Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 4
May 21, 2025
Thư gởi bạn xa xôi (5.2025)
Thư gởi bạn xa xôi (5.2025)
Lại về LaGi
Lại về LaGi nữa à?
Bạn hỏi khó đó. Chớ còn biết đi đâu nữa giờ!
Hồi xưa, đi LaGi quê mình mất chừng… 5 tiếng đồng hồ, bây giờ có cao tốc, chạy vèo có 2 tiếng thôi. Khởi hành ở Saigon khoảng 6g30 sáng thì về LaGi ăn sáng, tắm biển, đi Đập Đá Dựng uống cafe hoặc nước dừa rồi ghé ăn bánh canh chả cá hoặc nem nướng, sau đó lại ra biển nằm võng ngủ một giấc, dậy ăn cháo cá ở Dốc Trâu (Bàu Giòi ngày xưa) rồi về lại Saigon vẫn còn sớm nếu không bị kẹt xe từ Vũng Tàu đổ về nữa.
Có gì mới không? Có đó. Cái cảm giác về quê bây giờ… “không còn ai, đâu còn ai!…” càng lúc càng rõ, nó cứ ngấm từ từ nhưng ngày càng ngấm sâu. Xưa, tệ lắm còn gặp mấy đứa trẻ, hỏi con ai, nói tên cha mẹ, hổng biết, hỏi đến ông bà nội ngoại may ra còn biết. Bây giờ thì như Từ Thức về trần. Ngơ ngác.
Lại chỉ chụp mấy tấm hình gởi bạn coi chơi thôi nhe,
Thân mến,
Do Hong Ngoc.

Lần nào về Lagi cũng chọn ở farmstay này còn ít nhiều quen thuộc.

nơi chốn thân quen

Xoài tím… Lagi

Cái mới, chính là… cây gậy! Cây gậy mây này nhờ TTrà mua từ Chợ Đầm Nha Trang mang về trở thành “vật bất ly thân”, sau cú té rất đau ở quán Bốn Mùa vài tháng truớc.

Thăm gia đình. Chị Ba nay đã 94 tuổi, mù. Chị L 76, điếc…

Bãi Tân Hải, Mõm Đá Chim. Ngãnh Tam Tân ngày xưa.

Một mình…
April 18, 2025
Thư gởi bạn xa xôi
Thư gởi bạn xa xôi
Một buổi Trò chuyên tại Chùa Xá Lợi
Thứ bảy 12/4/25 vừa rồi, nhân Ngày Giỗ Cụ Mai Thọ Truyền (1905-1973), Ban Phật học Chùa Xá Lợi mời mình trao đổi một chút về “Vai trò người Cư sĩ hộ pháp trong thời đại truyền thông 4.0”.
Đề tài khó nhằn quá. Mình lại già cả rồi, chỉ muốn tránh xa những “thảo luận” này nọ, nhất là thời đại Truyền thông đang “khủng hoảng” như nay. Nhưng cũng không thể từ chối vì các bạn đều biết mình xưa từng làm ở Trung tâm Truyền thông & Giáo dục sức khoẻ… Thời gian cho mình chỉ có 45 phút, dành thì giờ cho Lễ tưởng niệm Cụ Mai Thọ Truyền nên… cũng đỡ vất vả!
Không ngờ mà cũng khá đông.
Em Nguyễn Van Quyền cũng đã chịu khó thu clip.
Cảm ơn Quyền, Anh Thư và các bạn…
Sau buổi Nói chuyện, cũng đã có vài phản hồi… Xin được chia sẻ.
Dương Minh Trí
Trong chủ đề buổi nói chuyện, có ba từ khóa chính: Cư sĩ, hộ pháp và thời đại truyền thông 4.0. Hai khái niệm đầu nói chung ý nghĩa không có gì thay đôi, còn khái niệm thứ 3 là mới – nó đã được Bác Ngọc giải thích khá rõ nghĩa và vẻ sơ đồ ra trên bảng bao gồm các thành phần sender, receiver, channel, feedback, noise … Tôi muốn nói vài ý về sơ đồ này:
Sender gửi thông tin cho receiver thì đến lượt receiver này trở thành sender mới và lại gửi thông tin đi tiếp đến receiver mới … Vòng lặp này được lặp lại liên tục, kết quả là thông tin được lan truyền với tốc độ chóng mặt và đi khắp mọi nơi. Quá trình này có thể dẫn đến sự lan tỏa tích cực (thông điệp tốt) hoặc sự méo mó, sai lêch (tin giả, tam sao thất bản).Trường hợp nếu nội dung liên quan đến giáo lý nhà Phật và không đúng chánh pháp, thì tà pháp phát tán khắp nơi.
Một feedback được phản hồi từ receiver ngược trở về sender. Nếu feedback này là lời phê phán, chỉ trích, miệt thị, công kích thì sao nhỉ? Phần nhiều Sender cũng sẽ nổi giận đáp trả lại cũng với y chang lời feedback trên. Thế là thị phi sẽ lan truyền trên mạng xã hội với tốc độ ánh sáng.Người cư sĩ hộ pháp nếu chưa có đạo lực cao dễ bị nóng giận, phản ứng theo cảm xúc, rồi bị lôi cuốn vào thị phi này. Hóa ra chưa “độ” được người đã bị người “độ” lại.
Thông tin được truyền từ sender sang receiver qua một channel (sóng radio, internet …). Một hacker có thể xâm nhập vào chanel, chặn tin nhắn, nghe lén, thay đổi nội dung và lại truyền đi. Đây gọi là hiện tượng nhiễu (noise). Kết quả thông tin bị bóp méo, sai lệch được lan truyền.Trường hợp một bài giảng chánh pháp nếu rơi vào hiện tượng này thì có thể trở thành tà pháp (bị thay đổi ác ý). Từ đó có thể làm mất niềm tin vào Phật pháp trong cộng đồng mạng.
Thời đại truyền thông 4.0 mang lại nhiều cơ hội cho người hộ pháp ngoài những hình thức hộ pháp truyền thống, nhưng cũng có rất nhiều thách thức mới được đặt ra.
Trước khi đóng vai trò “cư sĩ hộ pháp”, nên là một “cư sĩ” sống tốt với văn – tư – tu đã.
4. Trong buổi nói chuyện, Bác Ngọc có nhắc đến một khái niệm “Tâm truyền tâm” – một cách truyền đạt chân lý trong Thiền Tông giữa thầy (sender) và trò (receiver) thông qua trực nhận chứ không thông qua lời nói, văn tự. Một giai thoại nổi tiếng thể hiện cách truyền này là câu chuyện “Niêm hoa vi tiếu” – Đức Phật giơ cành hoa lên và Ngài Ca Diếp mĩm cười.
Tạm gọi “Tâm truyền tâm” cũng là một cách truyền thông. Như vậy channel trong trường hợp này là gì? Đó chỉ là một ánh mắt, nụ cười, cử chỉ nào đó của sender và cái vi diệu là receiver vẫn hiểu đúng điều thầy muốn khai ngộ. Đây là một dạng truyền thông thuần khiết, không nhiễu loạn, không hiểu lầm. Vì sao?
– “Tâm truyền tâm” không đi qua ngôn ngữ hay khái niệm, nên không bị giới hạn bởi từ ngữ mập mờ, cách hiểu khác biệt.
– Khi tâm của người truyền hoàn toàn thanh tịnh, định tĩnh, giác ngộ, và tâm người nhận trống rỗng, cởi mở, sẵn sàng đón nhận, thì sự tiếp xúc tâm linh ấy xảy ra trực tiếp, không qua trung gian suy nghĩ → không nhiễu, không hiểu sai.
Tuy nhiên, đó là nói trong trường hợp lý tưởng, còn trong thực tế thì sao? Nếu tâm người nhận chưa tĩnh, còn thành kiến, loạn động, vọng tưởng thì vẫn có thể hiểu sai điều thấy muốn truyền đạt.
Lăng Lệ Mai
Giữa ngày trăng tròn tháng ba, trong tinh thần “ẩm thủy tư nguyên” – uống nước nhớ nguồn, chúng con trở về Chùa Xá Lợi, thành kính dâng nén tâm hương tưởng niệm 52 năm ngày Ngài Chánh Trí – Mai Thọ Truyền về với Phật . Dẫu thời gian đã hơn nửa thế kỷ, nhưng ân đức và dấu ấn tuệ giác của Ngài vẫn còn đó – thâm trầm mà sáng tỏ giữa lòng người học Phật.
Sau lễ tưởng niệm, chúng con hữu duyên được tham dự buổi pháp thoại nhẹ nhàng mà sâu sắc của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc – Bác, một bậc hiền trí, một người thầy mà chúng con kính quý từ lâu. Trong không khí trang nghiêm, Bác chia sẻ về những ân nghĩa sâu dày mà Ngài Chánh Trí để lại, như một đóa sen chưa từng rời khỏi bùn, luôn tỏa hương ngát giữa cuộc đời đầy biến động.
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã chạm đến thứ cảm xúc rất thật rằng: thời đại 4.0 là thời đại mà “cả thế giới nằm gọn trong lòng bàn tay”. Một cái chạm màn hình có thể mở ra vô số thông tin, nhưng cũng dễ khiến lòng người dao động. Bác kể, mỗi ngày nhận cả trăm email, nhưng chỉ giữ lại vài cái để đọc, còn lại là phải… xoá. Vì có những dòng tưởng như sâu sắc, nhưng lại chỉ là sự giận dữ, thị phi và nhiễu loạn. Giữa bối cảnh truyền thông bùng nổ, Bác nhấn mạnh: người cư sĩ phải biết tự hộ trì chính mình, tự mình gìn giữ chánh niệm, tự mình học hỏi Phật pháp, đặc biệt phải biết phân biệt giữa chánh pháp và tà kiến. Bác nhắc: “Hộ pháp bây giờ là phải dám chống lại các hiện tượng mê tín dị đoan – những thứ đang lan truyền ngày càng mạnh mẽ qua mạng xã hội, qua AI, qua những lời đường mật mà thiếu căn cứ đạo lý”.
Điều khiến chúng con đặc biệt tâm đắc là khi Bác dẫn lại lời Phật dạy về bốn loại thức ăn: đoàn thực (thức ăn vật chất), xúc thực (cảm thọ từ xúc chạm), tư niệm thực (ý nghĩ và mơ ước), và thức thực (nhận thức, tâm thức). Để từ đó nhắc nhở mỗi chúng ta cần chánh niệm trong từng bữa ăn, từng xúc cảm, từng dòng suy nghĩ, và cả trong từng nhận thức mỗi ngày. Chỉ có như thế, ta mới có thể sống an và không gieo thêm lo âu cho chính mình và người khác.
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cũng nhắc lại lời chư Tổ: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” – không trụ vào đâu cả, không cố chấp vào một hình thức nào, để khỏi sinh tâm tham, sân, si giữa thời đại vốn dễ khiến con người đánh mất chính mình. Đó là bài học lớn, nhất là với người hộ pháp – cần giữ tâm không dính mắc, nhưng không buông lơi.
Nhớ lúc còn thuở bé , chúng con đã đọc “Mực Tím” và say mê với những bài viết tuổi mới lớn của Bác. Rồi lớn lên, chúng con lại gặp Bác trong những trang sách “Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng”, “Gió heo may đã về”, “Thư gửi người bận rộn”, “Biết ơn mình”, ”Ngàn cánh sen xanh biếc”… mỗi cuốn sách là một đóa hoa thiện lành thật dễ thương trong khu vườn tâm linh đang lớn dần theo năm tháng đời người.
Hạnh phúc hơn, khi gần một thập niên nay, chúng con lại có duyên được gần gũi, hầu chuyện và học hỏi trực tiếp với Bác. Ở Bác luôn toát lên một nguồn năng lượng rất đặc biệt: lạc quan, mạnh mẽ và tràn đầy yêu thương.
Bác là người thầy, người cha, đôi khi là người bạn vong niên – mà mỗi lần chúng con đọc lại sách Bác là một lần… tủm tỉm cười một mình. Cái cười hiền, nhẹ như mây trôi – vì thấy mình trong đó, thấy đời trong đó, và thấy cả một con đường thiền vị đang dần hé mở giữa bộn bề thế gian.
Chúng con tri ân Bác – người gieo duyên lành và đã tiếp thêm cho chúng con niềm tin, động lực và ánh sáng của chánh pháp.
(13.4.2015)
Thân mến,
Đỗ Hồng ngọc.
April 7, 2025
Đọc CÕI NHỚ, thơ Chiêu Đề (Thích Đồng Bổn).
Đọc CÕI NHỚ, thơ Chiêu Đề (Thích Đồng Bổn).
Đỗ Hồng Ngọc
Tôi nhớ, khoảng cuối năm 2011, tôi thường đến Xá Lợi viếng cảnh chùa và thăm thầy Đồng Bổn, nhà thơ Chiêu Đề. Thầy ngồi ở góc phòng trò chuyện với vài người bạn thân, sau lưng có một tấm bảng to đề chữ “Thôi Kệ”. Thầy mời tôi ly cà phê và nói đây là “Quán café Thôi kệ” đó bác sĩ. Rồi mở nhạc Trịnh cho tôi nghe.
Sau này khi tôi là cố vấn Ban Phật học chùa Xá Lợi, tôi thường gặp thầy hơn, cũng đã có vài buổi thầy mời Nói chuyện cùng thính chúng nơi giảng đường Chánh Trí, và mời viết cho Tạp chí Từ Quang. Cũng từ “duyên” đó, tôi trở thành “nhà tham vấn” cho thầy về sức khoẻ. Hoá ra thầy có nhiều bệnh nền quá! Tiểu đường. Viêm gan siêu vi, Dạ dày, Tim, Gan, Phổi…
Thầy tâm sự: “Tôi là hệ lụy của chất Dioxin bác à…/ Sau hòa bình là mất sức lao động hoàn toàn/ Nhờ Phật độ lại ngập tràn hạnh nguyện/ Trả nghiệp xưa trải thêm lắm chuyện/ Dạ dày, gan, tim, phổi chẳng còn nguyên/ Giờ lão rồi cột sống nghịch duyên/ Tiểu đường liên miên chướng duyên tu tập/ Lão bệnh tử hiểu rồi nguyện lập/ Kệ thân đi ta cố chấp làm gì/ Sao cho tâm như mặt nước phẳng lì/ Chuyện đến đi có gì nghi với ngại…..”
Rồi ít lâu sau, thầy cho tôi xem kết quả xét nghiệm mới nhất: Viêm gan đã chuyển thành Chai gan (cirrhosis). Giai đoạn cuối!
Bỗng nhiên thầy “biến mất”. Không biết đi đâu. Thì ra thầy đã “trốn” ra một thiền xá ở miền núi phương Bắc xa xôi, quyết tâm “tu tập”:
Tiếng kêu kẽo kẹt bởi gió mưa
Mái tôn như thở giữa ban trưa..
(Căn nhà gỗ của tôi)
Ở đó, tưởng đã “xả ly” mà lại càng quấn quít:
Cố quên lại thấy nhớ nhiều hơn
Nhìn đâu cũng thấy nỗi cô đơn
Và một “cuộc chiến” đã bắt đầu:
Cái tâm chiến đấu với cái tôi
Không lẽ buông xuôi vì ma chướng
Dã tràng xe cát chẳng đường lui ?
Không dễ chút nào ngay cả với một tu sĩ:
Lối nào hướng đến Chân Như
Bệnh nào cố chữa dường như cháy nhà
Tâm nào còn mãi bôn ba
Ý nào vượn mã vào ra liên hồi
(Lối nào)
Có khi gần như tuyệt vọng:
Nhớ chiều vàng võ ánh hoàng hôn
Ngày trôi nhanh ánh mắt vô hồn
Xuân sắc thời gian nào ngưng nghỉ
Sinh già bệnh chết nấm mồ chôn...
Lạ thay, từ đó, sáng nào anh em, bè bạn vẫn đều đều nhận được một bài thơ online của Chiêu Đề… viết từ căn nhà gỗ.
“Bệnh không ngủ được thì tôi sáng tác chờ sáng, bác à… Làm xong một bài thơ, như trút được nỗi lòng tâm sự, nhẹ nhõm và cảm thấy vui trong lòng. Nỗi đau về bệnh tật cũng vơi đi…”. “Với tôi, hình như làm thơ hiệu quả hơn trong chữa bệnh thân và bệnh tâm, vì nó cảm xúc thực tế cuộc sống của mình…” .
Cõi Nhớ là tập thơ thứ 6 của Chiêu Đề Thích Đồng Bổn. Ông mới gởi bản thảo cho tôi sáng nay và nói bác viết đôi dòng… để in vào tập thơ làm kỷ niệm.
Cõi Nhớ không phải là nỗi nhớ, nhưng cũng đầy nỗi nhớ: Nhớ hoài, nhớ mãi, nhớ thương, nhớ thuở, nhớ về, nhớ quê, nhớ sáng, nhớ chiều, nhớ quên, nhớ đi, nhớ đến…
Đó là Tựa của những bài thơ trong Cõi Nhớ. Những nỗi nhớ cứ chằng chịt quấn quít, phan duyên với nhau như thế mà tạo ra những “chúng sinh” không lối thoát…
Mở đầu tập Nỗi Nhớ là Nhớ hoài,
Nhớ hoài thời lận đận bôn ba/ Nhớ hoài khi tỉnh giấc cuộc đời/ Nhớ hoài lúc khoát áo nâu sồng…
Rồi suốt tuần này đến tuần khác, ông cứ nhớ triền miên không ngớt:
Thứ Hai, nhớ về
Nhớ về quá khứ lắm vô minh
Trượt dài nhân ngã chuốc tội tình
Tánh tướng vốn không, nào thấy lỗi
Đâu ngờ quả báo nghĩ mà kinh!
Thứ ba Nhớ lắm, Nhớ lắm trời đêm dưới bóng chùa; Thứ tư: Nhớ mãi; Thứ năm: Nhớ sao; Thứ sáu: Nhớ thêm; Thứ bảy: Nhớ thương…
Nhớ triền miên, không ngơi nghỉ.
May sao, Chủ Nhựt kịp trở về với CÕI NHỚ:
nhớ Giả, nhớ Không, nhớ Trung đạo, Bất hư, Duyên sinh, Duyên khởi , Vô dư niết bàn…
***
Cõi Nhớ thì đã không còn là nỗi nhớ nữa rồi! Nỗi nhớ chỉ là những “tạp niệm đan xen”, Tâm nào còn mãi bôn ba/ Ý nào vượn mã vào ra liên hồi…
Cõi Nhớ làm nhớ Một cõi đi về của Trịnh Công Sơn “Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt… Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt…” (TCS). Đôi vầng nhật nguyệt ấy là Minh. Hành, thức, danh sắc, lục nhập… gì “thôi kệ”.
Mai này tuệ giác nở hoa
Trở về tánh Phật nương nhà Như Lai.
Đã lý sự vô ngại, sự sự vô ngại rồi chăng?
“…Lý nhân duyên chờ tâm ý mênh mông
Động tĩnh nơi thân lay chuyển càn khôn
Đâu cũng thấy pháp môn chân vi diệu
Và bóng trăng Lăng Già đã sẵn:
Nhớ tìm ánh sáng bóng Lăng Già
Chiếu soi tâm thức ngụ trong ta
Trăng ở đáy sông từ ảnh hiện
Trời đâu lưu dấu vết chim qua.
Cho nên, từ trong Cõi Nhớ, nhà thơ Chiêu Đề viết
Mai này tôi có đi xa
Câu thơ để lại làm quà tiễn đưa
(…)
Mai này tôi sẽ đi luôn
Về trong cát bụi đã tuôn mạch sầu
Thơ buồn ghi lại mấy câu
Trao người đón nhận trên đầu non xa
(Mai này)
***
Khi được hỏi cõi Phật ở đâu? Phật trả lời “Các loài chúng sanh là cõi Phật của Bồ tát” (chúng sinh chi loại thị Bồ-tát Phật độ). Thì ra vậy. Thì ra cõi Phật của Bồ tát không ở đâu xa. Ở nơi các loài chúng sanh thôi. Quanh ta và trong ta. Đó là những chúng sanh muôn hình vạn trạng, nheo nhóc, khổ đau, chằng chịt, quấn quít, xà quần sáu nẻo, bay nhảy không ngừng sáng trưa chiều tối, kiếp này kiếp khác, quần quật không an. Bồ-tát chỉ cần “thành tựu” chúng sanh đó, tức thì cõi Phật hiện ra ngay. Không phải tìm kiếm đâu xa (Duy Ma Cật).
Bây giờ sáng sáng thầy vẫn có một bài thơ gởi đến mọi người từ trong CÕI NHỚ.
Và, hình như, bệnh cũng đã lui dần thì phải.
Đỗ Hồng Ngọc
(Saigon 04/8/2024)
March 28, 2025
Thư gởi bạn xa xôi: Lại Về Nha Trang (3.2025)
Thư gởi bạn xa xôi:Lại Về Nha Trang (3.2025)
Tháng 3 hàng năm, có một Khoá Thiền thực hành dành cho Doanh nhân, do BTC phối hợp với các Thầy Cô Làng Mai thực hiện. Năm ngoái, khoá thứ 6, ở Mũi Né, chủ đề: “Phép lạ là đi trên mặt đất”. Lần đầu tiên, mình được mời tham dự trong một Buổi Toạ Đàm. Năm nay, khoá thứ 7 chủ đề : “Cho đi là còn mãi”.
Mỗi khoá có hàng trăm thiền sinh từ các nơi về, cùng với các Thầy cô Làng Mai hướng dẫn.
Mình “ngoại đạo”, được bạn LBT mời riêng, tuỳ nghi, tự tại, không phụ thuộc chương trình. Nhưng mình cũng có tham gia buổi Toạ đàm, trình bày vài chục phút về giới thứ 5: Dinh Dưỡng và không Uống rượu, không dùng các chất gây nghiện. Mình nói về 4 nhóm thức ăn Phật đã nêu từ xa xưa là “Đoàn thực, Xúc thực, Tư niệm thực, Thức thực“. Đoàn thực là thức ăn cho thân, với Glucid, Protid, Lipid, Mineral, Vitamines… còn 3 nhóm còn lại là thức ăn cho Tâm. Mình cũng nhắc đến nguyên tắc 3 V: Vrai (thức ăn tươi, thiên nhiên, không phải chế biến, dùng hoá chất…), Varíé (đa dạng) và Végétale (thực vật…)
Riêng trong “Đêm Thơ Nhạc”, mình đọc 3 bài thơ: “Thư cho bé sơ sinh”; “Mới hôm qua thôi” và “Bông hồng cho Mẹ”…
Chỉ chút vậy thôi.
Gởi bạn vài hình ảnh coi vui nhe,
Thân mến
Đỗ Hồng Ngọc.

Cũng phải ghé Nha Trang một chút, thăm cái Kiosque còn sót lại ở Quán 4 Mùa.

Buổi Toạ đàm về Ngũ Giới (Không sát sanh/ Không trôm cắp/ Không nói dối/ Không tà dâm/ Dinh dưỡng đúng và không rượu, không chất gây nghiện). Mỗi bạn trình bày về một đề tài.


Lê Bá Thông, Đỗ Hồng Ngọc, Kim Hạnh và các Sư Cô trò chuyện trên bãi biển Cam Ranh.

Đêm thơ nhạc (Cam Ranh 15-03-2025)
March 24, 2025
CON ĐƯỜNG AN LẠC (Phương Nam Book ấn hành)
March 18, 2025
LỜI BẠT: Thơ duyên lê chiều giang nguyễn thị khánh minh
Đỗ Hồng Ngọc
Lời bạt Thơ duyên lê chiều giang nguyễn thị khánh minh
D U Y Ê N
nỗi lá vàng cuối thu
duyên không chỉ làm thơ. duyên vẽ. duyên chụp hình. duyên làm những bookmark thiệt dễ thương để gởi bạn bè, nhắc nhớ mỗi khi lật từng trang sách, vì ngoài kia…
bên khung cửa
lặng nhìn chiếc lá vàng. rơi
một mình…
The Last Leaf
O’Henry,
Cho nên đọc thơ duyên cứ nghe “Chân đi nằng nặng hoang mang… Ta nghe tịch lặng rơi nhanh. Dưới khe im lìm” (TCS)
chợt. hiểu ra rằng
mầu đỏ, vàng kia tự bao giờ… đã
ngấm. ngập
trái tim ta.
Phải, hình như những chiếc lá vàng kia vẫn luôn xào xạc, vẫn luôn thổn thức dưới trăng mờ của con nai vàng ngơ ngác tự thuở nào kia.
và khi trăng mờ, trên núi xa…
có lá vàng. lìa cành vội vã…
có mùa Thu, lành lạnh. gió thu, sang
Cô bé đi vớt mặt trời của Nguyễn Xuân Thiệp không về nữa… nhưng Zhivago thì vẫn về lại mái nhà xưa
Zhivago trên cánh đồng tuyết trắng
tản cư về. về lại, mái nhà xưa
nơi. thi sĩ kể thơ. tình mê đắm
vẫn lạc loài, hình bóng Lara…
Ơi Lara. Rồi Lara hỏi Zhivago:
lá đỏ. lá vàng… đẹp ngỡ ngàng
mỗi độ sang Thu
lá vàng ơi. dặm đường xa. có mỏi
Zhivago còn biết trả lời sao?
Tôi một lần kia đi giữa Boston với cả một mùa thu, trọn một mùa thu. Nhớ Xuân Diệu với “Lá không vàng, lá không rụng, lá lại thêm xanh, ấy là mùa thu đã về, mùa thu mới về, yểu điệu thục nữ…”. Thực ra, lá như ráng níu lại chút xanh, và vì níu lại nên có vẻ chặt hơn, xanh hơn lên mà thôi. Bởi vì rất nhanh, lá bỗng vàng rượm, vàng rực, vàng tía, vàng buốt… và bầu trời rộng ra, thênh thang, yểu điệu kỳ cục. Mới mấy ngày thôi mà cây cứ tô dần tô dần cái màu vàng buốt, óng ả, rực rỡ chen lẫn với xanh đậm, xanh lợt mong manh đó… và sáng hôm sau, rơi từng lá từng lá tràn ngập các lối đi.
Bỗng nhớ Em không nghe mùa thu của Lưu Trọng Lư. Rõ ràng thu không phải để dòm, để ngó, để ngắm, để nghía… mà chỉ có thể để nghe. Mà cũng không phải để nghe tiếng, dù là tiếng lá rụng mà để nghe mùa. Cái tiếng mùa đi, mùa về, cái tiếng đời của mỗi chúng ta. Nó ở trong không gian dằng dặc, đùng đục thênh thang kia, và ở cả trong thời gian hun hút, héo hon rơi rụng nọ.
Tôi bước đi từng bước nhẹ dưới những vòm cây và nghe cho hết tiếng thu về. Dưới chân tôi từng lớp lá rụng, bước chân bỗng như hẫng đi và tôi chợt ngơ ngác như chú nai vàng “xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về” (Huy Cận) đó vậy.
Lạ, ở Mỹ người ta không gọi Autumn – mùa Thu, mà gọi Fall – mùa Rụng, bởi vì chỉ có lúc lá rụng bời bời như vậy người ta mới thấy hết được nỗi vui mừng, nỗi xót xa, nỗi buốt nhớ… không rõ vì đâu. Và vì Fall, mà người ta dễ “fall in love” có phải? (Nghe tiếng thu giữa Boston, ĐHN, 1993).
ngày cuối Thu buồn tênh…
vầng trăng chưa tỏ
bóng những chiếc lá
thoi thóp trong đêm
sẽ vùi chôn theo…
mùa Thu chết!*
Đọc thơ duyên không chỉ thấy nỗi buồn dằng dặc bởi thu phai mà còn thấy lòng mình như rộng mở, như những chiếc lá thu ngập thềm nhà, đẫm ướt mưa đêm mà còn biết chất chồng lên nhau cố giữ hơi ấm cho nhau…
trở về. sân nhà ngập lá
phủ kín lối đi… cây ginkgo vườn sau trơ cành. gầy guộc
sót lại. vài chiếc lá trơ vơ
thềm lá vàng
chất chồng lên nhau, chen mầu nâu, đỏ
đẫm ướt dưới mưa đêm
cố giữ hơi ấm cho nhau…
ngày tàn thu
Tôi chắc, một hôm thu kia, thế nào một chiếc lá vàng sẽ lắt lay trong gió nhẹ, mênh mang và vĩnh cửu, chiếc lá vàng được vẽ bởi duyên chớ không phải bởi O’ Henry, phải không duyên?
LÊ CHIỀU GIANG
trên sông khói sóng… (*)
Thơ Lê Chiều Giang không phải thơ. Nó là tiếng thét, là tiếng thở dài não nuột. Đọc Lê Chiều Giang thấy một người thơ, sống như thơ, thở như thơ, sáng trưa chiều tối, từ trong tranh bước ra, ngồi đó, ngó quanh, không thấy ai, lại bước vào trong tranh.
Chợt nghe xa xăm như có ngàn tiếng gọi.
Gió âm u, gió lồng lộng rừng khuya…
Lê Chiều Giang vẫn cứ lẽo đẽo tìm theo những rêu phong của ngày tháng cũ, nhiều lúc muốn xổ lồng bay xa mà vẫn ngập ngừng e sợ…
Cánh cửa
Sầm. Đóng lại
Chìa khóa? Quăng lên trời.
Ta.
Bước chân phiêu bạt
Tay không,
bày cuộc chơi.
Rồi hét lên tôi cứ lẳng lơ, tôi rất lẳng lơ viết những chữ mông lung, vật vờ như gió… sáng trưa chiều tối.
Vẫn có một bờ vực không thể vượt qua, cho dù cứ lẳng lơ, rất lẳng lơ như thế! Để rồi
Đứng mãi trong tranh
Đóng vai:
Góa phụ
Sáng nay ta
Ra với mặt trời
Như kẻ xa xôi về lại trái đất…
nhìn quanh quất, vội vã bước trở lại trong tranh để:
… Diễn tiếp
Hỡi thế gian
Ta.
Bỏ cuộc chơi.
(Đầu hàng).
Trong tranh, Lê Chiều Giang có lúc như ngựa chứng, tóc bờm tung bay phi nước đại, cổ vươn cao ngoằng hí vang, dưới bóng trăng huyền hoặc lẫn bóng tối u mê giữa ngàn lá biếc. Sự cách điệu không hài hòa làm cho gương mặt có sắc sáng như trăng, lại thêm chút bóng tối của u mê. “Mắt tôi xếch và sắc như kiếm dao, bướng bỉnh đầy ngạo mạn, điểm thêm với miệng cười khinh bạc”.
“Chút khinh bạc, không biết bao lần đã nương bên tôi, đứng thẳng cùng tôi giữa đất trời, bên một dòng đời vô cùng nghiệt ngã…”(Lê Chiều Giang).
Giờ thì tôi hiểu có một hôm nào, Lê Chiều Giang đã gởi tặng Đỗ Nghê bài thơ Thiền giả: Ta đảo điên. Ta bất chấp. Ta bới tung… Ta quăng kiếm. Ta bẻ gươm. Ta nằm im. Ta giả chết… Toàn là hư chiêu hết đó thôi nhe! Đừng vội tưởng thiệt.
Chợt nghe xa xăm như có ngàn tiếng gọi
Gió âm u, gió lồng lộng rừng khuya
Bay trên cao mà nhớ
Bước chân đi…
Sấp ngửa lưng trời. Ta
Tĩnh tâm
Ta. Thiền định
Thì ra, đã là Sa Di Ni… từ lúc nào không biết. Cứ tưởng ngổ ngáo, ngang tàng, chọc trời khuấy nước… ai ngờ vẫn đắm chìm trong một cõi vời vợi, xa xăm…
Thiền Giả
Như đệ tử Kim Dung. Múa
trên đầu kiếm sắc
Ta đảo điên.
Ta bất chấp. Ta
Bới tung… Chẳng hiểu ra
đời.
Đã rất bao dung
Rất nương nhẹ
Để ta còn sống sót
Khi thất bại
Ta biết vờ đợi chết
Giả nằm im. Nghe
trái đất ngả nghiêng
Quá thấm đòn
Ta quăng kiếm
Ta bẻ gươm
Cũng biết thân. Ta ngồi im
Góc tối
Chợt nghe xa xăm như có ngàn tiếng gọi
Gió âm u, gió lồng lộng rừng khuya
Bay trên cao mà nhớ
Bước chân đi…
Sấp ngửa lưng trời. Ta
Tĩnh tâm
Ta. Thiền định
Cứ tưởng ngang tàng bướng bỉnh, “giang hồ mê chơi quên quê hương”, ai dè mới nghe tiếng cơm sôi đã nhớ nhà, đã thút thít. Phải chi có một ông Bụt hiện ra hỏi: Sao con khóc?
Ta như đêm mịt mù
Giữa trùng trùng duyên khởi.
Quanh một vòng trái đất
Thèm trở lại chốn xưa
Ngồi bên hè phố cũ
Tỉ tê. Khóc. Nhớ nhà.
Thì ra là một nỗi oan. Không ai thấu hiểu.
Buồn ngang xương. Để
Thất thoát niềm vui
Tìm nghĩa lý trong điều
Không ai hiểu. (Vỡ nợ)
Có những nỗi oan
Tính viết lời chống đỡ
Mà mực khô, mà
Ý cạn. Tay run. (Tịnh khẩu)
Mổ trái tim xem:
Không gì trong đó
Mở đôi bàn tay:
Những thứ chẳng còn. (Lâm chung)
Đọc Lê Chiều Giang mà thương hơn cho một nhan sắc, một tính cách, một người sống với cõi đầy thơ… Để có những buổi “chiều buông trên dòng sông cuốn mau…”
Để rồi, nhận ra cõi vô lượng tâm:
“Bể sầu không nhiều, nhưng cũng đủ yêu…”
(Chiều về trên sông, Phạm Duy)
(*) trên sông khói sóng cho buồn lòng ai… (Tản Đà, dịch Hoàng Hạc Lâu).
NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH
thơ rắc bùa hương
Khi viết xong bài thơ
Đôi khi. Tôi khóc
Có phải vì lời đã nói về nước mắt
Trong lòng đêm ma mị
Khi viết xong bài thơ
Tôi thường hay xóa
Dường như tôi sợ bóng tôi
Giãy chết giữa những con chữ đói
Khi chấm hết bài thơ
Tôi hụt hẫng. Như chưa thể xong lời
Là bởi, bài thơ tưởng “hoàn tất” kia vẫn giữ mong manh những con chữ đói, giữ những từ đợi chờ, nên thi sĩ chẳng bao giờ hoàn tất nổi một bài thơ.
Sau một vụ mùa
Tôi chỉ đem về được đôi ba hạt lúa chín
Chút mầu vàng của nó lấp lánh trên tay
Bài thơ hoàn tất. Là một điểm hẹn quyến rũ
Nhưng phút mong manh giữa những từ
Là lúc đóa hoa đang nở.
Đang tỏa hương
Tôi có gì đâu phải vội
Cho nên “Nếu có tìm tôi xin hát bằng nhịp tim bổng trầm lời tình tự…”
Hãy nghe thi sĩ nói những lời tình tự bằng lời ma mị, bằng thứ bùa mê, thuốc lú với những con chữ đói như thế nào
Tình Yêu
Trong nét vẽ dịu dàng của vòng ôm
Tôi chiếc lá cong
Âm thanh mềm một vũ khúc
Quyến rũ mầu đêm phủ
Tôi bờ đất ấm
Nghe từng hạt cát hòa âm
Âm thanh đi tới
Âm thanh của hòa tan…
Nhưng tình yêu không chỉ là đôi lứa, là vòng ôm là vũ khúc là hoà âm, mà tình yêu còn là đồng lúa chín vàng, là con tầu chở chuyên hội ngộ, là tiếng cửa reo sum vầy, là bếp ấm báo tin no đủ… Là nỗi ước mơ một ngày nào đó trong cõi chiêm bao
… Tôi sẽ thắp ánh sáng của sao hôm không có nước mắt chiều phai, của sao mai hẹn về khung trời đang mở nắng. Tôi sẽ treo trước cửa sổ phòng người tiếng hót một loài chim sớm đánh thức ngày vui. Tôi sẽ kéo tấm rèm chở che một điều đang bắt đầu trong khép lại một ngày ơn phước, nếu có tìm tôi…
Tôi biết. Tôi sẽ được cất tiếng. Trong mùa thơ quyến dụ ấy với ngôn ngữ tình nhân. Ngôn ngữ tôi nghe một lần trong xứ sở chiêm bao. Khoảnh khắc giấc mơ tôi thực sống…
Cơn bão rớt sẽ đến rồi sẽ qua. Và, chỉ cần có thế: “me tôi ngồi may áo, bên cây đèn dầu hao, cha tôi ngồi xem báo, tôi nghe tiếng còi tàu… “(Phạm Duy).
Phải rồi, chỉ có ở đó, người ta mới có thể … “có tiếng chim trao lòng tin cậy; có bờ vai nương tựa sớm hôm; có những ánh mắt sao trời thơ trẻ”; và đôi cánh bay lên những ước mơ đằm thắm ngọt ngào của người thi sĩ, luôn nhắc nhở mình “đừng như bóng mây tan”.
Phải rồi. Chỉ ở đó mới có tiếng reo vui Tat-bà-ha của Tâm kinh Bát nhã khi thấy biết “ngũ uẩn giai không/ độ nhất thiết khổ ách”. Bát nhã (Prajnã) là cái nhận thức có trước nhận thức, là cái trí tuệ có trước trí tuệ, không đếm đo, toan tính, nó vậy là nó vậy. Và chỉ ở đó, người ta mới thực sự hồn nhiên, thực sự reo vui: Tát-bà-ha!
Tiếng chim ríu rít mách tôi sự trong trẻo ban mai trao lòng tin cậy.
Bóng đêm mở nỗi sợ cho tôi tìm ra ánh sáng bờ vai nương tựa.
Những vì sao tặng tôi cách nhìn ngây thơ trong sáng. Gió cho tôi đôi cánh và đường bay mơ ước con người. Bóng mây tan nhắc tôi mỗi phút giây ở lại bên mình yêu dấu. Tiếng cười bé thơ cho tôi nghe reo vui lời tâm kinh bát nhã. (Khoảnh khắc giấc mơ)
Cảm xúc với tranh Những Con Chim Ngược Gió của Họa Sĩ Đinh Cường, Khánh Minh viết, những bùa hương: Vừa quay lại đã muôn trùng đá lạnh
Bảng pha mầu lấm lem ngày tháng bụi
Tiếng cọ ngày xưa thở ngoài khung tranh
Trời đóng lại. Một đường đêm thăm thẳm
Ai đi qua. Vệt mầu bạc thếch
Sông thời gian đặc quánh ảnh hình
Vừa quay lại đã muôn trùng đá lạnh
Và gió, một mùi hương nồng nặc bùa mê trên sợi tóc vai người
Bay đi. Bay đi.
Bay qua dải thiên hà buồn bã kia. Mà về.
Trên vai người sợi tóc thơm hương tinh tú.
Tôi nhóm lên một ngọn lửa
Gió thổi tắt đi
Tôi nhóm lên một ngọn lửa nữa
Gió lại thổi tắt đi
Khi tôi không còn hy vọng
Thì gió
Lại làm những que tàn kia bắt lửa…
Đừng quên, chính những bùi nhùi năm tháng kia, không mất đi đâu, chỉ ủ một mùi hương chờ đợi ngọn gió từ cõi xa kia bùng thổi. Cho nên người thơ viết: Nên tôi quý những điều tôi đã nhận/ Nên tôi tận lòng với những điều đang ở.
Còn có cách nào hơn là “mở con đường trú ngụ hơi thở tịch lặng” – Anapanasati- ở đó, hiện tại là sát-na mênh mông không ngằn mé. Và chỉ ở đó:
Trong sáng láng ấy tôi đã gặp nhà thơ Mặt Trời. Lồng lộng nắng phương đông, chắt chiu hết tinh khôi nhân ái rắc xuống cánh đồng thơ diễm ảo. Tôi thức giấc từ lời hát của một bông cỏ dại người ban tặng và mảnh vỡ trái tim tôi thành những hạt pha lê được nuôi sáng bằng lời thơ dâng hiến…
Và một khi đã thấy biết (tri kiến) như thế, khi đã reo vui như thế, thì người ta sống với yêu thương, sống trong yêu thương, sống vì yêu thương:
“Yêu thương nhé” “nói cùng lá cứ sống hết mình xanh”, “yêu thương ơi xin thức dậy cùng người…” “yêu thương ơi khoảnh khắc xum vầy đơn sơ thế xin một lần được cất cánh bay”.
Rồi tự dặn với lòng: “yêu thương ơi chút lòng riêng xin chắt chiu nghe… “Cho dẫu chiều rồi phai nắng…” (Yêu thương ơi)
Nếu có tìm tôi. Xin trông chờ mảnh sáng sao băng. Nếu có tìm tôi xin hát bằng nhịp tim bổng trầm lời tình tự… Nếu có tìm tôi. Xin theo dấu sáng đom đóm quyện hương bờ dậu quê nhà. (…). Cho tôi đôi cánh hoa bay về miền đồng lúa chín vàng. Ngôi làng không bận lòng gì hơn là sống bình yên. Có con tầu đi về chở chuyên hội ngộ. Mỗi tiếng cửa mở ra là một tiếng reo sum vầy. Mỗi bếp lửa là mỗi báo tin mùa màng no đủ. Nếu có tìm tôi…Trên bước gió mở ngàn khơi nơi cuối cùng là phương Đông ấm một mặt trời… (Khoảnh khắc giấc mơ).
Hoang mang thế nhưng rồi, như một nhà thơ từng viết: Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy! Khánh Minh thì “Tôi đi tìm những trang bản thảo, mảnh đất tị nạn bình yên của tôi. Nơi có trò chơi trốn tìm dưới ánh chớp những chùm sao đang va vào nhau vang dội. Âm thanh ẩn mật là chiếc chìa khóa cuối cùng tôi phải mở, cõi thách thức cảm xúc phục sinh.
Tôi nhặt được một trang bản thảo lem luốc đầy vết xóa và tôi nghe tiếng tim mình còn hồi hộp đập…” (Trong cơn bệnh).
Phải, “Còn hồi hộp đập” nghĩa là còn sẽ nhặt nhạnh thêm.
“Em hồn nhiên rồi em sẽ bình minh” thôi mà! Phải không?
Đỗ Hồng Ngọc
(Saigon, 30.10.2024)
Thơ Duyên, Lê Chiều Giang, Nguyễn Thị Khánh Minh
Thơ Duyên, Lê Chiều Giang, Nguyễn Thị Khánh Minh
Tranh Bìa: Nghiêu Đề (1981)
Trình bày bìa: Đỗ Thanh Tùng
Trình bày trang trong: Hà Thu Hương
Tựa: Nhà Thơ Nguyễn Xuân Thiệp
Bạt: Nhà Thơ Đỗ Hồng Ngọc
Nhận định: Nhà văn Trịnh Y Thư
Nguyễn Xuân Thiệp
TỰA TẬP THƠ BA NHÀ THƠ NỮMột ngày đầu thu, ngồi viết đôi trang về thơ của ba nữ lưu thời nay, sao bỗng thấy lòng xúc cảm lạ thường. Như ngày nào khi dạo chơi trong khu vườn Gitanjali bỗng gặp lại bông siêu ly thuở còn mơ mộng. Như ngày nào khi hoàng hôn xuống lái xe qua cây cầu cao ở Baton Rouge bỗng thấy vầng trăng lồng lộng trên sông. Hay như cách đây hơn mười năm, khi đi chơi vùng biển Laguna bỗng gặp lại người xưa – đầu đội nón rộng vành, mang kính đen, ngồi dưới bóng dù, tay lật xem thơ Tôi Cùng Gió Mùa. Vậy đó. Xin mời bạn đọc theo dõi những trang sau đây viết về ba nhà thơ nữ: duyên, Lê Chiều Giang và Nguyễn Thị Khánh Minh. Ô, lần đầu tiên ba nhà thơ nữ họp mặt nhau trong cùng một tập thơ. Một cuộc hội ngộ tuyệt đẹp.
Xin được mở đầu với thơ duyên.
Thơ duyên ít xuất hiện trên sách báo nhưng bạn bè biết nhiều về duyên qua những Blogs thân quen của Phạm Cao Hoàng, Trần Thị Nguyệt Mai, và Phố Văn, hay qua emails khi chuyện trò trao đổi. Duyên thường thực hiện những bookmarks và vẽ những bức tranh nhỏ gợi cảm gởi tặng bạn bè có khi kèm theo những bài thơ ngắn dễ thương. Chúng ta có thể đọc, nhìn thấy qua phần Thơ Duyên trong tuyển tập. Riêng tôi rất thích hai bức Mùa Thu Chết và Lá Đỏ cùng những mảnh tình duyên gởi trong thơ.
Đọc thơ duyên ta gặp một hồn thơ mở ra với thiên nhiên, nhân hậu, hòa ái với người, với đời. Duyên yêu mến thiên nhiên, hòa hợp với thiên nhiên. Thiên nhiên trong thơ duyên như tranh của họa sĩ hiện ra với đường nét bay múa, sắc màu rực rỡ, như trong bài: Về. Với Mùa Thu
sau chuyến bay dài
đêm thâu. không ngủ
chờ. mặt trời
đợi. sáng, nắng bình minh.
dễ thương chi, khi
mùa thu. vẫn… đó
đợi. chờ.
kìa, cây ginkgo nhỏ
vàng tươi.
trong nắng sớm.
lá nhu mì. vẫy. gọi
bước chân ai, về
lãng đãng. mù sương.
Duyên yêu mùa thu. Mùa thu hiện ra với nhiều dáng vẻ trong thơ duyên:
lại kể nhé
chuyện vườn xưa. khi mùa thu tới
ba cây đào, đổi lá vàng. ngập cả lối đi
cây redwood, lá màu hổ hoàng. tuyệt đẹp
mỏng manh trên cành, đâu sợ mùa đông
Thiên nhiên chuyển màu rất đẹp từ thu sang đông với ý tình cảm xúc:
rồi ngày lập đông. tuyết rơi. rơi. mãi…
cành, trụi lá. màu chì. ảm đạm
nhìn ra trời. trời. đất, quá bao la
mùa đông lê thê…
nhớ. Zhivago trên cánh đồng tuyết trắng
tản cư về. về lại, mái nhà xưa
nơi. thi sĩ kể thơ. tình mê đắm
vẫn lạc loài, hình bóng Lara…
Thiên nhiên trong thơ duyên hiện ra với vẻ rực rỡ dù trong cảnh mùa đông. Thiên nhiên hay mùa thu còn làm nền cho cái chết của người thi sĩ. Những chiếc lá khô rụng xuống, chất chồng đủ nhóm lên lửa ngọn. thi sĩ về trong những chiếc lá khô:
gió đã đổi mùa
không gian. lạnh
trong mênh mông
đất trời
gió cuốn. lá rơi…
đủ. để đốt thành lửa ngọn.
ngọn lửa. bập bùng
đêm trăng, khuyết
người thi sĩ
đã về. trong
những chiếc lá khô…
Lá đỏ của mùa đông còn là cái chết của người bạn nhỏ, tên Ch.
Em
chiếc lá nhỏ, thật đỏ, quá đẹp của mùa thu
sao lìa cành vội vã. sớm đông
chiều qua. có lẽ là em
con chim nhỏ
về…đậu lại trên cành cây trụi lá
trong tuyết trắng mênh mông
chim buồn, nên không hót.
Trong thơ Duyên còn có tình bạn. Duyên cảm thông những mất mát đau đớn của bạn bè nên chia sẻ cùng bạn những tình cảm chân thật. Đinh Cường, Trần Hoài Thư, Nguyễn Bắc Sơn, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Xuân Thiệp… và nhiều người nữa được nhắc tới trong thơ duyên. Đây là những người bạn của cõi văn chương ở những năm tháng lãng đãng của cuộc đời.
Với Đinh Cường, một tình bạn của hội họa và văn thơ. Đinh Cường là người hiền hòa dễ mến, bạn bè ai cũng yêu quý. Sinh thời, Đinh Cường từng vẽ chân dung cho duyên và làm thơ tặng. Những câu thơ, bức tranh luôn nhắc tới một tình bạn như vầng trăng đầu núi. Trên chuyến tàu nào, lần cuối trở về, có giọt lệ trên mi mắt…
Với Trần Hoài Thư là qua thông cảm từ trang sách đề tặng với nét chữ run run và cơn bệnh đột quỵ của nhà văn hiền hòa. Ôi những tình cảm thân thương quý biết nhường bao.
Nguyễn Bắc Sơn, người đã ra đi còn để lại bóng hình và những câu thơ như Thương tiếc đám mây bay. Cuộc chiến khốc liệt đã để lại nhiều mất mát. duyên đã cảm thông sâu xa với phận con người trong chiến tranh.
Đỗ Hồng Ngọc và Nguyễn Xuân Thiệp, hai người bạn văn chương khác, duyên nhớ đến, khi lần giở những trang thơ: về thu xếp lại (ĐHN), cô bé đi vớt mặt trời (NXT), bức tranh thơ (NXT).
Duyên với tấm lòng nhân hậu đã cùng hai bạn tìm về những kỷ niệm đầm ấm, cả những đổ vỡ trong đời, để cảm thông, chia sẻ.
Với Nguyễn Tất Nhiên, nhà thơ đã một thời đơn phương yêu duyên với mối tình cuồng si, yêu như thiên tai không bờ cõi – duyên nhắc về Nhiên bằng trích dẫn thơ. Và rồi như cánh buồm la paloma xa xưa trôi đi không về lại. Còn nhiều, còn nhiều bạn bè nữa, được gọi tên trong thơ duyên.
Tình yêu gia đình trong thơ duyên thật thắm thiết. Nó được thể hiện qua bốn đứa cháu. Oliver, Millie, ViVi, Larkin. Tôi biết các cháu qua hình ảnh duyên gởi. Duyên sang thăm ViVi khi cháu đầy tháng tuổi, về lại nhà ở bên kia hồ Michigan. Chiều xuống bà ở bên đây hồ Michigan nhìn sang bên kia, Chicago gởi những nụ hôn cho cháu. Thiệt là dễ thương.
Với các cháu khác, duyên đều rất thương yêu. Hãy nghe duyên trò chuyện với Oliver: Đóa hoa đỗ quyên nở ấm áp khi nghe tin cháu ngoại Oliver nhắn qua điện thoại: cuối tuần sẽ về thăm bà. Oliver sẽ đem soup (wonton soup) nấu cho bà vì nghe bà đang bệnh. Đọc thơ duyên xem đối thoại giữa ba bà cháu, với ViVi và Larkin, dễ thương quá.
Bằng lối viết tự nhiên, thơ duyên mang đến cho người đọc lòng tin yêu. Ta thấy ở đó một hồn thơ nhân hậu và hòa ái.
Bây giờ xin nói về Lê Chiều Giang.
Sự xuất hiện của Lê Chiều Giang mặt nào đó có thể nói như vầng trăng trong đêm nguyệt thực. Nói đến thơ Lê Chiều Giang không thể không nhắc đến Nghiêu Đề, họa sĩ là chồng nhưng cứ như là người tình mãi mãi.
Tôi gặp Nghiêu Đề lần đầu tiên ở Đà Lạt trước 1975 ở nhà một người bạn gái. Nghiêu Đề nói chuyện rất vui và có duyên. Sau 1975, tôi gặp lại Nghiêu Đề và Giang ở một quán cà phê bên chợ Thanh Đa. Tôi ở lô J và Nghiêu Đề ở lô G của cư xá. Sau này đọc những bài viết của Chiều Giang, tôi biết thêm thời đó Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Trần Quang Lộc, Duy Trác, thường họp mặt hát hò ở căn nhà của Nghiêu Đề hoặc trên chiếc thuyền nhỏ trên sông Thanh Đa.
Sang Mỹ, trong một cuộc hội ngộ Văn Học ở hội báo Người Việt do Khánh Trường tổ chức, có Thái Thanh, Mai Thảo, Lê Uyên Phương và nhiều người nữa. Nghiêu Đề nói đùa với tôi: “Tôi đã đọc nhiều thơ của ông trên Văn Học, ông phải trả tiền cho tôi đó nghe.” Thời gian trôi qua, Nghiêu Đề đã ra đi vào năm 1998.
Tôi đọc được những bài thơ ngắn của Giang trên Văn Học. (Bút hiệu Lê Chiều Giang chỉ bắt đầu có khi Giang tham dự bài trong “Nguyễn Xuân Hoàng trong và ngoài văn chương” do Da Màu thực hiện năm 2014).
Trong một dịp gặp lại Lê Chiều Giang sau đó tại nhà Nguyễn Mộng Giác, tôi xin Giang đăng lại một số bài thơ đó trên Phố Văn, và cho Giang biết tôi đã viết bài tiễn đưa Nghiêu Đề trên tạp chí Phố Văn.
Từ đó không có dịp gặp lại Chiều Giang nữa. Mấy năm sau, tôi được đọc thơ Giang và cảm thấy yêu thích. Thơ của Giang thường là ngắn, như một tiếng kêu đau đớn biến thành uất hận, như một cơn đồng thiếp của cảm xúc và chữ nghĩa.
Qua những gì đọc được, ta biết tình yêu của Giang và Nghiêu Đề gần như một huyền thoại giữa đời thường. Từ lúc còn là học trò dưới bóng mẹ cha, Giang đã thường xuyên bỏ học, trốn nhà thờ, đến với giới họa sĩ chỉ vì mê mùi sơn dầu của những bức tranh. Cuối cùng đã mê luôn chàng họa sĩ tài hoa.
Mối tình đó theo Trịnh Cung là một tình yêu đẹp, mê muội và dữ dội. Dù không đưa Chiều Giang đến chỗ phải tự tử theo chồng như nàng Hébuterne của họa sĩ Modigliani. Giang vẫn tiếp tục sống trong cơn mê loạn, và Thơ đã cứu rỗi nàng cũng như đã làm thăng hoa mối tình khiến nó trở thành vĩnh cửu. Cũng như Hébuterne, Giang là người mẫu của Nghiêu Đề trong nhiều bức tranh. Bức tranh cuối Nghiêu Đề vẽ Giang. “Vệt màu đỏ mỏng chàng vẽ dưới mi mắt nàng như sợi máu rỉ ra từ tình yêu dành cho nàng mà chàng sắp phải từ biệt.” Trịnh Cung đã nhận xét như thế.
Ta phủ xác người bằng bức tranh xưa
Nét vẽ sắc
Như ngàn dao cắt
Vẽ mắt ta từ ngày mới gặp
Mắt tàn phai. Mắt của tàn phai. (Một chín chín tám)
Thơ của Giang đúng là một thiên tình sử đầy giông gió thỉnh thoảng ẩn hiện một vầng trăng ảo.
Tôi gọi nó là Thiên Tình Sử của Trái Tim Điên. Theo bước chân thơ của Chiều Giang ta đi vào cuộc lữ hành của cõi mê hoang, nghe ra tiếng thét, tiếng cười khan, và cả tiếng khóc.
Ta chôn chồng ta
Một lần.
Duy nhất.
Ở giữa rừng gai không hoa trái mọc
Đất.
Đá.
Rực cháy những lửa điêu tàn
Ta đứng giữa trời
Lặng thinh.
Không khóc. (Một chín chín tám)
Ta ngồi một mình
Trên nóc nhà
Buổi sáng
Trước ngày bỏ đi
Khói thuốc tan trong mây
Rượu.
Đổ đầy máng xối (Lên đồng)
Chiều Giang ngồi trên nóc nhà và la hét, thấy những hồn ma cũ vật vờ bay, nghe những tiếng xưa vang vọng và hát như điên trong cơn đồng thiếp. Và có lúc đành phải đốt nhà…
Bới tung.
Từng góc nhà
Xó bếp
Tay nâng niu những tháng ngày xưa
Có bao năm?
Mà như thiên cổ
Nhà ơi.
Giữ lại giùm ta những gió mưa
Giữ lại giùm ta ngàn tiếng nói …
… Ra đi
Đốt lửa căn nhà trống
Vung vãi tàn tro
Khắp đất trời. Và
Xóa bàn đi làm lại hết
Ta thả đời ta. Giữa
gió bay. (Đốt nhà)
Ta biết Giang từng là người mẫu, nhưng đứng mãi trong tranh làm góa phụ cũng chán, nên phải bước ra với mặt trời. Nhìn quanh đã chẳng thấy ai, cất tiếng gọi cũng không ai trả lời bèn bước trở lại trong tranh như bỏ một cuộc chơi.
Muốn bỏ cuộc chơi nhưng không được nên lại bước ra, tiếp nối cuộc hành trình của mệnh số. Có khi muốn làm thiền giả, ngồi trong góc tối hay đi giữa trời lộng gió, làm sa di ôm bình bát đứng giữa trời mưa nắng cho đến khi ngày hết, bình bát chỉ còn chứa đầy bóng trăng. Cứ ngang ngang bương bướng để mơ thành họa sĩ, vẽ bức tranh siêu thực với màu đỏ trên tóc và xám xanh trong mắt. Tay không mà bày cuộc chơi vượt cả Lưu Linh, Tản Đà, Phạm Thái, Tử Kỳ.
Lưu Linh? Ờ, Lưu Linh
Tản Đà? …Ta chấp hết
Mắt sắc như kiếm dao
Chém chơi. Vài
Phạm Thái… (Bỏ nhà)
Thơ Chiều Giang là thế. Những bài thơ ngắn, ngôn ngữ trực tiếp, sắc bén, với lối ngắt dòng khác lạ, tạo hiệu ứng rung cảm nơi người đọc. Thơ Lê Chiều Giang là tiếng ca tiếng khóc trong cơn đồng thiếp của hiện sinh mê cuồng.
Thơ, như chưa từng bao giờ có thơ như thế.
Và đây thơ Nguyễn Thị Khánh Minh.
Trước hết, thơ ấu của Nguyễn Thị Khánh Minh đã là thơ. Đồng lúa, con sông, ngôi nhà ở làng Thuận Mỹ, Ninh Hòa, ánh trăng bên bờ giếng cũ, những bông hoa giấy trên sân nhà ở Nha Trang, tiếng còi tàu, bước chân của cha trở về… hồn thơ của Nguyễn Thị Khánh Minh nở ra từ đó. Khánh Minh làm thơ ở tuổi còn để tóc bum bê cắp sách đến trường. Ấy có lẽ do ảnh hưởng của cha mẹ. Song thân của Nguyễn Thị Khánh Minh đều là nhà thơ, chủ nhân của lầu thơ Minh Minh. Nơi đó thường có mặt Vũ Hoàng Chương, Hà Thượng Nhân, Hồ Điệp, Nguyễn Đức Quỳnh… Ở lầu thơ Minh Minh của cha mẹ, Khánh Minh đóng vai cô bé pha trà và rồi ngâm thơ theo chỉ dẫn của Hồ Điệp. Từ lầu thơ của cha mẹ, hồn thơ Nguyễn Thị Khánh Minh đã lớn dậy cùng với những tháng năm với hoa lá và mây trời. Nguyễn Thị Khánh Minh mang thơ qua sân trường Luật và những nẻo đường của phố xá Sài Gòn. Và, cho đến bây giờ.
Tôi xin an lành gom hết những lời kinh nguyện. Bầu trời no tin cậy. Mầu xanh phủ hết tai ương cho con người và trái đất chan hòa nương tựa. Tôi sẽ tìm về đêm bé thơ thỏ thẻ với cha điều ước mơ chưa từng nói. Nếu có tìm tôi. Xin chờ mảnh sáng sao băng.
Vậy xin nương theo ánh sao đến với thơ Nguyễn Thị Khánh Minh. Thơ Nguyễn Thị Khánh Minh, cũng như thơ Lê Chiều Giang, thơ duyên, không theo bất cứ khuôn khổ tiết tấu nào. Nó là nhịp đập của thời gian và hơi thở người. Thơ Nguyễn Thị Khánh Minh còn là thơ xuôi, thơ tản văn, mở ra một cõi trời hoang mơ.
Đọc thơ Nguyễn Thị Khánh Minh ngay từ bài đầu tuyển chọn ở đây đã thấy tâm hồn nhà thơ mở rộng với đất trời và nhân gian. Cảm động là cô muốn đem chia sẻ cùng cha những tình ý ấy như thuở còn thơ.
Trong bài thơ Khoảnh Khắc Giấc Mơ, cô bé Khánh Minh muốn dâng hết lời kinh nguyện cho bầu trời bình yên với màu xanh phủ hết tai ương. Và cô sẽ tìm về một nơi với vạt đèn khuya ủ những ý thơ trong cơn mơ, vì “tất cả mọi cảm hứng thi ca đều là giải mã những giấc mơ”. Và cô nguyện nếu có bay đi xin bay về đồng lúa thuở ấu thơ nơi quê nhà bình yên, với con tàu chuyên chở hội ngộ, tiếng cửa mở sum vầy và bếp lửa trong căn nhà xưa. Còn nữa, thơ sẽ thắp lên ánh sáng của sao hôm và sao mai, cô sẽ treo tiếng chim trước cửa để đánh thức ngày vui. Trong ánh chớp của thanh xuân về lại, Nguyễn Thị Khánh Minh sẽ theo con sóng nhỏ về nơi biển xanh hiền hậu của thời ấu thơ và ai kia muốn tìm lại hình bóng của người làm thơ Nguyễn Thị Khánh Minh thì xin đến với hàng liễu xanh và con trăng mới mọc…
… Nếu có một nơi để nhớ. Vạt đèn khuya trỗi lên bài ca năm tháng. To nhỏ câu thơ phút hôm nay ta sống cùng người. Nếu có tìm tôi xin hát bằng nhịp tim bổng trầm tình tự. Nơi giấc ngủ một người, trái tim vẫn hoài đập trong khoảnh khắc của giấc mơ…
… Nếu thanh xuân là quà tặng. Sinh cho tôi đời lá non. Sẽ sống tận cùng xanh, hết sức. Từng hạt mầm nuôi tôi trở lại cho dẫu hơi thở kia có không ngừng lặp lại nỗi đau. Tôi sẽ về hay tôi sẽ đi. Lời chào ấy là phút tôi trao nhận một món quà vô giá.
… Tôi biết. Tôi sẽ được cất tiếng. Trong mùa thơ quyến dụ ấy với ngôn ngữ tình nhân. Ngôn ngữ tôi nghe một lần trong xứ sở chiêm bao. Khoảnh khắc giấc mơ tôi thực sống…
Đó là tiếng nói của thơ. Tôi chưa thấy ai thao thức với thơ trăn trở với thơ như Nguyễn Thị Khánh Minh. Khi viết xong bài thơ có khi cô khóc, và lạc giữa cõi thơ như trong cơn mộng du. Cô mê sảng, cười điên cùng bài thơ, những con chữ có khi là những giọt lệ. Cô nằm gai nếm mật hình thành bài thơ.
Trong cơn mộng du chữ nghĩa, Nguyễn Thị Khánh Minh muốn thơ mình lang thang qua khắp cõi bờ nhân sinh, Thơ đi vào quán nụ cười như để tìm vui. Đi vào quán đêm xin một giấc mơ, rồi đi vào trường kịch nhân gian, vào con đường của kiếp dã tràng, ghé thăm quán hoàng hôn, vào lòng đóa hoa xin mật ngọt, vào chung với bầy kiến, vào đồng lúa, vào dòng sông… Tất cả là đi tìm hơi thở của sự sống…
Đọc thơ Khánh Minh ta như được cùng tác giả hòa chung nhịp thở với thiên nhiên, bởi đó không chỉ là ngắm nhìn với nỗi ơ thờ mà hòa nhập với thiên nhiên. Xin cùng với nhà thơ bước vào đêm, hóa thân với sao trời và gió như có linh hồn – sao tắt, hồn rơi và gió khóc đưa tang. Đêm thì ngất lịm trong chiêm bao, nghe tiếng ngày đi run rẩy, nghe hồn cỏ thao thức, cây trút lá bơ vơ – rồi ngày lên mang chút niềm vui sót. Nhà thơ đi vào đêm, đem theo nụ cười, chia sẻ những rạn nứt đổ vỡ của đêm, nụ cười thơ làm nở một vì sao.
Tắt một lời, hồn thơ Nguyễn Thị Khánh Minh cảm nghe được nhịp mùa, nhịp ngày đi đêm tới. Có thể nào ta gọi thơ Nguyễn Thị Khánh Minh là bản symphony của nhịp mùa và thời gian. Riêng với Nguyễn này như được lạc vào vùng trời của Gitanjali nghe thi nhân thổi lên bản hòa ca trên cây sáo bằng ống sậy.
Trong thơ Khánh Minh còn có những khoảng trời của tình bạn. Nguyễn Thị Khánh Minh chia sẻ cùng bạn những nét đẹp của sáng tạo, những ý tình lung linh hư ảo, những nỗi chia xa.
Với Duyên, cùng Duyên sống lại niềm vui và vẻ rực rỡ của thanh xuân ngày ấy.
Với Đinh Cường: cảm thông cùng tiếng cọ của người họa sĩ và những sắc màu trong tranh và nỗi đau cùng vẻ hư ảo của cuộc đời.
Với Trịnh Y Thư: cùng bạn cảm thông với vệt nắng chiều đang tắt, bóng người con gái ngồi cong lưng như mảnh trăng non, trong vẻ đời ảo hoặc, chia xa.
Với Nguyễn Xuân Thiệp, cùng nghe tiếng chiều rơi trong tiếng con chim nhại và vẻ ảo hoặc của mùa thu với màu hoa cúc quỳ vàng trong khu vườn của ngày đã xa.
Còn nhiều. Còn nhiều những điều chưa nói về thơ Nguyễn Thị Khánh Minh. Nhưng thôi, chỉ xin cùng đọc một đoạn trong tuyển tập thư hương này:
Người đem theo nụ cười
Đi vào giấc mộng
Những vì sao chưa mọc
Những vì sao đã chết
Bỗng nhận ra mình
Mất tích bao năm
Người đem theo nụ cười
Đi vào bóng tối
Những hạt lệ lặng lẽ
Những hạt lệ vô hình
Bỗng nhận ra mình
Bật khóc
Người đem theo nụ cười
Đi vào những biên giới… (Có Vì Sao Mới Mọc)
Nguyễn Xuân Thiệp
Dallas, tháng 11.2024
(Nguồn: tranthinguyetmai.wordpress.com)
March 11, 2025
Minh Lê (NT) và Đỗ Hồng Ngọc: Một Chút Tôi & “Chuyện Hồi Đó”
Một Chút Tôi & “Chuyện Hồi Đó”
Ghi Chú: “Chuyện Hồi Đó” là bản thảo mới của tôi, giống như Hồi Ký mà không phải Hồi Ký. Minh Lê (NT) và Trần Thị Nguỵệt Mai (HK) là hai người “bạn xa xôi” mà thân thiết, gần gũi đã giúp tôi rất nhiều trong quá trình hình thành “tác phẩm” này. Dịp này, gặp tôi ở Nha Trang (27.2.2025), nhân này Thầy Thuốc VN, Minh Lê (NT) muốn có một chút trao đổi “bên lề” cho vui.
Xin gởi đến các bạn cùng xem.
Đỗ Hồng Ngọc
Điều gì khiến anh có cảm hứng viết Chuyện Hồi Đó?
Nhiều bạn bè khuyên nên viết Hồi Ký, đặc biệt là anh Nguyễn Hiền Đức (5 Hiền).
Nguyễn Hiền Đức là một cư sĩ, thường gọi Anh 5 Hiền, trước 1975 từng có thời là Thư ký Tòa soạn của tạp chí Tư Tưởng của Đại học Vạn Hạnh, trưởng phòng Tu thư Đại học Vạn Hạnh, thư ký riêng của HT Thích Minh Châu…
Năm 2021 anh đã gởi tôi món quà sinh nhật: Đỗ Hồng Ngọc- Tiếng gọi sâu thẳm của Y vương, ghi “Quà tặng mừng Sinh Nhật 81 của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc”thấy đã đăng trên Thư viện Hoa Sen, và trước đó, anh cũng đã có bài “ Phác thảo chân dung Đỗ Hồng Ngọc”…
Năm 2014, Nguyễn Hiền Đứcđã viết (…) “ Năm nay bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã 75 tuổi ta rồi. Cái tuổi đã chín muồi, đã lịch lãm, đã trải nghiệm và chiêm nghiệm được nhiều điều về bản thân, gia đình, bè bạn, nghề nghiệp. Ông cũng đã trải qua những biến thiên dữ dội của thời cuộc. Ông lại có những mối quan hệ xã hội khá rộng rãi và hiểu biết tường tận về nhiều việc, nhiều người dưới cái nhìn, cái cảm của một người giàu Phật tính, thấm nhuần triết học Phật giáo. Vì vậy, tôi kính cẩn thưa trình với ông rằng tôi mong sớm được Hồi ký của ông. Nhớ lại, ông đã nhiều lần “thúc hối” thầy mình là Nguyễn Hiến Lê viết hồi ký như André Maurois đã từng làm với Un ami qui s’appelait moi vậy! (…) Trước nay tôi vốn thích đọc Hồi ký, và các cuốn hồi ký mà tôi thích nhất vẫn là cuốn của Nguyễn Hiến Lê, Đào Duy Anh, Quách Tấn, Trần Văn Khê…, và, chắc chắn sẽ rất thích Hồi ký Đỗ Hồng Ngọc. Tôi không dám nói sai lời và cũng như nhiều độc giả chí cốt của Đỗ Hồng Ngọc nóng lòng chờ đợi Hồi ký Đỗ Hồng Ngọc.
Tôi nghĩ bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc có nhiều điều kiện thuận lợi, có nhiều cơ duyên tốt lành để khởi sự sớm hoàn thành tập hồi ký được nhiều người chờ đọc, đón đọc (…). Mong lắm thay, thưa bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc!”.
Nguyễn Hiền-Đức (Santa Ana, tháng 3.2021)
Có thể gọi Chuyện Hồi Đó là Hồi ký của anh không?
Không. Tôi không có khả năng viết “Hồi Ký”. Hồi Ký thi phải… ly kỳ, hấp dẫn… gợi tò mò cho người đọc. Tôi cũng cảm ơn Nhà sách Phanbook, cũng đã nhiều lần khuyên tôi viết Hồi Ký… và bây giờ nhận lời in cuốn Chuyên Hồi Đó. Tôi lo sẽ ế, tội nghiệp cho Phanbook!
Phần khó nhất khi chuẩn bị bản thảo Chuyện Hồi Đó là gì?
Là phân biệt Hồi Ký với “Chuyện Hồi Đó”
Hồi ký là một sáng tác văn chương, thể loại ký, do chính tác giả viết về mình. Thường của những người đa số còn trẻ. Tự mình nhìn mình, bộc lộ, chia sẻ theo trình tự thời gian, có thể “hư cấu”, có thể “phóng đại”.
Tóm lại chủ quan là chính.
“Chuyện Hồi Đó” là những chuyện cũ, xưa, kể lại bởi một người có tuổi, già khú, có thể trong một buổi “trà dư tửu hậu” cùng bạn bè. Tôi viết lúc đã 86 tuổi (Tết Ất Tỵ,2025 ). .
Nó không phải là một sáng tác, một ghi chép (ký) theo thời gian .
Với tôi, nó không phải nói về “cái tôi”, chủ quan của mình .
Tôi nhìn mình một chút, rồi nhờ người khác nhìn tôi với “ chủ quan” của họ.
Tôi chia sẻ kinh nghiệm nghề nghiệp, suy tư, học hỏi. Tôi tri ân con người, vùng đất…
Tôi muốn người đọc có lợi ích khi đọc, không chỉ vì tò mò.
Dĩ nhiên, cho tuổi già của chính tôi. Có thể cười mình.
Trang nhà Đỗ Hồng Ngọc (dohongngoc.com) có ý nghĩa gì đối với anh?
“Ý nghĩa” rất lớn đó chớ! Nó gần như là một “kho tàng” lưu trữ để khi viết tôi chỉ cần tìm lại. Tôi phải cảm ơn Phùng Minh Bảo và Lê Thị Thuỳ Linh. Chính nhờ các em mà tôi có trang web dohongngoc.com này trên 15 năm nay. Cũng nhờ trang Web này, tôi có dịp học hỏi, giao lưu và tương tác với bạn đọc. Ngạc nhiên thấy thế giới nhỏ bé đáng kinh ngạc, càng ngạc nhiên thấy tình người lại gần gũi đáng kinh ngạc đến vậy.
Cái chất “công tử – nhà quê” mà anh nói được di truyền từ Ba-Má anh đã thể hiện trong văn và thơ anh ra sao?
Nó thiệt thà, chơn chất, nhưng đôi khi cũng… bay bướm đó chớ phải không? Lá chín vàng/ lá rụng về cội/ Em chín vàng/ chắc rụng về anh…; hay Sóng quằn quại/ thét gào/ không nhớ/ mình là nước…
Người ta nói văn sĩ, thi sĩ, họa sĩ, nghệ sĩ nói chung đều rất đa tình vì yêu cái đẹp. Anh có nghĩ mình là người đa tình không?
Có. Mà nhút nhát, rụt rè quá. Đáng tiếc!
Trong một bài phỏng vấn của nhà báo, anh có nói “Thà có một trái tim đau yếu vì tình yêu còn hơn một trái tim… lãnh cảm!”. Anh có thể giải thích và cho ví dụ không?
Ví dụ người thất tình… sướng hơn người lãnh cảm.
Chuyện Hồi Đó cho biết mối tình đầu của anh là lúc anh 12 tuổi, và mấy năm sau gặp lại anh còn làm thơ cho người ấy nữa. Không biết “mối tình đầu” ngày ấy là đơn phương hay là cả hai…
Đó là cô bạn cùng lớp… Nhứt (tức lớp 5 bây giờ!). “ Nghe nói người xưa chừng lỡ bước/ Nghe nói lòng ta chừng chưa nguôi…”. Thấy chưa? Lòng ta mà chỉ “nghe nói” thôi, chỉ nghe “đồn rằng” thôi đó nhe. Tuy vậy cũng đã có những bức thư bằng pelure màu xanh… thuở 15, 16.
Cũng theo Chuyện Hồi Đó, ngày anh gặp chị (vợ Bs ĐHN) anh trúng ngay “coup de foudre” phải không?
Phải. Sau này tôi thường nói với vợ tôi: Anh có một người anh yêu hồi 12 tuổi, một người anh thương hồi 20 tuổi, nhưng em mới là người anh vừa yêu vừa thương. Vì vậy mà đã sống với nhau gần… 60 năm!
Có cuốn sách nào đã làm thay đổi cuộc đời anh không?
Có. Cuốn Kim chỉ Nam của Học sinh của Nguyễn Hiến Lê (1951). Cả các cuốn Gương Danh Nhân, Gương Kiên Nhẫn… và Tự học để thành công (1954) của ông nữa.
Cuốn sách anh thích nhất lúc nhỏ là gì?
Anh phải sống. Hai buổi chiều vàng. Tâm hồn cao thượng… Và một lô truyện Tam Quốc, Thuỷ Hử, Đông Châu Liệt Quốc… Sau này là Kiếm Hiệp Kim Dung. Có lần tôi tự chữa bệnh đau bao tử của mình nhờ kiếm hiệp Kim Dung đó.
Nếu anh có thể nói một điều với chính anh khi còn trẻ, anh sẽ nói điều gì?
Nhắc “Tương lai trong tay ta”, đó là một tựa sách của Nguyến Hiến Lê.
Kỷ niệm nào anh nhớ nhất về tuổi học trò của anh ở Phan Thiết?
Là xách guốc xuồng gỗ mỗi khi qua nhà người ta, dù người ta mới 11 tuổi. Và đặc biệt là bức thư trên giấy pelure màu xanh người ta gởi tôi khi mới 15…
Anh viết rằng người thầy thuốc “được làm nghề y vì cái nghiệp của mình”, có thể hiểu rằng phải đúng “nghiệp” mới làm bác sĩ được phải không?
Cái “nghiệp” nó mang mình đi, nó đẩy mình tới. Còn gọi là cái “Vocation”. Cái “thiên hướng”.
Anh từng viết: “Nghề y là một nghề đặc biệt, muốn đào tạo người thầy thuốc vừa có năng lưc chuyên môn vừa có lòng nhân ái thì điều kiện tuyển chọn cũng phải đặc biệt.” Theo anh kỳ thi vào các trường Y Khoa còn cần yêu cầu nào khác ngoài điểm số các môn học?
Mỗi nước, mỗi giai đoạn đều có cách đào tạo phù hợp. Thời tôi thi vào Y khoa, năm 1962, ngoài các môn học còn có 20 câu hỏi “Kiến thức tổng quát” vầ văn hoá, lịch sử, địa lý, âm nhạc, hội hoạ… và đặt biêt có 2 câu tôi nhớ mãi: Giá gạo trên thị trường bao nhiều một ký? Giá than trên thị trường bao nhiêu một ký. Chắc là muốn coi người bác sĩ tương lai có quan tâm đời sống xã hội đường thời không? Ở Singapore, ngoài bài thi viết còn có phỏng vấn. Nhóm phỏng vấn gồm một giáo sư, một bác sĩ, một điều dưỡng và một… bệnh nhân!
Có lý do nào đặc biệt khiến anh yêu ngành Nhi Khoa không?
Nhi khoa, xưa gọi là Á khoa, khoa “câm”. Trẻ không biết nói mà! Khi khám bệnh cho trẻ, phải có óc “quan sát” tốt để tìm ra bệnh. Cẩn thận! Trẻ không biết nói nhưng có thể giựt văng kiếng cận của mình hoặc… tè vô mặt mình. Chẳng mấy chốc mà chú nhóc ngày nào đã trở thành cậu thanh niên cường tráng, cô nhóc ngày nào đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp… Rồi một hôm, họ mang một nhóc không biết nói khác tới kêu mình khám cho nó. Một vòng đời, ngộ không?
Săn sóc sức khỏe ban đầu là gì?
Primary Health Care, được dịch là Chăm sóc (hay Săn Sóc) Sức Khoẻ Ban Đầu. Một triết lý nhân bản trong Y khoa, sau Hội nghị quốc tế tại AlmaAta, năm 1978, lấy phòng bệnh làm chính, xác định “sức khoẻ” là sự sảng khoái (well- being) toàn diện về cả thể chất, tâm thần và xã hội của con ngườ, gắn liền với sự phát triển của địa phương. PHC quan tâm môi trường sống, dinh dưỡng, phòng dịch bệnh… Giáo dục sức khoẻ, Nâng cao sức khoẻ là yếu tố rất quan trọng để tạo được sự “tham gia của cộng đồng”, sự “phối hợp liên ngành”. Bởi Y tế chủ yếu là chữa trị bệnh tật, còn “Sức khoẻ” là nhiệm vụ của toàn xã hội.
Điểm quan trọng nhất theo anh trong Y đức là gì?
Là “Primum Non Nocere” . First Do No Harm. Trước hết, đừng làm hại.
Y nghiệp khác y đức chỗ nào? Cái nào quan trọng hơn?
Y nghiệp là những nguyên tắc thực hành nghề y, đòi hỏi sự chuyên nghiệp, chính xác. Y đức là vấn đề “tâm hồn” của người thầy thuốc đối với bệnh nhân. AI phát triển thì Y nghiệp phát triển, nhưng Y đức thì chỉ có ở con người với con người.
Anh từng viết một bài có tựa “Bác sĩ mà cũng bệnh!” Dĩ nhiên bệnh tật không chừa ai, dù là… bác sĩ! Kinh nghiệm vượt qua bệnh tật hay thậm chí “sống chung với bệnh” của anh là gì?
Là… đáng đời! Là ráng chịu! Ai biểu!
Ai mà chẳng phải bệnh. Trong cuốn “Quy luật của muôn đời”, tiểu thuyết của Nodar Dumbatze (Gruzia), tôi nhớ tác giả nói mỗi người ít nhất nên bệnh nặng một lần trong đời. Bệnh làm mình sáng mắt ra…
Khi đỡ bệnh sau đợt mổ sọ não năm đó (1997), tôi viết bài thơ: “Xin cám ơn, cám ơn” là vậy.
Năm nào thì anh thực sự “rửa tay gác kiếm”?
Không biết. Cứ lâu lâu lại “Rửa tay gác kiếm” một lần! Năm 1985, tôi rời Lâm sàng (Cấp Cứu, Bệnh Viện Nhi Đồng 1); năm 2005 rời Trung Tâm Truyền Thông & Giáo dục sức khoẻ; năm 2010, rời Đại học y khoa PhạmNgọc Thạch; năm 2020 đóng cửa Phòng mạch…
Anh viết khá nhiều bài về Nhật. Nếu cần chọn ba từ để mô tả ấn tượng nước Nhật để lại trong anh, anh sẽ chọn những từ nào?
Chút hương xưa!
Anh ấn tượng nhất điều gì ở Úc?
Đó là lúc đến thăm The Twelve Apostles (12 vị Thánh tông đồ của Chúa), nay đã sụp đổ còn 8 vị… và sẽ sụp đổ tiếp nay mai. Chưa ở đâu liễu ngộ Vô Thường, Vô Ngã, Thực tướng Vô tướng như vậy. Tôi thấy ở đó các vị Bồ Tát, các vị Thánh tông đồ… giữa biển thức Lankavatara bèn chắp tay xá xá… tất cả!
Tôi còn ấn tượng với một bệnh viện Ung Thư ở Melbourne, ở đó, bác sĩ, y tá và bệnh nhân đều ăn mặc giống nhau để … không thể phân biệt!
Anh nhớ nhất kỷ niệm nào trong chuyến đi Nepal về thăm đất Phật?
Lúc thăm Lumbini, nơi Phật đản sanh và thăm Kapilavastu (Ca-Tỳ-La-Vệ) nơi Phật vượt ra khỏi cổng thành.
Có ý nghĩa ẩn giấu hay biểu tượng nào trong các bài viết (thơ, văn) của anh chưa được nhận ra không?
Làm sao biết? Người đọc là người “nhận ra” nhiều thứ mà mình đâu có ngờ tới!
Anh có bao giờ lấy cảm hứng từ âm nhạc hay hội họa không?
Nhiều chứ. Nhất là ca từ của Trịnh Công Sơn. Nó giúp tôi viết Gió heo may đã về, và Về thu xếp lại…
Có khi nào một bài thơ hay bài viết thay đổi bất ngờ so với dự định của anh khi bắt đầu viết không?
Thường khi không có “dự định” gì cả. Thơ nó đến bất chợt. Tuỳ bút cũng vậy. Ý này dẫn ý kia… Kệ nó.
Anh cân bằng giữa trải nghiệm cá nhân và trí tưởng tượng trong thơ anh như thế nào?
Trí tưởng tượng mới là… cốt lõi. Trải nghiệm có khi chỉ là cái cớ, tình cờ. Chẳng hạn một hôm cà phê với người bạn trẻ dưới gốc cây cổ thụ ven đường, nhìn chiếc lá vàng rơi, tôi chợt viết “lá chín vàng lá rụng về cội… em chín vàng chắc rụng về anh…”!
Nền tảng văn hóa và tri thức đóng vai trò gì trong việc hình thành thơ và văn của anh?
Nền tảng văn hoá đóng vai trò quyết định.
Anh có thường viết vào một thời điểm cụ thể trong ngày không?
Không. Tôi có phải là nhà văn “thứ thiệt” đâu. Nhưng ông Nguyễn Hiến Lê nói đúng. Cứ viết đi rồi hứng sẽ đến. Như “L’appetit vient en mangeant”! Ăn đi rồi thấy ngon.
Anh từng viết cho tuổi mới lớn, tuổi thanh niên, tuổi trung niên, tuổi già. Anh thấy viết cho tuổi nào khó nhất?
Tôi phải sống qua tuổi đó rồi mới viết được. Viết như “nói chuyện” thân tình với nhau thôi mà, có phải “văn chương phú lục” gì đâu! Người đọc nói tôi viết như viết cho riêng họ, vì “đi guốc trong bụng” họ!
Anh đã viết tùy bút, tản văn, y học, Phật học… Thể loại nào được anh ưa thích nhất?
Không có sự phân biệt nào trong lúc tôi viết. Tôi không định hình thể loại ở đây. Phật học thì tôi viết tuỳ bút. Tuỳ bút thì tôi viết… khoa học. Y học thì tôi… làm thơ! Ối trời, phải phân biệt rạch ròi nữa sao?
Anh có rất nhiều bạn văn, bạn thơ. Với ai anh cũng có một tình bạn dài lâu và rất đẹp. Bí quyết giữ gìn tình bạn của anh là gì?
Không nhiều bạn văn thơ đâu! Nhưng đã là bạn thì luôn là dài lâu và rất đẹp nữa. Tôi nghĩ: sự chân thành.
Trong các bài viết về thơ văn anh, chỉ có Giáo sư Cao Huy Thuần bắt gặp “con người thứ ba” trong anh, con người “cười cười” một chút và rất nghịch… ngầm. Anh thấy có đúng không?
Ông ấy tinh tế thật. Giấu ổng hổng nổi!
Trải nghiệm đầu tiên nào khiến anh nhận ra rằng ngôn ngữ có sức mạnh?
Tôi nhà quê thứ thiệt, vẫn nghĩ ngôn ngữ là “phương tiện” thôi. Tôi không nghĩ cứ uốn éo ngôn ngữ thì thành văn chương. Trong thơ, tôi thấy cái “Tứ” mới là điều cốt lõi. Người ta có thể quên ngôn ngữ, nhưng cái “tứ” thì nhớ mãi. “Oan oan thư cưu/ tại hà tri châu/ yểu điệu thục nữ/ quân tử hảo cầu” ngàn năm trước… dịch qua ngôn ngữ nào cũng được!
Anh có nghĩ rằng ai đó có thể thành một thi sĩ hay văn sĩ giỏi mà không cần trải qua đau khổ không?
Đau khổ nhiều khi là một chất liệu. “Rồi bị thương người ta giữ gươm đao/ Không muốn chữa không chịu lành thù độc” (Xuân Diệu).
Anh nghĩ thơ, văn và tranh tác động như thế nào đến sức khỏe tinh thần của một người?
Nó làm cho con người mềm nhũn ra.
Những chuyến du lịch có ảnh hưởng đến hình ảnh trong thơ anh không?
Nhiều chớ. Nhờ đi đây đi đó, tôi có cảm xúc để viết. Thí dụ những ngày ở Paris, tôi viết tập Vòng Quanh.
Làm sao để truyền tải một cảm xúc mãnh liệt vào thơ?
Cố tình “truyền tải” thì có khi chẳng “truyền tải” được gì cả. Nó tự nảy ra ở người đọc. Thí dụ: “Ngoại chờ bên kia sông” hay “Sao chẳng sớm mà thương nhau hơn?” … Người đọc tự mình “truyền tải” thì tốt hơn tác giả cố ý!
Anh thường chọn tựa đề của thơ anh ra sao?
Không cần chọn. Nó hiện ra chình ình. Thí dụ Mũi Né. Thí dụ: Giả sử
Khi anh viết một bài thơ, điều gì xuất hiện với anh đầu tiên: chủ đề, từ ngữ hay hình ảnh?
Ý tưởng. Cái tứ. Những “thứ khác” đến sau. Bài thơ Tình Già, chỉ cần “con mắt còn có đuôi” là đủ phải không?
Thơ một người vừa là bác sĩ vừa là thi sĩ có khác với thơ của người vừa là kỹ sư vừa là thi sĩ không, theo anh?
Không. Huy Cận là một kỹ sư canh nông, Xuân Diệu làm nhân viên hải quan… Thơ không đến bằng nghề nghiệp!
Trong những nhận xét và cảm nhận của người khác về thơ anh, có ý tưởng nào làm anh hết sức ngạc nhiên không?
Có một nữ độc giả không quen biết xác nhận tôi viết bài thơ đó là viết cho riêng cô!
Thơ anh được phổ nhạc khá nhiều, trong đó có bài nào làm anh rung động nhất không?
Bài Bông Hồng Cho Mẹ viết về Mẹ tôi và bài Sông Ơi Cứ Chảy, viết cho La Ngà.
Anh thích nhất bức nào trong các tranh vẽ bằng bút sắt của anh?
Đó là bức Harvard Square (ở Boston) và bức Sacre Coeur (Nhà thờ Thánh Tâm ở Paris)
Anh có “nghề” vẽ tranh bằng ngón tay. Tại sao anh thích vẽ bằng ngón tay?
Vì kiếm “đồ nghề” không dễ lúc đó. Cao hứng thì sẵn có ngón tay. Tôi nhớ Phong Thanh Dương dạy độc cô cửu kiếm cho Lệnh Hồ Xung, lúc Lệnh Hồ Xung bị đánh văng kiếm lúng túng không biết làm sao, ông bào, sao ngu vậy, ngón tay cũng là… kiếm chứ!
Trong một bài phỏng vấn, anh nói “Tôi mừng vì vẫn giữ được cảm xúc để làm thơ”. Anh thường giữ cảm xúc bằng cách nào?
Bằng cách để cho cảm xúc nó tuôn trào. Kệ nó.
Anh có bao giờ nghĩ tới chuyện “làm mới” thơ hay văn của mình không?
Không. Việc gì phải làm mới? Đọc cuốn Ý Cao Tình Đẹp của Nguyễn Hiến Lê (sách dịch), tôi thấy mình cũng rưng rưng muốn khóc. Làm mới, có thể gây ngạc nhiên nhưng khó làm cho khóc. Khi đọc Anh phải sống của Khái Hưng hồi 12 tuổi ở trong chùa, tôi cũng khóc. Nhạy cảm quá chăng. Vớ vẩn quá chăng?
Anh thường tìm cảm hứng cho thơ văn của mình từ đâu?
Tôi không tìm. Nó tự đến.
Anh có cảm thấy văn phong của mình thay đổi theo thời gian không?
Có. Hình như mình già thì văn nó cũng già theo. Nó run rẩy, nó lẩn thẩn, nó mít ướt.
Điều gì quan trọng nhất đối với anh khi viết về một nhân vật?
Tôi muốn nhìn được trong sâu thẳm tấm lòng của họ. Nhiều người khen bài tôi viết về Trang Thế Hy.
Hai chân dung anh viết khá chi tiết là học giả Nguyễn Hiến Lê và thi sĩ Ngu Í Nguyễn Hữu Ngư. Một người uyên bác chân phương, một người phóng khoáng bay bổng. Anh cảm thấy anh giống ai hơn?
Giống mỗi người một nửa. Không phải công tử với nhà quê mà người điên với nhà nho.
Bài thơ của nhà thơ nào anh cảm thấy tâm đắc nhất?
Tình Già của Phan Khôi và To Edith của Bertrand Russle viết khi ông 90 tuổi!
Anh đã bao giờ bị bí ý tưởng khi viết chưa?
Chưa. Vì khi có ý rồi mới viết. Để đó, cho nó “hoai” đi. Mấy hôm rồi đọc lại. Lúc đó, cần thì sửa. Tôi có học Văn với thi sĩ Vũ Hoàng Chương, lớp 11, ông nói, có những bài thơ ông sửa đến 36 lần! Nhà thơ Gỉa Đảo, đời Đường nổi tiếng “thôi xao” chúng ta đều biết!
Anh có nghĩ rằng một nhà văn có thể viết hay mà không cần có cảm xúc không?
Có. Đó là những nhà văn chuyên nghiệp, họ có thể cùng lúc viết nhiều feuilleton… cho nhiều tờ báo.
Anh đã viết nhiều bài về tuổi già, vậy anh có thể tóm tắt bí quyết “già sao cho sướng” được không?
Là “biết mình già”, OK với nó. Welcome nó.
Anh có thể giải thích chữ “Không” trong Phật học một cách dễ hiểu không?
Đừng hiển lầm “Không” là không có gì nhe. Không trong Phật học là “trống rỗng”, là không có “tự tính” riêng biệt. Mọi “pháp” đều do Duyên sinh. Hiểu vậy, ta hiểu tại sao Vô thường, Vô ngã… Và, giải thoát khổ đau, dính mắc.
Anh hiểu thế nào là “quay về nương tựa chính mình”?
Không lẽ nương tựa vào ai bây giờ? Ai có thể thở giùm mình, ai có thể khổ đau giùm mình, ai có thể si mê giùm mình?
Anh viết: “Một người mà không thể từ bi với chính mình thì làm sao có thể từ bi với người khác được?” Từ bi với chính mình là sao?
Là “Biết ơn mình”. Nhiều người oán ghét mình lắm. Sáng sáng nhìn vào gương thấy ghét. Già nua, nhăn nhúm… Rồi so sánh mình với người khác nữa… Nhờ đó mà các cơ sở “thẩm mỹ” giả mọc lên như nấm không thấy sao?
Anh nói “Thiền là Thở”, đơn giản vậy sao?
Phải. Phật dạy trong kinh Anapanasati. Một phương pháp Thiền hiệu quả và khoa học nhất. Không sợ “tẩu hỏa nhập ma”. Qua hơi thở, ta thực hiện cả Samatha (thiền chỉ) và Vipassana (thiền quán). Đời sống chỉ là một hơi thở. Thân và tâm cùng trong hơi thở. An lạc hay khổ đau nằm trong hơi thở đó thôi.
Anh khen phương pháp Thở của Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện rất hiệu quả. Anh có thể cho biết cách anh thực hành?
Bs NKV bị mổ phổi 7 lần ở Pháp (năm 1946), chỉ còn 2/3 lá phổi trái. Các bác sĩ Pháp bảo ông chỉ có thể sống 2 năm. Vậy mà với phương pháp thở bụng, ông đã sống thêm được… 50 năm, chẳng thú vị sao? Phương pháp thở bụng (abdominal breathing, diaphragmatic breathing) không lạ. Người xưa ở Đông phương gọi là đưa hơi xuống huyệt “đan điền” đó thôi. Bs NKV là cố vấn Bộ môn Tâm lý – Xã hôi học ở Đai học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, do tôi là Trưởng Bộ môn, ông cũng chia sẻ với tôi nhiều lần nhưng tôi không mấy quan tâm, đến khi tôi bệnh nặng phải mổ sọ não thì tôi mới đem ra ứng dụng. Hay chớ! Tôi đã viết lại đầy đủ trong cuốn Thiền và Sức khoẻ.
Dường như anh chưa bao giờ viết nhiều về “tham, sân, si”, “thân, khẩu, ý”, “nghiệp và nhân quả”. Anh coi trọng việc thở, ăn và hiện diện trong giây phút hiện tại hơn, có đúng không?
Thở, Ăn, Biết sống Ở đây và Bây giờ chẳng đã đủ rồi sao? Đó chính là chánh niệm, tỉnh giác. Còn tham sân si… gì nữa cho mệt! Hiểu Phật là hiểu Duyên sinh. “Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên” (Trần Nhân Tông) nhớ không? Biết tuỳ duyên, thuận pháp là đã đủ cho nếp sống “cư trần lạc đạo” rồi đó vậy.
Có thể hiểu điều Phật dạy và thực hành giỏi mà không cần thuộc nhiều kinh kệ không?
Thuộc một vài câu Kinh Kệ là đủ. Lục tổ Huệ Năng chỉ nghe câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà giác ngộ tức khắc. Ngày nay, thời AI, Internet, deep fakes… thì cũng chỉ cần thuộc câu đó và ứng dụng vào đời sống. Luôn nhớ rằng “Nói vậy mà không phải vậy!”. Ai ngây thơ, “tưởng thiệt” sẽ lãnh đủ!
Trao đổi lai rai đến đây là… hết.
Cảm ơn các bạn.
Đỗ Hồng Ngọc
(Saigon 11.3.2025)
March 10, 2025
Thư gởi bạn xa xôi: Nha Trang tháng 2-3/2025
Thư gởi bạn xa xôi:
Nha Trang tháng 2-3/2025Mình mê xe lửa từ hồi nhỏ. Ở Phan Thiết thường lên Ga Mường Mán tót lên xe lửa vào Saigon. Quá dễ. Có Thẻ học sinh, còn được đi miễn phí. Bạn bè đưa nhau vào tận khoang xe, đợi còi rú lên, lăn bánh mới tạ từ… bịn rịn nhảy xuống xe như ngày xưa “người xuống ngựa kẻ dừng chèo…”. Thời chiến, xe lửa không chạy được, nhớ lắm. Khi có chuyến xe đầu tiên đi quãng ngắn từ Saigon lên Biên Hoà, Thủ Đức, qua Gò Vấp, Dĩ An thì mừng rơn. Mình viết ngay bài thơ Đi Cho Đỡ Nhớ lúc đó.
Lần nay quyết đi Nha Trang một chuyến bằng xe lửa. Khởi hành 26.2.2025 tại Ga Hoà Hưng, Saigon. Hẹn với mấy bạn… trẻ (nói nho nhỏ thôi, họ giận!): PB mới 74 tuổi, từng đi Myanmar học Thiền, tu hành miên mật, giữ giới, ngồi thiền nghiêm chỉnh, bậc Sư. NTN, mới 71, “vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa”, và NVT cũng mới 71, “giang hồ nghĩa hiệp”, từng đi Kailash năm nào với NTB. Mình già nhất, mới lên 86, nên được các bạn thương quý…
Xe lửa đi Nha Trang bây giờ khá lắm, sạch sẻ, đúng giờ, thông bào tốc độ, thời tiết qua từng ga, có máy lạnh, có nước nóng pha trà… Dĩ nhiên là có restaurant…, couchette đang hoàng. Từ Saigon đi Nha Trang mất 8 tiếng, 50 km/ giờ, mình có thời gian để ngắm rừng thanh long Phan Thiết, Cà Ná biển xanh, quat gió Phan Rang, dừa Cam Ranh… Qua ga Mường Man, Tháp Chàm, Suối Kiết, Sông Pha… còn muốn gì nữa phải không? Nay mai có xe lửa đầu đạn như Nhật, 300 km/giờ, cái rẹt, chán chết.
Gởi bạn vài hình ảnh chuyến đi Nha Trang của mình mới rồi coi vui thôi nhe.

PB, NTN, ĐHN

Mỗi khoang có 4 giường, minh ưu tiên giường trệt, dĩ nhiên!

Đúng ngọ rồi, phải ăn thôi! Vào restaurant là tiện nhất. Mỗi người một dĩa cơm, cá nục chiên sốt cà. Có ớt rất ngon. NTN phải có lon bia. Mình “phấn đấu” uống được 20 ml thôi!

Xe lửa chạy rầm rầm, ngồi thiền thiệt khoái!

Cà Ná đây rồi!

Thăm các Sư ở Chùa Từ Đức, Cam Lâm.

Trên đường đi Hòn Bà, nơi có ngôi nhà cổ của Bác sĩ Yersin. Đường đi quanh co hiểm trở.

Đường lên Hòn Bà bị tắc, đang sửa, đành phải quay lại. Hẹn dịp khác.

Nha Trang đây rồi. Khu kiosque Bốn Mùa nay đã rất khác,

Caphê Hòn Chồng (1.3.2025). Mới được một cây gậy mây rất đẹp của TT mua cho. Hôm qua đến quán Bốn Mùa, lơ ngơ thế nào bị vấp té cái rầm, từ nay đành phải sắm gậy để đi. Mà chỉ thích gậy mây hay gậy tre quê mùa thôi. May TT tìm được cây gậy mây ở Chợ Đầm Nha Trang mang đến cho! Đa tạ.
Vậy nhe,
Chúc An Vui.
Đỗ Hồng Ngọc.
(Saigon 11.3.2025)
February 14, 2025
Thư gởi bạn xa xôi: Tết năm nay “Về vùng biển vắng…”
Thư gởi bạn xa xôi:
Tết năm nay “Về vùng biển vắng…”
Không phải “mình sẽ sống những ngày hè nhuộm nắng…” như lời một bài hát sôi động của Jamaica (nhạc sĩ Đức Huy viết lời Việt) bởi lúc này vẫn còn chút lạnh của mùa đông và lá vàng mùa thu vẫn còn rơi lác đác…
Từ Mùng 1-3 Tết Ất Tỵ (2025), mình về Lagi, thăm bà con, thăm mộ ông bà, cha mẹ trên giồng Ông Hộ Ba, rồi ghé về thăm lại Bàu Lời, chốn xưa, mình đã sống thời 10-12 tuổi, học trường Nam Bình (Gò Ông Nồm)…
Gởi bạn vài hình ảnh… coi chơi thôi nhe!
Thân mến,
Đõ Hồng Ngọc.

Biển còn động. Thuyền thúng nằm bờ ở bãi Dốc Trâu. “Lá vàng thưa thớt quá…”.

Bãi vắng. Mênh mông. Người thì cào nghêu con … Một buổi sáng có thể cào được cả trăm ký nghêu con, không phải để ăn, mà để bán cho những nhà nuôi vịt bầy… giúp vịt đẻ trứng tốt.

Người thì săn… tôm tích. Nhìn mặt đất biết ngay có tôm tích, đâm cái ống thụt sâu xuống, hút cái… rẹt, đã bắt được ngay một con tôm tích bằng ngón tay út… còn ngo ngoe. Mỗi buổi sáng hút được vài ký!

Mình… thì đi săn vài tấm hình do sóng cát vẽ nên: Một nhóm múa… hiện đại chớ gì nữa! (ảnh Đỗ Hồng Ngọc, bãi Tam Tân, Mùng 2 Ất Tỵ, 2025)

tuyệt đẹp…

Ghé lại Bàu Lời: Vườn cũ. Cây trái vẫn xum xuê. Cau, dừa, vẫn cao ngất… Có lẽ nhờ có cái Bàu chứa nước tưới tẩm quanh năm… (Nguyễn Thiện Tống và Đỗ Hồng Ngọc)
(

Thăm lại cái giếng một thời… nổi tiếng chữa được nhiều thứ bệnh. Những năm 60s, người ta còn mang thùng đến lấy nước chở xe ba gác đi bán tận Lagi… Bà chủ nhà hiện nay còn nói nước giếng này chữa được … hiếm muộn nữa! Lạ thiệt.

… vẫn mênh mông…
Đỗ Hồng Ngọc's Blog
- Đỗ Hồng Ngọc's profile
- 12 followers

