Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 7

November 21, 2024

CON ĐƯỜNG AN LAC: Bài 9 “Học Phật lõm bõm”

“Sách bỏ túi” cho người cao tuổi

CON ĐƯỜNG AN LẠC

Bài 9: “Học Phật  lõm bõm”

Đỗ Hồng Ngọc

(translated by Nguyên Giác)

 

Sen

Trong đầm gì đẹp bằng sen

Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng

Nhị vàng bông trắng lá xanh

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

 

Thế rồi khi dấn bước vào đời ta đã quên bài học ngày xưa đó, mãi mê tìm kiếm một búp sen vàng sen bạc rực rỡ hào quang ở tận chân trời góc biển giữa muôn hồng ngàn tía… Cho đến một hôm giật mình ngó lại: thì ra cái “Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng” của đoá sen kia rốt cuộc cũng chỉ là « Nhị vàng bông trắng lá xanh » đó thôi. Chẳng thêm chẳng bớt! 

Trong đầm sen thoảng mùi bùn đất quê hương đó, đóa sen vẫn xòe ra rồi khép lại. Khép lại rồi xòe ra. Từ nghìn xưa cũ. Chẳng sinh chẳng diệt!

Đóa sen của thiên thu vẫn lung linh giữa gió và nước, như tủm tỉm cười, tỏa ngát hương thơm… Chẳng cấu chẳng tịnh!

Mà chợt ngộ một điều cốt lõi: Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn!  

 

Thiền là gì ?

Một hôm nhân cùng Sư phụ bơi thuyền dạo chơi trên hồ nước mênh mông trước thiền viện, thấy Thầy có vẻ vui tươi, người đệ tử đánh bạo hỏi:

–  Thưa sư phụ, thiền là gì ạ?

Thầy chưa kịp trả lời thì thuyền bỗng lắc lư rồi lật úp xuống! Người đệ tử không biết bơi, vùng vẫy sắp chết đuối. Thầy vớt đệ tử lên thuyền, vổ vai nói:

– Thiền là vậy đó con !

Người đệ tử ướt như chuột lột, run rẩy, mặt mày tái mét và bỗng nở một nụ cười.

Thì ra thiền không phải “là gì” mà thiền là “vậy đó”.

Người đệ tử loi ngoi suýt chết đuối, tìm cách vùng vẩy, trồi lên mặt nước để lấy hơi thở. Thầy vội vớt lên thuyền.

“Vậy đó” là giây phút không còn thấy thời gian, không gian… gì nữa, chỉ còn hớp lấy một hơi thở. Thì ra thiền là… Thở. Hít vào thở ra. Thiền đó. Chỉ có vậy mà vô vàn, mà “nói không được” (bất khả thuyết). Không ai có thể thở giùm ai được.

Có sư phụ mà sư phụ cũng không thể thở giùm được.

 

Núi vẫn cứ là núi…

“…30 năm trước khi chưa tu thấy núi là núi, sông là sông. Sau nhân được thiện tri thức chỉ cho chỗ vào thì thấy núi chẳng phải núi, sông chẳng phải sông. Rồi nay thể nhập chốn yên vui tịch tĩnh lại thấy núi là núi, sông là sông…”

Núi vẫn cứ là núi. Sông vẫn cứ là sông. Chẳng qua do cái thấy của ta điên đảo mộng tưởng.

Cái thấy của 30 năm trước khi chưa tu là cái thấy của lo âu vì nỗi vô thường:

Sông kia rày đã nên đồng

Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai…

(Tú Xương)

Cái thấy của 30 năm trước khi chưa tu là cái thấy của sợ hãi vì niềm chấp ngã:

Ta còn để lại gì không?

Kìa non đá lở, này sông cát bồi…

(Vũ Hoàng Chương)

Ta sống trong vô thường vô ngã mỗi phút giây mà chẳng biết.

Mỗi ngày trái đất bay vòng quanh mặt trời 2,5 triệu cây số; mỗi giây hàng trăm triệu tế bào hồng cầu tự hủy để hàng trăm triệu tế bào hồng cầu mới sanh ra…

Ta vẫn ngồi lại bên cầu cho đến lúc tóc mây bạc trắng…

Người thiện tri thức đã chỉ cho chỗ vào? Vào đâu? Vào cái thấy “như thực”: thấy mọi thứ và cả cái ta nữa, luôn biến dịch, luôn đổi thay, bởi nó từ duyên sinh mà có. Thấy cái “thực tướng vô tướng”.

Rồi mừng rỡ reo lên: À, thì ra là không. Tất cả là không. Núi chẳng phải núi. Sông chẳng phải sông!…

Rồi ôm lấy cái không đó. Duy Ma Cật nhắc: đó là một thứ bệnh nặng!

Chấp không còn tệ hơn chấp có. Thà chấp có vui hơn.

May thay, khi thể nhập vào chốn yên vui tịch tĩnh thì rõ ràng núi vẫn cứ là núi, sông vẫn cứ là sông. Núi là núi mà còn đẹp hơn xưa. Sông là sông mà còn đẹp hơn xưa. Bấy giờ  đã là làn thu thủy, nét xuân sơn… Chân Không mà Diệu hữu/ Diệu hữu mà chân Không.

 

Tiếng vổ của một bàn tay

Phật bảo Anan đánh một tiếng chuông. Hỏi có nghe không, Anan ? Dạ, có nghe. Nghe gì? Nghe tiếng chuông. Tiếng chuông dứt, Phật hỏi có nghe không Anan ? Dạ, không. Không nghe gì? Dạ không nghe tiếng chuông. Phật cho đánh lại tiếng chuông lần nữa. Nghe không? Dạ có nghe. Nghe gì? Nghe tiếng chuông.

Phật cười: Tôi hỏi ông có nghe không chớ đâu có hỏi ông có nghe tiếng chuông không? Giữa hai lần giộng chuông ông vẫn nghe đó chứ, ông nghe sự im lặng, nghe sự “không – có – tiếng” đó chứ. Vậy cái sự “nghe” của ông đâu có mất dù cái tiếng chuông kia khi có khi không.

Tiếng là thanh trần, từ bên ngoài, luôn thay đổi. Còn nghe – “tánh nghe” – là tự bên trong, không hề thay đổi, luôn có đó. Nếu không có bệnh lý gì về nhĩ căn (thính giác) thì cái sự nghe luôn thường hằng, luôn trong sáng, thanh tịnh đó chớ!

Một bàn tay thì không thể tạo ra tiếng vổ. Nhưng câu hỏi không nằm ở tiếng. Câu hỏi đặt ở chỗ khác: chỗ “nghe”. Câu trả lời sẽ là không có tiếng nhưng vẫn có nghe. Nghe cái gì? Nghe cái không – có – tiếng vổ của một bàn tay!

Không để dính mắc với tướng (cái trình hiện, cái biểu kiến, hình thức) bên ngoài, luôn thay đổi, do điều kiện mà có, như mắt với sắc, tai với thanh, mũi với hương, lưỡi với vị…), trong khi cái tánh thấy, tánh nghe… bên trong vẫn không thay đổi, vẫn bất biến vậy!

(ĐHN)

 

…. o ….

 

A pocketbook for the elderly

A PATH TO PEACE & JOY

Chapter 9

Learning Buddhism messily

 

Lotus

 

In the pond, nothing is more beautiful than the lotus flower.

Green leaves, white flowers, and yellow stamens create a vibrant display.

Yellow stamens, white petals, and green leaves.

Close to the mud yet not carrying its odor.

 

Then, when we step into life, we forget that old lesson and become absorbed in searching for a golden lotus bud or a silver lotus, shining brightly at the horizon among the myriad colors of pink and purple. Until one day, we suddenly look back and realize that the ‘green leaves, white flowers, and yellow stamens‘ of that lotus flower are, after all, just ‘yellow stamens, white flowers, and green leaves.’ Nothing more, nothing less!

In the lotus pond, where the faint scent of the homeland’s mud lingers, the lotus continues to bloom and wither. It closes, then opens again, a cycle that has persisted since ancient times. Neither born nor destroyed, the eternal lotus shimmers in the wind and water, smiling as it spreads its fragrance. It exists in a state that is neither dirty nor clean.

In this moment, we come to a profound realization: it is near the mud yet untouched by its odor!

 

What is Zen?

One day, while rowing a boat with the Master on the expansive lake in front of the Zen monastery, the disciple, noticing the Master’s cheerful demeanor, boldly asked, “Master, what is Zen?”

Before the Master could respond, the boat suddenly shook and capsized! The disciple, unable to swim, struggled desperately and was on the verge of drowning. The Master pulled the disciple back onto the boat, patted his shoulder, and said, “That’s what Zen is, my child!”

The disciple was soaked to the skin, trembling, and his face was pale. Suddenly, he smiled. It became clear that Zen is not simply ‘what is,’ but rather ‘that is what Zen is.’

The disciple struggled to the surface to catch his breath, and the Master quickly pulled him onto the boat.

That is the moment when time and space dissolve, leaving only the simple act of taking a breath. Thus, meditation is breathing: inhale and exhale. This is meditation—just that—but it is infinite and cannot be fully expressed. No one can breathe for another person. Even in the presence of a master, the master cannot breathe for you.

 

Mountains remain mountains.

Thirty years ago, before I began my practice, I perceived mountains as mere mountains and rivers as mere rivers. After a good friend guided me on the path, I began to see mountains as not mountains and rivers as not rivers. Now, having entered a state of peace and tranquility, I once again see mountains as mountains and rivers as rivers.”

Mountains are still mountains, and rivers are still rivers. Our perception of these constants is distorted by our chaotic, inverted perspective.

The vision from 30 years ago, prior to practice, was one of anxiety due to concerns about impermanence.

That river has now transformed into a field,

a site for constructing houses, and a location for cultivating corn and potatoes.

(Verse by Tù Xương)

 

The vision from 30 years ago, prior to practice, was one of fear stemming from an attachment to the self.

What have we left behind?

Over there, rocks crumble, while here, sand accumulates along the river.

(Verse by Vũ Hoàng Chương)

 

We exist in a state of impermanence and non-self every moment, often without realizing it. Each day, the Earth travels around the Sun at a distance of 2.5 million kilometers; every second, hundreds of millions of red blood cells undergo self-destruction, making way for the birth of an equal number of new red blood cells. Yet, we continue to sit by the bridge until our hair turns into a white cloud.

The wise man has shown us where to enter. Where do we enter? We enter into perceiving reality as it truly is. This means recognizing that everything, including ourselves, is in a constant state of change and transformation, arising from dependent origination. We come to understand that the true form is formless.

Then we joyfully proclaim that it is merely emptiness. All is emptiness. Mountains are not mountains. Rivers are not rivers. We then embrace that emptiness. Vimalakirti stated that it is a serious illness!

Clinging to emptiness is worse than clinging to existence. It is better to hold on to existence, as the heart will find greater happiness.

Fortunately, upon entering a realm of serene and tranquil joy, it becomes evident that the mountains remain mountains, and the rivers remain rivers. The mountains are indeed mountains, yet they possess a beauty that surpasses their former visions. The rivers are still rivers, but they too are more beautiful than ever. Now, we witness the autumn waters and the spring mountains. This is True Emptiness, yet it embodies Wonderful Existence. Wonderful Existence, yet it reflects True Emptiness.

 

The sound of one hand clapping

 

The Buddha instructed Ananda to ring a bell.

The Buddha asked Ananda if he had heard it.

Ananda stated that he heard it.

What did you hear?

I heard the bell.

The bell ceased ringing, and the Buddha asked Ananda if he had heard anything.

No.

Really, didn’t you hear anything?

No, I did not hear the bell.

The Buddha had the bell struck once more.

Have you heard it?

Yes, I heard it.

What did you hear?

I heard the bell.

The Buddha smiled and told Ananda that he had asked whether Ananda heard it, not whether he heard the sound of the bell. The Buddha explained that between the two strikes of the bell, Ananda still heard it; at that moment, he experienced silence and soundlessness. The Buddha emphasized that, in this way, Ananda’s hearing was always present, unlike the sound of the bell, which was sometimes audible and sometimes not.

Sound is perceived through the ears, originating from the external environment and constantly changing. In contrast, hearing—the essence of hearing—comes from within, remaining constant and ever-present. As long as there are no pathological issues with the ear, hearing is consistently available, clear, and pure.

One hand cannot produce a sound. However, the question is not about sound itself; it is about hearing. The answer is that while there is no sound, there is still hearing. Hearing what? Hearing the soundless echo of one hand clapping.

Don’t become attached to external appearances—such as form, sound, smell, taste, touch, and the mental objects perceived through the eyes, ears, nose, tongue, body, and mind—because they are always changing and arise due to various conditions. In contrast, the essence of seeing, hearing, and other perceptions from within remains constant and immutable.

Đỗ Hồng Ngọc

Translated by Nguyên GIác 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 21, 2024 17:56

CON ĐƯỜNG AN LẠC. Bài 10: Ở ĐÂY và BÂY GIỜ

 

“Sách bỏ túi” cho người cao tuổi.

CON ĐƯỜNG AN LẠC

Đỗ Hồng Ngọc

(bản dịch Anh ngữ: Nguyên Giác Phan Tấn Hải)

 

Bài 10: Ở đây và Bây giờ

Từ năm 1946, Tổ chức Y tế thế giới (WHO)  đã định nghĩa:  Sức khoẻ là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái (well-being; bien-être) về thể chất, tâm thần và xã hội, chớ không phải chỉ là không có bệnh hay tật. Một định nghĩa như thế cho thấy đánh giá sức khỏe của một con người không thể chỉ dựa vào chuyện có hay không có bệnh tật… Cái khó ở đây là làm cách nào đánh giá được “tình trạng sảng khóai” về cả ba mặt, thể chất, tâm thần  xã hội như định nghĩa đã nêu? Đánh giá sự sảng khoái, sự hài lòng cũng chính là đánh giá hạnh phúc. Mà đánh giá hạnh phúc là chuyện không đơn giản chút nào vì nặng tính chủ quan, dễ lệch lạc. Chính vì thế mà mãi nửa thế kỷ sau, WHO mới đưa ra được một bảng “Đánh giá chất lượng cuộc sống” (Quality of Life Assessment, 1996) liên quan đến sức khỏe và chăm sóc sức khỏe để cụ thể hóa định nghĩa đã nêu trên. Theo đó, người thầy thuốc chỉ quan tâm chữa trị bệnh tật là chưa đủ, mà phải quan tâm đến chất lượng cuộc sống  của người bệnh. Nói khác đi, người bệnh sống không phải chỉ là “sống sót”, tồn tại, mà phải là sống có ý nghĩa, có hạnh phúc ở một mức độ tốt nhất có thể được. WHO đề ra một bảng chỉ số gọi là WHOQOL-100 ( WHO Quality Of Life, với 100 đề mục để đánh giá) có thể triển khai thực hiện  trên nhiều nước khác nhau, nhiều nền văn hóa khác nhau, bao gồm 6 lãnh vực:

1.Sức khỏe thể chất;

2.Tâm lý;

3.Mức độ độc lập;

4.Các mối quan hệ xã hội;

5.Môi trường

6.Niềm tin, tôn giáo, vấn đề tâm linh.

Theo WHO, Chất lượng cuộc sống (CLCS) là cảm nhận của cá nhân về cuộc sống của họ trong bối cảnh văn hóa và các hệ thống giá trị mà họ đang sống và liên quan đến  các mục đích, nguyện vọng, tiêu chuẩn và các mối quan tâm của họ.

(“an individual’s perception of their position in life in the context of the culture and value systems in which they live and in relation to their goals, expectations, standards and concerns”).

Điều dễ thấy ở đây là cách đo đạc CLCS  đặt  trọng tâm lên cảm nhận cá nhân của từng người, cho thấy có cái nhìn khác xưa đối với bệnh tật và sức khỏe lâu nay chủ yếu dựa vào “cảm nhận” của thầy thuốc. Do vậy, đánh giá sức khoẻ hay bệnh tật của một con người sẽ không chỉ dựa trên kết quả các xét nghiệm máy móc mà còn trên những cảm nhận chủ quan, quan điểm riêng của từng cá nhân về sức khoẻ, bệnh tật của họ, về sự “sảng khoái” của họ trong cuộc sống thường ngày, trong bối cảnh văn hóa và môi trường thiên nhiên quen thuộc của họ. Ở đây cho thấy vai trò của mối quan hệ giữa thầy thuốc và bệnh nhân là rất quan trọng. Mối quan hệ thầy thuốc- bệnh nhân mà không tốt thì người bệnh khó có thể duy trì “chất lượng cuộc sống”! Thí dụ gặp một thầy thuốc hay “hù doạ” thì bệnh chỉ sẽ nặng thêm, bởi lo âu, sợ hãi càng dẫn tới stress và trầm cảm! Các bệnh thời đại hiện nay thường gặp  là S.A.D (Stress, Anxiety, Depression)… nhất là khi IT, AI, với Fake news, deep fakes… loan truyền tin giả, hù doạ, gạt gẫm. Do đó, câu “dalani” có ích nhất lúc này có lẽ là “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” trong Kinh Kim Cang! Đừng vội tin ai cả. Kiểm chứng đi, thử đi rồi biết!

Suy nghĩ từ góc độ đánh giá chất lượng cuộc sống của người bệnh như vậy sẽ làm thay đổi cái nhìn của người thầy thuốc về bệnh nhân trong quá trình điều trị.  Cả người bệnh khi hiểu rõ chất lượng cuộc sống là do mình quyết định cũng sẽ không chỉ biết lệ thuộc vào thầy, vào thuốc, vào xét nghiệm mà còn biết tăng cường sức khỏe, nâng cao sức khỏe của chính mình để có chất lượng cuộc sống tốt nhất có thể.

Cần để ý rằng, ở người cao tuổi, định nghĩa sức khoẻ có khác một chút: “Sức khỏe của người cao tuổi là:

 Phát triển và duy trì được sự sảng khoái và hoạt động chức năng tốt nhất về tâm thần (mental), rồi mới đến  xã hội (social) và thể chất (physical)”.

“Phát triển” và “duy trì” tốt nhất có thể thôi, chớ không thể được “như xưa” nữa! Bởi các hoạt động chức năng xài lâu quá đều rệu rả, “quá date”, do đó người già dễ cảm thấy chán nản, tuyệt vọng, lo âu… nói khác đi là khó mà… “sảng khoái” được. Thể chất thì “ba cao một thấp” (ba cao là cao máu (tăng Huyết Áp); cao đường (Tiểu đường); cao mỡ (Cholesterol xấu); còn một thấp là… Thấp khớp) đã đành mà tâm thần thì có đủ tám vạn bốn ngàn phiền não! Cho nên đưa vấn đề “tâm thần” lên hàng đầu là hoàn toàn hợp lý cho người cao tuổi so với định nghĩa về sức khỏe nói chung.

Các nghiên cứu cho thấy một tuổi “già có chất lượng” là phải:

— Biết chấp nhận “nó”. Thấy nó là chuyện tất yếu.

— Người nào có nhiều kinh nghiệm gần gũi với những người già… dễ thương thì sau này hy vọng cũng sẽ dễ thương, bởi họ biết chuẩn bị… tới phiên mình.

— Hiểu luật vô thường và Từ bi với chính mình.

— Có một niềm tin tôn giáo.

— Chấp nhận điều kiện sống hiện tại dù có kém xưa và kém xa với mong ước của mình,

— Có ký ức tốt đẹp về tuổi thơ và tuổi thanh niên với những thành tựu trong quá khứ,

— Được tự do sắp xếp cuộc sống riêng của mình, không bị áp đặt từ bên ngoài,

— Được xã hội và gia đình chấp nhận, tôn trọng.

— Vẫn tiếp tục tham gia các hoạt động hữu ích cho gia đình, xã hội theo sức mình.

— Vui vẻ với các cách giải trí của tuổi già, với bạn bè, con cháu,

— Hài lòng với cuộc sống lứa đôi,

— Sức khỏe tương đối tốt, không mắc bệnh mạn tính nặng,

— Tài chính ổn định, đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu…

.

Và, biết sống “Ở đây và Bây giờ”:

Một nhà báo nằm chiêm bao thấy gặp Thượng Đế bèn mở máy ghi âm xin phép được phỏng vấn vài câu nếu Ngài có thì giờ.

–  Cứ tự nhiên. Thì giờ của ta vô lượng!

– Từ khi… tạo ra loài người, Ngài có điều gì băn khoăn thắc mắc về họ không?

– Nhiều lắm.

– Chẳng hạn?

– Loài người rất lạ. Lúc nhỏ thì mong cho mau lớn. Lớn rồi thì mong cho nhỏ lại…

Nhà báo giật mình, thấy hơi nhột. Thượng Đế tiếp:

– Lạ nữa, lúc trẻ khỏe thì họ mang hết sức lực ra đấu đá tranh giành để kiếm cho thật nhiều tiền… Rồi khi có tuổi, họ mang tiền đó ra… phục hồi sức khỏe!

Nhà báo rút khăn lau mồ hôi trán.

– Nhưng lạ nhứt là loài người không sống!

– Nghĩa là họ…

–  Không. Họ vẫn tồn tại nhưng không sống. Họ luôn nhớ tiếc dĩ vãng hoặc mơ ước tương lai. Mà dĩ vãng thì qua rồi, tương lai thì chưa tới. Họ luôn ở trong cái đã qua rồi hoặc cái chưa tới… nên nói họ không sống…

– Ý Ngài là phải biết sống trong hiện tại?

– Phải. Ở đây và Bây giờ!

(internet)

Nhà báo tỉnh giấc, toát mồ hôi, đưa tay vò mái tóc… lẩm bẩm: “Đời tôi ngốc dại/ Tự làm khô héo tôi đây/ Nửa đêm thức dậy/ Chập chờn lau trắng trong tay…” (Trịnh Công Sơn).

Phật dạy rồi đó thôi:

Không than việc đã qua,
Không mong việc sắp tới,
Sống ngay với hiện tại,
Do vậy, sắc thù diệu…

(phẩm “Cây Lau”)

 

Đỗ Hồng Ngọc

(20.11.2024)

 

…. o ….

A pocketbook for the elderly

A PATH TO PEACE & JOY

Do Hong Ngoc, MD

(translated by Nguyen Giac Phan Tan Hai)

 

Chapter 10

Here and Now

 

Since 1946, the World Health Organization (WHO) has defined health as a state of complete physical, mental, and social well-being, rather than merely the absence of disease or infirmity. This definition indicates that evaluating a person’s health cannot rely solely on the presence or absence of illness. The challenge lies in how to assess well-being across all three dimensions: physical, mental, and social. Evaluating well-being and satisfaction is intrinsically linked to assessing happiness. However, measuring happiness is complex, as it is subjective and can be easily distorted.

Therefore, half a century later, WHO introduced a “Quality of Life Assessment” in 1996, which further clarifies the aforementioned definition. Consequently, it is insufficient for a physician to focus solely on treating illness; they must also consider the patient’s quality of life. In other words, a patient’s existence should not merely revolve around survival; it should also encompass a meaningful and happy life at the highest possible level.

WHO has proposed an index known as WHOQOL-100 (WHO Quality of Life, consisting of 100 items for assessment) that can be implemented across various countries and cultures. This index encompasses the following six areas:

Physical Health;Psychology;Independence;Social Relationships;Environment;Beliefs, Religion, and Spirituality.

According to WHO, Quality of Life (QOL) refers to an individual’s perception of their position in life in the context of the culture and value systems in which they live and in relation to their goals, expectations, standards and concerns.

What is clear here is that the QOL measurement emphasizes the personal feelings of each individual, presenting a perspective on illness and health that differs from traditional views, which have primarily relied on assessments made by medical professionals. Consequently, evaluating a person’s health or illness will not solely depend on the results of objective tests; it will also incorporate the subjective feelings and personal perceptions of each individual regarding their health, illness, and overall well-being in daily life in the context of their familiar culture and natural environment.

The relationship between doctor and patient is crucial for effective healthcare. A poor doctor-patient relationship can significantly hinder a patient’s quality of life. For instance, encountering a doctor who frequently uses threats can exacerbate a patient’s condition, as anxiety and fear contribute to increased stress and depression.

The prevalent diseases of modern times include stress, anxiety, and depression (S.A.D.), particularly in an era marked by an influx of misinformation, threats, and scams perpetrated by individuals who exploit artificial intelligence, fake news, and deepfakes. Consequently, a valuable mantra to embrace is the teaching from the Diamond Sutra: when the mind is unattached to anything, the mind of Nirvana will manifest. Be cautious about believing everything you hear. Verify the information, test it, and you will gain understanding.

Considering the patient’s quality of life can significantly alter a doctor’s perspective during the treatment process. When patients recognize that they have the power to influence their own quality of life, they become less reliant on their doctors, medications, and tests. Instead, they will be empowered to take proactive steps to enhance their health and achieve the best possible quality of life.

It is important to recognize that the definition of health in older adults differs somewhat from that of younger individuals. For older adults, health encompasses the development and maintenance of well-being and optimal functioning, with a primary focus on mental health, followed by social and physical well-being.

You can only develop and maintain your abilities to the best of your potential, but not to the same level as before. Functional activities that are used for an extended period can become worn out and outdated, leading to feelings of depression, hopelessness, and anxiety among the elderly. In other words, achieving a sense of well-being can be challenging. The physical health of older adults is marked by three high points and one low point. The three high points are high blood pressure (hypertension), high blood sugar (diabetes), and high cholesterol (bad fats), while the low point is arthritis. Additionally, mental health issues can be numerous, with estimates suggesting as many as eighty-four thousand potential concerns. Therefore, prioritizing mental health problems is entirely reasonable for the elderly, especially when considering the broader definition of health.

Research shows that to enjoy a high quality of life in old age, one should:

– Accept “it” and view it as inevitable.

– Prepare for aging gracefully and seek out meaningful experiences with wonderful older individuals (this way, you can aspire to grow old beautifully yourself).

– Understand the law of impermanence and practice self-compassion.

– Hold a religious belief.

– Accept your current living conditions, even if they are not as favorable as they once were and do not align with your desires.

– Have the positive memories of your childhood and youth, including your past achievements.

– Be free to arrange your life without external imposition.

– Find acceptance and respect from society and family.

– Continue to engage in activities that benefit your family and society, in accordance with your abilities.

– Embrace the joy of old age by cherishing the company of friends, children, and grandchildren.

– Be content with your married life.

– Maintain a relatively healthy lifestyle, free from serious chronic diseases.

– Have stable finances, enough to meet basic needs.

And one should know how to live in the “Here and Now.”

 

There is a story on the Internet about a journalist who dreamed of meeting God. He turned on his tape recorder and asked for permission to interview Him if He had the time.

– Feel free; my time is limitless!

– Have you had any questions or concerns about humans since you created them?

– There are many.

– Could you provide an example?

– Humans exhibit a peculiar paradox: in their youth, they eagerly desire to grow up, yet once they reach adulthood, they often long for the simplicity of childhood.

The journalist was startled, feeling a slight tickle, as he heard God continue speaking.

– Strangely enough, when they were young and healthy, they exerted all their strength to fight and compete in order to earn as much money as possible. Then, when they grew old, they used that money to restore their health.

The journalist took out a handkerchief to wipe the sweat from his forehead as he listened.

– The strangest thing is that humans do not truly live.

– That means they…

– No, they still exist but do not truly live. They are perpetually consumed by regret for the past or by dreams of the future. However, the past is gone, and the future has not yet arrived. They remain trapped in either the past or the future, which is why I assert that they do not live.

– Do you mean we need to learn how to live in the present?

– Yes, Here and Now!

The journalist woke up, sweating. He ran his hand through his hair and muttered, “My life is foolish. It has withered me. I woke up in the middle of the night, and a white reed branch flickered in my hand…” (Lyrics by Trịnh Công Sơn)

Buddha taught long ago:

Do not lament the past. 

Do not look forward to the future. 

Live in the present. 

Therefore, your face appears wonderful. 

(Chapter “The Reed”)

 

(by NG-PTH)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 21, 2024 17:16

November 5, 2024

Minh Lê (NT). Lá thư thứ ba: “Những người trẻ lạ lùng”

 

Lá thư thứ ba: “Những người trẻ lạ lùng”

Minh Lê (Nha Trang)

 

Bạn thân mến,

Cuốn sách mình sắp giới thiệu với bạn là một cuốn đặc biệt trong bộ tùy bút của Bs Đỗ Hồng Ngọc. Vì sao lại đặc biệt? Vì nó rất… lãng mạn.

Trong bài hát “Một cõi đi về” của Trịnh Công Sơn, bạn còn nhớ câu: “con tinh yêu thương vô tình chợt gọi”? “Con tinh” ở đây hẳn là “con yêu tinh” – từ người thân hay bạn bè mắng yêu các cô gái lém lỉnh ở Huế. Ừ, cái “con tinh yêu thương” tinh quái và nghịch ngợm ấy, nếu hôm nào đó “vô tình chợt gọi” thì bạn sẽ thế nào?

Bạn sẽ thấy tim mình bỗng đập dồn dập như một thưở nào xa lắc, rồi tự nhiên mà rung động cùng “những lời tán tỉnh, những nỗi giận hờn, những niềm tiếc nhớ” (tr. 18) dù bạn đang ở tuổi nào đi nữa. Nhưng bạn yên tâm, bởi đó là lúc “lại thấy trong ta hiện bóng con người”, bởi “con người vẫn cần có con người”, con người cần yêu và được yêu. Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc sẽ cho ta thấy cái sự “yêu” này nó tạo nên những người trẻ lạ lùng ra sao…

Tình yêu cứ bàng bạc trong các bài viết đăng trong sách, nhất là khi tác giả viết về những người nổi tiếng ông có dịp tiếp xúc gần gũi như Giáo sư Trần Văn Khê, nhà văn Võ Hồng, hay ký giả – nhà văn – nhà thơ Nguiễn Ngu Í, người cậu thân yêu của ông.

Bạn biết không, mình đặc biệt thích câu chuyện về Giáo sư Trần Văn Khê với chuyện tình thơ mộng của ông. Một chuyện tình đẹp như vầng trăng, tuy là “trăng khuyết vành chờ đợi” nhưng không “hao gầy” giữa một giáo sư nhạc sĩ nổi tiếng và một thiếu phụ – học trò học nhạc với ông, kém ông nhiều tuổi. Mối tình nồng nàn và tha thiết ấy còn ở mãi trong tim Giáo sư, sưởi ấm những tháng ngày làm việc không mệt mỏi của ông.

Rồi chuyện tình của ông tổ ngành Y nước Việt: Hải Thượng Lãn Ông. Lúc đó Lãn Ông đã thành danh, là thầy thuốc được Vua tín nhiệm và người người kính trọng, nhưng vẫn choáng váng và bối rối khi gặp lại người xưa. Ông tự trách mình: “Vô tâm nên nỗi lụy người ta,  trông mặt nhau đây luống xót xa…” (tr. 128) Chuyện rồi kết thúc ra sao? Bạn đọc là biết ha.

Ngoài Hải Thượng Lãn Ông, những người còn lại tác giả đều có giao tình gần gũi nên có thể nhìn thấu tính cách và tâm hồn họ. Họ đều là người tài giỏi, được nhiều người ngưỡng mộ, nhưng ít người biết họ cũng yêu, cũng buồn đau, cũng tiếc nuối như bất cứ ai. Tâm hồn họ nhân hậu và tràn đầy yêu thương nên họ sống một đời trẻ trung đến lạ lùng!

Chưa hết, tác giả viết một bài hấp dẫn phân tích cách yêu của “tây” và “ta”. “Real Romantic!” kể chuyện phong trào “yêu kiểu mới” trong giới trẻ Âu Mỹ: “họ nhớ tiếc và muốn thực hiện cách sống yêu thương lãng mạn của cha ông ở một thời xa xưa.” (tr. 48) Tác giả so sánh một cách dí dỏm tài liệu “101 cách làm tình mà không làm… vậy” của Mỹ với cách của thơ ca Việt Nam, rồi bình luận: “nếu họ mà phát hiện thêm các kiểu… yêu của ta chắc họ sẽ có “một ngàn lẻ một cách làm tình” tuyệt diệu hơn nữa!”.

Cách gì vậy? “Đón trước cổng trường/ làm đuôi/ leo lên cây khắc tên tùm lum/ giấu thư tình dưới hộc bàn/ cắt đứt dây chuông (Lan và Điệp)/ “giết người trong mộng”/ hay lén… hôn lên áo phơi ngoài giậu/ còn siêu nữa là “xếp tàn y lại để dành hơi””… (tr. 50) Thiệt là lãng mạn và dễ thương hết sức! Yêu chỉ để… yêu thôi, dù tình đơn phương thì vẫn đẹp vô cùng, “tây” nào theo cho kịp!

Đi cùng “tình yêu” tất nhiên phải có những dòng văn chương lãng mạn thật đẹp tả tình, tả cảnh tinh tế và tình tứ.

Bài “Nhớ tiếng thu giữa Boston” ĐHN viết: “Họ không gọi Autumn – mùa Thu, mà gọi Fall – mùa Rụng, bởi vì chỉ có lúc lá rụng bời bời như vậy người ta mới thấy hết được nỗi vui mừng, nỗi xót đau, nỗi buốt nhớ… không rõ vì đâu.” (tr. 30) Trong không gian thu đầy lá rơi và những cành cây khô giữa trời thu bâng khuâng, tác giả thả bước dưới vòm cây, “nghe tiếng mùa yêu và fall in love. Với ai, vì sao nên nỗi? Có phải cái tiếng thổn thức, cái tiếng rạo rực của ai kia đã một hôm thu làm cho chàng thi sĩ trẻ tuổi (LTL) trở thành một con nai, lang thang dẫm ngập lá vàng, hẫng bước đi mà chẳng biết về đâu…” (tr. 31)

Hay bài “Trang của một thời”: “Thời trang không dừng lại ở nếp lụa là, nhung gấm – thời trang… và hơn thế nữa – là cái khỏe khoắn, cái hồn hậu nhu mì, cái đằm thắm dịu dàng, cái chín chắn tinh hoa của trí tuệ ở đằng sau kia, ở bên trong kia.” (tr. 58). “Chính ở cái tuổi chông chênh đó của người phụ nữ, cái tuổi có những cột mốc thì thầm, tuổi chuyển mùa như lá trên cành, từ cái bồng bột sôi nổi sang cái nền nã, dịu dàng, giản dị mà sang trọng, người ta đã nhìn ngắm vào bên trong bản thân mình hơn là nhìn người qua phố, và như vậy người ta đã góp phần làm cho cuộc sống thăng hoa.” (tr. 57)

“Những người trẻ lạ lùng” kết thúc bằng bài thơ “Xin cám ơn, cám ơn” tác giả viết khi tỉnh lại ở bệnh viện sau cơn tai biến mạch máu não tưởng sẽ… đi luôn vào cuối năm 1997. Nghe tiếng chim hót, nhìn ánh nắng ban mai, ông bừng tỉnh nhận ra giây phút hiện tại quý giá đến nhường nào và cảm thấy tình yêu đích thực:

“Tình yêu

Đã giúp ta tìm lại chính mình

Đã giúp ta vượt thoát!”  (tr. 139)

Đọc sách xong, mình cũng muốn lặng lẽ gởi một lời cám ơn đến tác giả. Cám ơn tác giả đã chỉ cho mình thấy tình yêu quan trọng như thế nào trong cuộc đời một người, có thể giúp tâm hồn mình trẻ trung mãi ra sao. Tình yêu càng rộng lớn thì người ta lại càng trẻ…

Đúng là “yêu để trẻ” và “trẻ để yêu”!

(Minh Lê)

* Các trích dẫn từ sách Những người trẻ lạ lùng, Đỗ Hồng Ngọc, Nhà XB TP HCM 2001.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 05, 2024 22:38

October 26, 2024

Minh Lê: Lá thư thứ hai: “Già ơi… chào bạn!”

 

Lá thư thứ hai: “Già ơi… chào bạn!”

 

Bạn thân mến,

Có khi nào bạn tự hỏi, khi nào thì mình… già? Bạn muốn nghe câu trả lời là một lời nói thẳng hay một lời… an ủi?

Lời an ủi là câu trích dẫn nguyên tác tiếng Anh do Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc dịch: “Tuổi tác là chuyện của cái tâm, nếu ta không thèm quan tâm, chả có vấn đề tuổi tác!” (tr. 13) Vậy nhưng Liên Hợp Quốc thì thẳng thừng: “Từ năm 1980, Liên Hợp Quốc coi tuổi 60 trở lên là tuổi già trong một quần thể dân số.” (tr. 23)

Thôi thì ta nghe lời nói thật không mất lòng của Bác sĩ vậy: “Có trẻ thì có già, đó là một nhịp điệu của vũ trụ, đâu cần phải khổ đau vì già, trái lại, phải làm sao để có một tuổi già hạnh phúc.” (tr. 15)

Tuổi trẻ có hạnh phúc đã khó, làm sao có tuổi già hạnh phúc đây? Ông Bác sĩ cho bí quyết: “Chấp nhận mình là mình và thương mình nữa.” (tr. 35) Điều đó có nghĩa ta nên nhận ra những vấn đề của tuổi già về tinh thần và thể chất, chấp nhận và thích nghi để có cảm giác sảng khoái, hài lòng với bản thân.

Chương “Đời sống gia đình” nói chuyện cháu chắt và vợ chồng già. Bác sĩ khuyến khích cuộc sống gia đình nhiều thế hệ, với hai điều kiện. Một là cha mẹ tránh lệ thuộc về tài chính vào con cái, hai là cha mẹ và con cái cần điều chỉnh quan niệm và nếp sống của mỗi bên một chút sao cho “cha mẹ già có thể thành bạn của con, hiểu biết nhu cầu của nhau và giúp đỡ nhau.” (tr. 45)

Chương này có một đoạn vừa nên thơ vừa hóm hỉnh viết về tình cảm của những cặp vợ chồng cùng già đi với nhau: “Người ta có thể cùng nhìn cùng nghe cùng hiểu và có cùng cảm xúc như nhau với bao nhiêu kỷ niệm càng ướp càng nồng… Và còn một điều thú vị, như Andre Maurois nói, tình già yên tâm hơn, không sợ người yêu mình bị cuỗm mất, nghĩa là tình nồng nhưng nhẹ nhàng, êm mướt, không chua như giấm, người ta bớt ghen rồi, người ta có thể tin chắc là của nhau rồi.” (tr. 49) Thiệt vậy sao Bác sĩ?

Chương “Cám ơn mình” là một chương lý thú. “Chưa bao giờ ta được dạy nói cám ơn ta vì nhiều khi ta coi chuyện cám ơn mình là một điều gì đó lố bịch, kỳ cục và không cần thiết.” (tr. 55) Sau đó Bác sĩ lần lượt chỉ cho ta thấy các bộ phận trong cơ thể ta đã làm việc bền bỉ như thế nào, từ bộ xương, bộ máy tuần hoàn gồm tim và mạch máu, buồng phổi, đến bao tử và hệ tiêu hóa, răng, mắt, tai. Biết thương mình thì ta phải chăm sóc cho chúng tốt hơn, đừng hành hạ chính ta nữa!

Chương “Những bệnh vô duyên” bàn về “những bệnh không đáng có mà có mới dễ giận”. Đó là bệnh do người già tự gây ra như “tự ý gia giảm thuốc, tin lời bày vẽ, ai mách gì cũng nghe, gây tương tác thuốc lung tung” (tr. 97) Người cao tuổi thường muốn làm xét nghiệm để tìm bệnh, nhưng Bác sĩ khuyên “cần thiết lắm mới làm xét nghiệm và phải có chỉ định của bác sĩ” (tr. 100) Và không nên nghe “những lời nói gây hoang mang, lo lắng, làm mất ăn mất ngủ, gây kiêng cữ quá đáng làm cho tình trạng bệnh khó phục hồi hơn.” (tr. 100)

Lời khuyên về thể chất cho tuổi già là “dinh dưỡng đúng cách” và “thường xuyên rèn luyện”. Bác sĩ trích đoạn thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, người sống đến 95 tuổi, và giải thích: “Măng trúc nhiều xơ, giá nhiều vitamin, mùa nào thức đó. Bơi lội, rèn luyện thể lực cũng theo mùa. Rượu chỉ “sẻ nhắp” chứ không tu, không nốc… Còn “Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao” thì cái này Tổ chức sức khỏe thế giới chịu, không thể hiểu nổi nên không thể khuyên ta vậy!” (tr. 104)

Bác sĩ kết luận: “những người hạnh phúc là những người biết khám phá những niềm vui nho nhỏ, nó ở ngay trong ta, quanh ta thôi, miễn là ta biết sống ngạc nhiên, tỉnh thức, khám phá như trẻ thơ.” (tr. 113) và “Thích nghi có lẽ là một năng lực quan trọng nhất để có thể sống hạnh phúc ở tuổi già.” (tr. 115) Vì vậy sách mới có tựa “Già ơi… chào bạn!” nghe thân thiết và gần gũi, khác với “Buồn ơi… chào mi!” nghe như giận hờn, ghét bỏ! (bản dịch Việt cuốn Bonjour Tristesse của Françoise Sagan).

Trong khi đọc, bạn đừng quên để ý tới các hình vẽ minh họa trong sách. Những bức vẽ xem chừng giản dị và “quái quái” đó có thể khiến bạn bật cười, hay cười tủm tỉm vì thấy sao mà ngộ quá. Đích thân ông Bác sĩ kiêm họa sĩ tự vẽ, và chỉ dùng ngón tay chấm mực Tàu để vẽ. Vậy mà những nét đậm, nét nhạt, mảng sáng mảng tối vẫn hòa hợp tạo nên hình người cử động hoàn chỉnh, sinh động pha chút hài hước. Khi sách in ở Nhật, nhà xuất bản Soshisha (Tokyo) định cho vẽ lại nhưng cuối cùng đành thôi vì không vẽ ra được cái “thần” của tranh gốc.

 

Lời chúc của mình đến bạn sau khi đọc xong sách là bạn sẽ có “một sức khỏe tương đối tốt, kinh tế không quá thiếu thốn, duy trì được mối quan hệ tình cảm, có bạn tâm giao để chia sẻ, duy trì hoạt động xã hội phù hợp để thấy mình luôn còn có ích và quan trọng hơn nữa là giữ một ngọn lửa nhiệt tình, một niềm an lạc, thanh thản trong tâm hồn.” (tr. 119) Lúc đó mình chắc chắn bạn sẽ có một tuổi già hạnh phúc!

Thân mến,

Minh Lê

* Các trích dẫn từ sách Già ơi… chào bạn!, Đỗ Hồng Ngọc, Nhà XB Trẻ 1999.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 26, 2024 23:35

“Sách bỏ túi” cho người cao tuổi: CON ĐƯỜNG AN LẠC

 

“Sách bỏ túi” cho người cao tuổi.CON ĐƯỜNG AN LẠC

Đỗ Hồng Ngọc

A pocketbook for the elderly
A PATH TO PEACE & JOY

Translated  by Nguyên Giác Phan Tấn Hải

 

An lạc không phải là hạnh phúc, là sảng khoái nhất thời hay hài lòng, vui sướng… nhất thời, trái lại nó như dòng suối mát tưới tẩm ở bên trong. An lạc là một trạng thái hỷ lạc, một cảm nhận an lành, thanh thản tự bên trong mỗi cá nhân, nhẹ nhàng, bền bỉ, mang lại sự bình an cả thân và tâm cho chính mình và lan tỏa đến người khác. An lạc đến từ tuệ giác, đưa đến sự tự tại, ung dung, cân bằng cả về vật chất lẫn tinh thần…

Học Phật là cách hiệu quả nhất để mang lại sự an lạc đó. Có “bí quyết” nào để học Phật cho dễ không? Chui vào các “tàng kinh các” thì học đến nhiều đời nhiều kiếp cũng không hết mà còn bị “tẩu hoả nhập ma”, không kể ở thời Internet, AI, với fake news, với deepfakes…

Vậy có “bí quyết nào” học Phật cho “dễ” không?
Có đó.

Đó là “3 ĐIỀU 4 CHUYỆN”

Chuyện thứ nhất: Phật.
Phật không phải là một thần linh, một giáo chủ… uy quyền tối thượng, ban bố ơn phước cho loài người. Phật là một người bình thường như ta, cũng trải qua khổ đau bệnh hoạn già nua và chết chóc như chúng sanh. Nhờ tìm được con đường thoát khổ mà chia sẻ với  mọi người với lòng từ bi vô hạn, bởi ai cũng có Phật tính, ai cũng sẽ thành Phật mai hậu. Phật không độc quyền làm Phật một mình. Cho nên Phật là một Đạo sư, một nhà giáo dục, một bậc y vương đáng quý đáng trọng.

Con đường của vị Đạo sư dạy chỉ có mấy chữ:

Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo

(Cái gì ác thì đừng làm!
Cái gì thiện thì làm
Phải tự làm cho tâm ý mình được thanh tịnh.
Đó là lời dạy của các vị Phật).

Tôn giáo nào chẳng khuyên làm lành tránh ác?  Có gì hay ở đây?
Cái hay là ở câu thứ 3: Tự tịnh kỳ ý. Tự mình làm cho cái tâm ý mình trở nên thanh tịnh. Tâm ý mà thanh tịnh được rồi, thì… hết chuyện!
Khó ở chữ TỰTự mình. Có nghĩa là không thể nhờ ai khác, không thể nhờ người nào khác giúp ta thanh tịnh được. Nghĩa là chỉ có mình mới tự giúp được mình mà thôi. Như tự mình phải hít thở, không ai thở giúp mình được. Tự mình phải nhai nuốt, ăn uống, không ai ăn uống giúp mình được…

Cái tâm ý của mình vốn tưng bừng quậy phá, “tâm viên ý mã”- tâm như khỉ như vượn, còn lâu mới chịu im ắng, tĩnh lặng. Làm cho nó thanh tịnh quả là một chuyện không dễ.
Tóm lại, “tự tịnh kỳ ý” là điều cốt lõi.
Cách nào? Có thể được chăng?
Được.

Chuyện thứ hai: Mình.
Phải nương tựa chính mình. Dựa vào chính mình. Không thể nương tựa vào ai khác. Như đã nói không ai thở giùm mình, không ai ăn uống thay mình được. Lục tổ Huệ Năng khuyên phải “Tự quy y” là vậy. Tự quy y mình. Bởi mình cũng có đủ ba thân là Pháp thân, Báo thân và Hoá thân như Phật đó thôi. Phật bảo mọi người ai cũng có Phật tính, ai cũng có thể trở thành Phật, không phân biệt. Khi tìm ra bản đồ gène của con người, các nhà khoa học đã vô cùng kinh ngạc, thấy cái cây ngoài sân kia có 70%, cọng cải có 26%, chuột có 97,5%, tinh tinh có 99% gène giống người. Còn người với người thì có trên 99, 99% gène giống nhau.

Vậy thì có cần phải phân biệt người da vàng da đỏ da đen da trắng nữa không. Phật được gọi là bậc “chánh đẳng chánh giác’ vì thấy biết rõ điều đó, việc gì còn phải phân biệt nữa. Có phải là “tỳ-lô-giá- na” cũng là gen đó không? Trong kinh Hoa Nghiêm bảo tất cả các vị Phật đều có thân tỳ- lô- giá- na từ “Như Lai tạng” mà ra cả! Cái gì làm ra hệ gène chưa biết hết, nhưng đều chung từ DNA, từ con virus nhỏ xíu đến con người, con cá voi, con khủng long tiền sử. Ai trộn mấy thứ đó lại với nhau mà sinh ra đủ thứ vậy nhỉ? Phật không trả lời câu đó.  Tại nghiệp? Nghiệp là gì cũng không biết.

Mọi người đều có đủ “3 thân” như Phật nên ai cũng có khả năng rèn tập để “tự tịnh kỳ ý” của mình mà được hạnh phúc an lạc. Một người hiểu biết 3 thân sẽ không còn phân biệt giàu ghèo, sang hèn, sẽ đối xử với mọi người bằng tấm lòng tôn trọng, vì biết họ cũng như ta, không cần phân biệt, không ngã mạn, tự cao, đưa tới đau khổ cho người và cho chính mình.

Chuyện thứ ba: Thở.
Hãy nín thở thử… một chút xem sao! Không được. Ngưng thở 4 phút thì chết. Nhịn ăn, nhịn uống mươi ngày mới chết. Thở thiết yếu của đời sống.  Cây cỏ cũng thở. Có điều ta cần O2 trong không khí. Còn cây cỏ cần CO2. Ta và cây cỏ nợ nần lẫn nhau. Không thể thiếu nhau. Thử hít vào một hơi thiệt sâu… Không được! Một lúc phải thở ra. Thở ra thiệt lâu… Không được! Một lúc phải hít vào. Hít thở nó tự động, nó không theo ý ta muốn. Hít vào thở ra là do áp suất trong phổi. Nó cóc cần ta. Nó chẳng phải là ta, chẳng phải của ta, chẳng phải là tự ngã của ta. Ta biết mình “vô ngã” chỉ cần nhìn vào hơi thở.

Ngàn năm trước, người xưa có thở không? Phật có thở không? Ngàn năm sau, người sau có thở không?

Lắng nghe hơi thở của mình…
Mới hay hơi thở của nghìn năm xưa…
Một hôm hơi thở tình cờ
Dính vào hạt bụi thành ra của mình
Của mình chẳng phải của mình
Thì ra hơi thở của nghìn năm sau…

(ĐHN)

Thì ra cái không khí trong vũ trụ này là chốn hư không, mênh mông, rộng khắp, mà  giúp ta tồn tại. Não bộ chỉ chiếm có 2% thể trọng của ta mà tiêu hao đến gần 30% dưỡng khí. Tại sao? Tại vì O2 đó dùng cho hoạt động của não, mà hoạt động của não là chủ yếu dành cho tính toán, hơn thua, ganh ghét, lo sợ, tức giận, tranh giành, đấu đá lẫn nhau không ngớt. Có cách gì làm giảm không? Có. Chỉ cần “tự tịnh kỳ ý”.

Đừng quên kẻ thù của ta thở ra thì ta hít vào. Ta thở ra thì kẻ thù ta hít vào, Hai bên thân thiết biết mấy!

Thở còn giúp ta thấy biết Khổ. Hồi ỏ trong bụng mẹ, ta không thở, ta khoẻ ru. Sanh ra mới khóc thét lên và khổ sẽ đeo đẳng ta mãi. Cho đến khi ta hết thở, ta ngưng thở, ta mới hết… khổ! Ta chỉ mượn tạm hơi thở trong cuộc đời mình, chẳng lẽ chỉ dành cho khổ đau, cho hận thù cho đấu đá tranh giành sao? Chẳng lẽ không có lúc nào cho tâm được an vui, được hạnh phúc sao? Thiền chính là cách sử dụng hơi thở để chữa trị bệnh âu lo sợ hãi, khổ đau của mình. Nhờ quán niệm hơi thở mà ta thấy biết vô thường, khổ, vô ngã, duyên sinh, thì chẳng phải nhờ thiền mà ta tìm được sự thanh tịnh, tìm được thường lạc ngã tịnh đó sao?

Chuyện thứ tư: Ăn.
Tại sao phải ăn, ăn cái gì, ăn bao nhiêu, ăn cách nào?… Phật mang bình bát đi khất thực vài tiếng đồng hồ mỗi ngày và ai cho cái gì cũng vui nhận, không đòi hỏi, chẳng từ chối. Mang về vo lại thành một cuộn tròn để ăn một cách chánh niệm gọi là “đoàn thực”. Thức ăn có đủ bột đường (glucid), đậu, thịt, cá (protid), mè, bơ (lipid), và dĩ nhiên có rau củ, quả (khoáng, sinh tố)… Có khi thiếu thứ này một chút, thừa thứ khi một chút. Không sao. Thứ này có thể “biến” thành thứ kia không khó. Trong bột đường cũng có đạm, béo… Các thức ăn đó đã đủ cả các thành tố “đất nước gió lửa” của tứ đại, của ngũ uẩn.  Thì ra ăn ngũ uẩn là để nuôi thân ngũ uẩn. Khi đi khất thực hàng ngày như vậy ta thấy được tùy duyên, vô thường, vô ngã.

Nhưng ăn uống không chỉ để nuôi thân mà còn nuôi tâm. Phật nói có 4 nhóm thức ăn- gồm đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực, thức thực. Mỗi ngày ta tiếp xúc với biết bao thông tin từ bên ngoài bao bọc lấy ta. Cái “xúc thực” đó đủ khiến ta vui ta khổ, quay cuồng… Thử một ngày ngắt điện, tắt điện thoại, tắt internet đi coi!

Xúc sẽ dẫn tới thọ. Và “ái thủ hữu” tức khắc xuất hiện! Rồi từ thọ mà có tưởng. Hết thọ hết tưởng thì sẽ hết “sinh sự”. Tưởng dẫn đến tư niệm thực, thức thực. “Chúng sinh” đã thành lớp lang, đã thành “tri kiến” sai lạc, thành kiến, khái niệm, định nghĩa  vây chặt lấy ta. Nếu xúc thực dễ dẫn đến stress, thì tư niệm thực lại dẫn đến Anxiety, lo âu, sợ hãi, và thức thực sẽ dẫn đến Depresion, trầm cảm…

Còn “3 điều” là sao?

Một là phải hiểu “thuật ngữ”.

Không hiểu thuật ngữ Phật học thì sẽ bối rối, hiểu lầm, dễ dẫn tới dị đoan mê tín. Khi phải giảng về Phật pháp, tốt nhất là ”vô ngôn”, vì ngôn ngữ tự nó đầy rẫy những cạm bẫy. Nhớ rằng Phật không giảng dạy gì, chỉ tuỳ từng trường hợp cụ thể, Phật dạy riêng cho người nào đó là đủ. Gặp người thợ rèn, Phật nói về rèn sắt, gặp người thợ giặt Phật nói về giặt giũ, gặp người chơi đàn Phật nói về dây dàn căng hay dãn… Ngay cả tiếng Pali cũng chỉ có sau khi Phật nhập Niết bàn  300 năm! Những từ Hán việt, phiên âm, dễ gây nhầm lẫn nhất. Phật luôn căn dặn “đừng tin ai cả, kể cả tôi”. “Đến thử đi rồi biết”…

“Tam- ma- địa” mới nghe tưởng là vùng đất của ba con ma! Thực ra Tam-ma-địa là phiên âm chữ Samadhi, nghĩa là Chánh định.  Niết-bàn chẳng hạn không phải là cái nơi thiên đàng, cực lạc, mà là phiên âm của Nirvana. Ngay cả “chúng sanh” cũng vậy. “Chúng” là nhiều, “Sanh” là sanh ra. Cái gì do nhiều thành tố tạo nên thì gọi là “chúng sanh”… “Chúng sanh không phải là chúng sanh, chỉ tạm gọi là chúng sanh” (chúng sanh tức phi chúng sanh,  thị danh chúng sanh- kinh Kim Cang). Có một ông Bồ- tát thệ nguyện ngày nào còn một chúng sanh, tôi nguyện không thành Phật. Nghĩa là phải diệt sạch hết chúng sanh thì mới chịu làm Phật. Ông sẽ chế bom nguyên tử, bom khinh khí và các thứ vũ khí ghê gớm khác để tận diệt hết muôn loài trên cõi Ta-bà này ư?

Không. Ông thệ nguyện vậy vì ông biết chúng sanh ở trong đầu ông chớ không ở ngoài. Mấy cái xúc thực, tư niệm thực, thức thực… là “chúng sanh” do vô số thành tố tạo ra. Huệ Năng dạy: “Dứt bặt trần duyên. Chớ sanh một niệm!”.

Hai là phải hiểu ẩn dụ, ẩn nghĩa…

Kinh Pháp Hoa nói đến hóa thành, cùng tử, viên ngọc trong chéo áo, xe dê xe trâu… Niệm Quán Thế Âm thì gặp lửa lửa tắt, gặp nước cuốn trôi thì nước cạn, muốn sanh con trai có con trai, con gái có con gái…  Lửa ở đây là để chỉ lòng sân hận. Sân hận đưa ta vào chín tầng địa ngục. Đỏ mặt tía tai. Bầm gan tím ruột. Nước ở đây là để chỉ lòng tham cuồn cuộn cuốn ta vào hố thẳm, “lòng tham không đáy”… Con trai muốn nói là Trí tuệ, con gái muốn nói là Từ bi…

Ba là phải Thực hành.

Học Phật phải thực hành.  Tu phải đi với hành. Nhưng không được nóng vội. Nóng vội sẽ dẫn tới “tẩu hỏa nhập ma”. Thực hành trong cách thở, cách ăn, cách nghĩ, cách làm. Học Bồ-tát Thường Bất Khinh để luôn kính trọng mọi người, không phân biệt. Học Bồ-tát Dược Vương để luôn chân thành, ai thấy cũng vui ai gặp cũng mừng (nhất thiết chúng sanh hỷ kiến). Học Bồ-tát Quán Thế Âm để biết thấu cảm, nghìn mắt nghìn tay, hóa thân đủ hình dạng tùy cơ ứng biến. Đó chính là sự tôn trọng (respect), sự chân thành (genuine), sự thấu cảm (empathy) giúp cho cuộc sống ta luôn an lạc, hạnh phúc.

Tôn giáo nào, đạo nào cũng dạy làm lành tránh ác. Nhưng Phật giáo nêu cao “Tự tịnh kỳ ý” là điều cốt lõi và đòi hỏi sự thực hành trong đời sống hàng ngày. Tự mình, làm cho tâm ý mình trở nên thanh tịnh. Tâm ý mà thanh tịnh rồi thì cái “thấy” cái “biết” đã khác, cách nghĩ, cách làm đã khác. Con đường An Lạc mở ra từ đó.
Lòng sân hận đang nổi lên như lửa đốt, lòng tham đắm đang nổi lên như nước cuốn, nếu biết thực hành hít thở, chú ý đến hơi vào hơi ra… một lúc thì thoát.

Chỉ cần sử dụng hơi thở của chính mính để thực hành là đủ.
Thở bụng, tức thở cơ hoành. Lâu nay ta quen thở ngực. Thở ngực thì không sâu, không đưa hơi đến “huyệt đan điền” được. Tập thở cơ hoành (diaphagmatic breathing hay abdominal breathing) thì ta dễ ổn định được tâm ta. Thở bụng là giai đoạn đầu. Phải tập vài tháng sẽ quen. Không nóng vôi.
Sau đó ta tập chú ý tới hơi thở vào và hơi thở ra. Có nghĩa là ta dõi theo luồng hơi thở vào và hơi thở ra đó, hơi vào hơi ra tới đâu ta biết tới đó.  Dõi theo như vậy một lúc, ta “quên” hết mọi thứ chuyện trên đời! Đây là “Thở chánh niệm”, tức Thiền chỉ (Samatha). “Chỉ” là dừng, là ngưng, dừng ngưng ý nghĩ lăng xăng trong tâm ta. Ngưng ý nghĩ là ta đã vô tâm, vô niệm. Hết mệt, hết căng thẳng.

Rồi thử ngẫm nghĩ một chút về chuyện Thở của ta. Tại sao ta phải thở? Thở để làm gì? Không thở được không? Hơi này từ đâu ra? Nó thay đổi thế nào lúc ta mệt, lúc ta căng thằng, lúc ta sợ hãi… và lúc ta thảnh thơi, thoải mái, vui vẻ? Thì ra nó thay đổi liên tục theo tâm cảnh ta. Ta thấy biết “vô thường”. Ta muốn hít vào thiệt lâu, thở ra thiệt dài không được. Tại sao ta không có quyền kiểm soát hơi thở “của ta” ? Hoá ra nó không phải của ta, không phải là ta. Ta thấy biết “vô ngã”.

Mọi thứ có vẻ chẳng tùy thuộc vào ta chút nào! Ờ, còn cái hồi ta ở trong bụng mẹ, ta cũng không ăn  không thở mà vẫn sống nhăng đó thôi, lại còn rất mau lớn nữa. Lúc đẻ ra ta mới vất vả, phải thở, phải ăn, phải tranh giành, đấu đá… ! “Khổ” là từ đó.
Chỉ cần quán niệm hơi thở, ta thấy “tam pháp ấn” vô thường, khổ, vô ngã rồi vậy.
Còn tìm kiếm đâu xa?

Đỗ Hồng Ngọc
Saigon 8.10.2024

Nguồn: https://www.dohongngoc.com/web/goc-nh...

…. o ….

Đỗ Hồng Ngọc, M.D.
Translated  by Nguyên Giác Phan Tấn Hải

A pocketbook for the elderly
A PATH TO PEACE & JOY

Peace and joy are not merely fleeting happiness or temporary pleasure; rather, they resemble a cool stream that nourishes from within. They represent a profound state of contentment, characterized by a sense of well-being and serenity that emanates from each individual. This gentle and enduring state brings tranquility to both the mind and body, radiating outward to others. Peace and joy arise from wisdom, fostering freedom, ease, and balance in both physical and mental dimensions.

Learning Buddhism is the most effective way to cultivate peace and joy. Is there a secret to learning Buddhism easily? If you delve into the repositories of Buddhist scriptures, you will find that it is impossible to learn everything in multiple lifetimes. Furthermore, you may become consumed by inner turmoil, akin to a ghostly fire. This challenge is exacerbated in the age of the Internet, where AI, fake news, and deepfakes abound.

So, is there a secret to learning Buddhism easily?
Yes, there is a secret.
This secret comprises Three things and Four stories.

Three Things and Four Stories

The first story: The Buddha
Buddha was neither a god nor a religious leader with supreme authority capable of bestowing blessings upon humanity. He was an ordinary person, much like us, who experienced suffering, illness, old age, and death, just as all living beings do. Through his discovery of the path to liberation from suffering, he shared his insights with boundless compassion, as everyone possesses Buddha nature and has the potential to become a Buddha in the future. Buddha did not hold the exclusive right to be a Buddha alone; rather, he served as a Dharma teacher, an educator, and a revered physician.

The path taught by the Dharma Master can be summarized in just a few words:
Don’t do anything evil!
Do what is good.
You must purify your mind and thoughts yourself.
That is the teaching of the Buddhas.

Which religion does not encourage doing good and avoiding evil? What is commendable about it?

The intriguing aspect lies in the third sentence: You must purify your mind and thoughts on your own. When your mind and consciousness are pure, there is nothing more you need to accomplish.

The challenge lies in accomplishing it on your own. By yourself. This means you cannot seek assistance from anyone else. Only you can facilitate your own healing. Just as you must breathe independently—no one can breathe for you—you must also chew, swallow, eat, and drink by yourself. No one can perform these essential actions on your behalf.

Your mind is often restless and agitated. The mind resembles a monkey that enjoys constant movement, while consciousness is akin to a horse that yearns to run freely. It can be quite challenging to maintain a still and quiet mind. Achieving a state of peace and calm within the mind is no simple endeavor.

In summary, the essential step is to cleanse your mind.
How is it possible?
Yes, it is possible.

The second story: Yourself.
You must rely on yourself. Depend on yourself, as you cannot rely on anyone else. Just as no one can breathe for you, no one can eat for you. The Sixth Patriarch, Hui Neng, advised us to take refuge in ourselves. Everyone possesses three bodies: the Dharma body, the Reward body, and the Transformation body, similar to the Buddha. The Buddha taught that everyone has Buddha nature and that anyone can attain Buddhahood without distinction. When scientists mapped the human genome, they were astonished to discover that humans share 70% of their genes with trees, 26% with mustard greens, 97.5% with mice, and 99% with chimpanzees. In fact, humans share more than 99.99% of their genes with one another.

There is no need to differentiate between yellow, red, black, and white skin. Buddha is referred to as the one who is fully enlightened because he perceives this truth; so why should we make distinctions? Is it true that the ancient Buddha Vairocana embodies that gene? In the Avatamsaka Sutra, it is stated that all Buddhas possess the body of Vairocana from the Tathagatagarbha. The composition of the genetic system remains unknown, but all living beings share the same DNA, from the tiniest virus to humans, whales, and prehistoric dinosaurs. Who combined all these elements to create the diversity of life we see today? Buddha did not provide an answer to that question. Is it due to karma? The nature of that karma remains a mystery.

Everyone possesses three bodies, similar to Buddha, which means that each individual can practice mindfulness and purify their own mind to attain happiness and peace. A person who comprehends the concept of the three bodies will no longer differentiate between the rich and the poor, or the noble and the humble. They will treat everyone with respect, recognizing that we are all fundamentally alike. There is no need for discrimination, arrogance, or pride, as these attitudes only lead to suffering for oneself and others.

The Third Story: Breathing.
Try holding your breath… for a moment! You can’t do it. If you stop breathing for four minutes, you will die. Meanwhile, if you don’t eat or drink for ten days, you will also die. Breathing is essential to life. Interestingly, plants also breathe, but they require carbon dioxide (CO2) while we need oxygen (O2). We are interdependent; we cannot survive without each other. Now, try taking a deep breath… No! You must exhale at some point. Exhale for a long time… No! You must inhale eventually. Breathing is an automatic process; it does not adhere to our will. Inhaling and exhaling occur due to pressure changes in the lungs. It operates independently of us. It is not ours; it is not our self. We can recognize our “selflessness” simply by observing our breath.

Thousands of years ago, did ancient people breathe? Did Buddha breathe? Thousands of years from now, will future humans still breathe?
When you listen to your breath,
you realize that it has existed for thousands of years.
One day, it accidentally became your breath
after getting caught in a speck of dust.
While this breath is yours, it is not entirely yours;
it will continue to belong to thousands of years in the future.
(ĐHN)

It turns out that the air in this universe is a vast, pervasive void that enables our survival. The brain accounts for only 2% of our body weight but consumes nearly 30% of the oxygen we breathe. Why is this the case? Because that oxygen is essential for brain activity, which primarily involves processes such as calculation, competition, jealousy, fear, anger, and conflict with one another. Is there a way to reduce this consumption? Yes, by simply “purifying your own mind.”
Don’t forget that when our enemy exhales, we inhale. Conversely, when we exhale, our enemy inhales; this illustrates just how close the two sides are!

Breathing also allows us to recognize suffering. While we were in our mother’s womb, we did not breathe and had no worries. Upon our birth, we cried and experienced suffering, which would follow us throughout our lives. When we can no longer breathe, we cease to suffer. Do we only borrow breath in our lives for the purpose of suffering, hatred, conflict, and competition? Is there no time for our minds to find peace and happiness? Meditation offers a way to utilize our breath to alleviate anxiety, fear, and suffering. Through mindful breathing, we can perceive impermanence, suffering, non-self, and dependent origination. Is it not through meditation that we discover purity and witness the unchanging, the blissful, the essence of self, and true purity?

The Fourth Story: Eating
Why do we need to eat? What do we eat? How much do we eat? How do we eat? The Buddha carried his alms bowl and spent some hours each day begging for food, happily accepting whatever was offered to him without asking for specific items or refusing any contributions. He would return and roll the food into a ball to eat mindfully, a practice referred to as “eating solid food.” This food typically includes a balance of starches (carbohydrates), beans, meat, fish (proteins), sesame, butter (fats), and, of course, vegetables and fruits (which provide minerals and vitamins). Food can sometimes lack certain elements or have an excess of others. However, this is not a significant issue. This component in food can be easily converted into another component. For example, flour and sugar also contain proteins, fats, and other nutrients. These foods encompass all the elements of “earth, water, wind, and fire,” representing the four elements and the five aggregates. Ultimately, consuming the five aggregates serves to nourish the body composed of the same five aggregates. When we engage in the daily practice of begging for food, we come to understand that all phenomena are interdependent, impermanent, and devoid of a permanent self.
Eating and drinking serve not only to nourish the body but also to enrich the mind. Buddha identified four categories of food: solid food, sensory food, volitional food, and consciousness food. Each day, we are inundated with a vast amount of information from our surroundings. That sensory food can evoke a range of emotions, from happiness to sadness to dizziness. Consider disconnecting from electricity, silencing your phone, and turning off the internet for a day!
Contact leads to feelings, which then give rise to love, attachment, and existence. From feelings, perception emerges. When feeling disappears, and when perception ceases, there will be no more arising of dharmas. Perception leads to volitional food and consciousness food. When sentient beings have formed, it leads to wrong knowledge and views, and then prejudices, concepts, and definitions will besiege us. Then sensory food easily leads to stress, volitional food leads to anxiety and fear, and consciousness food leads to depression.

What about the three things?

First, it is essential to understand the terminology.
A lack of comprehension regarding Buddhist terminology can result in confusion, misunderstanding, and may easily lead to superstition. When it comes to teaching the Dharma, it is often best to avoid using words, as language can be fraught with misunderstandings. It is important to remember that the Buddha did not adhere to a rigid teaching method; rather, he tailored his lessons to suit each individual’s unique circumstances. For instance, when he encountered a blacksmith, he spoke about forging iron; when he met a washerman, he discussed the art of washing; and when he came across a zither player, he talked about the tension of strings. Furthermore, the Pali language was developed approximately 300 years after the Buddha attained Nirvana. Meanwhile, Sino-Vietnamese characters and phonetic transcriptions can be particularly perplexing. The Buddha consistently advised against placing blind trust in anyone, including himself. He emphasized the importance of personal experience, encouraging individuals to explore and discover the truth for themselves.
The same is true of the word “chúng sanh.” The word “chúng” means many, and “sanh” means to arise. Anything composed of multiple elements is referred to as a living being. The Diamond Sutra states that beings are not truly living beings; they are merely temporarily designated as such. There was a Bodhisattva who vowed that as long as even one living being remained, he would not attain Buddhahood. In other words, he must eliminate all living beings before he could become a Buddha. Would he resort to creating atomic bombs, hydrogen bombs, and other devastating weapons to annihilate all living beings in this samsaric world?
No, he made that vow because he understood that sentient beings resided within his mind, not outside of it. Sensory food, volitional food, and consciousness food are all “sentient beings” formed by countless elements. Hui Neng taught, “Cut off all worldly conditions. Do not give rise to a single thought!”

Second, we must understand metaphors and hidden meanings.
The Lotus Sutra discusses the illusory city, the prodigal son, the pearl hidden in the corner of a robe, a goat cart, and a buffalo cart. If you chant the name of Quan Âm, fire will be extinguished when you encounter it; floods will recede when you face them; if you desire a son, you will have one; if you wish for a daughter, you will have one as well.
Fire symbolizes anger, which can lead one to the nine levels of hell. In such moments, your face may flush red, and your ears may take on a purplish hue. This intense anger can feel as if your liver and intestines are being torn apart. Flooding represents greed, which surges forth and pulls you into the abyss—a realm of insatiable desire. The image of the son embodies Wisdom, while the image of the daughter signifies Compassion.

Third, you must practice.
Learning Buddhism requires dedicated practice, which must be accompanied by cultivation. However, it is important not to rush. Haste can lead one astray, and the fires of confusion may ignite in the mind. Practice mindfulness in your breathing, eating, thinking, and actions. Learn from Bodhisattva Never Disparagingto always show respect to everyone, without discrimination. Take inspiration from Bodhisattva Medicine King to cultivate sincerity, allowing you to find joy in every encounter. Learn from Bodhisattva Avalokiteshvara to cultivate empathy, embodying the spirit of one who can manifest a thousand eyes, a thousand hands, and a thousand forms to assist humanity. These qualities of respect, sincerity, and empathy contribute to a life that is peaceful, joyful, and fulfilling.
Every religion and belief system teaches the importance of doing good and avoiding evil. However, Buddhism emphasizes the principle that one must purify one’s mind by oneself, which requires consistent practice in daily life. By yourself, you have to make your mind pure. When your mind is pure, anything you see and know will be different; the way that you think and act becomes different. The path of peace and joy opens up from there.
The moment anger rises like a blazing fire or when greed surges like a rushing tide, if you know how to practice mindful breathing—paying attention to your inhalation and exhalation—you can break free from these emotions.
With consistent practice, simply using your breath can be sufficient to overcome anger and greed.
You should practice belly breathing, which means breathing with your diaphragm. You’ve been used to breathing from your chest for a long time. Breathing only in the chest means that the breath is shallow and does not reach the “dantian point.” Practicing diaphragmatic breathing (or abdominal breathing) helps you stabilize your mind more easily. Belly breathing is the initial stage. It takes a few months of practice to get used to it. Be patient and do not rush the process.

Then, practice focusing on your in-breath and out-breath. This involves following the natural rhythm of your breathing, and becoming aware of each inhalation and exhalation. As you engage in this practice for a while, you may find that you forget everything else in the world! This technique is known as “Mindful breathing” or Samatha meditation. “Samatha” means stopping, seeing the thoughts disappear in your mind. When you are fully present and recognize that your thoughts have dissipated, you experience a state of mindlessness and thoughtlessness. In this state, you are letting go of fatigue and stress.
Take a moment to reflect on your breathing. Why is it necessary to breathe? What is the purpose of respiration? Is it possible to stop breathing? Where does your breath originate? How does your breathing change when you are tired, stressed, or afraid, compared to when you are relaxed, comfortable, or happy? It becomes evident that your breath fluctuates in response to your mental state. You observe and recognize the concept of impermanence. You may wish to inhale deeply and exhale slowly, yet you find it difficult to do so. Why do you lack control over “your breath”? So, it does not belong to you; it is not a part of your identity. By understanding this, you begin to perceive the notion of non-self.
It may seem like everything is beyond your control! However, when you were in your mother’s womb, you neither ate nor breathed, yet you were still alive and grew rapidly. Once you were born, you faced challenges: you had to breathe, eat, struggle, and compete. This is where suffering originates.

By simply contemplating your breath, you can observe the three marks of the Dharma: impermanence, suffering, and non-self. Why search any further?

………………………………………

tranthinguyetmai.wordpresse

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 26, 2024 20:39

October 24, 2024

Minh Lê: Lá thư thứ nhất: “Gió heo may đã về …”

 

Lá thư thứ nhất: “Gió heo may đã về …”

Minh Lê (Nha Trang)

Bạn thân mến,

Từ tuổi 40 bước sang tuổi 50, bạn có cảm thấy gì không? Mình thì cảm nhận rất rõ chút gì đó len lén tới từng ngày, như ẩn như hiện. Trời chưa phải mùa thu mà sao cứ ngỡ “một chút gió heo may đã về, những chiếc lá vàng đã rơi lác đác trên những con đường thành phố, một mùi gió bấc quen thuộc đã len vào giữa những hàng cây…” (tr. 8)

Chắc bạn đang nghĩ mình trích dẫn từ cuốn sách văn chương nào đó, nhưng bạn ơi, là từ sách Gió heo may đã về… của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đó. Thập kỷ tuổi 50 trong cuộc đời một người được mô tả qua đôi mắt tinh tường của một bác sĩ, đầu óc văn chương của một văn sĩ, và trái tim lãng mạn của một thi sĩ như vầy: “Niềm vui thì vẫn vậy sao mắt môi như trĩu nặng. Một nếp xếp đã đậm vòng cung khóe miệng, những dấu chân chim đã hằn trên khóe mắt. Và kia, một vài nhánh tóc đã nhạt phai, khô quắt, mỏng tanh.” (tr. 11)

Một chân dung chỉ vài nét thoáng qua mà sao chính xác quá! Tác giả tiếp tục định nghĩa cái tuổi “gió heo may” ấy một cách vừa văn học vừa y học: “Tuổi chớm già, ấy là tuổi của chuyển tiếp, của lúng túng, hoang mang, tuổi của những stress, của những lo âu và phiền muộn, của những mối hiểm nguy rình rập về sức khỏe, về quan hệ gia đình, xã hội… đồng thời tuổi chớm già cũng là tuổi của thành tựu, của thành đạt và uy tín trong xã hội.” ( tr 23-24)

Ôi cái tuổi chớm già phức tạp thật! Nhưng đừng lo, tác giả sẽ giúp ta tìm ra vấn đề và cách giải quyết. Bài “Người về soi bóng mình” mô tả những thay đổi về thể chất ở tuổi “gió heo may” cùng lời khuyên của tác giả với tư cách bác sĩ, cũng là người đã trải nghiệm, coi nên làm gì để gió thổi… chậm lại. Bài này có một câu đơn giản mà đúng vô cùng, đọc lên nghe như câu ngạn ngữ xưa: “Ngày như dài ra, năm như ngắn lại. Khác với lúc trẻ, ngày thì ngắn mà năm thì dài.” (tr. 30)

Rồi bài “Về thu xếp lại” nói về đời sống tính dục ở tuổi chớm già của nam và nữ, “bật mí” nhiều điều “bí mật” mà nhiều người thắc mắc nhưng “không nói ra thì không ai biết”. Lời khuyên quý giá của thầy thuốc kiêm “tâm lý gia” Đỗ Hồng Ngọc là ở giai đoạn này, các cặp vợ chồng thường “dễ nóng giận, dễ xúc phạm, làm mếch lòng nhau” nên nếu “được chuẩn bị tốt, họ có thể cảm thông, tha thứ và biết chờ đợi nhau” thì sẽ có “một tuổi già hạnh phúc” (tr. 46)

Bài “Cát bụi tuyệt vời” và “Chân đi nằng nặng hoang mang” phân tích những thử thách về tinh thần ở tuổi chớm già. Người ta bắt đầu nhìn lại đoạn đường đã qua để chọn lựa cách sống phù hợp cho “tuổi mới”. Bài “Trong khi ta về…”  nói tới hai cách sống thường được lựa chọn ở độ tuổi này.

“Sông cạn đá mòn” chỉ ra mâu thuẫn quan trọng giữa cha mẹ và con cái khi cha mẹ vào tuổi “gió heo may” và con cái đã lớn khôn, nhưng cha mẹ chưa quen với việc đổi vai từ “chăm sóc, giám sát, quyết định mọi việc cho con” thành “người cố vấn, chỉ cho những lời khuyên suông” (tr. 77) Mâu thuẫn thứ hai là giữa vợ chồng tuổi trung niên. Tác giả khéo léo đưa ra giải pháp cho cả hai vấn đề một cách nhẹ nhàng và đầy thuyết phục.                                                                                           Minh hoạ: Đỗ Trung Quân

“Sống trong đời sống” bàn về công việc và nghề nghiệp. “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui” lại nói về sở thích và đam mê của tuổi chớm già. Ông thầy thuốc có tâm hồn nghệ sĩ viết một câu rất đỗi phóng khoáng: “nhớ Trịnh Công Sơn viết “Một chiều ngồi say, một đời thật nhẹ, ngày qua” mới thấy để cho ngày qua thật nhẹ đôi khi người ta cần một chút say.” (tr. 97) Ông còn “xúi giục”: “Ở tuổi chớm già, người ta phải say một cái gì đó nếu không muốn… tự tử!” Ôi trời, ông bác sĩ cho thuốc khá đắng, nhưng đúng là “giã tật”. Bạn thấy đúng không?

Ông mô tả những sở thích của tuổi chớm già, hóa ra khá nhiều, quan trọng là ta có tìm ra cái gì để “say” một cách lành mạnh không. Nếu tìm ra rồi, chấp nhận rồi, thoải mái với “cái già” rồi thì “Người ta nhìn đời bằng con mắt cảm thông hơn, độ lượng hơn bởi vì người ta đã từng trải, đã tích lũy nhiều kinh nghiệm sống, người ta đã “tri thiên mệnh”.” (tr. 105)

“Và như thế tôi đến trong cuộc đời” tổng kết lại những “bí kíp” quan trọng nhất theo tác giả để có “một tuổi chớm già biết thuận thiên, biết tiêu dao, tự tại” (tr. 119) Từ đầu đến cuối sách, ông thầy thuốc nói chuyện “chuẩn bị già” bằng một giọng văn giản dị, dí dỏm, trích dẫn đủ văn chương lẫn thơ phú nên đọc về tâm sinh lý mà người đọc không bị bối rối vì gặp từ khó hiểu, lại gật gù tâm đắc và thỉnh thoảng cười tủm tỉm trước cái duyên của ông bác sĩ “nghịch ngầm”.

Cuối sách có in hai bài viết của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và thi sĩ Đỗ Trung Quân. Trong khi Trịnh nhạc sĩ cự nự “Cái biên giới của tuổi chớm già và tuổi trẻ chỉ là một ước lệ mà nghìn năm trước đã bịa ra” (tr. 121) thì Đỗ thi sĩ thực tế hơn “tôi đương nhiên tin bác sĩ” và khen: “Viết về tâm sinh lý, chuyên môn y học bằng giọng văn tâm tình, “ướt át” như thế quả là hiếm gặp trong sách y khoa giáo dục.” (tr. 125)

Đâu phải “hiếm gặp”, là “duy nhất” mới chính xác, tôi nghĩ vậy khi đóng lại cuốn tùy bút xinh xắn. Dễ gì trăm năm nữa có thêm một người vừa là bác sĩ, văn sĩ và thi sĩ, để viết cho chúng ta đọc kiểu tùy bút nói chuyện sức khỏe vừa văn vẻ vừa thơ ca mà không kém phần uyên bác như vậy chứ?

Cho nên bạn ơi, đọc sớm đi, còn chờ gì nữa?

(ML)

* Các trích dẫn từ sách Gió heo may đã về…, Đỗ Hồng Ngọc, Nhà XB Tổng hợp TP HCM tái bản 2019.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 24, 2024 23:12

October 20, 2024

Thư gởi bạn xa xôi: 40 năm Ct ARI BVNĐ 1

 

Thư gởi bạn xa xôi:

“40 năm Chương Trình ARI”

tại Bệnh Viện Nhi Đồng 1 ngày 18.10.2024

Bạn ơi,

Xin lỗi, đã lâu chẳng có Thư gởi bạn xa xôi như đã hứa. Làm biếng! Không có chuyện gì để khoe, để phiền, để giận… để nói cho nhau nghe như xưa. Sắp quên tuốt rồi chăng? Hôm nay lại có chút chuyện vui đây.

Ngày 18.10.2024, Bệnh viện Nhi Đồng Saigon, nay là BV Nhi Đồng 1, tổ chúc buổi Tổng kết Chương Trình Hô Hấp Cấp Ở Trẻ Em (ARI, Acute Respiratory Infection) ở phía Nam, có các GS, TS, BS… các nơi từ Hà Nội, từ Paris và các đồng nghiệp các tỉnh phía Nam về dự, báo cáo các đề tài Nghiên cứu khoa học.

Ái dà, bạn bè lứa mình đa số già hết trơn mà mình thì già nhất trong số đó. Dĩ nhiên có nhiều BS trẻ ở BV tham dự học hỏi.

Mình được BTC mời “tham luận”. Được thôi. “Truyền thông Giáo dục sức khoẻ” và Chương trình Sức khoẻ Cộng Đồng lâu nay không xa lạ với mình, và đã có ít nhiều kinh nghiệm. Đóng góp 15 phút thôi là đủ. Chỉ cần vài Slides.

CT ARI, cũng như CDD…  đã thực hiện khá tốt, giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em đáng kể. Chỉ ngại thời buổi này, ngành Y thường chuộng Y tế chuyên sâu, kỹ thuật cao… May, từ xưa, BV Nhi Đồng đã chủ trương đi “2 chân”: Vừa chuyên sâu vừa Cộng đồng. Đợt tổng kết ở BV hôm nay đúng 40 năm, từ 1984, đó cũng là năm mình triển khai Ct Săn sóc sức khoẻ ban đầu cho Tre Em ( Primary Child Care) Phương 13 Quận 6 có khá nhiều kinh nghiệm. Dịp này mình chỉ chia sẻ về vai trò và triét lý Giáo dục Sức khoẻ (Health Education) và Nâng cao Sức khoẻ (Health Promotion)  trong các Chương trình Cộng Đồng sao cho có kết quả tốt thôi.

Xin gởi bạn vài tấm hình coi vui thôi nhe.

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 20, 2024 22:01

October 10, 2024

“Sách bỏ túi” cho người cao tuổi: CON ĐƯỜNG AN LẠC (tiếp theo)

 

“Sách bỏ túi” cho người cao tuổi: CON ĐƯỜNG AN LẠC

(tiếp theo)

Đỗ Hồng Ngọc

 

Tuổi già học Phật

Khi về già, tôi học Phật cách khác. Mỗi kinh sách, bài giảng dài dòng, thêm bớt… tôi chỉ học một câu, một chữ, một bài kệ và tự  nghiền ngẫm, đặt câu hỏi, giải đáp và thực hành trong đời sống hàng ngày. Con đường học Phật phải là con đường an lạc, con đường “diệt khổ”, chớ nếu học Phạt mà “khổ thêm” thì chắc học sai!

Với Tâm Kinh Bát Nhã, chỉ cần học và hành một câu: “ Quán Tự Tại Bồ-Tát hành thâm Bát Nhã Balamatđa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai “KHÔNG”, độ nhất thiết khổ ách.”

Bồ-Tát Quán Tự Tại nhờ thực hành thâm sâu Bát Nhã Balamatda mà thoát mọi  khổ đau ách nạn!

Tôi tự hỏi: Quán Tự Tại là ai? Bồ-tát là gì? Hành thâm là sao? Bát Nhã Balamat là gì? “Độ” tất cả khổ đau ách nạn thiệt không?…

Rốt lại chỉ cần học một chữ KHÔNG (Prajna, Bát Nhã) đó là đủ. Khi hiểu chữ Không do “Duyên sinh” thì ta không dễ bị lường gạt nữa bởi những cái hình tướng, danh tự bên ngoài. “Thấy vậy mà không phải vậy!” “Nghe vậy mà không phải vậy!”, tránh được những “biến kế sở chấp” và “y tha khởi” tác động, không còn bị dích mắc và từ đó, có thể “vô sở trụ”. Trong đời sống hàng ngày, ta thường luôn bám chấp, nghe lời đường mật, thấy hình tướng bên ngoài mà tưởng thiệt nên bị gạt gẫm bao phen, tỉnh ngộ thì đã muộn! Thời đại ngày nay càng cần “cảnh giác” nào fake news, deep fake, AI… các thứ!

 

Với Kim Cang, chỉ cần học một câu Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm. Thấy mọi sự do cái tâm mà sinh ra. Nhưng tâm sinh thì cứ sinh, miễn đường “trụ” vao đó, đừng dính mắc vào đó. Dính mắc khổ dài dài ráng chịu! Nếu Tâm sinh kệ nó, đừng thèm trụ vào đâu cả. Cho nên lấy Vô trụ làm Gốc (bản) trong Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục tổ Huệ Năng, lấy Vô Niệm làm tông. Tâm không “sinh sự” được nữa. Tâm bất sinh. Tâm trở về với “bổn lai diện mục” của nó. Trở về cái thể “vô tướng” thanh tịnh của nó. Muốn vậy, phải vào Thiền Định. Kim Cang dạy thiền định, dạy ly tướng, ly niệm, để đạt tới cái “Như Như bất động” của Như Lai.

Với Kinh Hoa Nghiêm, tôi nghĩ chỉ cần học Hội Thứ Nhất ở Bồ Đề đạo tràng, với các phẩm đầu là đủ. Dĩ nhiên sau đó là phần thực hành, “Nhập pháp giới”, nghĩa là thực hành, là “Vào đời”. Và mỗi chúng ta đều là Thiện Tài đồng tử, lòng rộng mở, khiêm tốn học tập với tất cả mọi người.

“Thế Chủ Diệu Nghiêm”- làm chủ thế giới- chắc chắn không phải là một ông thần, ông thánh, vua chúa, hoàng đế nào đó mà phải là một người đạt được “Diệu nghiêm”. Đó là một Bồ tát, ung dung, tự tại vô ngại, đã “hành thâm Bát Nhã, chiếu kiến ngũ uẩn giai Không” mới được.

Như Lai vốn “vô tướng” tự nhiên lại “hiện tướng” ra một ông Phật làm chi cho vất vả, thì ra chỉ vì lòng Đại bi. Ta cũng từ “Như Lai tạng” mà được/bị “nặn” ra để chịu bao phiền não chẳng biết do duyên gì, y báo chánh báo gì, nói chung là do cái Nghiệp! Ngày nào trả xong Nghiệp thì trở về với cõi “vô sanh” đó thôi.

Để thấy biết “Như lai hiện tướng” ra sao thì phải vào Tam muội Phổ Hiền. Tam muội ấy là Samadhi, thứ Định sâu nhất. Vào định Phổ Hiền mới thấy từ Vô tướng “Một ông Phật hiện ra, Ba con ma biến mất!”. Ma Tham, ma Sân, ma Si không còn quậy phá ta!

Thế giới thành tựu đầy “hoa tạng” trước mắt ta, dĩ nhiên đều do từ Tâm ta mà hiện ra. Nào sanh diệt, nào đoạn thường, nào huyễn hoá… tuyệt vời như vậy mà ta không biết, cứ khổ đau, phiền não, chướng ngại, ráng chịu thôi. Cứ “nhập thế” dạo chơi một vòng như Thiện Tài đồng tử thì cuối cùng cũng thấy ra thôi. Thấy  gì? Thấy Tỳ- lô- giá- na (vairocana). Thấy “Nhất thiết chư Phật tỳ- lô- giá- na như lai tạng thân” (Kinh Hoa Nghiêm). Bây giờ ta biết vạn vật đều từ ADN mà ra, và ADN thì từ… không có gì mà ra (bổn lai vô nhất vật) đó thôi. Lý vô ngại rồi thì Sự Sự vô ngại. Cái núi Tu Di to đùng kia nhét vào hạt cải, bốn biến mênh mông nọ rót vào một lỗ chân lông…

Với Kinh Pháp Hoa thì cái hay là chỉ cách làm thế nào để “mau thành Phật”. Lâu nay ta cứ tưởng thành Phật không dễ, phải tu nhiều đời nhiều kiếp. Hôm đó dưới chân núi Linh Thứu, Phật nói với các đệ tử, ta nay đã già, sắp nhập Niết bàn rồi, các thầy có ai muốn hỏi gì thì hỏi ngay đi! Vị Đại Bồ tát dẫn đầu hỏi ngay: Làm thế nào để “mau” thành Phật? Tưởng Phật sẽ rầy la, ai dè Phật trả lời: Dễ lắm! Chỉ cần học Pháp môn “Vô lượng nghĩa xứ” thì xong ngay. Mà Pháp môn đó lại chỉ có một pháp thôi: “Đó là Vô tướng”. Rồi Phật giải thích thêm: “Vô tướng ở đây là vô tướng mà chẳng phải vô tướng, chẳng phải vô tướng mà vô tướng, nên gọi là Thực tướng”. Hoá ra, vô tướng chính là thực tướng. Thực tướng chính là vô tướng. Chẳng cũng khoái ru? Chìm đắm trong vô tướng là sai. Mà lặn ngụp trong thực tướng cũng sai. Cho nên “thấy như thực” không phải là thấy thực, chỉ là “như” (thực) mà thôi. Ta phải thấy cái “vô tướng” của nó kìa, mới biết nó vô thường, vô ngã, biết nó duyên sinh, duyên khởi, có mà không, không mà có. Thấy biết vậy, ta không còn dính mắc! Bất tận Hữu vi mà bất trụ Vô vi. Chẳng hữu chẳng vô gì cả. Ta cũng học được các đức tính Tôn trọng (Respect) của Thường bất khinh, Chân thành (Genuine) của Dược vương và  Thấu cảm (Empathy), biết Lắng nghe (Listening) của  Quán Thế Âm.

Với Pháp Hoa, tôi tự hỏi mục đích Khai thị chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật là sao? “Tri kiến Phật” có gì hay? Sau khi ngẩm ngợi, nghiền ngẫm rồi mới thấy hay thiệt. Vô thường, vô ngã, khổ, bất tịnh… cũng chính là Thường Lạc Ngã Tịnh đó thôi, chẳng qua vì “điên đảo” mộng tưởng!

 

Với Kinh Duy Ma Cật, học rằng cõi Phật chẳng đâu xa. Cõi Phật trong ta đó thôi. Tâm ta mà thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh. Tâm ta chưa thanh tịnh thì thấy đâu cũng là gò nỗng, hầm hố, gai góc, thanh tịnh rồi thì cõi đất bỗng nhiên trở nên rộng lớn, nghiêm đẹp, ánh vàng khắp nơi nơi…

Học rằng phương tiện mà không trí huệ không xong. Trí độ là mẹ Bồ Tát. Tùy nghi phương tiện là cha. Phải có Trí độ (Bát Nhã) trước đã. Rồi, phương tiện mới tùy nghi được.

Học rằng Bồ-tát không đắm mê các tầng thiền để bỏ quên đời, phải thấu cảm cùng nỗi khổ đau vô tận của chúng sanh. Cho nên Bồ-tát “Tu học lẽ không mà chẳng lấy lẽ không làm chứng đắc. Tu học vô tướng, vô tác, mà chẳng lấy vô tướng, vô tác làm chứng đắc”.

Học rằng tâm khó mà nhận thấy! Làm sao để tâm an? Chỉ có cách tiếp cận qua thân. Cho nên “giả bệnh” như Duy Ma Cật là cách tốt nhất. Bệnh thì bình đẳng, không phân biệt. Mọi người đều bình đẳng trước… bệnh! Duy-ma-cật nói “Thân này không thể tin cậy được. Nó không phải của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta. Phải thấy thân Phật, tức thấy pháp thân.”

Học rằng chúng sanh là những ảo vật do nhà ảo thuật là chính ta tạo ra. Mà nhà ảo thuật cũng là một chúng sanh. Chẳng qua là những bóng hình trong gương, mặt trăng đáy nước, dấu chân chim giữa hư không…

Học rằng bốn Ma là “thị giả”, luôn ở cạnh ta, giúp ta. Ma phiền não bủa vây và nhắc nhở sẵn có bốn vạn tám ngàn cách thoát ra; Ma ngũ uẩn thì thân thiết, nhắc rằng mấy thứ lăng nhăng nó quấy ta chỉ là những kết hợp tạm bợ, lắp ghép lai rai; Ma trời (thiên ma) là lời cảnh giác, đừng tưởng bở! Còn Ma chết (tử ma) lại là bạn thiết gắn bó với ta từ thuở còn trong bụng mẹ…

Học rằng có thứ hương thơm nuôi cả thân và tâm bất tận đó chính là Giới đức. Thứ hương thơm đó mới có thể bay cao, bay xa, bay ngược chiều gió…

……………………

Nhìn lại chặng đường lõm bõm học Phật của mình,  tôi thấy có thể tự vẽ một phác đồ để nhắc nhở mình cho đừng quên:

Pháp Hoa là cốt lõi, ở trung tâm, vị Đạo sư đã mở tung một bí tạng, một “bí kíp” mà các Đức Phật xưa nay còn giấu nhẹm, không tiện nói ra, nay Phật Thích Ca đã “khai thị” cho ta thấy biết Như Lai, từ đó mà “ngộ nhập”, mà sống cùng, sống với, từ đó mà ung dung, tự tại, thuận với pháp, tùy với duyên, một khi biết tất cả đều cùng từ một Như Lai tạng, một “bào thai Như Lai”. Nó vậy là Nó vậy. Vô thủy vô chung. Tương tác từ Như Lai tạng mà hình thành pháp giới trong vũ trụ vô vàn… Với Trí Bát Nhã được “trang bị” ta không còn bị đắm chìm với những “phân biệt”, những “biến kế”, những “y tha” chằng chịt, quấn quít, khiến ta không thấy được cái Như như…

Thấy biết như vậy rồi thì ta mới có đủ Tự tin để Tự tại, hoàn toàn tự do và chịu trách nhiệm về duyên về nghiệp của mình, mà không đổ thừa, không nhờ vả. Ta biết quay về “nương tựa” chính mình và nhận ra một khi đã “tịnh kỳ ý” thì cái tâm ta đã trở về với “Thanh tịnh bổn nhiên” như được Phổ Hiền Bồ-tát dẫn vào lâu các Tỳ-lô-giá-na vốn là Pháp thân của chính mình.

Cuối cùng Duy-ma-cật sở thuyết là nỗi hoài vọng của Phật, muốn lan tỏa đến mọi con người, mọi ngóc ngách đời sống, tạo nên một cõi Phật, một pháp giới bình đẳng, an vui, hạnh phúc cho kiếp người!

Đỗ Hồng Ngọc

(Saigon, 11.10.2024)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 10, 2024 20:07

October 8, 2024

“Sách bỏ túi” cho người cao tuổi: CON ĐƯỜNG AN LẠC

 

“Sách bỏ túi” cho người cao tuổi.

CON ĐƯỜNG AN LẠC

Đỗ Hồng Ngọc

 

An lạc không phải là hạnh phúc, là sảng khoái nhất thời hay hài lòng, vui sướng… nhất thời, trái lại nó như dòng suối mát tưới tẩm ở bên trong. An lạc là một trạng thái hỷ lạc, một cảm nhận an lành, thanh thản tự bên trong mỗi cá nhân, nhẹ nhàng, bền bỉ, mang lại sự bình an cả thân và tâm cho chính mình và lan tỏa đến người khác. An lạc đến từ tuệ giác, đưa đến sự tự tại, ung dung, cân bằng cả về vật chất lẫn tinh thần…

Học Phật là cách hiệu quả nhất để mang lại sự an lạc đó. Có “bí quyết” nào để học Phật cho dễ không? Chui vào các “tàng kinh các” thì học đến nhiều đời nhiều kiếp cũng không hết mà còn bị “tẩu hoả nhập ma”, không kể ở thời Internet, AI, với fake news, với deepfakes…

Vậy có “bí quyết nào” học Phật cho “dễ” không?

Có đó.

Đó là “ 3 ĐIỀU 4 CHUYỆN” 

 

Chuyện thứ nhất: Phật .

Phật không phải là một thần linh, một giáo chủ… uy quyền tối thượng, ban bố ơn phước cho loài người. Phật là một người bình thường như ta, cũng trải qua khổ đau bệnh hoạn già nua và chết chóc như chúng sanh. Nhờ tìm được con đường thoát khổ mà chia sẻ với  mọi người với lòng từ bi vô hạn, bởi ai cũng có Phật tính, ai cũng sẽ thành Phật mai hậu. Phật không độc quyền làm Phật một mình. Cho nên Phật là một Đạo sư, một nhà giáo dục, một bậc y vương đáng quý đáng trọng.

Con đường của vị Đạo sư dạy chỉ có mấy chữ:

Chư ác mạc tác

Chúng thiện phụng hành

Tự tịnh kỳ ý

Thị chư Phật giáo

(Cái gì ác thì đừng làm!

Cái gì thiện thì làm

Phải tự làm cho tâm ý mình được thanh tịnh.

Đó là lời dạy của các vị Phật).

Tôn giáo nào chẳng khuyên làm lành tránh ác?  Có gì hay ở đây?

Cái hay là ở câu thứ 3: Tự tịnh kỳ ý. Tự mình làm cho cái tâm ý mình trở nên thanh tịnh. Tâm ý mà thanh tịnh được rồi, thì… hết chuyện!

Khó ở chữ TỰ. Tự mình. Có nghĩa là không thể nhờ ai khác, không thể nhờ người nào khác giúp ta thanh tịnh được. Nghĩa là chỉ có mình mới tự giúp được mình mà thôi. Như tự mình phải hít thở, không ai thở giúp mình được. Tự mình phải nhai nuốt, ăn uống, không ai ăn uống giúp mình được…

Cái tâm ý của mình vốn tưng bừng quậy phá, “tâm viên ý mã”- tâm như khỉ như vượn, còn lâu mới chịu im ắng, tĩnh lặng. Làm cho nó thanh tịnh quả là một chuyện không dễ.

Tóm lại, “tự tịnh kỳ ý” là điều cốt lõi.

Cách nào? Có thể được chăng?

Được.

Chuyện thứ hai: Mình.

Phải nương tựa chính mình. Dựa vào chính mình. Không thể nương tựa vào ai khác. Như đã nói không ai thở giùm mình, không ai ăn uống thay mình được. Lục tổ Huệ Năng khuyên phải “Tự quy y” là vậy. Tự quy y mình. Bởi mình cũng có đủ ba thân là Pháp thân, Báo thân và Hoá thân như Phật đó thôi. Phật bảo mọi người ai cũng có Phật tính, ai cũng có thể trở thành Phật, không phân biệt. Khi tìm ra bản đồ gène của con người, các nhà khoa học đã vô cùng kinh ngạc, thấy cái cây ngoài sân kia có 70%, cọng cải có 26%, chuột có 97,5%, tinh tinh có 99% gène giống người. Còn người với người thì có trên 99, 99% gène giống nhau.

Vậy thì có cần phải phân biệt người da vàng da đỏ da đen da trắng nữa không. Phật được gọi là bậc “chánh đẳng chánh giác’ vì thấy biết rõ điều đó, việc gì còn phải phân biệt nữa. Có phải là “tỳ-lô-giá- na” cũng là gen đó không? Trong kinh Hoa Nghiêm bảo tất cả các vị Phật đều có thân tỳ- lô- giá- na từ “Như Lai tạng” mà ra cả! Cái gì làm ra hệ gène chưa biết hết, nhưng đều chung từ DNA, từ con virus nhỏ xíu đến con người, con cá voi, con khủng long tiền sử. Ai trộn mấy thứ đó lại với nhau mà sinh ra đủ thứ vậy nhỉ? Phật không trả lời câu đó.  Tại nghiệp? Nghiệp là gì cũng không biết.

Mọi người đều có đủ “3 thân” như Phật nên ai cũng có khả năng rèn tập để “tự tịnh kỳ ý” của mình mà được hạnh phúc an lạc. Một người hiểu biết 3 thân sẽ không còn phân biệt giàu ghèo, sang hèn, sẽ đối xử với mọi người bằng tấm lòng tôn trọng, vì biết họ cũng như ta, không cần phân biệt, không ngã mạn, tự cao, đưa tới đau khổ cho người và cho chính mình.

Chuyện thứ ba: Thở

Hãy nín thở thử… một chút xem sao! Không được. Ngưng thở 4 phút thì chết. Nhịn ăn, nhịn uống mươi ngày mới chết. Thở thiết yếu của đời sống.  Cây cỏ cũng thở. Có điều ta cần O2 trong không khí. Còn cây cỏ cần CO2. Ta và cây cỏ nợ nần lẫn nhau. Không thể thiếu nhau. Thử hít vào một hơi thiệt sâu… Không được! Một lúc phải thở ra. Thở ra thiệt lâu… Không được! Một lúc phải hít vào. Hít thở nó tự động, nó không theo ý ta muốn. Hít vào thở ra là do áp suất trong phổi. Nó cóc cần ta. Nó chẳng phải là ta, chẳng phải của ta, chẳng phải là tự ngã của ta. Ta biết mình “vô ngã” chỉ cần nhìn vào hơi thở.

Ngàn năm trước, người xưa có thở không? Phật có thở không? Ngàn năm sau, người sau có thở không?

Lắng nghe hơi thở của mình…

Mới hay hơi thở của nghìn năm xưa…

Một hôm hơi thở tình cờ

Dính vào hạt bụi thành ra của mình

Của mình chẳng phải của mình

Thì ra hơi thở của nghìn năm sau…

(ĐHN)

Thì ra cái không khí trong vũ trụ này là chốn hư không, mênh mông, rộng khắp, mà  giúp ta tồn tại. Não bộ chỉ chiếm có 2% thể trọng của ta mà tiêu hao đến gần 30% dưỡng khí. Tại sao? Tại vì O2 đó dùng cho hoạt động của não, mà hoạt động của não là chủ yếu dành cho tính toán, hơn thua, ganh ghét, lo sợ, tức giận, tranh giành, đấu đá lẫn nhau không ngớt. Có cách gì làm giảm không? Có. Chỉ cần “tự tịnh kỳ ý”.

Đừng quên kẻ thù của ta thở ra thì ta hít vào. Ta thở ra thì kẻ thù ta hít vào, Hai bên thân thiết biết mấy!

Thở còn giúp ta thấy biết Khổ. Hồi ỏ trong bụng mẹ, ta không thở, ta khoẻ ru. Sanh ra mới khóc thét lên và khổ sẽ đeo đẳng ta mãi. Cho đến khi ta hết thở, ta ngưng thở, ta mới hết… khổ! Ta chỉ mượn tạm hơi thở trong cuộc đời mình, chẳng lẽ chỉ dành cho khổ đau, cho hận thù cho đấu đá tranh giành sao? Chẳng lẽ không có lúc nào cho tâm được an vui, được hạnh phúc sao? Thiền chính là cách sử dụng hơi thở để chữa trị bệnh âu lo sợ hãi, khổ đau của mình. Nhờ quán niệm hơi thở mà ta thấy biết vô thường, khổ, vô ngả, duyên sinh, thì chẳng phải nhờ thiền mà ta tìm được sự thanh tịnh, tìm được thường lạc ngã tịnh đó sao?

Chuyện thứ tư: Ăn.

Tại sao phải ăn, ăn cái gì, ăn bao nhiêu, ăn cách nào?… Phật mang bình bát đi khất thực vài tiếng đồng hồ mỗi ngày và ai cho cái gì cũng vui nhận, không đòi hỏi, chẳng từ chối. Mang về vo lại thành một cuộn tròn để ăn một cách chánh niệm gọi là “đoàn thực”. Thức ăn có đủ bột đường (glucid), đậu, thịt, cá (protid), mè, bơ (lipid), và dĩ nhiên có rau củ, quả (khoáng, sinh tố)… Có khi thiếu thứ này một chút, thừa thứ khi một chút. Không sao. Thứ này có thể “biến” thành thứ kia không khó. Trong bột đường cũng có đạm, béo… Các thức ăn đó đã đủ cả các thành tố “đất nước gió lửa” của tứ đại, của ngũ uẩn.  Thì ra ăn ngũ uẩn là để nuôi thân ngũ uẩn. Khi đi khất thực hàng ngày như vậy ta thấy được tùy duyên, vô thường, vô ngã. 

Nhưng ăn uống không chỉ để nuôi thân mà còn nuôi tâm. Phật nói có 4 nhóm thức ăn- gồm đoàn thực,  xúc thực, tư niệm thực, thức thực.  Mỗi ngày ta tiếp xúc với biết bao thông tin từ bên ngoài bao bọc lấy ta. Cái “xúc thực” đó đủ khiến ta vui ta khổ, quay cuồng… Thử một ngày ngắt điện, tắt điện thoại, tắt internet đi coi!

Xúc sẽ dẫn tới thọ. Và “ái thủ hữu” tức khắc xuất hiện! Rồi từ thọ mà có tưởng. Hết thọ hết tưởng thì sẽ hết “sinh sự”. Tưởng dẫn đến tư niệm thực, thức thực. “Chúng sinh” đã thành lớp lang, đã thành “tri kiến” sai lạc, thành kiến, khái niệm, định nghĩa  vây chặt lấy ta. Nếu xúc thực dễ dẫn đến stress, thì tư niệm thực lại dẫn đến Anxiety, lo âu, sợ hãi, và thức thực sẽ dẫn đến Depresion, trầm cảm…

 

 

Còn “3 điều” là sao?

Một là phải hiểu “thuật ngữ”.

Không hiểu thuật ngữ Phật học thì sẽ bối rối, hiểu lầm, dễ dẫn tới dị đoan mê tín. Khi phải giảng về Phật pháp, tốt nhất là ”vô ngôn”, vì ngôn ngữ tự nó đầy rẫy những cạm bẫy. Nhớ rằng Phật không giảng dạy gì, chỉ tuỳ từng trường hợp cụ thể, Phật dạy riêng cho người nào đó là đủ. Gặp người thợ rèn, Phật nói về rèn sắt, gặp người thợ giặt Phật nói về giặt giũ, gặp người chơi đàn Phật nói về dây dàn căng hay dãn… Ngay cả tiếng Pali cũng chỉ có sau khi Phật nhập Niết bàn  300 năm! Những từ Hán việt, phiên âm, dễ gây nhầm lẫn nhất. Phật luôn căn dặn “đừng tin ai cả, kể cả tôi”. “Đến thử đi rồi biết”…

“Tam- ma- địa” mới nghe tưởng là vùng đất của ba con ma! Thực ra Tam-ma-địa là phiên âm chữ Samadhi, nghĩa là Chánh định.  Niết-bàn chẳng hạn không phải là cái nơi thiên đàng, cực lạc, mà là phiên âm của Nirvana. Ngay cả “chúng sanh” cũng vậy. “Chúng” là nhiều, “Sanh” là sanh ra. Cái gì do nhiều thành tố tạo nên thì gọi là “chúng sanh”… “Chúng sanh không phải là chúng sanh, chỉ tạm gọi là chúng sanh” (chúng sanh tức phi chúng sanh,  thị danh chúng sanh- kinh Kim Cang). Có một ông Bồ- tát thệ nguyện ngày nào còn một chúng sanh, tôi nguyện không thành Phật. Nghĩa là phải diệt sạch hết chúng sanh thì mới chịu làm Phật. Ông sẽ chế bom nguyên tử, bom khinh khí và các thứ vũ khí ghê gớm khác để tận diệt hết muôn loài trên cõi Ta-bà này ư?

Không. Ông thệ nguyện vậy vì ông biết chúng sanh ở trong đầu ông chớ không ở ngoài. Mấy cái xúc thực, tư niệm thực, thức thực… là “chúng sanh” do vô số thành tố tạo ra. Huệ Năng dạy: “Dứt bặt trần duyên. Chớ sanh một niệm!”.

Hai là phải hiểu ẩn dụ, ẩn nghĩa

Kinh Pháp Hoa nói đến hóa thành, cùng tử, viên ngọc trong chéo áo, xe dê xe trâu… Niệm Quán Thế Âm thì gặp lửa lửa tắt, gặp nước cuốn trôi thì nước cạn, muốn sanh con trai có con trai, con gái có con gái…  Lửa ở đây là để chỉ lòng sân hận. Sân hận đưa ta vào chín tầng địa ngục. Đỏ mặt tía tai. Bầm gan tím ruột. Nước ở đây là để chỉ lòng tham cuồn cuộn cuốn ta vào hố thẳm, “lòng tham không đáy”… Con trai muốn nói là Trí tuệ, con gái muốn nói là Từ bi…

Ba là phải Thực hành.

Học Phật phải thực hành.  Tu phải đi với hành. Nhưng không được nóng vội. Nóng vội sẽ dẫn tới “tẩu hỏa nhập ma”. Thực hành trong cách thở, cách ăn, cách nghĩ, cách làm. Học Bồ-tát Thường Bất Khinh để luôn kính trọng mọi người, không phân biệt. Học Bồ-tát Dược Vương để luôn chân thành, ai thấy cũng vui ai gặp cũng mừng (nhất thiết chúng sanh hỷ kiến). Học Bồ-tát Quán Thế Âm để biết thấu cảm, nghìn mắt nghìn tay, hóa thân đủ hình dạng tùy cơ ứng biến. Đó chính là sự tôn trọng (respect), sự chân thành (genuine), sự thấu cảm (empathy) giúp cho cuộc sống ta luôn an lạc, hạnh phúc.

Tôn giáo nào, đạo nào cũng dạy làm lành tránh ác. Nhưng Phật giáo nêu cao “Tự tịnh kỳ ý” là điều cốt lõi và đòi hỏi sự thực hành trong đời sống hàng ngày. Tự mình, làm cho tâm ý mình trở nên thanh tịnh. Tâm ý mà thanh tịnh rồi thì cái “thấy” cái “biết” đã khác, cách nghĩ, cách làm đã khác. Con đường An Lạc mở ra từ đó.

Lòng sân hận đang nổi lên như lửa đốt, lòng tham đắm đang nổi lên như nước cuốn, nếu biết thực hành hít thở, chú ý đến hơi vào hơi ra… một lúc thì thoát.

Chỉ cần sử dụng hơi thở của chính mính để thực hành là đủ.

Thở bụng, tức thở cơ hoành. Lâu nay ta quen thở ngực. Thở ngực thì không sâu, không đưa hơi đến “huyệt đan điền” được. Tập thở cơ hoành (diaphagmatic breathing hay abdominal breathing) thì ta dễ ổn định được tâm ta. Thở bụng là giai đoạn đầu. Phải tập vài tháng sẽ quen. Không nóng vôi.

Sau đó ta tập chú ý tới hơi thở vào và hơi thở ra. Có nghĩa là ta dõi theo luồng hơi thở vào và hơi thở ra đó, hơi vào hơi ra tới đâu ta biết tới đó.  Dõi theo như vậy một lúc, ta “quên” hết mọi thứ chuyện trên đời! Đây là “Thở chánh niệm”, tức Thiền chỉ (Samatha). “Chỉ” là dừng, là ngưng, dừng ngưng ý nghĩ lăng xăng trong tâm ta. Ngưng ý nghĩ là ta đã vô tâm, vô niệm. Hết mệt, hết căng thẳng.

Rồi thử ngẫm nghĩ một chút về chuyện Thở của ta. Tại sao ta phải thở? Thở để làm gì? Không thở được không? Hơi này từ đâu ra? Nó thay đổi thế nào lúc ta mệt, lúc ta căng thằng, lúc ta sợ hãi… và lúc ta thảnh thơi, thoải mái, vui vẻ? Thì ra nó thay đổi liên tục theo tâm cảnh ta. Ta thấy biết “vô thường”. Ta muốn hít vào thiệt lâu, thở ra thiệt dài không được. Tại sao ta không có quyền kiểm soát hơi thở “của ta” ? Hoá ra nó không phải của ta, không phải là ta. Ta thấy biết “vô ngã”.

Mọi thứ có vẻ chẳng tuỳ thuộc vào ta chút nào! Ờ, còn cái hồi ta ở trong bụng mẹ, ta cũng không ăn  không thở mà vẫn sống nhăng đó thôi, lại còn rất mau lớn nữa. Lúc đẻ ra ta mới vất vả, phải thở, phải ăn, phải tranh giành, đấu đá… ! “Khổ” là từ đó.

Chỉ cần quán niệm hơi thở, ta thấy “tam pháp ấn” vô thường, khổ, vô ngã rồi vậy.

Còn tìm kiếm đâu xa?

(ĐHN)

Saigon 8.10.2024

(còn tiếp)

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 08, 2024 05:15

October 6, 2024

50 năm: “Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng”

 

50 năm:

Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng

Đỗ Hồng Ngọc

 

Bản đầu tiên: 1974
Nxb LA-NGÀ
Bìa Đỗ Hồng Ngọc
(Hình: Tượng Me con trong một tạp chí Y học)

 

Lời ngỏ

(cho bản in lần đầu, 1974)

Sao lại viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng? Có đứa con nào mà chẳng là con đầu lòng? Có đứa nào giống với đứa nào đâu? Mỗi đứa là một khám phá mới, một ngạc nhiên mới cho ta. Nhưng dù sao, với đứa con đầu lòng chúng ta cũng bỡ ngỡ nhiều hơn, vụng về nhiều hơn mà lo lắng cũng nhiều hơn…

Bởi là lần đầu chúng ta “bỗng dưng” làm cha mẹ, chúng ta phải đối phó với những việc vặt vãnh hàng ngày làm ta lúng túng không ít: săn sóc bé, tắm rửa vệ sinh, ăn mặc, bú mớm rồi là những đêm quên ngủ, những ngày quên ăn, khi bé ốm đau bệnh hoạn.

Nuôi trẻ là một bản năng, một nghệ thuật hay một khoa học? Cả ba, có lẽ thế. Là một bản năng, bởi không cần học hỏi ở bất cứ đâu, người mẹ cũng có thể nuôi con đến ngày khôn lớn. Đói cho ăn, khát cho uống. Nóng làm cho mát. Lạnh làm cho ấm. Nếu không bị lệch lạc đi, bản năng có thể là một hướng dẫn viên tốt. Là một nghệ thuật, bởi hơn bất cứ một nghệ sĩ nào khác, người mẹ đã tạo nên một tác phẩm sống: đứa con, một con người, một cá nhân.

 

Săn sóc bé, dạy dỗ bé, nhìn ngắm bé lớn lên là cả một nghệ thuật uyển chuyển đầy sáng tạo có mục đích cuối cùng là giúp bé phát triển trọn vẹn nhất theo một khuôn mẫu định sẵn, nhưng là một khuôn mẫu cá biệt, không giống một khuôn mẫu nào khác. Là một khoa học bởi nếu có đôi lúc bản năng ngần ngại, nghệ thuật phân vân thì chính kiến thức khoa học sẽ soi sáng con đường phải lựa chọn. Khoa học giúp ta hiểu rõ hơn để hướng dẫn hữu hiệu hơn, khoa học giúp ta ngăn ngừa cho trẻ những bệnh tật hiểm nghèo.

Một phần lớn, tập sách này được dành viết về vệ sinh, về dinh dưỡng, về phòng bệnh – tìm hiểu sự phát triển bình thường của bé – khi bé mắc bệnh thì biết phải làm gì tạm thời trong khi đợi đi khám bác sĩ và giúp các bà mẹ bình tĩnh theo dõi, cộng tác với thầy thuốc chữa trị bệnh cho con…

(…)

Niên học 1968-1969 tôi là sinh viên Y khoa năm cuối thực tập ở Bệnh viện Nhi đồng Saigon, tại Trại 2B  (Nội nhi) dưới sự hướng dẫn của GS Phan Đình Tuân, giám đốc bệnh viện, Trưởng bô môn Nhi ở Y khoa Đại học đường Saigon và Bs Dương Thị Thanh Liên, trưởng Trại 2B. Năm 1969, tôi tốt nghiệp bác sĩ và trình luận án về Nhi khoa (năm 1970), do GS Phan Đình Tuân đỡ đầu. Bệnh viện Nhi đồng Saigon (thành lập 1956), như một cái nôi của tôi vì tôi rất say mê ngành Nhi Khoa.

Khi về lại BVNĐ (1973), tôi làm Trưởng phòng Cấp cứu Ngoại chẩn (Consultation externe).  Chính trong thời gian này, tôi viết cuốn Viết cho các bà mẹ sanh con đầu lòng qua những kinh nghiệm thực tế hàng ngày ở Khoa Cấp cứu nhi, và nhiều năm làm ở Trại 2B Nội nhi, thấy nhiều cảnh thương tâm do các bà mẹ thiếu kiến thức về chăm sóc, phòng bệnh cho trẻ nhỏ.  Tôi viết với tất cả sự chân tình, với kiến thức và kinh nghiệm có được nhằm chia sẻ với các bạn bè, em cháu trong nhà, và cũng vì tôi đã có 3 đứa “đầu lòng” để chăm lo.

 

Nhân 50 năm cuốn Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng xuất bản tại Saigon, xin chia sẻ nơi đây vài kỷ niệm cùng các bạn…

Viết cho các bà mẹ sanh con đầu lòng  in lần đầu năm 1974, do La Ngà xuất bản và Sống Mới tổng phát hành, 3000 cuốn đầu tiên, chỉ trong 2 tháng đã tái bản 5000 cuốn nữa. Đến 4.1975, Nhà phát hành Sống Mới mang trả lại tôi hơn 2000 cuốn. Tuy vậy, sách vẫn có người đến lấy lai rai để bán ra ngoài đường Sách cũ. Sau 1975, Nhà xuất bản Thành phố đề nghị tôi rút ngắn (thời kỳ này giấy in rất hiếm!) và chỉnh sửa cho phù hợp tình hình mới ( về hệ thống ý tế, thuốc men…). Tôi thấy cuốn sách vẫn rất cần thiết cho các bà mẹ, nhất là trong giai đoạn thiếu thốn những nguồn thông tin như lúc bấy giờ. Anh Lã Quang Quỳnh là biên tập viên, con rể của nhiếp ảnh gia Võ An Ninh, rất thấu hiểu và tôn trọng tác phẩm, dầu vậy anh nói vẫn cần một “chuyên gia y tế” thẩm định lại trước khi cho xuất bản! Vị chuyên gia được mời thẩm định là Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp. Ông xem xét rất kỹ và đánh giá là cuốn sách quý, rất hay, và cần thiết. Sau này, tôi mới được biết ông là vị thầy thuốc nổi tiếng, gốc Bến Tre, đã có phòng mạch từ trước 1945 ở Mỹ Tho, tham gia kháng chiến chống Pháp (Ông là cha của anh Trần Hữu Dũng, Viet-studies).

Vế sau, sách đã được tái bản đầy đủ, theo nguyên bản (gốc 1974). Tôi cũng đã bổ sung và cập nhật định kỳ, cũng do NXB Tổng Hợp Thành Phố thực hiện.

Những năm gần đây, tuy có nhiều sách dịch về các phương pháp nuôi dạy con theo Nhật, Mỹ, Pháp, Israel…nhưng cuốn Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng vẫn được nhiều bà mẹ tìm đọc, họ nói đó là cuốn sách rất Việt, có nhũng phong tục tập quán và những tình cảm đặc biệt của người Việt, không tìm thấy trong các cuốn sách khác.

Đến năm 2010, Phùng Minh Bảo, người giúp tôi làm Website dohongngoc.com  cùng tôi thực hiện một Ebook Viết cho các bà mẹ sanh con đầu lòng nhằm phổ biến rộng rãi hơn trên Internet, lúc này nhiều người đã quen sử dụng.

 

Ebook do Phùng Minh Bảo & Đỗ Hồng Ngọc

thực hiện 2010

(xem trên dohongngoc.com)

 

Và tôi, viết một Lời Ngỏ cho ebook.

Lời Ngỏ (Ebook 2010)

“Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng” là một cuốn sách y học phổ cập khá quen thuộc với nhiều ông bố bà mẹ suốt nhiều thập kỷ qua. Nhiều bà mẹ bày tỏ đây là cuốn sách gối đối giường của họ trong những ngày tháng ngóng đợi đứa con đầu lòng cũng như suốt thời kỳ chăm sóc nuôi nấng con nhỏ dại. Sách đã giúp họ an tâm, nhất là trong thời buổi hiện nay, nhiều gia đình hạt nhân, thậm chí đơn thân.

Tôi viết cuốn sách này từ những kinh nghiệm khi đang làm việc tại Bệnh viện Nhi đồng Saigon, hằng ngày tiếp xúc với biết bao cảnh đời thực tế; tôi cũng lại viết từ nỗi lòng của một người làm cha mẹ, vì lúc đó đã vừa có 3 đứa con với nhiều nỗi âu lo. Thời gian qua nhanh! Mới ngày nào một chú bé sơ sinh được mẹ bế đến khám bệnh tôi ngày trước thì nay đã lại thấy chú bế một bé sơ sinh khác- là con của chú- đến khám.

Nhờ được viết từ những kinh nghiệm thực tiễn cũng như từ nỗi lòng của người làm cha mẹ, nên dù ngày nay có nhiều những quyển sách tương tự được dịch từ nước ngoài, các ông bố bà mẹ vẫn tìm thấy Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng những điều chia sẻ, thân quen.

Y học tiến bộ không ngừng. sách cũng đã được cập nhật mỗi lần tái bản. Và nay,  nhu cầu đọc sách trên mạng đã trở nên phổ biến, đặc biệt với các ông bố bà mẹ trẻ- trong cũng như ngoài nước- nên khi được Phùng Minh Bảo đề xuất chuyển thành Ebook để tiện tra cứu, tôi đã rất vui lòng đáp ứng. Ebook đã được biên soạn thêm, chỉnh sửa, bổ sung… đầy đủ hơn.

Tôi rất mong qua Ebook này, được dịp trao đổi kinh nghiệm với các đồng nghiệp, bạn bè gần xa và nhất là được giao lưu với các ông bố bà mẹ qua internet, phương tiện giúp ta mỗi ngày một gần gũi nhau hơn.

Trân trọng,

BS Đỗ Hồng Ngọc

Saigon 3.11.2010

 

 

Vài hình ảnh cuốn Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng

 

……………………………

Lời Ngỏ (tái bản 2006)

Mới đó mà đã hơn 30 năm ! Thời gian trôi nhanh thật. Những chú nhóc ngày nào được các bà mẹ, ông bố trẻ lo âu thắc thỏm bế đến tôi thì nay đã lại thấy ẵm những chú nhóc khác – là con của chú – đến khám nữa rồi…

Vẫn những âu lo đó, vẫn những băn khoăn thắc mắc đó. Dù khoa học kỹ thuật, dù y học đã thay đổi, tiến bộ không ngừng mà tấm lòng người làm cha, làm mẹ thời nào cũng vậy, chẳng mấy chút đổi thay. Còn các bà mẹ, ông bố lúng túng lọng cọng ngày nào bây giờ đã là những ông bà nội ngoại, mà vẫn cứ còn lọng cọng lúng túng như xưa, dù tóc đã bạc màu với tháng năm, vẫn tất tả lo toan thay ba mẹ bé bận bịu trăm công ngàn việc. Nhiều bà nội bà ngoại kêu ca vất vả mà trong ánh mắt như tràn ngập niềm vui bởi được nựng nịu, bổng bế, chăm sóc bé, đôi khi còn không tin tưởng lớp trẻ, bảo chúng nó chẳng biết gì, chỉ biết… đẻ thôi !

Thời đại chúng ta bây giờ mọi việc trở nên không đơn giản, hình như còn lắm nỗi khó khăn hơn cho bà mẹ trẻ. Truyền thông tiếp thị đi vào mọi ngõ ngách, vào giấc ngủ, bữa ăn, gây bao nỗi hoang mang. Con người như ngày càng xa rời thiên nhiên, ngày càng bị cuốn hút vào dòng xoáy của những lệ thuộc, của những nhu cầu giả tạo. Nhiều ông bố bà mẹ bây giờ mặc sức tranh cãi và thậm chí đem đủ thứ sách trích dẫn Tây, Tàu để giành phần thắng mà cuối cùng chỉ tội nghiệp đứa trẻ bơ vơ hơn bao giờ hết ! Mọi thứ cứ như máy móc hóa, kế hoạch hóa. Bố mẹ thì bận bịu làm ăn, đầu tắt mặt tôi, khoán trắng cho người khác nuôi con mình. Tôi có dịp gặp những bà mẹ cân đong, đo đếm đến từng gram bột đường, từng gram trái cây, mà bé cứ ngày còm cõi, bơ phờ; tôi có dịp gặp những bà mẹ có hẳn một thực đơn phong phú tính từng calori, với hằng chục thức ăn thay đổi liên tục trong tuần mà trẻ cứ còi cọc, không phát triển ! Trẻ không biết nói, không biết kêu ca, bị ép ăn như một cái máy, ép nghe nhạc cổ điển Tây phương… cho thông minh hơn! Nếu trẻ kêu lên được, tôi nghĩ có lẽ chỉ kêu một tiếng: Mẹ ơi, con cần mẹ, con cần mùi mồ hôi của mẹ, cần tiếng ru của mẹ, cần vòng tay của cha, bờ vai của cha. Điều thú vị là trong khi đó, tại các nước phát triển lại có phong trào “về nguồn”, sinh đẻ tự nhiên, nuôi con phù hợp với từng đứa trẻ, cho bú sữa mẹ lâu dài, cho trẻ gần gũi với thiên nhiên…

Tôi chân thành cảm ơn Nhà Xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh đã cho tái bản cuốn sách này – được cập nhật và bổ sung đầy đủ – nhân dịp tôi chính thức về hưu như một món quà nhỏ gởi đến các ông bố, bà mẹ trẻ mới sinh con đầu lòng. Cuốn sách là những lời tâm tình, chia sẻ của một người vừa là thầy thuốc, vừa là người cha những năm xưa, nay đã trở thành ông nội, ông ngoại của mấy nhóc nhỏ rồi ! Thời gian trôi nhanh thật !

Tp Hồ Chí Minh, tháng 3-2006

Đỗ Hồng Ngọc

………………………………….

Vài phản hồi về cuốn “Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng”

 

Sachweb

Cuốn sách thực sự không thể tuyệt vời hơn. Đọc và giật mình, thảng thốt, nuôi trẻ thật đơn giản mà cũng không đơn giản chút nào. Nếu ta quá lo lắng hoặc quá coi nhẹ đều có thể dẫn tới những kết quả đáng sợ, chính vì vậy, tác giả nói rằng nuôi trẻ vừa là bản năng, vừa là nghệ thuật, vừa là khoa học. Bằng giọng tâm tình, gần gũi, viết về y học mà như đang kể chuyện đời thường, tác giả đã thực sự đem tới một món quà vô cùng quý giá, đặc biệt cho các bà mẹ trẻ. Tác phẩm đoạt giải Bạc sách Hay Việt Nam năm 2008.

 

Sách gối đầu giường

Lê Uyển Văn (Trà Vinh)

Mỗi đoạn đời, tôi thích những loại sách khác nhau. Sự khác biệt ấy ngày càng lớn lên cùng tuổi tác. Thời niên thiếu, tôi yêu chất văn nhẹ nhàng như sương bay, tinh tế như mùi hương cốm mới của Thạch Lam, Thanh Tịnh; lớn thêm một chút, tôi biết say mê cái lạ lẫm,dữ dội của Giamilia ( Aitmatốp), Sông Đông êm đềm ( Sôlôkhốp)…Rồi đến với văn học Trung Quốc ngọt ngào như trở về nguồn cội…Tích lũy được mấy tủ sách để đọc và nghiền ngẫm nhưng thật sự gối đầu giường thì không phải sách của một nhà văn chính hiệu mà là Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc!

Đừng vội nghĩ rằng sức khỏe tôi yếu kém nên luôn cần đọc sách về Y học. Với tôi, tác phẩm của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc là sự kết hợp tuyệt vời của thiên chức nhà văn và thầy thuốc. Với tôi, ông vừa là một lương y chữa bệnh thể xác, vừa là một thần y chữa bệnh tâm hồn.

Mỗi người mẹ khi có đứa con đầu lòng sẽ đối diện với biết bao âu lo và sợ hãi, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã tặng cho chúng tôi “ Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng” “ Làm thế nào để trẻ khỏe mạnh và thông minh?”.

Ở đó, tôi không chỉ nắm bắt được những kiến thức khoa học để nuôi con mà còn gặp được tấm lòng một người cha vĩ đại. Ông kể chuyện của con mình, kể về nỗi buồn lo, ân hận của mình để mà truyền kinh nghiệm cho bạn, cho tôi. Khi con mọc răng nóng sốt, khi con quấy khóc , ốm đau, khi con chán ăn, khi con biết lẫy, biết bò …tôi đều giở sách ra, đôi khi không chỉ đọc để biết phải làm gì mà còn tìm trong đó một nguồn an ủi, vỗ về. Mỗi lần nâng quyển sách ấy trên tay, tôi không nghĩ mình đang đọc sách mà đang trò chuyện với ông, ấm áp và tin tưởng lạ thường !

Lúc gần 2 tuổi, con tôi to khỏe, nhanh nhẹn và thông minh; giật giải trong kỳ thi “ bé khỏe, bé đẹp” của Tỉnh. Khi được hỏi bí quyết nuôi con, tôi nói trong xúc động và tự hào “ Bí quyết của tôi đều do bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc truyền lại !”.

Giờ con đã lớn, quyển sách ấy trở thành một kỷ vật, lật mở từng trang, hình ảnh con bé dại lại quay về, lung linh trước mắt ! Con bước vào tuổi dậy thì, có những điều chưa hiểu hay khó nói, tôi lại tìm đến “ Khi người ta lớn” của ông!

Mỗi ngày, chạy hụt hơi theo guồng quay của nhịp sống, đêm tôi tìm bình an trong “ Như ngàn thang thuốc bổ” “ Gió heo may đã về” “ Cành mai sân trước” “ Nghĩ từ trái tim”…

Tôi vẫn thầm biết ơn những văn hào, thi sĩ của muôn đời đã mang đến thế gian này những áng văn trác việt nhưng người tôi tri ân nhiều nhất, gần gũi nhất có lẽ phải kể đến người thầy thuốc, người nghệ sĩ có tấm lòng bao la như mẹ : Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc !

(2008)

 

Cuốn sách yêu thích của mẹ

(blog.dongchay.com)

Chính là cuốn sách mà mẹ đã trích một phần trong đó làm lời ngỏ cho cuốn nhật ký này. Cuốn “Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng” của bác sỹ Đỗ Hồng Ngọc.

Ngay từ hồi nhỏ, mẹ khá là thích đọc. Đọc đủ thứ. Báo có, tạp chí có, truyện tranh có, tiểu thuyết có, truyện dài kỳ có và cả truyện chưởng cũng có. Đến bây giờ mẹ cũng vẫn còn giữ vài bộ truyện tranh (Conan, Songoku), vài bộ truyện dài kỳ thiếu niên (TKKG, Kính vạn hoa, Harry Potter…), vài cuốn tiểu thuyết,… Chỉ có điều, mẹ đọc hay quên, đọc đi rồi đọc lại vẫn thấy như mới!

Vì thế, khi chuẩn bị sinh con, mẹ cũng vừa đi mượn, vừa đi lùng vài cuốn sách làm cẩm nang để chuẩn bị cho con chào đời. Và cuốn sách ấn tượng nhất với mẹ chính là cuốn của bác sỹ Đỗ Hồng Ngọc.

Cuốn sách này mẹ vô tình tìm thấy được trong tủ sách của nhà mình ở Nam Định. Bìa sách đã cũ, hình ảnh không còn được tươi mới, giấy in đã sờn nhưng không hiểu sao mới đọc lướt vài trang mẹ đã thấy rất ấn tượng. Bác sỹ Ngọc không phải viết theo phong cách của một bác sỹ cho các đồng nghiệp, không phải cho thân nhân người bệnh, cũng không phải theo khuôn mẫu của một sách giáo khoa khô khan. Bác sỹ viết như người bạn viết cho người bạn, người anh, người chú lớn tuổi nhiều kinh nghiệm viết cho những người em bắt đầu làm bố, làm mẹ. Lời lẽ thân thiện, dễ gần, hình ảnh sống động, dễ hiểu, trình bày khoa học, dễ tra cứu. Quả thực, mẹ học được rất nhiều từ cuốn sách và cũng đã nhiều lần cuốn sách đã giải tỏa cho mẹ những ưu tư như chuyện “sa ruột rốn”, chuyện tiêm phòng, chuyện ăn uống,.. của con, rồi cả những hủ tục, những quan niệm sai lầm khi nuôi con của các bà mẹ ngày xưa.

Mẹ rất thích cuốn sách, đọc đi đọc lại nhiều lần, ngẫm nghĩ những điều nằm ngoài chuyên môn mà bác sỹ Ngọc đã gửi gắm. Mẹ cảm thấy việc sinh con, nuôi con ý nghĩa hơn. Mẹ cũng cảm thấy trách nhiệm của bố và mẹ lớn lao hơn khi giờ đây, bố mẹ là người cha, người mẹ và trước kia, bố mẹ cũng là những người con bé bỏng và ông bà nội ngoại đã phải vất vả ra sao mới có bố mẹ, có con như bây giờ.

Mẹ tìm hiểu nguồn gốc của cuốn sách thì hóa ra, đây là cuốn sách mà bố con ngày trước đã tặng cho bác Quý khi bác Quý chuẩn bị sinh anh Dũng (năm 1994). Có lẽ mẹ phải cảm ơn bác Quý rất nhiều vì đã giữ được cuốn sách đến bây giờ để mẹ được đọc, được học cái bản lĩnh khi nuôi con của bác.

Và hình như, đây cũng là cái duyên của bố và mẹ!

Nov 18, 2007

 

Hồ thị Hoàng Anh

“Bà mẹ nuôi con giỏi”

Bà mẹ Hoàng Anh, Bs ĐHN và

mẹ Hồ Thị Hoàng Anh, Bs ĐHN và “bé” Nguyên Giáp trong buổi Hội ngộ, Tâm tình về cuốn Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng  do Hội quán Các Bà Mẹ tổ chức tại nhà GS Trần Văn Khê (2012).

Mấy ngày nay Hoàng Anh đang ở Mỹ, sáng nay lang thang vào trang web của Việt Nam tình cờ thấy bài của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc “ Vài chuyện kể về cuốn sách Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng”. Đọc đến đoạn cuối bs Đỗ Hồng Ngọc có nhắc về cuộc thi  “Bà mẹ nuôi con khỏe” cấp thành phố năm 1985 tại hội trường bệnh viện Từ Dũ. Mà lần đó Hoàng Anh cùng con trai là Nguyên-Giáp dự thi rồi được giải nhất. Thật là một kỷ niệm vui.

(…)

Khi nào nghĩ về cuộc thi “bà mẹ nuôi con khỏe” lần đó Hoàng Anh cũng hân hoan, rồi cũng có chút chút “ngưỡng mộ” về mình : là tại sao hồi đó mình còn rất trẻ mà đã rành rọt biết cách chăm sóc con đến vậy?

Thật ra “ bí mật” để làm được điều kỳ diệu đó chỉ vì Hoàng Anh là độc giả lâu đời của tác giả Đỗ Hồng Ngọc! Là con gái Huế chính tông,  Kể từ khi bắt đầu “nứt vỏ” để lớn lên bên giòng sông Hương núi Ngự trở thành o thiếu nữ là tâm hồn đã biết rung cảm với ca từ và giai điệu của âm nhạc Trịnh Công Sơn, cũng là lúc Hoàng Anh biết bắt đầu say sưa với cuốn “ Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò” của Đỗ Hồng Ngọc. Khi đến tuổi lập gia đình có con thì nghiền ngẫm “ Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng”. Khi con lớn vào đai học rồi thì nhâm nhi “ Gió heo may đã về”. Bây giờ con tốt nghiệp đại học rồi, có thời gian hơn thì thong thả với “ Như thị”, với” Nghĩ từ trái tim” bs Đỗ Hồng Ngọc viết về Bát Nhã Tâm Kinh…

Cuộc thi “ Bà mẹ nuôi con khỏe” lần đầu hồi đó vào những năm đất nước còn khó khăn, xã hội ít tổ chức những sự kiện văn hóa lớn. Nên cuộc thi” Bà mẹ nuôi con khỏe” cấp thành phố hồi đó là một trong những sự kiện sôi nổi .

Nhìn lại những tấm hình trong cuộc thi. Hoàng Anh thấy mình hồi đó còn rất trẻ mà cũng hơi xinh xinh. Đã 26 tuổi và là mẹ của hai đứa con rồi mà vẫn còn vương nét sinh viên, rất khỏe khoắn trong trang phục quần jean xanh- áo sơ-mi vải màu trắng, dưới chân thì giản dị đeo đôi guốc mộc, trên đầu là một mái tóc dài xanh ngời bối thành củ tỏi vắt sau ót .

Khi Hoàng Anh vác trên vai đứa bé trai bụ bẩm khóc oe oe lên nhận giải trên sân khấu, hình ảnh đó làm cả hội trường cười òa. Phóng viên thì tha hồ tác nghiệp phỏng vấn bà mẹ và quay phim chụp hình em bé đọat giải.

Vì là bà mẹ thi được điểm cao nhất nên Hoàng Anh hân hạnh được người thầy thuốc mẫu mực là Viện sĩ,Tiến sĩ Dương Quang Trung trao giải thưởng tận tay. Rồi trong thùng quà thưởng to tướng, bên cạnh nhiều vật dụng xinh đep dùng cho trẻ em thì có card viết tay chúc mừng của bác sĩ Dương Quỳnh Hoa hồi đó làm giám đốc Trung tâm Nhi thành phố. Khi được phỏng vấn “làm sao trả lời giỏi vậy?” Hoàng Anh nói “là nhờ đọc sách của bs Đỗ Hồng Ngọc đó”.

Em bé Nguyên-Giáp bụ bẫm ngày nào, nay đang rất bận rộn với công việc của một cậu sinh viên trường Y năm cuối. Là tất bật với bài vở,với những môn thi, với những đêm thực tập thức trắng ở bệnh viện…

Cuộc thi “ Bà mẹ nuôi con khỏe” năm nào, chớp mắt thôi đã 1/4 thế kỹ! Cũng mới thôi!

(2012)

 

Uyen Ton

Tôi tình cờ đọc tác phẩm của ông lúc tôi chỉ mới là cô bé học lớp 5, đó không phải là sách dành cho thiếu nhi mà là một cuốn sách về Y khoa, tựa là “Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng” . Sự tình cờ này đến trong một lần tôi bị ốm, nằm nhà. Không hiểu sao hồi đó bame có thể yên tâm để tôi một mình ở nhà, buồn không biết làm gì nên chỉ biết đọc sách. Cũng không nhớ vì sao tôi “vớ” được cuốn sách đó trong kệ sách của ba để rồi đọc say sưa dù có những điều mà trí tuệ của một đứa trẻ 10 tuổi chưa thể hiểu được. Tôi vẫn còn nhớ cuốn sách đó được xuất bản trước năm 75 khá dày, giấy đen thui nhưng có minh hoạ khá đẹp trong con mắt trẻ thơ của tôi ngày đó. Nhưng phải công nhận là ông viết với một giọng văn rất dí dỏm, dễ hiểu. Tôi nhớ mình đã rất thích những hình minh hoạ mô tả những hoạt động cũng như tính cách của trẻ của từng giai đoạn, từ lúc lọt lòng cho đến 1 tuổi, từ 1-2 tuổi, từ 2-4 tuổi… Cũng trong tác phẩm đó, ông kể nhiều về những trường hợp trẻ bị tử vong vì gia đình thiếu kiến thức sơ đẳng về y học, rất đau lòng. Sau này tôi thấy tác phẩm này được xuất bản lại, giấy đẹp hơn, bìa sách được thiết kế đẹp hơn nhưng hình như những hình minh hoạ như cuốn cũ thì không còn, tiếc thật.

 

tronghieu

Chào bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Dạ cho con hỏi cách nay hơn 10 năm mẹ con có cuốn “Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng” của bác sĩ viết. Nó đọc rất hay và hữu ích. Sau đó cuốn sách này bị mất ạ. Con đã tìm mua nhìu lần nhưng không còn, nó hết đc in rùi ạ. Cuốn sách hay như vậy bác sĩ có thể tái bản đc không ạ. Cuốn sách tuy về y khoa rất hữu ích nhưng đọc hoài vẫn mê vì nó như một câu chuyện thật hấp dẫn không hề khô khan! Chào bác sĩ, chúc bác sĩ lun mạnh khỏe vui vẻ bên gđ và….tiếp tục cứu giúp các bé nha.

 

Thúy Hạnh

Toi xin hoi bac si, truoc day toi co biet va doc mot cuon sach cua bac si ve ba me va cach cham soc con dau long cach day 28 nam va toi da theo cuon sach do nuoi con. nay toi muon xin hoi bac si la cuon sach nay con phat hanh ko? vi toi co dua con gai sinh con dau long nen toi can cuon sach do cho con. neu co thi co the mua o dau dc ko?

Xin chan thanh cam on bac si

 

phanminhngoc

Thực ra cháu làm fan của BS ĐHN từ cách đây 14 năm rôi, khi cháu sinh đứa con đầu lòng. Cuốn sách chú viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng đã trở thành sách gối đầu giường của của cháu, thậm chí là “bảo bối” cho cháu trong suốt cả chục năm nuôi hai nhóc. Hai nhóc nhà cháu giờ đều đã trở thành những thiếu niên khỏe mạnh, vạm vỡ (trộm vía) và đã qua rất nhiều lần chuyển nhà nhưng cháu vẫn còn giữ cuốn sách sách đã cũ sờn ấy. Cuốn sách ấy hiện ko chỉ là kỳ vật của gia đình cháu mà còn là người bạn thân thiết để cháu tham khảo bởi công việc của cháu hiện nay. Cháu mê giọng văn rất “đời” của chú và hình như cháu cũng có được ảnh hưởng một chút xíu chú ạ.

Cháu xin gửi đến chú lời cám ơn chân thành và xin chúc chú ngày càng khỏe, càng vui.

 

huyentrannguyen

Mình gọi Đỗ Hồng Ngọc vì không biết gọi ông là … nhà gì cho phải. Mình đã có duyên với ông từ khi bắt đầu làm mẹ, may mắn được tặng quyền sách mà ông là tác giả :”Viết cho các bà mẹ sanh con đầu lòng” . Mình nhớ lúc đó chỉ biết đọc và làm theo những gì ông viết trong sách, và cứ thế mà mình nuôi con đúng theo “giáo lý” của ông, không suy nghĩ gì. Cũng đơn giản vì lúc đó nội ngoại đều ở xa. Lời văn của ông nghe vừa vui lại vừa gần gũi.

Thanh Dung

Cháu đang nuôi bé con 20 ngày tuổi, thiếu tháng, nhưng may mắn cháu tự bú mẹ được. Cháu không tự tin lắm với bầu sữa của mình, cứ luôn lo sợ mình không đủ sữa cho con. Nhưng nhờ đọc cuốn “Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng” của bác Ngọc, và thêm bài “Còn sữa để cho con” này nữa, cháu thấy mình yên tâm và tự tin hơn. Cuốn sách bác viết là “cẩm nang gối đầu giường” của vợ chồng cháu trong việc chăm sóc con.

Cháu muốn gửi lời cảm ơn đến bác, kính chúc bác nhiều sức khỏe và luôn vui tươi dí dỏm như thế này mãi nhé!

Me kuBo

Thưa bác sĩ, cháu đã có cuốn “Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng” và cuốn sách đã trở thành sách gối đầu giường của cháu. Chăm sóc bé tưởng chừng là một vấn đề tẻ nhạt, nhàm chán với những phương pháp, thông tin khoa học thì nay dưới ngòi bút của bác sĩ lại trở nên hóm hỉnh, tự nhiên, dễ đọc, dễ làm biết nhường nào. Cháu thực sự biết ơn bác sỉ rất nhiều khi đã hướng dẫn cụ thể, chi tiết các vấn đề chăm sóc bé trong sách giúp những bà mẹ sinh con đầu lòng như cháu không bị bối rối, lúng túng trong những vấn đề chăm sóc bé.

PhanVanCho  (Huế)

8.2013

Đầu năm 1975 tôi lập gia đình.Một lần ghé hiệu sách Ưng Hạ ở đầu cầu Trường Tiền Huế tôi mua được quyển “Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng” (bản in lần đầu tiên) và đem về đọc mê mẩn…Những vấn đề về y học viết như ri thì trên đời chỉ có một!Tiếc rằng sau đó khi tôi xa nhà đi dạy học, vợ tôi về sinh con bên nhà ngoại, trong nhà chỉ còn mẹ già gần 70 tuổi…Họ vào hốt đi nguyên tủ sách gần 600 quyển. (Viết đến đây chợt cười thầm: Quyển VCCBMSCĐL cũng nằm chung với “cái gọi là Văn hóa nô dịch phản động đó BS.ĐHN ơi!)

Gần 40 năm đã qua, con gái đầu lòng của tôi cũng đã 37 tuổi. Nghe tin sách tái bản lần này, tui xin đăng ký mua vài quyển cho các con và…để dành cho cháu. Cám ơn BS đã cho trẻ đầu lòng, cho tuổi mới lớn, tuổi học trò, tuổi heo may, tuổi chớm già…những trang văn đẹp vào mỗi mai thức dậy.PVC

 

Mai Nguyen

07/08/2012

Thưa Bác, cháu là một bà mẹ đang nuôi con nhỏ. Con gái lớn đã gần 4 tuổi và con trai nhỏ vừa được 2 tháng tuổi. Vừa được biết trang nhà của Bác, cháu viết những dòng này để bày tỏ lòng biết ơn chân thành của mình tới Bác sĩ, người mà gia đình nhỏ của cháu vẫn quen gọi là “Ông bác sĩ màu xanh” (vì bìa cuốn Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng của chúng cháu mang màu sắc này. Đáng lẽ phải là “bác sĩ màu hồng… ngọc” thì mới đúng phải không Bác).

Cháu nhận được cuốn sách quý giá này ở bệnh viện khi đang chuẩn bị sinh cháu gái đầu lòng. Và từ đó, nó luôn là cẩm nang giúp cháu vượt qua những lo âu và khó nhọc, những bỡ ngỡ và sợ sệt của buổi đầu làm mẹ, giúp cháu có cả niềm tin vào ngày con lớn lên. Giờ đây con gái cháu đã học lớp mẫu giáo nhỡ và cháu thì bắt đầu với đứa con thứ hai, vẫn những lo lắng và trăn trở như lần đầu dù mình cũng có thể tự cho rằng “có chút kinh nghiệm”. Nhưng quả thực mỗi đứa trẻ là một bí mật khác nhau và một lần nữa cuốn sách của Bác lại là chỉ dẫn cho hai vợ chồng cháu. Ông bác sĩ màu xanh bảo thế này, chỉ thế kia… Cả những đoạn đã thuộc lòng từ lần sinh trước giờ vẫn phải lôi ra đọc lại để “thấu hiểu” nhiều hơn. Cháu vốn ít sữa, có lẽ do cơ địa, phải nuôi bé vừa sữa mẹ vừa sữa ngoài mà cả hai bé thì không bé nào thích bú bình cả nên cũng khá vất vả Bác ạ. Nhờ chỉ dẫn của Bác mà khi bé đầu biết ăn dặm cháu chăm được con tốt hơn nên giờ trộm vía cháu lớn vượt so với nhiều bạn cùng tuổi.

 

Cuốn sách của Bác cháu đã chia sẻ với nhiều đồng nghiệp, bạn bè và chắc chắn sẽ là món quà cho con gái cháu… Mai này… Cũng mau thôi! Phải không Bác!

 

Lê Uyển Văn

06/06/2010

Mặc dù, cuộc sống ngày càng cao, bây giờ có những tiện nghi vượt trội so với trước đây nhưng tôi vẫn mong ước những ai sắp làm mẹ đều rất cần được “tập huấn” bằng quyển sách này, gối đầu giường bằng quyển sách này bởi nó không chỉ hướng dẫn những người mẹ nuôi con đúng cách mà còn dạy yêu con đúng hướng!

Vẫn muốn nói lời tri ân với tác giả dù biết rằng nói bao nhiêu vẫn cứ là chưa đủ!

Anh nguyenyenson đã viết trong blog của LUV một comment thế này, xin gửi đến bác sĩ giùm anh ấy, lời có tếu táo nhưng tình cảm thật đậm đà:

“Nhắc tới ông bác sĩ ĐHN, thiệt tình tui khoái ông này từ…30 năm trước. Hồi đó nhờ cuốn “Viết cho các bà mẹ sanh con đầu lòng” của ổng, mà tui có “con so” ngon lành, không phải lúng túng chi hết. Giờ cháu vừa có gia đình, khi nào cháu sắp làm mẹ, tui lại cho cháu cuốn này để cháu đọc. :)”

 

Nguyen Dang Phuong Thao

22/05/2010

Mấy năm trước có lần vô nhà sách cháu thấy cuốn “Viết cho các bà mẹ sanh con đầu lòng”, cháu đọc sơ qua mấy trang đầu rất thích thú, nhưng lúc ấy cháu chưa co gia đình, và nghĩ rằng biết đâu đến khi vài năm nữa sanh con thì sách sẽ được tái bản và còn bổ sung thêm nữa nẽn đã không mua. Đến khi cháu sắp sanh con thì tìm quyển này ở nhiều nơi đều không có (từ các nhà sách gần nhà, nhà sách đã từng gặp quyển này, các nhà sách Nguyễn Văn Cừ, người ta đều nói hết rồi). Giờ con cháu đã 2 tuổi rồi, gần đây cháu lại tìm thử mà sao vẫn không có, ghé mấh nhà sách lớn ở đưởng Nguyển Thị Minh Khai (Q.1) cũng bảo hết rồi. Bác có biết chắc chắn nơi nào còn không chỉ cho cháu với, cháu không có được cuốn này thật là tiếc lắm! Cảm ơn bác rất nhiều.

 

 

Bảo Cúc (Hà Nội)

26/07/2013

Thưa bác sĩ,

Cháu tình cờ lạc vào trang nhà của bác và kể từ đó trở thành fan của bác luôn. Đọc những lời tâm sự chia sẻ của bác, cháu thật sự cảm thấy xúc động và luôn có cảm giác nhẹ nhàng thư thái qua mỗi câu từ bác viết. Cháu hiện cũng đang trong độ tuổi kết hôn và rất muốn được cầm trên tay cuốn: “Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng” sắp được tái bản lại trong thời gian tới.

Cháu ở Hà Nội nên rất mong là bác sẽ lưu tâm để cho cháu được biết là có thể tìm cuốn sách này tại các nhà sách nào trên địa bàn Hà Nội bác nhé.

Cháu cảm ơn bác nhiều và chúc bác luôn vui khỏe!

………………………………………………………

 

 

 

 

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 06, 2024 01:14

Đỗ Hồng Ngọc's Blog

Đỗ Hồng Ngọc
Đỗ Hồng Ngọc isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Đỗ Hồng Ngọc's blog with rss.