ và chung sống hòa hợp mà cùng tiến hóa với hệ thống sinh thái trên hành tinh này.
Hãy nhớ rằng, trong mỗi nụ cười ấm áp, mỗi cái ôm dịu dàng, và mỗi lời động viên chân thành của cha mẹ đều chứa đựng một sức mạnh kỳ diệu không gì có thể thay thế. Đó là sức mạnh của tình yêu thương vô điều kiện, của sự gắn kết sâu sắc, và của niềm tin vào tương lai tươi sáng mà chúng ta đang cùng nhau xây dựng cho thế hệ mai sau.
Khi áp dụng mô hình EARTHWISE, các bậc cha mẹ không chỉ đang khẳng định vai trò độc đáo của mình trong thời đại số, mà còn đang góp phần kiến tạo một thế hệ trẻ vừa thông thạo công nghệ, vừa giàu năng lực cảm xúc và đạo đức. Đó chính là món quà quý giá nhất mà chúng ta có thể trao tặng cho con em mình – một nền tảng vững chắc để các em tự tin bước vào tương lai, với trái tim nhân ái và tâm hồn phong phú.
( Theo THẾ GIỚI HỘI NHẬP, Giai phẩm Xuân 2025)
January 26, 2025
Thư gởi bạn xa xôi: Thư quán HƯƠNG TÍCH
Thư gởi bạn xa xôi: Thư quán HƯƠNG TÍCH
Đã lâu không ghé thăm Hương Tích, Thư quán của Thầy Tuệ Sỹ, nay do Thầy Hạnh Viên, Trưởng tử của Thầy Tuệ Sỹ chăm sóc. Rất nhiều hình ảnh, dấu tích của Thầy Tuệ Sỹ còn đó.
Tình cờ mà gặp Tâm Nhiên. Râu tóc xum xuê.
Gởi bạn vài hình ảnh thôi nhe.

Tâm Nhiên, Đỗ Hồng Ngọc, Thầy Hạnh Viên.
Thư Quán Hương Tích, 16.01.2025

Đỗ Hồng Ngọc và Tâm Nhiên.

Gởi tặng Thầy Hạnh Viên cuốn Ngôn Ngữ đặc biệt (ĐN/ĐHN), có bài viết về Thơ Tuệ Sỹ “Chén trà lão Triệu mà chưng hoa ngàn”…

Một bức thư pháp của Thầy Tuệ Sỹ. Chịu, không đọc nổi! Thầy Hạnh Viên bảo đó là một câu thơ của Lý Hạ, đời Đường: Thiên nhược hữu tình thiên diệc lão.
Trời mà có tình thì trời cũng già thôi!
Bạn thấy không? Đừng kêu tại sao mình già… khú đế nhe!
Nhớ Chu Mạnh Trinh không? Ta cũng nói tình thương người đồng điệu!
Cho nên ta… già và già nhanh là phải rồi!
Thân mến,
ĐHN
January 24, 2025
Thư gởi bạn xa xôi: TUỔI TÔI
Thư gởi bạn xa xôi,
Nghe Phạm Cao Hoàng ngưng Trang Văn học nghệ thuật Phạm Cao Hoàng rất đẹp, rất dễ thương của anh, tôi không khỏi bần thần như bạn bè mình khắp chốn… Nhớ năm kia, PCH kêu bạn bè mỗi người góp một bài thơ “Lục Bát Giao Thừa” mừng Năm Mới cho vui, không ngờ mà bạn bè xúm xít rất đông trên Trang nhà PCH này. Nay tự dưng nghe ngưng, không buồn sao được!
Vậy nên, xin chép lại bài Lục bát TUỔI TÔI đã gởi cho PCH lần đó…
TUỔI TÔI
tặng phạm cao hoàng
Nủa đêm thức giấc giao thừa
Đì đùng pháo nổ chẳng ngờ ù tai
Sớm ra mùng một mùng hai
Áo quần tươm tất lai rai quanh nhà
Nêu cao khập khểnh ta-bà
Ngó quanh ngó quất ta lì xì ta
Mới hay ngày tháng phôi pha
Mỗi đêm là mỗi giao thừa
… thiệt vui!
đỗ hồng ngọc
(đỗ nghê)
January 16, 2025
Bản dịch tiếng Đức “Một Ngày Kia… Đến Bờ”
Bản dịch tiếng Đức “Một Ngày Kia… Đến Bờ” của Văn Công Tuấn và Prof. Beuchling, được trích đăng nhiều kỳ trên báo Viên Giác của Hòa Thượng Thích Như Điển, Hannover, Đức Quốc.
window.option_df_19755 = {"outline":[],"autoEnableOutline":"false","autoEnableThumbnail":"false","overwritePDFOutline":"false","direction":"1","pageSize":"0","source":"https:\/\/www.dohongngoc.com\/web\/storage\/202... if(window.DFLIP && window.DFLIP.parseBooks){window.DFLIP.parseBooks();}January 5, 2025
Nghĩ Từ Trái Tim *Đỗ Hồng NgọcTrái tim không phải để suy...
Nghĩ Từ Trái Tim *Đỗ Hồng Ngọc

Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc. Trái tim có cách nghĩ riêng của mình mà nhiều khi khối óc không sao hiểu được. Thời đại của chúng ta, con người dùng khối óc nhiều quá, nhiều đến nỗi người ta luôn ở trong tình trạng muốn “điên cái đầu”. Và thực vậy, bệnh tâm thần ngày càng phát triển, tự tử, ma túy, stress… ngày càng gia tăng trong một xã hội mà người ta luôn bị quay cuồng, luôn phải chạy đua với tốc độ, tuổi trẻ, nhan sắc, thành đạt…
Có lẽ đã đến lúc thử nghe tiếng nói của trái tim. Một hôm, có chàng thi sĩ đi ngang qua vườn rào kia, giật mình thấy một bông bụp đỏ ở bờ giậu, cái bông bụp rất tầm thường như hàng ngày chàng vẫn thấy khi qua lại chốn này, bỗng nhiên như nở một nụ cười mầu nhiệm, rồi không chỉ cười, nó hát, và chàng thi sĩ chỉ còn biết sụp lạy, cúi đầu (1). Vâng, chàng đã nghe. Nghe không phải từ bông hoa kia mà từ trong trái tim mình. Và chàng sửng sốt. Mọi thứ như khác hẳn. Đã thoát ra, đã vượt ra, vượt qua… Người ta có thể nghĩ chàng thi sĩ chắc điên, có điều chàng biết rất rõ chàng đã nghe, đã thấy một điều kỳ lạ. Một thứ mật ngữ. Như anh chàng chèo đò của Hermann Hesse, ngày ngày vẫn chèo đò đưa người qua sông, cho đến một hôm bỗng nghe được tiếng nói của dòng sông và từ đó chàng đã tự đưa mình qua sông, và đã vượt ra, vượt qua.
Chúng ta bây giờ hình như có quá ít thì giờ để nghe tiếng nói của trái tim mình, dù chỉ cần nhấp con chuột trên vi tính thì đã nối trọn vòng trái đất, vậy mà người ta có vẻ ngày càng xa nhau hơn, xa với người và xa cả với mình. Một thi sĩ đã phải kêu lên: “…Không có thì giờ! Chim lấy đâu mà về tổ. Tôi lấy đâu mà làm thơ. Em lấy đâu mà đọc những ai thơ tôi sắp viết?…” (2). Tôi cũng không có thì giờ. Quần quật. Tối tăm mặt mũi vì “trăm công ngàn việc”. Cho đến một hôm, hình như, có lẽ, một lần kia có một lúc hình như tôi cũng chợt nghe. Hình như thôi không chắc không dám. Ngẫm nghĩ ròi viết ra cho khói quên, đế lâu lâu còn coi lại một mình. Ba năm nghiền ngẫm, sáu tháng viết và hơn hai năm ngại ngần, thỉnh thoảng đọc và sửa, nhờ vài bạn thâm giao chỉ thêm cho, rồi tìm tòi, tham khảo, loay hoay…
Tôi không phải là thi sĩ, không phải là tu sĩ, tôi chỉ là một bác sĩ, một người thầy thuốc, nên đôi khi phải hành nghề, phải giúp đỡ bạn bè, hàng xóm, kẻ nhức đầu, người đau lưng… và trước hết là phải chữa bệnh cho chính mình. Có những lúc thuốc men chỉ chữa được cái đau mà không chưa được cái khổ, chữa được “triệu chứng” bên ngoài mà không chữa được “căn nguyên” sâu xa, tầng tầng, lớp lớp bên trong. Tôi đành chia sẻ những điều tôi nghĩ, tôi cảm, tôi nghe. Có thể đúng. Có thể sai. Có thể không đúng không sai. Có khi hiệu quả, có khi không. Có người hợp mà có người dị ứng. Vậy nên nếu tình cờ đọc được những dòng này thì xin hiểu cho mà đừng trách. Nếu muốn, có thể tủm tỉm cười một mình. Cũng chẳng khoái ru?
* Lời Ngỏ của sách “Nghĩ Từ Trái Tim” ấn hành năm 2003.
(1) Quách Thoại (2) Nguyên Sa
…. o ….Thinking From The Heart *By Đỗ Hồng NgọcTranslated by Nguyên Giác
tranh Nguyên GiácThe heart is not meant for thinking; it is meant for loving. When the heart engages in thought, it does not do so in the same manner as the brain. The heart possesses its own unique way of processing emotions that the brain sometimes struggles to comprehend. In today’s world, people rely excessively on their intellect, to the point where they often feel overwhelmed and on the verge of losing their sanity. Consequently, mental health issues, including rising rates of suicide, substance abuse, and stress, are becoming increasingly prevalent in a society where individuals are constantly racing against the demands of speed, youth, beauty, and success.
Perhaps it is time to listen to the voice of the heart. A poet saw a red hibiscus flower blooming on a garden fence one day, which startled him. It was an ordinary hibiscus, like the ones he encountered daily, yet it suddenly radiated a mysterious smile. Not only did it smile, but it also sang, leaving the poet in awe, compelled to bow his head in reverence. Yes, he heard it—not from the flower, but from deep within his heart. He was astonished; everything seemed transformed. He had escaped, transcended, and gone beyond. While others might think the poet was mad, he understood that he had witnessed something extraordinary—a secret code. It was reminiscent of the ferryman from Hermann Hesse’s writings, who rowed his boat daily to ferry people across the river. One day, he heard the voice of the river, and, from that moment on, he took himself across, transcending the ordinary.
We now seem to have too little time to listen to the voice of our hearts. Although clicking a mouse can connect us to the entire world, people appear to be increasingly distant from one another and from themselves. A poet once exclaimed, “No time! Where do birds return to their nests? Where do I find the opportunity to write poems? Where do you learn the poems I am about to compose?” I, too, feel pressed for time. The weight of “a thousand things to do” has left me exhausted. Yet, one day, it seems—perhaps once in a while—I suddenly hear it. I am uncertain; I am not willing to believe it. I contemplate it until I forget, only to look back at it in solitude. Three years of reflection, six months of writing, and more than two years of hesitation have passed, during which I occasionally read and edit, seek advice from a few close friends, and engage in a process of searching, consulting, and struggling.
I am not a poet or a monk; I am simply a doctor and a healer. My duty is to practice medicine, to assist friends, neighbors, and those suffering from headaches or back pain. Above all, I must first heal myself. There are times when medicine can alleviate pain but not eliminate suffering, or it can address external symptoms but fail to reach the deep-rooted issues buried beneath many layers within the mind.
I need to express my thoughts, feelings, and perceptions. They may be correct, incorrect, or perhaps neither. At times, my insights resonate, while at other times, they do not. Some individuals share my perspective and are not averse to it. Therefore, if you happen to read these words, please try to understand and refrain from judging me. If you wish, you can smile to yourself. Isn’t that delightful?
* Preface to the book “Thinking from the Heart“, published in 2003.
December 31, 2024
Trần Thiện Hiệp: NHỮNG DẤU MỰC CŨ
Trần Thiện Hiệp: NHỮNG DẤU MỰC CŨ
Ghi chú: Nhà thơ Trần Thiện Hiệp, năm nay vừa tròn 90 tuổi, mới bay về Phan Thiết “ăn Tết” sáng nay 1.1.2025 vừa gởi đến tôi và nhóm bạn “Cựu học sinh lão thành” Trường Phan Bội Châu Phan Thiết… một bức thư cảm động…
Trần Thiện Hiệp, Nguyễn Đình Tư (nhà thơ Từ Thế Mộng) vào Trường ngay lúc mới thành lập, năm 1952, còn bọn tôi Phan Bá Thụy Dương, Đỗ Hồng Ngọc, Huỳnh Tấn Thời, Phan Đổng Lý, Trần Vấn Lệ… vài năm sau (1954) giờ đều đã U90…
Người góc biển kẻ chân trời…
ĐHN.
Thư Trần Thiện Hiệp
Các bạn tôi ơi! Đầu năm mới chúng ta cùng đọc lại những đoạn chữ nghĩa từ tâm tư các bạn được PBTD lưu lại trong Văn Hữu Vườn Tao Ngộ, để cùng nhớ về nhau trong NĂM MỚI 2025 ẤT TỴ này. Đã mấy năm rồi PBTD ẩn tu nơi nào mà tôi tìm kiếm, thăm hỏi khắp nơi không được tin tức gì! Chỉ còn biết âm thầm nhớ mong và cầu chúc ông ấy an yên hạnh phúc trong cõi “ẨN TU” nơi nào đó ! Trần Thiện Hiệp xin thân mến chúc các bạn cùng gia đình trọn năm mới luôn yên vui hạnh phúc trên đường nghĩ hưu dưỡng lão. tth*Phanthiet, 1/1/2025.ĐỖ HỒNG NGỌC * cựu học sinh lão thành Phan Bội Châu – Phan Thiết [image error] từ phải : trầnthiệnhiệp, huỳnhtấnthời, phanbáthụydương, đỗhồngngọcBuổi gặp gỡ của cựu học sinh “lão thành” PBCTrường Trung học Phan Bội Châu Phan Thiết được thành lập vào năm 1952, đến nay (2012) vừa tròn 60 năm. Nghe nói đến tháng 11 này, trường sẽ có một “đại lễ” kỷ niệm 60 năm, cũng là dịp thầy trò nhiều thế hệ gặp nhau ở thành Phan.
Không hẹn mà hôm 30/6/2012, tình cờ một nhóm bạn cựu học sinh “lão thành” PBC lại gặp nhau ở buổi khai mạc phòng Triển lãm tranh của một người bạn chung: Họa sĩ Cù Nguyễn, huy chương vàng 1966. Sau đó, kéo nhau ra một quán café bờ hồ, ngồi nhâm nhi biết bao chuyện cũ!
Có những người gần 60 năm mới gặp lại nhau, nhìn không nhớ. Nhưng chỉ ngớ một thoáng thôi rồi òa vỡ những trận cười, mày mày tao tao tíu tít. Họ nói cười không ngớt. Nhắc bạn bè xưa, nam lẫn nữ, kẻ chân trời người góc bể, như cùng có mặt nơi đây. Nhắc cả những con đường “mang tên em”, cả số nhà, cả tên cha mẹ con người ta! Rồi cười ha hả. Như trẻ thơ. Một lúc thôi, phải một lúc thôi thì người nào người nấy cũng trẻ lại không ngờ. Như không hề có thời gian, không hề có 60 năm xa cách. Họ nói xấu nói tốt về nhau, hào hứng kể những chuyện xấu của chính mình, của bạn mình không… thương tiếc! Và lạ thay, càng nghe lại càng thương mến nhau hơn, không chỉ của những người có mặt mà cả những người vắng mặt. Thằng kia bây giờ nát rượu, thằng nọ … bị vợ bỏ, thằng này hồi xưa mê em gái tao không dám nói ra, thằng đó hào hoa số một, chuyên quất ngựa truy phong, thằng nọ chọc thầy giáo, làm thầy trượt vỏ chuối té nhào… Ôi bao nhiêu thứ chuyện của lũ học trò nhất quỷ nhì ma!
[image error]Thường thì coi hình từ bên trái qua, nhưng với hình này, nên bắt đầu từ bên phải: Trần Thiện Hiệp, Huỳnh Tấn Thời, Đỗ Hồng Ngọc, Phan Bá Thụy Dương, Hồ Hữu Thủ, Trần Yên Thảo. (Càphê Đông Hồ, Saigon, 2012)
Nhà thơ Trần Thiện Hiệp (anh của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh), không thể ngờ đã 78 tuổi (Ta), trẻ lạ lùng, trông cứ như một cao-bồi Texas. Nhưng, thật ra, anh phải luôn đội chiếc nón để giấu cái đầu bóng loáng của mình. Anh là thế hệ vào Phan Bội Châu đầu tiên, ngay khi mới thành lập, 1952, cùng thời với nhà thơ Từ Thế Mộng (Tư Đình), lúc đó PBC còn ăn nhờ ở đậu bên trường Tiểu học Đức Thắng B. (Đến năm 1954, bọn tôi đã được học ở Trường PBC trên đường Trần Hưng Đạo. Sau này, trường mới dời về cơ sở hiện tại ở 70 Lê Hồng Phong PT).
Trần Thiện Hiệp là lứa đàn anh của chúng tôi, lúc vào trường (Đệ thất, lớp 6) đã ở tuổi 17. Thời đó, thời chiến tranh, đa số đi học trễ. Trần Vấn Lệ kể anh Trần Thiện Hiệp là một trong hai học sinh lớn tuổi được trường cử ra để “quản giáo” đám đàn em tụi mình!Huỳnh Tấn Thời, luật sư, trẻ nhất, mới 71 tuổi, cùng lớp với Phan Bá Đương (Phan Bá Thuỵ Dương), Đỗ Hồng Ngọc vào PBC năm 1954. HTThời chính là người nghịch ngợm, từng chọc phá thầy giáo, cũng là người mê cô em gái xinh đẹp của PBTD mà không dám nói ra, bây giờ còn tiếc! Kế đó là tôi, Đỗ Hồng Ngọc, chỉ học PBC có mấy tháng rồi chuyển về Hàm Tân (Bình Tuy), vì không xin phép nên bị “xóa sổ” trong quyển Trước Sách của nhà trường, bên cạnh có lời phê của thầy Hiệu trưởng: “học khá, nhưng cần phải cố gắng hơn”!Phan Bá Thụy Dương, nhà thơ, nhà báo, người “khoái hoạt” nhất trong nhóm, cùng tuổi 73, đẹp trai, phong độ, hào hoa, chuyện trên trời dưới đất, đông tây kim cổ gì cũng biết… Kế bên là họa sĩ Hồ Hữu Thủ – không phải cựu học sinh PBC – là bạn của Trần Yên Thảo và Đỗ Hồng Ngọc. Bìa trái là Trần Yên Thảo, nhà văn, cùng tuổi 73, nhưng để râu tóc như một tiên ông, cũng là cựu học sinh PBC, nhưng vào trễ hơn!Cả bọn nhắc Phan Đổng Lý ở Úc, Trần Vấn Lệ ở Mỹ, Thiếu Khanh… và bao nhiêu bạn bè khác ở chân trời góc biển, ai nấy đều ở tuổi trẻ lạ lùng, trẻ vĩnh viễn, rồi cả những người mà Trần Vấn Lệ đã thổn thức làm thơ, mà Đổng Lý đã bùi ngùi nhắc đến trong một bức thư riêng rất dễ thương dưới đây.DoHongNgoc Thơ Trần Vấn Lệ PBC 1954 – 1958Hồi năm học Đệ Thất, tôi với nàng ngồi kề mà không hề ngó mặt, có gì đâu mà mê!Cuối năm học Đệ Tứ, hai đứa rớt Diplôme, bỏ trường đi biệt xứ, người đồng bằng, cao nguyên…
…Nhưng hình như có duyên, mười năm sau gặp lại, lúc đó tôi lính rừng, nàng công chức tỉnh lẻ.
Chia tay có giọt lệ. Súng nổ đuổi hai người. Tôi tàn đời bóng xế. Nàng mờ ảo mây trôi…
Năm hai ngàn mười một, bỗng, hốt nhiên, mây ngừng. Em! Phải là em không? Anh! Anh là anh Lệ?
Vui mừng bao xiết kể…rồi cũng buồn chất thêm. Chừ, chữ Nàng thành Em, ngó mặt nhau…rồi hết!
Ngó mặt em, em đẹp. Bốn mươi bốn năm trời, không ai nói một lời, nói gì đây cũng lỡ…
Còn nhau nhờ địa chỉ, còn nhau còn số phone và e mail không ồn mà buồn ơi với tiếc!
Hai đồng tiền em siết một đời tôi nhớ thương. Chưa một lần tôi hôn trên hai đồng tiền đó!
“Sáng nay trời nổi gió, mùa Thu đầy trong hồn, xa rồi xa bến cũ, dòng sông trôi thê lương…”
Mấy câu thơ Thế Viên vô duyên bay lãng đãng. Mùa Thu đang loáng thoáng, em à gió heo may…Thư của Phan Đổng Lý – 1.7.2012Các bạn thân,Trời Melbourne năm nay thật lạnh nên mình đã để cho bà xã ra đi tìm nơi nắng ấm trú thân dăm ba tuần lễ. Một mình đơn chiếc, sáng nay thức dậy nhìn quanh một mình, chán quá nên mở mail tìm giặc. Thật trời chẳng phụ lòng người, trong ‘vườn cà của tên giặc’ Trần vấn Lệ còn bỏ sót lại một đóa hoa trinh nữ có hai má lúm đồng tiền..!!Lệ ơi,Trước tiên mình muốn nói với TVL là đọc xong bài thơ đầu tiên trong ngày này của bạn đã mang lại cho mình một cảm giác thật man mác, thật nhẹ nhàng nhưng nó lại có hiệu suất của một quả đấm, đánh thật mạnh, thật sâu vào hồi ức của tuổi thơ.Tuy vậy, mặc dầu đã cố gắng hết sức nhưng rồi mình cũng đành chịu thua, không thể hình dung ra được dù chỉ một vài nét thôi. Có lẽ vào lứa tuổi đó bọn mình mấy đứa hoang hủy như PBDương, TTQuý, TTTrung, NQTrinh vẫn còn mãi mê nghịch ngợm và còn mãi lo đối đầu với những tai họa không phải do trời giáng xuống mà do thầy Hiệu trưởng Lê Tá và các vị lão sư ban cho nên cũng không còn có tâm trạng nào để thưởng thức đến nơi đến chốn những đóa hoa tươi mát cận kề. Vã lại, với lứa tuổi của bọn mình vào thời đại đó mà có thích đóa hoa nào vì ‘tâm bất chính’ đi nữa thì cũng chỉ dám để trong bụng và liếc mắt nhìn ra vẻ ngây thơ, vô tội mà thôi. Như trường hợp mình chẳng hạn, thù cha mà không giận lây đến con. Thấy thầy Lê Tá là mình ngoảnh mặt làm ngơ nhưng chợt thấy bóng dáng con gái của Thầy là LTX, học dưới bọn mình một lớp, là mình ngoảnh mặt nhìn theo. Cho đến bây giờ mình vẫn còn nhớ thật rõ vóc dáng, màu da và từng đường nét trên khuôn mặt của cô bé này. Đây là mình chỉ nói đến ‘hoang nghịch’ thôi, còn những phần tử ‘hoang ngầm’ như TVL thì lại khác! Đừng nói là vào thời điểm đó, ngay như sau này lên đệ nhị cấp, không biết các bạn khác thì sao chứ Đổng-Lý vẫn giữ nguyên cái lề thói đó. “NTHB” có thể là một chứng nhân hùng hồn cho những gì ĐL nói. Ngồi nghĩ lại, chỉ có một tay độc nhất vô nhị là cố hữu TrTT. Mới hết năm đệ ngũ là đã mang theo người tình cao bay xa chạy. Nếu mình nhớ không lầm thì dường như đó là ái nữ của tiệm may N.G trên đường phố Gia Long thì phải.Sau này gặp lại bạn xưa mình thật bất ngờ khi biết được PBTD đã trở thành một nhà thơ được nhiều người biết đến. Người ta nói những người theo nghiệp thi văn, cầm ca … hầu hết đều là những người có tâm hồn lãng mạn. Mà nói đến lãng mạn là nói đến lang bang, thủy chung bất nhất. TVL thì khỏi phải nói. Riêng PBTD thì mình không biết đã đổi từ hoang nghịch sang hoang ngầm từ lúc nào. Chỉ biết là những tháng ngày bên Cali với hắn thì đa số những người hắn liên lạc thường xuyên qua phone, email, hẹn hò gặp mặt đa số là phái nữ. Chỉ nghe hắn giới thiệu nếu không là ‘đại muội’ thì cũng là ‘tiểu muội’, còn thực chất thế nào cho đến bây giờ mình vẫn còn chưa nắm vững. Chỉ thỉnh thoảng nghe hắn ngâm nga ” Cõi trần thế lỡ đam mê sa đọa… Đường thâm cung ta lạc lối quay về..”. Cũng có đôi khi hắn nhìn khói thuốc rồi ra vẻ mơ màng, chắt lưỡi tiếc nuối…Thấy bạn hoang đàng như vậy minh đã không giận mà còn thương. Có lẽ đúng như Huỳnh Tấn Thời đã nhận định “PBTD chỉ theo ngó thôi..!”Viết tào lao đến đây là đủ rồi, mong mỗi ngày đọc được một bài thơ dễ thương. Chúc tất cả các bạn vui khoẻ. Riêng HTThời, ĐHNgọc, PBDương có nhiều thời gian để tìm vui bên nhau. Còn TVL thì chịu khó ra đường chứ đừng có ngồi nhà một mình trầm ngâm tìm hứng để làm thơ mà tổn hại đến sức khoẻ.Tình xa.
Đổng-Lý.
Ghi chú: Nhà thơ Trần Thiện Hiệp, năm nay vừa tròn 90 tu...
Ghi chú: Nhà thơ Trần Thiện Hiệp, năm nay vừa tròn 90 tuổi, mới bay về Phan Thiết “ăn Tết” sáng nay 1.1.2025 vừa gởi đến tôi và nhóm bạn “Cựu học sinh lão thành” Trường Phan Bội Châu Phan Thiết… một bức thư cảm động…
Trần Thiện Hiệp, Nguyễn Đình Tư (nhà thơ Từ Thế Mộng) vào Trường ngay lúc mới thành lập, năm 1952, còn bọn tôi Phan Bá Thụy Dương, Đỗ Hồng Ngọc, Huỳnh Tấn Thời, Phan Đổng Lý, Trần Vấn Lệ… vài năm sau (1954) giờ đều đã U90…
Người góc biển kẻ chân trời…
ĐHN.
Thư Trần Thiện Hiệp
Các ban tôi ơi! Đầu năm mới chúng ta cùng đọc lại những đoạn chữ nghĩa từ tâm tư các bạn được PBTD lưu lại trong Văn Hữu Vườn Tao Ngộ, để cùng nhớ về nhau trong NĂM MỚI 2025 ẤT TỴ này. Đã mấy năm rồi PBTD ẩn tu nơi nào mà tôi tìm kiếm, thăm hỏi khắp nơi không được tin tức gì! Chỉ còn biết âm thầm nhớ mong và cầu chúc ông ấy an yên hạnh phúc trong cõi “ẨN TU” nơi nào đó ! Trần Thiện Hiệp xin thân mến chúc các bạn cùng gia đình trọn năm mới luôn yên vui hạnh phúc trên đường nghĩ hưu dưỡng lão. tth*Phanthiet, 1/1/2025.ĐỖ HỒNG NGỌC * cựu học sinh lão thành Phan Bội Châu – Phan Thiết [image error] từ phải : trầnthiệnhiệp, huỳnhtấnthời, phanbáthụydương, đỗhồngngọcBuổi gặp gỡ của cựu học sinh “lão thành” PBCTrường Trung học Phan Bội Châu Phan Thiết được thành lập vào năm 1952, đến nay (2012) vừa tròn 60 năm. Nghe nói đến tháng 11 này, trường sẽ có một “đại lễ” kỷ niệm 60 năm, cũng là dịp thầy trò nhiều thế hệ gặp nhau ở thành Phan.
Không hẹn mà hôm 30/6/2012, tình cờ một nhóm bạn cựu học sinh “lão thành” PBC lại gặp nhau ở buổi khai mạc phòng Triển lãm tranh của một người bạn chung: Họa sĩ Cù Nguyễn, huy chương vàng 1966. Sau đó, kéo nhau ra một quán café bờ hồ, ngồi nhâm nhi biết bao chuyện cũ!
Có những người gần 60 năm mới gặp lại nhau, nhìn không nhớ. Nhưng chỉ ngớ một thoáng thôi rồi òa vỡ những trận cười, mày mày tao tao tíu tít. Họ nói cười không ngớt. Nhắc bạn bè xưa, nam lẫn nữ, kẻ chân trời người góc bể, như cùng có mặt nơi đây. Nhắc cả những con đường “mang tên em”, cả số nhà, cả tên cha mẹ con người ta! Rồi cười ha hả. Như trẻ thơ. Một lúc thôi, phải một lúc thôi thì người nào người nấy cũng trẻ lại không ngờ. Như không hề có thời gian, không hề có 60 năm xa cách. Họ nói xấu nói tốt về nhau, hào hứng kể những chuyện xấu của chính mình, của bạn mình không… thương tiếc! Và lạ thay, càng nghe lại càng thương mến nhau hơn, không chỉ của những người có mặt mà cả những người vắng mặt. Thằng kia bây giờ nát rượu, thằng nọ … bị vợ bỏ, thằng này hồi xưa mê em gái tao không dám nói ra, thằng đó hào hoa số một, chuyên quất ngựa truy phong, thằng nọ chọc thầy giáo, làm thầy trượt vỏ chuối té nhào… Ôi bao nhiêu thứ chuyện của lũ học trò nhất quỷ nhì ma!
[image error]Thường thì coi hình từ bên trái qua, nhưng với hình này, nên bắt đầu từ bên phải: Trần Thanh Hiệp, Huỳnh Tấn Thời, Đỗ Hồng Ngọc, Phan Bá Thụy Dương, Hồ Hữu Thủ, Trần Yên Thảo. (Càphê Đông Hồ, Saigon, 2012)
Nhà thơ Trần Thiện Hiệp (anh của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh), không thể ngờ đã 78 tuổi (Ta), trẻ lạ lùng, trông cứ như một cao-bồi Texas. Nhưng, thật ra, anh phải luôn đội chiếc nón để giấu cái đầu bóng loáng của mình. Anh là thế hệ vào Phan Bội Châu đầu tiên, ngay khi mới thành lập, 1952, cùng thời với nhà thơ Từ Thế Mộng (Tư Đình), lúc đó PBC còn ăn nhờ ở đậu bên trường Tiểu học Đức Thắng B. (Đến năm 1954, bọn tôi đã được học ở Trường PBC trên đường Trần Hưng Đạo. Sau này, trường mới dời về cơ sở hiện tại ở 70 Lê Hồng Phong PT).
Trần Thiện Hiệp là lứa đàn anh của chúng tôi, lúc vào trường (Đệ thất, lớp 6) đã ở tuổi 17. Thời đó, thời chiến tranh, đa số đi học trễ. Trần Vấn Lệ kể anh Trần Thiện Hiệp là một trong hai học sinh lớn tuổi được trường cử ra để “quản giáo” đám đàn em tụi mình!Huỳnh Tấn Thời, luật sư, trẻ nhất, mới 71 tuổi, cùng lớp với Phan Bá Đương (PBTD), Đỗ Hồng Ngọc vào PBC năm 1954. HTThời chính là người nghịch ngợm, từng chọc phá thầy giáo, cũng là người mê cô em gái xinh đẹp của PBTD mà không dám nói ra, bây giờ còn tiếc! Kế đó là tôi, Đỗ Hồng Ngọc, chỉ học PBC có mấy tháng rồi chuyển về Hàm Tân (Bình Tuy), vì không xin phép nên bị “xóa sổ” trong quyển Trước Sách của nhà trường, bên cạnh có lời phê của thầy Hiệu trưởng: “học khá, nhưng cần phải cố gắng hơn”!Phan Bá Thụy Dương, nhà thơ, nhà báo, người “khoái hoạt” nhất trong nhóm, cùng tuổi 73, đẹp trai, phong độ, hào hoa, chuyện trên trời dưới đất, đông tây kim cổ gì cũng biết… Kế bên là họa sĩ Hồ Hữu Thủ, không phải cựu học sinh PBC, là bạn của TYThảo và ĐHNgọc. Bìa trái là Trần Yên Thảo, nhà văn, cùng tuổi 73, nhưng để râu tóc như một tiên ông, cũng là cựu học sinh PBC, nhưng vào trễ hơn!Cả bọn nhắc Phan Đổng Lý ở Úc, Trần Vấn Lệ ở Mỹ, Thiếu Khanh… và bao nhiêu bạn bè khác ở chân trời góc biển, ai nấy đều ở tuổi trẻ lạ lùng, trẻ vĩnh viễn, rồi cả những người mà TVL đã thổn thức làm thơ, mà Đổng Lý đã bùi ngùi nhắc đến trong một bức thư riêng rất dễ thương dưới đây.DoHongNgoc Thơ Trần Vấn Lệ PBC 1954 – 1958Hồi năm học Đệ Thất, tôi với nàng ngồi kề mà không hề ngó mặt, có gì đâu mà mê!Cuối năm học Đệ Tứ, hai đứa rớt Diplôme, bỏ trường đi biệt xứ, người đồng bằng, cao nguyên…
…Nhưng hình như có duyên, mười năm sau gặp lại, lúc đó tôi lính rừng, nàng công chức tỉnh lẻ.
Chia tay có giọt lệ. Súng nổ đuổi hai người. Tôi tàn đời bóng xế. Nàng mờ ảo mây trôi…
Năm hai ngàn mười một, bỗng, hốt nhiên, mây ngừng. Em! Phải là em không? Anh! Anh là anh Lệ?
Vui mừng bao xiết kể…rồi cũng buồn chất thêm. Chừ, chữ Nàng thành Em, ngó mặt nhau…rồi hết!
Ngó mặt em, em đẹp. Bốn mươi bốn năm trời, không ai nói một lời, nói gì đây cũng lỡ…
Còn nhau nhờ địa chỉ, còn nhau còn số phone và e mail không ồn mà buồn ơi với tiếc!
Hai đồng tiền em siết một đời tôi nhớ thương. Chưa một lần tôi hôn trên hai đồng tiền đó!
“Sáng nay trời nổi gió, mùa Thu đầy trong hồn, xa rồi xa bến cũ, dòng sông trôi thê lương…”
Mấy câu thơ Thế Viên vô duyên bay lãng đãng. Mùa Thu đang loáng thoáng, em à gió heo may…Thư của Phan Đổng Lý – 1.7.2012Các bạn thân,Trời Melbourne năm nay thật lạnh nên mình đã để cho bà xã ra đi tìm nơi nắng ấm trú thân dăm ba tuần lễ. Một mình đơn chiếc, sáng nay thức dậy nhìn quanh một mình, chán quá nên mở mail tìm giặc. Thật trời chẳng phụ lòng người, trong ‘vườn cà của tên giặc’ Trần vấn Lệ còn bỏ sót lại một đóa hoa trinh nữ có hai má lúm đồng tiền..!!Lệ ơi,Trước tiên mình muốn nói với TVL là đọc xong bài thơ đầu tiên trong ngày này của bạn đã mang lại cho mình một cảm giác thật man mác, thật nhẹ nhàng nhưng nó lại có hiệu suất của một quả đấm, đánh thật mạnh, thật sâu vào hồi ức của tuổi thơ.Tuy vậy, mặc dầu đã cố gắng hết sức nhưng rồi mình cũng đành chịu thua, không thể hình dung ra được dù chỉ một vài nét thôi. Có lẽ vào lứa tuổi đó bọn mình mấy đứa hoang hủy như PBDương, TTQuý, TTTrung, NQTrinh vẫn còn mãi mê nghịch ngợm và còn mãi lo đối đầu với những tai họa không phải do trời giáng xuống mà do thầy Hiệu trưởng Lê Tá và các vị lão sư ban cho nên cũng không còn có tâm trạng nào để thưởng thức đến nơi đến chốn những đóa hoa tươi mát cận kề. Vã lại, với lứa tuổi của bọn mình vào thời đại đó mà có thích đóa hoa nào vì ‘tâm bất chính’ đi nữa thì cũng chỉ dám để trong bụng và liếc mắt nhìn ra vẻ ngây thơ, vô tội mà thôi. Như trường hợp mình chẳng hạn, thù cha mà không giận lây đến con. Thấy thầy Lê Tá là mình ngoảnh mặt làm ngơ nhưng chợt thấy bóng dáng con gái của Thầy là LTX, học dưới bọn mình một lớp, là mình ngoảnh mặt nhìn theo. Cho đến bây giờ mình vẫn còn nhớ thật rõ vóc dáng, màu da và từng đường nét trên khuôn mặt của cô bé này. Đây là mình chỉ nói đến ‘hoang nghịch’ thôi, còn những phần tử ‘hoang ngầm’ như TVL thì lại khác! Đừng nói là vào thời điểm đó, ngay như sau này lên đệ nhị cấp, không biết các bạn khác thì sao chứ Đổng-Lý vẫn giữ nguyên cái lề thói đó. “NTHB” có thể là một chứng nhân hùng hồn cho những gì ĐL nói. Ngồi nghĩ lại, chỉ có một tay độc nhất vô nhị là cố hữu TrTT. Mới hết năm đệ ngũ là đã mang theo người tình cao bay xa chạy. Nếu mình nhớ không lầm thì dường như đó là ái nữ của tiệm may N.G trên đường phố Gia Long thì phải.Sau này gặp lại bạn xưa mình thật bất ngờ khi biết được PBTD đã trở thành một nhà thơ được nhiều người biết đến. Người ta nói những người theo nghiệp thi văn, cầm ca … hầu hết đều là những người có tâm hồn lãng mạn. Mà nói đến lãng mạn là nói đến lang bang, thủy chung bất nhất. TVL thì khỏi phải nói. Riêng PBTD thì mình không biết đã đổi từ hoang nghịch sang hoang ngầm từ lúc nào. Chỉ biết là những tháng ngày bên Cali với hắn thì đa số những người hắn liên lạc thường xuyên qua phone, email, hẹn hò gặp mặt đa số là phái nữ. Chỉ nghe hắn giới thiệu nếu không là ‘đại muội’ thì cũng là ‘tiểu muội’, còn thực chất thế nào cho đến bây giờ mình vẫn còn chưa nắm vững. Chỉ thỉnh thoảng nghe hắn ngâm nga ” Cõi trần thế lỡ đam mê sa đọa… Đường thâm cung ta lạc lối quay về..”. Cũng có đôi khi hắn nhìn khói thuốc rồi ra vẻ mơ màng, chắt lưỡi tiếc nuối…Thấy bạn hoang đàng như vậy minh đã không giận mà còn thương. Có lẽ đúng như Huỳnh Tấn Thời đã nhận định “PBTD chỉ theo ngó thôi..!”Viết tào lao đến đây là đủ rồi, mong mỗi ngày đọc được một bài thơ dễ thương. Chúc tất cả các bạn vui khoẻ. Riêng HTThời, ĐHNgọc, PBDương có nhiều thời gian để tìm vui bên nhau. Còn TVL thì chịu khó ra đường chứ đừng có ngồi nhà một mình trầm ngâm tìm hứng để làm thơ mà tổn hại đến sức khoẻ.Tình xa.
Đổng-Lý.
Giúp Cha Mẹ Vui Tuổi Già
Giúp cha mẹ vui tuổi già
Đỗ Hồng Ngọc
Bản dịch Anh ngữ: Nguyên Giác Phan Tấn Hải
Đợi cha mẹ già qua đời rồi mới báo hiếu làm đàn tràng cầu siêu thiệt to, mua đất nghĩa trang thiệt rộng, xây mồ xây mả thiệt đẹp, hoặc đem tro cốt vào chùa, nhang khói mịt mù, đặt nắm tro tàn cha mẹ ở một vị trí thiệt tốt… không ngại tốn kém!
Đợi cha mẹ già vào bệnh viện, đặt ống nội khí quản giúp thở, truyền đạm truyền dịch chai dưới chai trên, bơm thức ăn qua ống thông dạ dày, dây nhợ chằng chịt khắp người theo dõi nhịp tim nhịp thở, thuốc men không ngại tốn kém… sẵn sàng bán nhà bán cửa chữa chạy, “còn nước còn tát”!
Thế nhưng khi cha mẹ già đang sờ sờ bên cạnh thì bận bịu trăm công ngàn việc, không có chút thì giờ để hỏi han, chăm sóc…
Một ông bố viết cho con:
“… Người già sợ nhất cảnh cô đơn nên nếu các con đã hiểu thì hãy thương cho tròn. Tình thương ấy không đánh đổi bằng tấm ngân phiếu kếch xù hay quà bánh đắt tiền mà chính là… thời gian. Một lúc nào đó trong ngày mà các con thấy trống vắng thừa thãi thì hãy mang đến tặng Bố giờ phút vô nghĩa ấy! Bản chất nó vô giá nhưng lại vô cùng quý báu nếu chia sẻ đúng đối tượng… Con dư biết, sáng chiều Bố lủi thủi hết ngồi lại nằm, cô đơn bên cạnh một người trả công chỉ biết im lặng canh chừng. Nếu con đến thăm, nhớ bỏ hết công việc và lo toan ở ngoài xe trước khi vào nhà, tránh cảnh thân tâm mỗi chỗ mỗi nơi để cha con sống thật những kỷ niệm cuối đời bên nhau. Người già như Bố đương nhiên ăn nói sẽ không còn mạch lạc hấp dẫn, xin con đừng nhăn nhó… Hãy nhẫn nại ngồi nghe như thuở nuôi con còn bé, Bố đã từng chăm chú theo dõi tiếng con bi bô học nói… lặp đi lặp lại nhiều lần một chữ từ ngày này qua ngày nọ liên hồi…”. (Internet).
Có một cách giúp biết khi nào cha mẹ đã… bước vào tuổi già ấy là “lén” quan sát họ có những dấu hiệu bất thường nào về tâm lý, về sức khỏe của lứa tuổi già chưa. Nhưng biết là để quan tâm, chăm sóc, can thiệp kịp thời thôi chớ không phải để “dán nhãn” cho họ đã già nua, lỗi thời, rồi không để họ còn có chút độc lập tự do gì nữa thì rất không nên!
Họ có lơ là quá đáng chuyện ăn mặc không? Xưa áo quần thẳng thớm, nay xốc xếch, xộc xệch, đứt nút, rách bâu mặc kệ? Họ có lơ là quá đáng việc chăm sóc bản thân mình không? Chẳng buồn tắm rửa, hớt tóc cạo râu, tóc tai bù xù mặc kệ. Trí nhớ họ còn tốt không hay quên trước quên sau, lặp đi lặp lại hoài một chuyện? Họ có loay hoay tìm kiếng lão, dù đang đeo trên mắt hay tòng teng trên cổ không? Họ có nghễng ngãng nghiêng tai bên này bên kia để nghe cho rõ hoặc cứ hỏi đi hỏi lại một chữ không? Họ có kêu TV mờ, sách báo chữ nhỏ quá, màu sắc không rõ ràng như xưa không? Họ có bước đi từng bước chầm chậm, loạng choạng, lê chân trên mặt đất như chân đã mọc dài ra và dễ bị vấp, bị trượt, bị té ngã không? Họ có kêu đau lưng nhức mỏi thường xuyên không? Có bỏ quên chìa khóa, quên điện thoại nơi này nơi kia tìm kiếm vất vả không? Thỉnh thoảng có quên tắt lò gaz, quên khóa cửa nhà… không?
Để ý coi họ còn thèm ăn uống không, ăn uống có còn biết ngon lành không hay sao cũng được? Họ có chê món này cứng món kia khó nhai không? Ngủ có dễ không hay trằn trọc loay hoay suốt đêm? Có còn ham đi đây đi đó, cà phê cà pháo với bạn bè không? Có còn mê coi đá banh, tennis… như ngày xưa không hay chỉ thích ngồi im một chỗ lúc nào cũng như đang im lặng lắng nghe, nhớ nghĩ đâu đâu…hoặc ôm TV suốt ngày rồi nhầm tưởng cảnh tượng trong phim ảnh là sự thật ngoài đời?
Để ý coi họ có đã bắt đầu thở hồn hển nặng nhọc… khi leo cầu thang trong căn nhà quen thuộc của mình không? Họ có bắt đầu thức giấc tiểu đêm nhiều lần, có dễ bị dị ứng khi ăn một món ăn quen thuộc? có bị bón phải rặn hì hục vất vả không?…
Tóm lại, quan sát kỹ một chút sẽ thấy những thay đổi đó và tốc độ thay đổi ngày càng nhanh. Già thiệt rồi!
Một ông lão than thở: “ Các lão bằng hữu ơi, cần phải ghi nhớ chúng ta đều là những con người của cái thế hệ cuối cùng hiếu thuận với cha mẹ, lại cũng là những con người của cái thế hệ đầu tiên bị con cái bỏ rơi”. Ngậm ngùi quá đỗi! Vì đâu nên nỗi?
Bởi vì thế hệ trước kia sống trong nền văn hóa đề cao “đạo hiếu”, học Quốc văn giáo khoa thư, học Nhị thập tứ hiếu, gia đình “tứ đại đồng đường”, xóm làng gần gũi, dư luận buộc ràng, nay thì đời sống đã khác: gia đình hạt nhân, nhiều cặp ly hôn ly dị, single mom, single dad v.v…, nhiều gia đình chỉ có một con duy nhất làm sao gánh nổi ông bà nội ngoại hai bên? Rồi đây các thế hệ già sẽ được nuôi trong nhà dưỡng lão (nursing home), nên ngay bây giờ phải coi chuyện “con cái bỏ rơi” là chuyện bình thường, có hiếu thuận là thỉnh thoảng con cái nhớ mà đến thăm đôi khi.
Có nhiều cách để giúp cha mẹ già được vui:
* Dành thời gian ngồi bên cha mẹ, nhắc những chuyện xưa, hỏi chuyện tuổi thơ của cha mẹ, chuyện học hành, chuyện chọn nghề, chuyện tình cảm của họ… để họ có cơ hội kể lại một cách hào hứng, nhiều khi lặp đi lặp lại cũng nên ân cần lắng nghe;
* Nhắc những ngày còn thơ của mình, những khó khăn gian khổ của gia đình như một cách tỏ lòng biết ơn, rằng nhờ họ mà mình có được ngày nay;
* Sưu tầm những hình ảnh kỷ niệm của gia đình qua nhiều giai đoạn, những hình ảnh thuở còn thơ của con cháu, dán vào một album để cùng coi chung cả nhà hoặc làm một “triển lãm bỏ túi” gợi nhớ những kỷ niệm: “ngày này năm xưa em còn bé tí teo”…;
* Thỉnh thoảng dành thì giờ đưa cha mẹ đi thăm những nơi nhiều kỷ niệm của họ, mái trường xưa, căn nhà cũ dù đã đổi thay, những bà con lâu ngày chưa gặp nơi này nơi khác, những bạn bè thuở ấu thơ kẻ mất người còn…;
* Thỉnh thoảng tổ chức những buổi họp mặt gia đình, đặc biệt những ngày Giỗ chạp, để con cháu được nghe ông bà kể chuyện xưa, kết nối bà con cô bác. Nếu có thể thì tổ chức họp mặt bạn bè cùng lứa của cha mẹ ở một nơi phù hợp, khoáng đãng, họ sẽ có cơ hội trò chuyện râm ran với nhau…;
* Sưu tầm những bản nhạc xưa, phim cũ mà họ yêu thích, giúp họ được nghe lại, xem lại… Kỹ thuật media bây giờ rất hiện đại, chịu khó giúp để tránh sự lọng cọng của cha mẹ già;
* Sưu tầm các bài báo, hình ảnh… nếu có về thành tích của cha mẹ trong lãnh vực văn nghệ, thể thao, nghề nghiệp v.v… làm thành tập tư liệu để cùng xem với nhau, nhắc nhở những niềm hãnh diện xưa!
* Giúp cha mẹ tham gia những buổi sinh hoạt của nhóm bạn già, câu lạc bộ, hội quán người cao tuổi, nhóm coi bóng đá, tennis, nhóm hát hò, ngâm thơ, thậm chí nhóm bạn chơi tứ sắc, mạc chược, cờ vua, cờ tướng…;
* Khuyến khích cha mẹ học một kỹ năng mới: ngoại ngữ, vi tính, chơi games, biết dùng smartphone để chuyện trò, nhắn tin, biết xài tablet ( cái “quẹt quẹt” này giúp biết đủ thứ chuyện trên đời!)… Nhờ đó các tế bào não không bị rỉ sét, các nối kết thần kinh được hoạt hoá, sinh động. Ngày nay người ta biết tế bào não rất nhu nhuyến và có thể sinh sôi!
* Khuyến khích cha mẹ gần gũi nhiều hơn với nhu cầu tâm linh, nói với cha mẹ về nhân quả, luân hồi, thiên đàng, địa ngục… Thường nhắc những việc làm tốt đẹp của họ trước đây để thấy thanh thản, an vui… Khuyên cha mẹ đi chùa, đi nhà thờ… Giao lưu bạn đạo, học tập điều thiện, miễn là không để rơi vào mê tín dị đoan…
Những điều này không phải là lý thuyết. Tôi đã thực hành được gần như vậy khi chăm sóc Mẹ tôi lúa tuổi già. Tôi thường ngồi trò chuyện với Bà, từ đó vẽ được đường dây như một bản đồ dòng họ, bà con bên Ngoại; nhắc bà chuyện Bà “duyên” gặp Ba tôi, chuyện đám cưới nhà quê thời đó, rước dâu có đoạn đường biển cô dâu phải đi ngựa, lội qua ao rạch, dòng suối rộng ở ngãnh Tam Tân. Chuyện bà “nổi ghen”, dắt tôi (gần 5 tuổi) bỏ về giữa buổi trình diễn cải lương ở Rạp hát có Ba tôi đóng vai trong đó; hỏi cả chuyện “người yêu” thuở nhỏ của Ba tôi hồi đó có đẹp không? Bà chỉ nói “cũng được” chớ không chịu là đẹp! Rồi tôi thường đưa Bà về thăm Phan Thiết, Phan Rang, đi ngang Bà Rịa, qua Bưng Riềng, Láng Găng, Bến Ván, Giếng Ngự ở Bình Châu, vùng tản cư của gia đình tôi ngày đó, suốt 7 năm từ 1945 đến 1952 khi Ba tôi mất mẹ con mới về Phan Thiết tá túc nhà cô Hai. Tôi cũng thường đưa Bà về thăm các dì, cậu, cô bác, thăm chùa Hải Nam v.v…, Lúc Bà yếu nhiều, tôi tổ chúc được một buổi gặp mặt các con cháu của Bà tại ngôi nhà ở Lagi để Bà được gặp mọi người, như để chào tạm biệt. Hôm đó còn quay lại phim để lưu cho con cháu… Tôi biết mình làm chưa đủ, nhưng cũng an ủi đã thực hành nhưng điều tôi học hỏi được, và chia sẻ nơi đây.
…. o ….
Help parents enjoy old age
By Đỗ Hồng Ngọc
Translated by Nguyên Giác Phan Tấn Hải
Do not wait until your parents have passed away to demonstrate your filial devotion by creating a grand altar, purchasing an elaborate burial plot, constructing an exquisite tomb, transporting their ashes to a temple filled with incense smoke, or placing them in a respectful location, regardless of the cost.
Help your parents enjoy their later years now. Don’t wait for your elderly parents to require hospitalization, an endotracheal tube for respiratory support, two bottles of intravenous fluids, a nasogastric tube for feeding, wires for heart rate and respiratory monitoring, and costly medications. You may even find yourself willing to sell your house to cover the treatment expenses, only to utter phrases like, “As long as there is water in the boat, we must scoop the water out.”
However, when your elderly parents are still around, you may find yourself preoccupied with countless responsibilities, leaving little time to inquire about or care for them.
A father wrote to his son: “The elderly are most afraid of loneliness, so if you understand, then love them fully. Time, not a large check or expensive gifts, exchanges this love. At some point during the day when you feel empty and redundant, bring that meaningless moment to Dad! It is priceless in nature but extremely precious if shared with the right person… You are well aware that Dad spends every morning and evening sitting and lying down alone, accompanied only by a paid worker who silently observes me. When you visit, it’s important to leave all your work and worries in the car before entering the house. This will prevent your body and mind from being separated, allowing your father and son to truly share their final memories together. An old man like Dad will naturally not speak coherently and attractively; please don’t frown… Please sit and listen patiently, just as I did when I was raising you as a baby. Dad used to attentively watch you babble and learn to speak, repeating the same word over and over, day after day.” (Excerpt from the Internet)
One way to recognize when your parents have entered old age is to discreetly observe them for any unusual signs of psychological or physical decline typically associated with aging. However, understanding these changes should lead to caring for them and intervening promptly, rather than labeling them as old or outdated. It is crucial to avoid stripping them of their independence and freedom, as this approach is highly inappropriate.
Are they excessively careless about their clothing? In the past, their attire was neat, but now it appears sloppy and disheveled, with broken buttons and torn cuffs. Are they neglecting their personal hygiene? Do they refrain from showering, shaving, or managing their hair? Is their memory still sharp, or do they frequently forget things, repeating the same statements repeatedly? Do they struggle to find their reading glasses, whether they are wearing them or they are hanging around their necks? Do they tilt their heads from side to side to hear clearly, or do they ask for the same word repeatedly?
Do they express concerns that the television picture is blurry, that the print in books and newspapers is too small, or that the colors are not as vibrant as they once were? Do they walk slowly and unsteadily, dragging their feet as if their legs have grown longer, making them prone to tripping, slipping, and falling? Do they frequently complain of back pain? Do they leave their keys or phones scattered about and struggle to locate them? Do they occasionally forget to turn off the gas stove or lock the door?
Pay attention to whether they still crave food, enjoy eating, or have changed their preferences. Do they find certain foods difficult to chew? Is it easy for them to sleep, or do they toss and turn throughout the night? Do they still like to go out, drink coffee with friends, and engage in social activities? Do they continue to enjoy watching football or tennis as they once did, or have they become more sedentary, sitting quietly and lost in thought, or spending all day in front of the television, confusing movie scenes with reality?
Pay attention to whether they have begun to gasp for breath when climbing stairs in their familiar home. Have they started waking up more frequently at night to urinate? Are they experiencing allergies when consuming familiar foods? Are they constipated and straining?
In short, observe closely, and you will notice these changes; the speed of change is accelerating. They are truly aging!
An elderly man lamented, “My old friends, we must remember that we are the last generation to honor our parents and the first generation to be abandoned by our children.” How tragic! Why is this the case?
Because the previous generation lived in a culture that emphasized filial piety, they studied the National Literature textbook and the Twenty-Four Filial Exemplars. Families often consisted of generations under one roof, and a strong adherence to public opinion. In contrast, contemporary life features nuclear families, numerous divorced couples, single mothers, and single fathers. Many families now have only one child, raising the question of how they can support both sets of grandparents. In the future, it is likely that older generations will reside in nursing homes. Therefore, we must begin to accept the notion of being abandoned by children as a new normal, where filial piety is redefined to mean that children occasionally remember and visit their parents.
To help your elderly parents find happiness, consider the following suggestions:
* Spend time sitting with your parents, reminiscing about old stories and asking about their childhood, education, career choices, and love stories. This gives them the opportunity to share these experiences with enthusiasm, even if they repeat themselves. It is important for you to listen attentively.
* Reflect on your childhood experiences and the challenges your family faced, expressing gratitude for the sacrifices made by your parents that have contributed to your current circumstances.
* Collect family memories through various stages of life. Gather childhood photos of your children and grandchildren, and compile them into an album for the entire family to enjoy together. Alternatively, create a pocket exhibition to reminisce about special moments, such as this day, years ago, when you were a little kid.
* Occasionally, take the time to bring your parents to visit places filled with memories for them, such as their old school or childhood home, even if it has changed. Reconnect with relatives they haven’t seen in a long time, whether at this location or another, and remember childhood friends who have passed away, as well as those who are still alive.
* Occasionally, organize family gatherings, particularly on death anniversaries, to allow children and grandchildren to hear their grandparents share old stories and connect with relatives. If feasible, arrange a meeting for your parents’ friends in a suitable, open space, providing them with the opportunity to engage in conversation with one another.
* Collect old music and classic movies that they cherish, and assist them in enjoying these again. Media technology has advanced significantly, so please help your elderly parents navigate it to avoid any technical difficulties.
* Collect articles, pictures, and any other materials related to your parents’ achievements in the fields of arts, sports, careers, and more. This will help create a collection of documents that you can enjoy together, reminding them of their past accomplishments.
* Help your parents engage in activities with their old friends, such as clubs, senior groups, football and tennis viewing parties, singing groups, poetry recitation clubs, and gatherings for playing cards, mahjong, chess, or Chinese chess.
* Encourage parents to learn a new skill, such as a foreign language, computer programming, playing games, or using a smartphone for chatting and texting. Familiarity with a tablet can also be beneficial, as this “swipe thing” helps prevent brain cells from deteriorating, activates neural connections, and keeps the mind active. Today, we understand that brain cells are highly adaptable and can regenerate!
* Encourage parents to connect more deeply with their spiritual needs. Discuss concepts such as cause and effect, reincarnation, heaven, and hell. Frequently remind them of their past charitable deeds to foster feelings of peace and happiness. Suggest that they visit a temple or church and engage with religious friends to learn positive values while being cautious not to fall into superstition.
These experiences are not mere theories. I practiced them while caring for my mother in her old age. I often sat and talked with her, during which I traced a family tree, mapping out our relatives on my mother’s side. I reminded her of the story of her “fateful” meeting with my father, recounting the tale of their country wedding. At that time, the bride’s procession stretched along the sea, and she had to ride a horse, wade through ponds, canals, and a wide stream in Tam Tân. I asked about my mother becoming jealous and taking me, then almost five years old, out into the middle of a cải lương performance at the theater where my father was performing. I also inquired whether my father’s childhood sweetheart was beautiful. She simply stated that the other woman was OK, but refused to acknowledge her beauty.
I often took my mother to visit Phan Thiết and Phan Rang, passing through Bà Rịa, Bưng Riềng, Láng Găng, Bến Ván, and Giếng Ngự in Bình Châu. This was the evacuation area for my family during the seven years from 1945 to 1952. It was not until my father passed away that my mother and I returned to Phan Thiết, where we stayed at my Aunt Hai’s house. I frequently took my mother to visit my aunts, uncles, and Hải Nam Pagoda, among other places. When she became very weak, I organized a gathering of her children and grandchildren at our home in Lagi so that she could meet everyone as a way to say goodbye. On that day, I even recorded the event for my children and grandchildren. I know I have not done enough, but I find comfort in knowing that I have practiced what I have learned and shared it here.
…. o ….
December 20, 2024
Đỗ Hồng Ngọc/ Nguyên Giác: “CON VÀO DẠ, MẠ ĐI TU” (song ngữ Việt-Anh)
“CON VÀO DẠ, MẠ ĐI TU”
Đỗ Hồng Ngọc
Ghi chú: Tôi chọn một ít bài viết, một ít chuyện kể trong “Chuyện Hồi Đó” đưa lên trang Web dohongngoc.com này để sẻ chia cùng bè bạn, đọc… lai rai cho vui nhe.
Đây là bài được Nguyên Giác chọn dịch đầu tiên sang Anh ngữ.
Thân mến,
ĐHN
“Mạ” là Mẹ. Con vào dạ, mạ đi tu là khi “cấn thai” vào lòng tự nhiên người mẹ nào cũng … “đi tu”! “Đi tu” đây không có nghĩa là xuống tóc, vào chùa gõ mõ tụng kinh mà chỉ có nghĩa là sửa mình, thay đổi mình, từ ngoài vào trong, từ trong ra ngoài. Mọi thứ ở người mẹ phải sửa sang, phải “tu chỉnh”, nên mới có câu “con vào dạ mạ đi tu”!
Sửa mình không dễ. Nhưng một khi có “con vào dạ” rồi thì tự dưng phải sửa thôi. Bởi có “sửa” thì mọi thứ mới tốt đẹp cho con, cho mẹ, và cho cả gia đình.
Thực ra, không chỉ “mạ đi tu”, mà người cha cùng cả nhà cũng đi tu với mạ!
“Con vào dạ” ấy là lúc mang vào lòng cả một thế giới, cả một kiếp người. Cái sinh linh bé bỏng này nó đến từ đâu? Nó đi về đâu? Nó sẽ ra sao? Nó đến cách nào nó đi cách nào? Người mẹ bỗng trở thành triết gia một sớm một chiều!
Cái gọi là tử cung– “dạ con”- kia chính là nơi trú ngụ của đứa con, chẳng khác chi hoàng cung là nơi trú ngụ của nhà vua- cho nên kể từ lúc này bé đã là một… vì vua loi nhoi trong bụng mẹ, làm mọi thứ trong người mẹ chuyển động, đổi thay. Mẹ bấy giờ đã là một người phụ nữ khác. Một người sắp là mẹ, sắp làm mẹ. Sinh con rồi mới sinh cha/ sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông. Cũng vậy, “sinh con rồi mới sinh mẹ”. Không có con thì sao là mẹ được! Và khi cái thai nhú lên từ trong bụng mẹ thì đó cũng là lúc “mẹ sinh”. Mẹ từ từ sinh ra theo sự lớn lên từng ngày của thai nhi. Và để… sinh ra một người mẹ thực sự thì mẹ phải “tu” thôi. Kẻ giúp mẹ tu… thành mẹ chính là đứa con trong bào thai, ngay từ khi còn trong trứng nước.
Nó có quyền năng rất lớn. Nó làm thay đổi cả “vũ trụ quan” và “nhân sinh quan” của mẹ. Nói đơn giản hơn, nó thay đổi một cách nhìn. Lúc bấy giờ, người phụ nữ vừa “cấn thai” kia đã nhìn mẹ mình cách khác, nhìn cha mình cách khác! Rồi nhìn chồng mình cũng khác, nhìn bạn bè mình cũng khác. Thậm chí nhìn hàng xóm láng giềng cũng khác đi rồi. Trước kia có khi hục hặc với cha, có lúc bực dọc với mẹ, tranh hơn tranh thua với đồng nghiệp với hàng xóm láng giềng bây giờ tự dưng thấy mênh mông lòng từ. Thấy thương thấy quý, thấy biết ơn tất cả. Cái sinh linh này, tấm hình hài này từ đâu mà đến, sẽ ra sao ngày sau? Phải làm gì đây cho nó hạnh phúc nhất, cho tương lai nó tốt đẹp nhất. Mãi nghĩ về nó mà không còn thấy cái tôi của mình nữa. Nó trở thành cái rún của vũ trụ chớ không phải cái tôi là rún của vũ trụ như xưa. Lòng bi mẫn cũng từ đó mà tràn đầy. Thương người hơn, thấy rõ nỗi khổ đau của mình của người hơn và từ đó muốn giúp đỡ, muốn nâng niu. “Từ năng dữ lạc, bi năng bạt khổ”. Hóa ra đã “tu” lúc nào không hay! Rồi còn biết vui theo cái vui của người, thấy dễ tha thứ, dễ buông bỏ. Lòng đã rộng mở. “Hỷ xả” lúc nào đó vậy? Chưa biết là trai hay gái đây, nhưng không thành vấn đề. Có đứa con vào bụng, bỗng thấy mình không là mình nữa. Mà hai mình. Hai mà một. Mới hiểu thế nào là “nhất như”. Mắt nhìn khác đi, tai nghe khác đi, mũi ngửi khác đi, lưỡi nếm khác đi, và toàn cơ thể nữa, đã bày biện khác đi nên xúc tiếp cũng khác đi. Và đặc biệt, ý nghĩ, tư tưởng cũng đã khác đi nhiều lắm. Từ đó, những lời ăn tiếng nói dấm dẳng, đanh đá xưa kia bỗng trở nên từ ái, khoan dung; những cử chỉ vụt chạc, hấp tấp lúc trước đã trở nên điềm đạm, từ tốn… Hóa ra “lục căn” đã dần thanh tịnh. Mắt tránh xa những hình ảnh bạo lực, kích dục… trong phim ảnh, sách báo, kịch nghệ. Tai tránh xa những âm thanh dậm dật loạn động hay áo não sầu thương. Từ bỏ những món ăn kích thích, nào rượu nào bia; lánh xa những nơi có mùi thuốc lá, tránh bớt những món cay nồng… Mặc rộng, thoáng mát, đi lại khoai thai. Ăn biết mình ăn, ăn gì, tại sao; đi đứng nằm ngồi thế nào… Mọi thứ cứ như chánh niệm. Tránh cả những chuyện cà kê dễ ngỗng, tránh các « bà tám » thị phi. Cái sinh linh bé bỏng kia, hoàng tử công chúa kia, không biết từ cát bụi nào đã đến, lỡ nó nghe được, nó bình phẩm, nó bắt chước thì sao?
“ Ăn cơm có canh, tu hành có bạn ». Bạn tu đầu tiên gần gũi nhất phải là “thằng cha nó”. Từ ngày biết mình sắp làm cha “thiên hạ », ông đã âm thầm tự động bỏ thuốc lá, giảm bia rượu, thôi đàn đúm, la cà. Đi làm xong vội về… xoa đầu con, coi nó lớn tới đâu trong bụng mẹ. Ông chăm chú, nghiền ngẫm xem nó đã biết dòm ngó phê phán gì chưa. Tự dưng có một kẻ lạ hoắc tự trên trời rơi xuống, lọt tõm vào nhà mình, dòm dõi mình, nghe ngóng mình… cũng làm mình bối rối không ít chứ ! Cái gì bây giờ cũng len lén, ngó trước dòm sau. Nó cười chăng ? Nó nhăn chăng ? Nó đau chăng ? Nó giận chăng ? Hóa ra không phải « con vào dạ mạ đi tu » mà bố cũng phải tu.
Lạ thay, rồi bà nội bà ngoại, ông nội ông ngoại tương lai cũng tu luôn. Ai cũng sửa mình, cũng tự thay đổi cả. Bà nội bà ngoại đâm ra dễ thương hết sức, chăm lo từng chút, dặn dò từng ly, bày đặt đủ trò, gây phiền hà không ít, nhưng tất cả chỉ vì cái sinh linh bé bỏng này thôi.
Tu, nói cho cùng, cũng tu từ khóm cây bụi cỏ, từ tiếng mõ tiếng chuông. Cho nên, nhà cửa giờ cũng trở nên ngăn nắp, sạch sẻ, sáng sủa hơn. Sách đọc đã khác. Phim ảnh đã khác. Âm nhạc đã khác. Chắc chắn cái cảm xúc sảng khoái, lâng lâng của mẹ khi được nghe một điệu hát ru quen thuộc thuở nằm nôi sẽ làm sản sinh các kích thích tố hạnh phúc truyền qua thai nhi. Mấy bức tranh treo trên tường cũng đã kịp thay. Trong sáng hơn, tươi vui hơn. Nhớ chuyện kể ông bố người Mỹ da trắng nọ ngạc nhiên thấy đứa con sơ sinh của mình sao da đen tóc quíu khác thường thì bà vợ đã giải thích là do suốt thời gian mang thai bà đã ngắm mãi cái hình anh cầu thủ bóng đá da đen treo trên tường! Phải cảnh giác !
Rõ ràng, không chỉ tu mà còn phải học. Chỉ có hiểu biết một cách khoa học mới hết nỗi lo âu. Làm sao nuôi bé lớn lên từng ngày trong bụng đây? Làm sao cho mắt nó sáng, da nó đẹp, môi nó hồng đây? Nó chui ra bằng đường nào? Có đau lắm không? Có phải “đi biển mồ côi một mình” như người ta nói không? Có cần « ông già » nó cùng “đi biển” cho có đôi không? Có cho nó bú ngay không? Bú có hư không?… Ôi biết bao điều phải học. Học để biết « cơ chế » của hoài thai, mang thai, của sanh nở để không còn phải sợ hãi, lo âu. Chắc chắn một điều là mẹ tròn con vuông, bởi sanh nở là chuyện sinh lý bình thường của bất kỳ bà mẹ nào. Có người khuyên mổ đẻ cho khỏi đau, nhưng đau… cũng hay chứ, mới biết « mang nặng đẻ đau » là thế nào, mới biết « cha sinh mẹ dưỡng/ đức cù lao/ lấy lượng nào đong… » là thế nào! Làm gì có chuyện chọn giờ hoàng đạo để sanh thì sau này bé sẽ… làm vua, làm tể tướng ! Làm vua, làm tể tướng đâu không thấy chỉ thấy thiếu dưỡng khí não vì sinh non, sinh sớm, dễ mắc bệnh tâm thần về sau. Cứ sanh đẻ tự nhiên thôi để được là người đầu tiên đón bé vào đời, rồi cho nó bú ngay…. để được làm mẹ, là mẹ, sớm chừng nào hay chừng nấy.
Nhiều người đi tu muốn mau thành “chánh quả”. « Mạ đi tu » nhiều khi cũng vậy. Cũng muốn “gíáo dục » sớm cái sinh linh bé bỏng này ngay khi còn trong trứng nước để mong sau này nó thành thần đồng, thành siêu nhân, anh hùng, vô địch… Nhưng « quả » mà chín mau quá chỉ có cách « giú ép ». Mà giú ép thì không ngon. Cái gì gượng quá đều không hay. Mạ mà căng thẳng quá để « tu » cũng sẽ tạo nên stress, sản sinh nhiều chất độc hại cho cơ thể, cho cả mẹ lẫn con.
Cảm ơn chút sinh linh bé bỏng sắp bước vào « cõi người ta ».
Và cảm ơn tất cả vì những yêu thương trìu mến!
…. o ….
When a child enters the mother’s womb, the mother becomes a practitioner
By Đỗ Hồng Ngọc
Translated by Nguyên Giác
When a woman becomes pregnant, she naturally becomes a Dhamma practitioner. Becoming a practitioner does not necessarily mean shaving her head or going to a temple to chant sutras; rather, it involves self-correction and personal transformation, both externally and internally. Everything within the mother must be aligned and made right, which is why there is a saying: “When a child enters the mother’s womb, the mother becomes a practitioner.”
It is not easy to change oneself. However, once you are expecting a child, you will naturally need to adapt. By making these changes, you can create a better environment for the child, the mother, and the entire family. In fact, not only does the mother become a practitioner, but the father and the whole family often join her in this journey of growth and development.
When a child enters the mother’s womb, it carries an entire world—an entire human life. Where does this tiny creature originate? Where does it go? What will it become? How does it arrive, and how does it depart? The mother suddenly transforms into a philosopher overnight!
The so-called palace of a child—“womb”—is the place where the child resides, much like a palace is the residence of a king. From this moment on, the baby is akin to a king wriggling in the mother’s womb, causing everything within her to move and change. The mother is now transformed; she is no longer just a woman but a person on the brink of motherhood. Giving birth to a child first brings forth a father, while giving birth to a grandchild first creates a grandfather.
Likewise, the act of giving birth to a child is accompanied by the birth of a mother. Without a child, how can one truly be a mother? When the fetus emerges from the mother’s womb, it marks the moment the mother is born. The mother gradually comes into her own as the fetus develops each day. To fully give birth to a genuine mother, the mother must engage in a process of self-cultivation. The child in the womb, even from the time it is still an egg, plays a crucial role in helping the mother evolve into her maternal identity.
The baby possesses remarkable power. It transforms the mother’s perspective on the universe and her outlook on life. In essence, it alters her way of perceiving the world. At that moment, the woman who had just conceived viewed her mother, father, husband, friends, and even her neighbors in a new light. Previously, she had experienced conflicts with her father, felt upset with her mother, and argued with her colleagues and neighbors. However, she now felt an overwhelming sense of compassion. She experienced love, respect, and gratitude for everything around her.
Where does this creature, this body, come from, and what will it be like in the future? What must a mother do to ensure her baby is happiest and to create the best possible future for it? As she contemplates these questions constantly, she begins to lose sight of her own ego. The fetus becomes the center of the universe, rather than her ego occupying that position as it once did. From this perspective, compassion flourishes. She finds herself loving others more deeply, gaining a clearer understanding of her own suffering and that of others, which inspires her desire to help and cherish. A compassionate heart can bring happiness to sentient beings, while a kind heart can alleviate suffering. It turns out that she has been practicing compassion and kindness without even realizing it! She also learns to find joy in the happiness of others, discovering that it is easy to forgive and to let go. Her heart has opened. When did this joy and ability to let go emerge?
It is not yet known whether the fetus is a boy or a girl, but this is inconsequential. With a child growing in her womb, the pregnant woman suddenly finds herself transformed; she is no longer just herself but two beings in one. She begins to grasp the essence of oneness. Her eyes perceive the world differently, her ears hear in a new way, her nose detects scents anew, her tongue experiences flavors differently, and her entire body, now altered, engages with the world in a distinct manner. Most notably, her thoughts and ideas undergo a profound change. From that moment on, the pregnant woman realizes that the harsh words of her past have transformed into expressions of love and tolerance; the hurried gestures she once exhibited have become calm and deliberate. It becomes evident that her senses have gradually been refined. Her eyes turn away from violent and erotic images found in movies, books, and plays. Her ears avoid chaotic, pounding sounds and sorrowful melodies.
She began to eliminate stimulating foods, such as alcohol and beer, and avoided places with the smell of cigarettes, as well as spicy foods. She wore loose, breathable clothing and moved at a slow pace. She practiced mindful eating, being aware of what she consumed and the reasons behind her choices. Every action—standing, walking, sitting, and lying down—was approached with mindfulness. She steered clear of gossip and gossipy groups. That little creature, that prince or princess, who knows where it came from? What if it heard, commented on, or imitated her actions?
Eating rice is best enjoyed with soup, just as practicing religion is enriched by the presence of friends. The first and most important companion on this journey of personal growth must be the father of the unborn child. Upon learning that he was going to become a father, he instinctively and quietly quit smoking, reduced his alcohol intake, and curtailed his social activities. After work, the expectant father hurried home to gently caress the baby’s head, eager to see how much it had grown in the mother’s womb. He paid close attention, pondering whether the baby could already observe and critique its surroundings. Suddenly, a stranger seemed to fall from the sky, slipping into his home, watching him, and listening to him, which left him quite bewildered! Everything felt secretive; he found himself looking around anxiously. Was the baby smiling? Frowning? In pain? Angry? It became clear that the baby enters the womb, the mother becomes a practitioner, but the father also had to engage in this practice.
Strangely enough, the future paternal grandmother, maternal grandmother, paternal grandfather, and maternal grandfather also engaged in this practice. Everyone made corrections and underwent changes. The paternal and maternal grandmothers became exceptionally nurturing, attending to every detail, providing guidance, and devising various strategies, which sometimes led to complications, all for the sake of this little one.
Cultivation encompasses not only the caring for plants and grasses but also the soothing sounds of wooden fish and bells. As a result, the home has become tidier, cleaner, and brighter. The books, movies, and music have all changed. Surely, the joy and elation a mother feels when hearing a familiar lullaby from the cradle release happy hormones that are transmitted to the fetus. The pictures hanging on the walls have also been updated to be brighter and more cheerful. This reminds me of a story about a white American father who was astonished to see his newborn baby with unusually curly black skin and hair. His wife explained that throughout her pregnancy, she had been gazing at a picture of a black soccer player hanging on the wall. It serves as a reminder to be mindful of our surroundings.
Clearly, one must not only practice but also study. Only by understanding the scientific principles can one alleviate their worries. How can a pregnant woman nurture her baby as it grows day by day in her womb? How can she make her baby’s eyes bright, skin radiant, and lips pink? What will the birthing process be like? Will it be painful? Is giving birth truly akin to embarking on a solitary journey at sea, as some people suggest? Does the father-to-be need to accompany her on this journey to fulfill their roles as a couple? Should breastfeeding begin immediately? Is breastfeeding harmful? There are so many aspects to learn. It is essential to understand the mechanisms of conception, pregnancy, and childbirth to eliminate fear and anxiety. One thing is certain: both mother and child are safe, as giving birth is a normal physiological process for any mother.
Some people recommend a cesarean section to avoid pain, but pain can also be beneficial. It allows you to understand the experience of carrying a heavy burden and giving birth. This is why the ancients believed that the father contributes to the mother’s journey and raises the child; the parents’ love and sacrifice are immeasurable. There is no such thing as selecting an auspicious time to give birth in hopes that the child will become a king or a prime minister. If you attempt to time the birth, the baby may be born prematurely and could suffer from oxygen deprivation, leading to potential mental health issues later in life. It is best to give birth naturally, so you can be the first to welcome your baby into the world and immediately begin breastfeeding. This way, you can embrace your role as a mother as soon as possible.
Many individuals who choose the monastic path aspire to attain enlightenment swiftly. A mother who practices spirituality while pregnant often sets very high expectations for her unborn child. She hopes to nurture her little one from the womb, aiming for them to become a genius, a superhero, a hero, or a champion. However, if the fruit ripens too quickly, it must be forced, and forcing it will yield an unpleasant result. Anything that is overly forced is detrimental. If the mother experiences excessive stress while cultivating her practice, it can lead to further stress, producing harmful substances for both herself and her child.
Be grateful for the small creature that is about to enter the human realm.
Be grateful for all the love and affection you are experiencing.
…. o ….
Đỗ Hồng Ngọc's Blog
- Đỗ Hồng Ngọc's profile
- 12 followers

