Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 10

May 23, 2024

Ngôn Ngữ số đặc biệt: Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc (tháng 5-2024)

 

 

 

NGÔN NGỮ

TẠP CHÍ VĂN HỌC NGHỆ THUẬT SỐ ĐẶC BIỆT

ĐỖ NGHÊ  ĐỖ HỒNG NGỌC

THÁNG 5 NĂM 2024

 

NHÓM CHỦ TRƯƠNG:

Luân Hoán – Song Thao – Nguyễn Vy Khanh – Hồ Đình Nghiêm – Lê Hân

CỘNG TÁC TRONG SỐ NÀY:

Ban Mai, Du Tử Lê, Duyên, Đinh Cường, Đinh Trường Chinh, Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc, Đỗ Thị Thanh Nga, Đỗ Trung Quân, Đỗ Trường, Elena Pucillo Truong, Hồ Đình Nghiêm, Hoàng Quốc Bảo, Huỳnh Như Phương, Huỳnh Ngọc Chiến, Khuất Đẩu, Khúc Dương, Lam Điền, Lê Chiều Giang, Lê Ký Thương, Lê Minh Quốc, Lê Ngọc Trác, Lê Uyển Văn, Luân Hoán, Lữ Kiều Thân Trọng Minh, Lương Thư Trung, Minh Lê, Ngân Hà, Ngô Nguyên Nghiễm, Nguyên Cẩn, Nguyên Giác Phan Tấn Hải, Nguyễn An Bình, Nguyễn Đức Tùng, Nguyễn Hậu, Nguyễn Lệ Uyên, Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Quang Chơn, Nguyễn Thánh Ngã, Nguyễn Thị Khánh Minh, Nguyễn Thị Ngọc Hải, Nguyễn Thị Phương Trinh, Nguyễn Thị Tịnh Thy, Nguyễn Thiên Nga, Nguyễn Xuân Thiệp, Phạm Bảo Kim, Phạm Chu Sa, Phạm Hiền Mây, Phan Chính, Phat’s Blog, Tâm Nhiên, Thu Thủy, Thy Ngọc, Tô Thẩm Huy, Trần Hoài Thư, Trần Thị Nguyệt Mai, Trần Vấn Lệ, Trang Châu, Trịnh Công Sơn, Trịnh Y Thư, Trương Đình Uyên, Trương Trọng Hoàng, Vĩnh Điện, Võ Tá Hân, Ý Nhi.

 

BÌA: Uyên Nguyên Trần Triết

HÌNH BÌA: Nhà thơ – Bác Sĩ Đỗ Hồng Ngọc (Ảnh: Tăng Hưng)

ĐỌC BẢN THẢO: Trần Thị Nguyệt Mai

DÀN TRANG: Công Nguyễn

 

LIÊN LẠC:

Thư và bài vở mời gởi về:

-Luân Hoán: lebao_hoang@yahoo.com -Song Thao: tatrungson@hotmail.com

TOÀ SOẠN & TRỊ SỰ:

Lê Hân: (408) 722-5626  han.le3359@gmail.com

 

THƯ ĐẦU SÁCH  

Cuốn Tác Giả Tác Phẩm Đỗ Nghê  Đỗ Hồng Ngọc này là bước tiếp theo sau các ấn bản về Cung Tích Biền, Ngô Thế Vinh, Phạm Cao Hoàng, cùng một thể loại, do tạp chí Ngôn Ngữ tại Hoa Kỳ chăm sóc, giới thiệu.

Tác phẩm này vốn đã được tác giả và nhóm bạn viết của ông thực hiện và phổ biến dưới dạng eBook. Theo nhà văn Nguyên Giác Phan Tấn Hải tổng kết đơn giản, sách có tên gọi “Thơ Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc  Như Không Thôi Đi Được. Sách tập trung bài viết của chừng 30 tác giả, gồm các nhà văn, nhà thơ và sách chỉ có mục đích để tặng; không thấy ghi năm phát hành.

Chúng tôi vốn rất thích thơ và tạp bút của Nhà thơ – Bác sĩ này từ trước 1975, và được biết nhà thơ Trần Thị Nguyệt Mai, một thành viên trong Ngôn Ngữ quen thân với ông, nên đã nhờ chị bắt liên lạc xin phép, nhằm thực hiện một số đặc biệt. Và nhà thơ Đỗ Nghê đã đồng ý.

Xin được nhắc lại, một số Ngôn Ngữ đặc biệt gồm hai phần: giới thiệu về một tác giả, và sáng tác thơ văn biên khảo từ nhiều người viết gởi đến. Trong thời gian qua, chúng tôi đã phát hành được các số về họa sĩ Khánh Trường, nhà phê bình Nguyễn Vy Khanh, nhà văn Trần Hoài Thư, nhà văn Nguyên Minh, nhà văn Song Thao, nhà văn Hồ Đình Nghiêm, nhà thơ Lê Hân. Các số này tư liệu của mỗi người đi phần đầu trong hơn nửa số báo. Với những tác giả vừa kể, phần tư liệu của họ cũng dồi dào, đủ để in riêng, tiếc rằng lúc đó chúng tôi chỉ nghĩ đến việc thực hiện theo khuôn báo cũ, mà cắt bớt, hạn chế số trang. Nhà văn Cung Tích Biền là người đầu tiên yêu cầu đi hết phần tư liệu của ông. Chúng tôi chấp nhận, và tiếp tục chấp nhận hình thức này cho đến nay, với số về nhà thơ Đỗ Nghê  Đỗ Hồng Ngọc. Nhưng lần thứ tư này, cũng là lúc chúng tôi quyết định trả lại tính cách sách cho tác phẩm, dẫu vẫn do tạp chí Ngôn Ngữ trực tiếp chăm sóc để in. Trong khi đó, những số Ngôn Ngữ đặc biệt gồm hai phần cũng sẽ được tiếp tục.

 

Phần I: Tiểu sử tác giả, tác phẩm đã in – chân dung tác giả qua ảnh chụp cùng phác họa của bè bạn hoặc tác giả tự họa.

Phần II: Phần thơ, văn tác giả tự chọn, đặc biệt chúng tôi đi trọn tập thơ “Thơ Ngắn Đỗ Nghê”, một thi phẩm chính tác giả và đa số người đọc ưa thích, ưu ái cảm nhận.

Phần III: Phần văn xuôi đi tiếp sau thơ. Tác giả Đỗ Hồng Ngọc tự nhận không giỏi hư cấu, nên ông chỉ cho giới thiệu một truyện ngắn duy nhất viết trước 1975; đa phần sáng tác còn lại là tùy bút, tạp ghi, tản mạn… Những bài viết này thường ngắn nhưng cũng xuất sắc như thơ, bởi qua đó những nhận xét tinh tế về cuộc sống, tình người, được ông phơi bày một cách đơn giản, nhưng sâu sắc như những bức ảnh chụp đủ chân tình, giàu dí dỏm. Mỗi tạp ghi là một cảnh sống linh động, chúng ta có cảm tưởng ông thật dồi dào vốn sống đời thường. Ông là một bác sĩ cao tay nghề, một người học Phật uyên thâm lại rất thích truyền đạt hiểu biết của mình theo một cách riêng. Tính ít nói cười nhưng sự nghiêm túc, được tâm hồn phóng khoáng giúp ông chơi thêm một trò vẽ vời nữa, cũng thi vị đậm đà không kém những bộ môn kể trên.

Bên cạnh đó, với ưu điểm thơ “hay” (xin gọi ngắn gọn như vậy) lại thường ngắn ngắn nên thơ ông được các nhạc sĩ Miên Đức Thắng, Phạm Trọng Cầu, Trương Thìn, Hoàng Hiệp, Khúc Dương Đặng Ngọc Phú Hòa, Nguyễn Thanh Cảnh, Hoàng Quốc Bảo, Vĩnh Điện, Tôn Thất Lan, Võ Tá Hân, Thuần Nhiên Nguyễn Đức Vinh… đồng cảm phổ thành ca khúc. Chuyện phổ thơ ông không nằm phong trào phổ cho có, phổ để in làm phụ bản. Thơ phổ nhạc của ông được đưa đến quần chúng thưởng ngoạn qua nhiều ca sĩ trình bày, trong đó có cả giọng ca rất được giới ưa thích nhạc thính phòng ái mộ, đó là tiếng hát của nữ ca sĩ Thu Vàng.

Phần IV: Tập trung những bài giới thiệu, cảm nhận… của rất nhiều cây viết chuyên nghiệp qua nhiều thời kỳ xuất hiện trên văn đàn.

Chân thành cảm ơn tác giả Đỗ Nghê  Đỗ Hồng Ngọc cùng tất cả nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ có tên, góp mặt trong cuốn sách này.

 

Luân Hoán

cùng nhóm chủ trương Ngôn Ngữ

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 23, 2024 03:11

May 18, 2024

TRANG CHÂU: Chữ ‘’em’’ trong thơ Đỗ Nghê

 

Chữ ‘’em’’ trong thơ Đỗ Nghê

Trang Châu

 

Kể từ thời Thơ Mới, hiếm nhà thơ trong đời làm thơ mà không hơn một lần dùng chữ em trong thơ của mình. Thông thường em là người yêu, người tình của một mối tình, công khai hoặc câm nín, hai chiều hay một chiều. Và hình dáng, màu sắc, âm vang của em cũng đổi thay theo thời gian, theo cảnh huống cùng nỗi lòng nhà thơ.

Tôi biết không nhiều về nhà thơ Đỗ Nghê, bút danh của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Thời tôi làm trưởng ban Thơ cho tờ Nguyệt San Tình Thương của sinh viên Y khoa Sài Gòn, từ đầu năm 1964 đến hết năm 1965, là năm cuối y khoa của tôi, thỉnh thoảng tòa soạn Tình Thương nhận được thơ của anh Đỗ Nghê. Có một bài thơ đã làm tôi nặng trĩu lòng sau khi đọc. Nhân vật trong bài thơ được tác giả trìu mến gọi là em. Nhưng em ở đây không phải là người yêu, người tình mà là một em bé sơ sinh. Em bé đó là ca đỡ đẻ đầu tiên của anh sinh viên Y khoa năm thứ 3 ở bảo sanh viện Từ Dũ. Đứa bé vừa chào đời được anh bác sĩ tương lai dự đoán cho một tương lai không mấy sáng sủa, với khung cảnh máu lửa của đất nước lúc bấy giờ:

 

“ Anh nhỏ vào mắt em thứ thuốc màu nâu

Nói là để ngừa đau mắt

Ngay lúc đó em đã không nhìn đời qua mắt thực

Nhớ đừng hỏi vì sao đời tối đen

 

Khi em mở mắt ngỡ ngàng nhìn anh

Anh cũng ngỡ ngàng nhìn qua khung kính cửa

Một ngày đã thức giấc với vội vàng, với hoang mang,

Với những danh từ đao to búa lớn

Để bịp lừa để đổ máu đó em

 

Khi niềm tin chỉ còn là nỗi đắng cay:

 

Thôi trân trọng chào em

mời em nhập cuộc

chúng mình cùng chung

số phận…

con người.’’

 

Bài thơ, ở một khía cạnh nào đó, có thể được xếp vào loại phản chiến vào thời điểm ấy.

Đỗ Nghê bước vào tuổi trẻ đầu nặng đầy thế sự, lòng nghẹn ngào, cay đắng với nỗi ám ảnh tang tóc gây nên bởi chiến tranh. Nhà thơ, xuyên qua người em, chẳng cần rõ trai hay gái, miễn là một em nhỏ, để nhắc nhở, để phụ họa cho thảm cảnh mà chính mình cùng nhân dân cả nước đang chịu đựng:

 

“ Em khóc đi em, khóc đi rồi anh dỗ

khóc nhiều hơn, khóc nhiều nữa đi nghen

Này tủi nhục với niềm đau nỗi khổ

của quê mình không đáng khóc sao em?“

 

Tuy vậy vẫn còn chút an ủi: Cái may mắn cho Đỗ Nghê, tác giả mấy bài thơ viết vào dạo đó và cả tôi, người chọn đăng mấy bài thơ ấy, không đứng ở đất phía bên kia.

Sống ở hải ngoại, sau mấy mươi năm, qua các diễn đàn, thấy thơ của Đỗ Nghê tái xuất hiện, bên cạnh những bài viết về Phật học, về thiền, về vô thường, về sắc không, về tứ khổ, diệt khổ. Về thơ, tôi tò mò muốn biết chữ em trong thơ Đỗ Nghê bây giờ đi về đâu. Em bây giờ của Đỗ Nghê có lúc là đại diện cho nhà thơ để anh gởi gắm nỗi niềm nhớ quê của mình:

 

‘’Em có về thăm Mũi Né yêu

Mười năm như một thoáng mây chiều

Mười năm vườn cũ chim bay mỏi

Áo trắng, chân mềm em hắt hiu.

Mũi Né ơi, người xưa đã xa

Mùa ơi, gió bấc nhớ không ngờ

Năm nay người có về ăn Tết

Có ngậm ngùi nghe chút ấu thơ?“

 

Mình xa quê hương thì mình nhớ. Người yêu xa thành phố cũ của hai người cũng làm nhà thơ cảm thấy mất mát để luyến tiếc chốn xưa:

``Thành phố nơi ta đã lớn lên

nơi ta hò hẹn buổi đầu tiên…“

“Thôi thế từ nay em sẽ xa

Nửa vòng trái đất cõi người ta

Mai sau dù có bao giờ nữa

Thành phố – lòng mẹ vẫn bao la.``

 

Tạm rời xa quê hương để đi tu nghiệp ở xứ người, em trong thơ Đỗ Nghê bây giờ là một thứ hương gây mùi nhớ. Cho nên món quà em tặng anh đầy hương vị, không phải hương vị từ em cho anh, mà hương vị qua em làm anh nhớ quê hương:

 

“Chiếc áo của em

Món quà em tặng

Chiếc áo lạ lùng

Có mùi biển mặn

Có mùi dừa xiêm

Có mùi cát trắng

Có mùi quê hương.“

 

Em trong thơ Đỗ Nghê ở đây chỉ còn là cái cớ để tác giả từ đó khơi tìm một hình ảnh khác bao la hơn:

 

“ Tôi sẽ về thăm quê em

Trìu mến tình dân miền biển

Tháng năm nghèo một con thuyền

Sóng khơi suốt đời yêu mến…“

 

Nhưng rồi cuối cùng Đỗ Nghê cũng phải đi theo lề phải với chữ em muôn thuở là người tình trong tình yêu nam nữ. Thơ tình của Đỗ Nghê thường đằm thắm, kín đáo nhưng cũng có lúc sôi nổi, bạo dạn, đôi khi pha chút lập luận có tính xác suất (probabilité) nghiêng lợi phía mình. Đây không biết có phải là cái tính hay cái tật của mấy chàng “toubib“ làm thơ:

 

“Lá chín vàng

 lá rụng về cội

Em chín vàng

chắc rụng

về anh.“

 

“Bởi em là riêng anh đó

Bởi anh là của em thôi

Như nắng là riêng của gió

Như biển là riêng của trời.“

 

Tuy vậy lập luận kiểu có tính xác suất đôi khi cũng đem lại âu lo cho nhà thơ: Nhận được thư người yêu không chịu mở ra xem ngay lại cất giữ mang về nhà mới đọc:

 

“Về nhà bó gối ngồi một mình

Sờ sờ nắn nắn thơ mong manh

Chắc chỉ đôi lời thăm hỏi vậy

Đọc chi cho thấy lòng buồn tênh.“ 

 

Cũng có đôi lúc nhà thơ nghe đời mình trống vắng, cô đơn khi tìm về chốn cũ thấy thiếu vắng người yêu:

 

“Ta về lối cũ

Nghe lòng lạnh băng

Thiếu em hoàng hậu

Ngai vàng như không.“

 

Hiếm lắm mới nhặt được một sợi buồn trên mái thơ tình của Đỗ Nghê:

 

“ Mới đó mà em đã cố nhân

Lòng đau như cắt hiểu gì không

Hoa vàng đã rụng đầy sân vắng

Tình cũng ngùi phai theo tháng năm.“

 

Nhưng nhìn chung, em mang vào cuộc đời nhà thơ niềm vui, hạnh phúc nhiều gấp bội so với nỗi buồn, nỗi khổ. Chính nhà thơ đã phải thốt lên lời cảm tạ:

 

“ Cám ơn em đến

Mùa xuân của anh

Hoa vàng nở muộn

Bên trời nắng hanh

Cám ơn em đến

Mùa xuân của anh

Nhịp đời bước chậm

Cho lòng còn xanh.“

 

“ Cám ơn em năm tháng

đã theo già cùng anh.“

 

“ Em mang biển mặn

lùa vào tay anh

Em mang rêu xanh

lùa vào ngực ấm

Em mang xuân thắm

lùa vào giá băng.’’

 

Để mong mỏi sự chăm sóc của người yêu, Đỗ Nghê tỏ ra hơi tham lam:

 

“Anh không có ngày sinh nhật

nên mỗi ngày

là sinh nhật của anh

Cám ơn em

nhớ đến anh

ngày sinh nhật.“

 

Nhà thơ còn táo bạo mang cả tôn giáo vào để dẫn chứng tình yêu của mình:

 

“Em tin có Chúa

ngự ở trên cao

còn anh tin Chúa

ngự ở trong nhau

 

Đưa em đi lễ

vầng trăng treo nghiêng

Em làm dấu thánh

anh làm dấu em.“

 

Bạo dạn khi cần nhưng đề cao nàng cũng đúng lúc. Viết tên nàng trên cát rồi nhờ gió cuốn đi, sóng cuốn đi để cho “tên em mênh mông đại dương“:

 

“Anh vẽ ngoằn ngoèo trên cát

không ngờ mà hóa tên em

Biển xanh, nắng vàng, sóng bạc

không ngờ cùng kéo nhau xem.“

 

Mặc dù ở đâu đó Đỗ Nghê có phát biểu chê những bài thơ sáng tác thời tuổi trẻ của mình là “nhà quê, na ná thơ tiền chiến. Thơ tình thì chẳng có gì đáng nói.“ Tôi cho đó là lời khiêm tốn của nhà thơ. Tôi nghĩ thơ hay, thì thời nào, dưới hình thức nào nó cũng vẫn hay.

Năm 1965, tôi có làm bài thơ tình ngắn:

“Nếu em không là Hồng, là Mai, là Cúc

thì xin gọi em là em

Người con gái phụng phịu trả lời: Em muốn

anh gọi em bằng… tên anh!“

Tài hoa và tên tuổi như Đỗ Nghê chắc không thiếu gì em xin gọi em bằng tên anh. Nhưng tôi tin người đầy Phật tính như Đỗ Nghê chắc chỉ cho một em lấy tên mình thôi.

 

Trang Châu

Montréal, 05/03/2024

(NGÔN NGỮ Số đặc biệt Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc, tháng 5-2024)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 18, 2024 02:13

May 17, 2024

NGUYỄN ĐỨC TÙNG: Đỗ Hồng Ngọc, Cuộc đời đầy kinh ngạc

 

 

Đỗ Hồng Ngọc, Cuộc đời đầy kinh ngạc

NGUYỄN ĐỨC TÙNG

 

Thơ làm chúng ta gần lại với nhau. Cảm hứng thơ ca của Đỗ Hồng Ngọc sinh ra từ sự hồn nhiên, thản nhiên, có phần phóng túng, nhờ thế anh gần với người đọc. Dù nghề nghiệp hoặc thói quen làm cho một người trở nên chừng mực và nghiêm cẩn đến đâu, khi làm thơ, người ấy buộc phải buông thả. Trong giây phút buông thả ấy, các giác quan tăng cường cảm xúc, thiết lập sự thân mật giữa người quan sát và sự vật, giữa người nói và người nghe. Vì thơ là các quan hệ bên trong, cái toàn thể, cái hiện tại. Một nhà thơ đến với người đọc với tất cả ngôn ngữ của chị ấy, anh ấy, tất cả quá khứ, khuyết điểm và ưu điểm, lòng thương xót, mang theo tất cả những thứ ấy, trọn vẹn, đến với chúng ta.

Sóng

Quằn quại

Thét gào

 

Không nhớ

Mình

Là nước

Thơ Đỗ Hồng Ngọc là tiếng kêu ngạc nhiên  trước cuộc đời, trước hạnh phúc và đau khổ, trước giản dị tầm thường và phép lạ. Đó là tiếng kêu nghệ thuật, nên được nén lại, kiểm soát. Thơ anh là hiện hữu, cái bây giờ, sự dừng lại của khoảnh khắc. Đỗ Hồng Ngọc chỉ ra cho tôi thấy một khoảnh khắc, làm tôi dừng lại bên anh, tiếp tục nhìn thấy nó lâu dài. Thơ anh là một hình thức của chú ý. Sự tập trung chú ý tạo ra tác phẩm sáng tạo. Nhờ lắng nghe mà anh nhìn ra cội rễ của tồn tại. Nhờ tập trung, chú ý đến các chi tiết mà thơ Đỗ Hồng Ngọc tạo nên sự thân mật giữa người viết và người đọc. Sự thân mật trong thơ là khoảng cách, khoảng cách ấy càng gần, sự tin tưởng lẫn nhau càng tăng lên.

Hội An còn ngái ngủ

Mái chùa ôm vầng trăng

Giật mình nghe tiếng chổi

Gà gáy vàng trong sương

Thơ trữ tình, vì vậy, không phải là lời kêu gọi, bản tuyên bố, mà là lời tâm sự, lời kể bên ngọn lửa ấm, sự im lặng khi câu chuyện ấy được kể xong. Thơ anh đầy chú ý lắng nghe. Mặc dù anh không thiên về sự mô tả chi tiết, vốn cũng không phải là điểm mạnh của thơ Việt, anh đến gần sự vật bằng  quan sát và linh cảm. Bài thơ “Đinh Cường vẽ Nguyễn Xuân Hoàng” là một bài thơ lạ, gần chất văn xuôi, ít sử dụng tu từ, giọng điệu ngang tàng. Thơ chống lại sự tiếp nhận tự động mà ta thường gặp trong ngôn ngữ nói hằng ngày, nó không ngừng thiết lập tình trạng tỉnh thức bằng sự ngạc nhiên: hình ảnh mới, các ý tưởng bất ngờ, cách sắp xếp lại các chữ. Đám đông độc giả có khuynh hướng chống lại sự làm mới của nhà thơ. Một người làm thơ yếu bóng vía có thể bị khuất phục dễ dàng bởi thẩm mỹ của đám đông, thói quen suy nghĩ của họ.

ôi trời ông Đinh Cường

vẽ Nguyễn Xuân Hoàng thời 60’ Đàlạt

rõ ra là một cô gái

dịu dàng hơn cả dịu dàng

 

cái thời 60’ Đàlạt

ai ngờ Nguyễn Xuân Hoàng mà rất gái

quá dễ thương

làm mê mẩn Đinh Cường

và, có thể… nhiều người khác nữa

Một nhà thơ có bản lãnh thản nhiên sử dụng các hình ảnh, lối nói của mình với tính cách độc đáo. Trong tiếng Anh có một khái niệm khó dịch là originality, có nghĩa là nguồn gốc, bản sắc, tính độc đáo riêng biệt. Tôi nghĩ thơ Đỗ Hồng Ngọc có tính chất ấy.

 

Đêm trên biển Lagi

tặng NNI

Sóng cuốn từng luồng trăng lại trăng

Đêm Hòn Bà dỗ giấc ai nằm

Phẳng lì bãi cát buồn hiu ngóng

Cao vút hàng dương quạnh quẽ trông

Đá cũ mòn rêu hoài đá Ngảnh

Nguồn xưa cạn nước vẫn Nguồn Chung

Về đâu mái tóc xanh ngày ấy

Câu hỏi ngàn năm có chạnh lòng?

Thơ cổ điển nhưng không cũ. Không có một bài thơ nào tồn tại độc lập. Dù được viết bởi ý định nào của tác giả, bài thơ là một giao điểm của đời sống và trí tưởng tượng, hiện tại và hoài niệm, cá nhân và cộng đồng, những quan hệ liên văn bản. Ngôn ngữ của thơ ca dù được viết dễ hiểu cách nào đều không thể đoán được, vì vậy người đọc cần chú ý đến mỗi chữ, mỗi âm.

Một trong những công việc của thơ là làm thay đổi đời sống thực, chuyển hóa nó, khiến cho chúng ta có thể nhìn thấy đời sống của chúng ta dưới một cách nhìn khác, trong một màu sắc khác. Mặt trời mỗi ngày một trở lại, không thay đổi, nhưng thơ làm cho mặt trời mới lại mỗi ngày. Điều đó cũng đúng cho khuôn mặt người yêu dấu: thơ làm cho nó mới hơn.

ngoài cái chợ ồn ào

mấy dãy phố thời trang dị hợm

quán ăn đầy ngõ hẻm

vài ngôi chùa trang nghiêm

và mấy trại hòm

Tập “Thơ ngắn Đỗ Nghê” đúng như tên gọi của nó, chứa những bài thơ ngắn, đôi khi như haiku. Xét về phương diện thể loại, thơ ngắn tự do là trường hợp cần chú ý. Trong những bài thơ ấy còn có câu chuyện kể. Anh là người kể chuyện thú vị, không nhiều lời. Những câu chuyện của anh gồm quan sát tinh tế, các ký ức mà dường như ai cũng có, câu chuyện đời thường, bằng một cách nào đó chúng đã đi vào thơ anh, chiếu sáng từ góc tối: sự rung động ban đầu, niềm thương xót đối với một người, sự suy nghĩ lúc ta dừng lại, sự hối hận, sự hài lòng. Làm công việc y khoa, chắc tác giả phải đối diện với nhiều cái chết, sự mất mát, thương đau. Tôi ngạc nhiên thấy anh ít viết về điều ấy, cái chết, cái mất, vết thương. Tôi nghĩ là người Việt đã đau khổ quá nhiều vì những thứ ấy, ở mức cá nhân và ở mức tập thể. Nhưng đó có thể là một chọn lựa có ý thức, cũng có thể chỉ là vấn đề cảm hứng, bạn không chọn đề tài, chúng tự chọn lấy tiếng nói. Các chi tiết cụ thể, góc nhìn, sự liên tưởng là quan trọng đối với việc đọc thơ Đỗ Hồng Ngọc. Anh có lối nói nồng nàn, say đắm, hài hước, bất ngờ:

Anh hôn đằng sau

Anh hôn đằng trước

Anh hôn phía dưới

Anh hôn phía trên

Chiếc áo của em

Thật dí dỏm, duyên dáng. Thời kỳ nào thì thơ cũng là sự trộn lẫn giữa cái mới và cái cũ, kế thừa những giá trị trong quá khứ và nói tiếng nói của hôm nay. Nhà thơ Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc, có lẽ không phải là người có ý định làm mới ngôn ngữ nhưng việc anh viết từ sớm và viết liên tục chứng tỏ anh tha thiết với thơ cũng như nhiều nhà thơ khác. Thơ tạo ra một không khí riêng biệt, có phần thân mật, riêng tư, nhưng góp phần làm phong phú tiếng nói của thơ hôm nay. Mỗi nhà thơ có cách ghi nhận và phản ứng đối với đời sống khác nhau. Trong khi giọng điệu của thơ mỗi ngày một thay đổi, ngôn ngữ cũng thay đổi, thì anh vẫn giữ được tiếng nói riêng mình, chung thủy với bản tính của mình, không chịu ảnh hưởng của người khác, nhưng cũng không cũ kỹ. Thực ra, Đỗ Hồng Ngọc sống cùng thời với rất nhiều sự kiện, tỏ ra quan tâm đến đời sống văn hóa xã hội. Trong thơ cũng vậy, tôi nhìn thấy ở đó nhiều khoảnh khắc khác nhau của đời sống, công việc chuyên môn, chia ly và đoàn tụ, mất mát và hân hưởng, tình yêu và sự tha thứ. Tôi không nhìn thấy ở đó những sự kiện lớn, chiến tranh và hòa bình, các vấn đề chính trị hay dân tộc gay gắt, vì vậy thơ anh đối với tôi có tính riêng tư, thân mật, trầm lặng. Đó là một loại thơ trữ tình cá nhân, với giọng điệu êm ả, cái nhìn nhân hậu đối với cuộc đời. Tôi tin rằng ngoài đời, anh cũng thế, một người hiền lành, sâu sắc, có cá tính nhưng từ chối tham gia các cuộc tranh cãi. Anh chứng tỏ lối viết điềm đạm chắc tay, nhưng lại phóng khoáng, và đôi khi bất cần. Làm được vậy, thật rất khó.

Ơi những con đường ta đã đi

Gia Long, Đồng Khánh mượt xuân thì

Chân run rẩy cát bờ Thương Chánh

Gió ở đâu về thơm bước khuya

Thơ anh có tính âm nhạc. Trong những bài thơ ngắn ấy, tính âm nhạc tinh tế hơn, nhưng nếu bạn đọc một cách đầy chú ý, chúng cũng thể hiện trong những bài thơ không có vần.

Cái nhìn của Đỗ Hồng Ngọc là cái nhìn có tính quan sát của một thầy thuốc, tuy vậy, anh không hề nhầm lẫn giữa thơ và các bài báo khoa học, như một số người có thể nhầm lẫn. Anh không mang những kiến thức uyên thâm của mình vào thơ, theo nghĩa sống sượng mà chúng nằm bên dưới các chữ tinh khôi, lành lặn, và đôi khi siêu thực. Cũng vậy thơ thiền của anh nhẹ nhàng, ngẫu hứng, không có ý răn dạy, khuyên bảo, không sử dụng nhiều từ ngữ Phật pháp. Sự tưởng tượng của Đỗ Hồng Ngọc là những liên kết có tính nhảy vọt từ truyền thống đến hiện đại, sự liên kết hình ảnh qua các thời gian khác nhau, nhưng thường anh vẫn trở về với hiện tại của đời sống.

Thư Cho Bé Sơ Sinh

Khi em cất tiếng khóc chào đời
Anh đại diện đời chào em bằng nụ cười
Lớn lên nhớ đừng hỏi tại sao có kẻ cười người khóc
Trong cùng một cảnh ngộ nghe em!

Anh nhỏ vào mắt em thứ thuốc màu nâu
Nói là để ngừa đau mắt
Ngay lúc đó em đã không nhìn đời qua mắt thực
Nhớ đừng hỏi vì sao đời tối đen.

Khi anh cắt rún cho em
Anh đã xin lỗi chân thành rồi đó nhé
Vì từ nay em đã phải cô đơn
Em đã phải xa địa đàng lòng mẹ.

Em là gái là trai anh chẳng quan tâm
Nhưng khi em biết thẹn thùng
Sẽ biết thế nào là nước mắt trong đêm
Khi tình yêu tìm đến!

Anh đã không quên buộc étiquette vào tay em
Em được dán nhãn hiệu từ giây phút ấy
Nhớ đừng tự hỏi tôi là ai khi lớn khôn
Cũng đừng ngạc nhiên sao đời nhiều nhãn hiệu!

Khi em mở mắt ngỡ ngàng nhìn anh
Anh cũng ngỡ ngàng nhìn qua khung kính cửa
Một ngày đã thức giấc với vội vàng với hoang mang
Với những danh từ đao to búa lớn
Để bịp lừa để đổ máu đó em…

Thôi trân trọng chào em
Mời em nhập cuộc
Chúng mình cùng chung
Số phận…
Con người…

Cuộc trò chuyện tưởng tượng, riêng tư, bình đẳng, nhưng gởi gắm nhiều suy nghĩ về xã hội, chiến tranh, đất nước, phận người. Đó là một bài thơ trữ tình- thế sự. Những suy tư của anh chuyển hóa thành xúc cảm. Một xúc cảm mạnh, nhưng được kiềm chế trong lời đối thoại- độc thoại.

Nhiều người than phiền rằng thơ Việt đã kết thúc. Đọc một người như Đỗ Hồng Ngọc, lặng lẽ viết, tôi tin thơ vẫn sống, vì nó chính là linh hồn của ngôn ngữ hôm nay. Thơ là tiếng nói riêng tư của tác giả, nhưng cũng là sự trao đổi trò chuyện giữa người viết và người đọc, lời tâm sự, sự tranh luận, quà tặng. Thơ giữ lại cho chúng ta những di sản của một thời đại, đời sống tinh thần, các giá trị văn hóa. Thơ Đỗ Hồng Ngọc là cuốn nhật ký về những năm tháng mà anh đã sống, trong một ngôn ngữ sống động như hơi thở, như đời sống thật ngoài kia. Thơ anh làm cho sự hiện hữu con người trở nên rõ rệt trước sự bôi xóa của thời gian. Tôi tin rằng một số bài thơ xuất sắc sẽ ở lại lâu dài trong lòng người đọc, chúng không chỉ là bức tranh của đời sống hôm nay, mà còn là sự cần thiết. Đôi khi anh cũng không tránh khỏi sự dễ dãi, và có những bài thơ hoặc câu thơ lặp lại một hình ảnh nào đó, hay mang dấu ấn, của người xưa:

Về thăm quê

Lâu không về thăm quê

Những người xưa biền biệt

Lũ trẻ lớn lên

Ngơ ngác

“Ủa, chú là ai?

Làm sao chú biết…?”

 

Thơ anh sự kết hợp tự sự và trữ tình. Câu chuyện trong thơ của anh làm tăng sự hiểu biết của chúng ta đối với người khác, về những tương tác giữa người và người, cho người đọc nhìn thấy một thế giới, cho phép họ đi xuyên qua đám đông, ghi nhớ, kể lại, trong khi đó thơ trữ tình tập trung vào một tình huống, nén chặt nó lại trong thời gian, làm bộc lộ các xúc cảm về nó, nhờ vậy đọc thơ anh vừa thấy được một thế giới mà chúng ta đang trải qua, vừa là những giây phút bồn chồn của đời sống.

Chỉ quanh quẩn đâu đây

Cuộc đời đầy sinh bệnh lão tử

Lòng yêu đời trong anh thật lớn, cái nhìn thanh thản đầy chất triết lý cũng sâu đậm. Thơ Đỗ Hồng Ngọc thường ở thể tự do, các ý tưởng được nén lại trong một thứ ngôn ngữ khá là phóng túng:

Còn nhớ không

Căn nhà ốm nhom khu Bàn cờ

Bạn từng trú mấy hôm

Đi coi mắt vợ

Tôi cũng rành khu Bàn Cờ. Tôi quen một thiếu nữ ở đó. Tôi thường chở nàng đi ăn trong một quán hủ tiếu đâu đó, không còn nhớ, nhưng câu thơ của anh làm tôi nghĩ ngợi.

Thơ mang cho người đọc sự tự do để nhìn thấy thế giới, để đáp ứng, để sửa lỗi, để cầu nguyện. Thơ Đỗ Nghê không có những tham vọng lớn lao, anh không đề cập đến các vấn đề thời sự, không có những đề tài nóng bỏng, đó là một loại thơ cá nhân, riêng tư và âu yếm, và suy nghĩ. Thơ anh giản dị nhưng không hoàn toàn dễ hiểu, vì anh đang cố gắng nói một điều gì không thể nói được. Đọc thơ anh cũng phải đọc giữa các hàng chữ. Thơ là xúc cảm nhưng thơ cũng là phân tích.

 

ngày đó mới thôi…

bọn mình rớt mồng tơi,

dĩa bánh cuốn ly café đã khó

tôi nằm chờ giải ngũ

bạn trốn trại về…

 

khu mình chẳng có gì vui…

ngoài mấy nhà bảo sanh

một nhà thương thí

phòng mạch bác sĩ

văn phòng luật sư…

nhà thuốc tây thuốc bắc

 

khu mình chẳng có gì vui

ngoài cái chợ ồn ào

mấy dãy phố thời trang dị hợm

quán ăn đầy ngõ hẻm

vài ngôi chùa trang nghiêm

và mấy trại hòm…

 

đâu có cần ra khỏi cổng thành

đâu có cần vượt sông anoma

chỉ quanh quẩn nơi đây

cũng đầy sanh bệnh lão tử…

 

ngày đó mới thôi,

căn nhà ốm nhom khu bàn cờ

bạn từng trú mấy hôm

đi coi mắt vợ…

rồi bảo sanh

rồi bệnh viện

rồi nursing home…

 

cuộc đời đầy kinh ngạc

phải không?

Đỗ Hồng Ngọc làm chủ giọng nói của mình, tiết kiệm chữ, chỉ nói vừa đủ, nhường lời cho sự hiểu biết và diễn dịch của người đọc. Thơ anh vì vậy khá kén người đọc. Thơ Việt Nam trong nửa thế kỷ qua viết về nhiều đề tài, nhưng giấu phía sau mình nó là chiến tranh, chia rẽ, bạo lực. Đó là một nền thơ đau khổ. Nhưng đó cũng là một nền thơ hướng tới tự do biểu hiện. Có một nỗi buồn mênh mông, kín đáo, trong thơ anh:

Mỗi năm

Mỗi người

Thêm một tuổi

Chỉ mình con

Mãi mãi

Tuổi đôi mươi

Vết thương khó nhận ra.  Trước khi đọc tập “Thơ ngắn”, tôi nghĩ rằng anh sẽ viết nhiều về công việc chuyên môn, nhưng không, anh dễ dàng tách ra khỏi công việc thực, tự cho phép mình hoàn toàn thuộc về thơ ca. Bởi vì thơ cũng như những hình thức văn chương khác, trước hết đến từ sự tưởng tượng. Sự tưởng tượng trong khi mang người đọc đi xa thì lại mang họ trở về, với cái nhìn mới mẻ. Thơ Đỗ Nghê, trong những bài xuất sắc nhất của anh, là những bài thơ có sức mạnh làm mới.

Có nhiều cách để làm mới. Có những người có ý định, với những tuyên ngôn, chủ trương, nhưng cũng có những người làm mới lặng lẽ bằng chính tác phẩm. Những bài thơ ngắn của anh là sự mô tả đời sống hàng ngày, những chi tiết bề ngoài có vẻ tầm thường, một kỷ niệm, với giọng điệu chừng mực, triết lý, hài hước.

Tìm kiếm

 Anh không sống

Anh đợi sống

Anh để dành anh

Anh chắt mót em

Anh cắt xén niềm vui

Anh gậm nhấm nỗi buồn

Anh tìm kiếm

Một điều anh chẳng biết

Chính là bằng cái nhìn của tác giả mà thế giới trở nên thân mật hơn, gần gũi hơn, đầy chiêm nghiệm. Thơ trữ tình ngày càng được mang gần tới cuộc đời thường nhật, va chạm với những tình tiết và số phận nhỏ bé, đi tìm sự cao thượng trong những thấp kém, tính chất huyền bí của đời sống trong sự quen thuộc tầm thường. Thơ vì vậy ngày càng ngoại biên, địa phương, kỳ dị, thậm chí gồm những tiếng lóng. Không có gì là vĩnh cửu, không có một lý thuyết nào là chân lý cuối cùng, không một thần tượng nào không sụp đổ, đời sống trở nên sâu sắc hơn vì vậy, vì chúng ta đối diện với cái chết. Vì chúng ta yêu mến đời sống này, ca ngợi tính chất bình thường của nó, chống lại cái vĩ đại và các đại tự sự bằng những quan tâm nhỏ nhặt, nhưng cần thiết, vừa thực vừa huyền ảo, chúng ta sống vì chúng ta nhớ lại, vì chúng ta nghĩ đến.

 

Nguyễn Đức Tùng

(NGÔN NGỮ số đặc biệt Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc, tháng 5/2024)

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 17, 2024 04:23

May 16, 2024

Trịnh Y Thư: Cảm nhận nhân đọc “thơ ngắn đỗ nghê”

 

Cảm nhận nhân đọc “thơ ngắn đỗ nghê”

Trịnh Y Thư

 

1.

Tôi thích đọc “thơ ngắn” của Đỗ Nghê. Những bài thơ “ý tại ngôn ngoại,” đọc đi đọc lại, mỗi lần đọc đều nhận ra thêm một cái gì mới, khác, mở ra những chiều kích bát ngát hương thơm. Hãy giở trang đầu tiên của tập thơ, bài Trái đất, cả bài thơ chỉ có vẻn vẹn sáu từ:

 

Giữa đêm

Thức giấc

Giữa ngày…

Boston, 1993

 

Từ chìa khóa để hiểu bài thơ là “Boston,” mặc dù nó chỉ là phụ chú cho bài thơ. Giữa đêm thức giấc, bên kia nửa vòng trái đất là giữa ngày, chợt bàng hoàng tỉnh giấc, thao thức nỗi nhớ nhà, chợt thấy cô đơn, ôm nỗi sầu vạn cổ, thấy cái tôi bé nhỏ không một chút trọng lượng lọt thỏm giữa vũ trụ bao la.

Tứ thơ cô đúc, được nén chặt đến cực độ trong sáu từ, đột ngột phóng ra như một tia chớp lóe, để người đọc mặc tình buông ra từ trí tưởng của mình những cảm xúc bát ngát diệu kỳ.

Trên bước đường lữ thứ của cuộc hành trình đời người, chúng ta ắt hẳn phải có lúc cảm thấy cùng một tâm trạng với bài thơ. Bài thơ chỉ có sáu từ sao lại có sức mạnh truyền tải cảm xúc mạnh mẽ đến thế!

Ý thức rất rõ về sự hữu hạn của vật thể hữu hình và tính vô thường của kiếp nhân sinh, thơ Đỗ Nghê chuyển hóa bi kịch đời sống thành những cung bậc cảm xúc đẹp buồn, trữ tình. Những dấu vết của đau thương, tan rã, chia lìa gần như được xóa nhòa để cái đẹp – dù là cái đẹp bi ai – thăng hoa thành nghệ thuật, và sau cùng đạt đến cõi như nhiên, tĩnh tại.

Từ nỗi đau xót như nhát dao cứa sâu vào da thịt:

 

Mỗi năm

Mỗi người

Thêm một tuổi

Chỉ mình con

Mãi mãi

Tuổi đôi mươi…

(La Ngà 3)

 

Nỗi đau xót ấy, như được sưởi ấm bằng những đốm lửa yêu thương, biến thành nỗi buồn man mác nhưng dịu ngọt:

 

Con cài bông hoa trắng

Dành cho mẹ đóa hồng

Mẹ nhớ gài lên ngực

Ngoại chờ bên kia sông…

(Bông hồng cho mẹ)

 

Những câu thơ đẹp, vì được kết tinh một cách ưu ái và trang trọng từ trái tim, từ trái tim người làm thơ sang thẳng trái tim người đọc, không cần qua một lăng kính hay một bộ phận chắt lọc nào. Nếu những cụm từ như “bông hoa trắng,” “đóa hồng” được dùng như một hoán dụ, thì hoán dụ ấy cũng chẳng thể ngăn cản cảm xúc dạt dào dâng lên như sóng vỗ tràn bờ. Thực chất, thơ Đỗ Nghê ít sử dụng ẩn dụ hoặc hoán dụ, mà phần nhiều là những câu nói (vâng, thơ là tiếng nói, tiếng nói tinh tuyền nhất) rất đơn sơ, rất thật và rất đậm tính người.

Có gì “người” hơn những câu thơ này?

 

Mùa xuân mừng tuổi thơm tho áo

Nắng cũng vàng phai ngày cũng xa

Anh thương nhớ quá làm sao nói

Gọi tên em vang động gốc cây già…

(Quê nhà)

 

Nó là tiếng kêu của muôn loài sống trên mặt đất, tiếng chim gọi nhau buổi ngày nắng tắt trên đầu non, tiếng kêu trầm thống của loài cá voi dưới mặt nước đại dương sâu thẳm. Nó là chất keo sơn giữ cho cuộc sống này bền chặt. Không có nó, thế giới vỡ tung mất thôi, và có vẻ như nó đang vỡ thật. Một mai nếu để mất nó, chúng ta sẽ rơi vào hố thẳm tuyệt vọng, vô phương cứu vãn, và linh hồn chúng ta sẽ mãi mãi trầm luân trong cõi huyền tẫn mịt mù, không ai có thể chuộc tội cho chúng ta, ngay cả người đóng đinh trên núi Sọ.

Vâng, tôi xin bắt chước nhà thơ, ngày xuân “gọi tên em vang động gốc cây già.”

 

2.

 

“Nước”, “sóng”, “sông”, “biển” là những thi ảnh xuất hiện nhiều trong thơ Đỗ Nghê. Trong bài thơ Nước – gồm 20 câu, một trong những bài thơ dài toàn tập thơ – thi sĩ vẽ hành trình của nước len lỏi qua nghìn dặm nẻo đường núi non sông lạch, thậm chí “từ cơn gió thoảng, từ làn mây trôi,” chỉ để bâng khuâng buông ra một suy nghiệm có tính siêu hình:

 

Nước vẫn muôn đời

Không đi chẳng đến

Ai người nỡ hỏi

Nước đến từ đâu?

Ai người nỡ hỏi

Nước trôi về đâu?…

 

Nước, trong ngữ cảnh bài thơ, là một hoán dụ ám chỉ khái niệm Duyên khởi và tính Không trong Phật giáo. Nước “không đi chẳng đến,” phải chăng ám chỉ khái niệm “vô thỉ vô chung” vốn chủ yếu liên quan đến sự hiểu biết về thời gian, sự tồn tại và quan hệ nhân quả.

Duyên khởi khẳng định rằng mọi hiện tượng phát sinh đều phụ thuộc vào các hiện tượng khác. Nó mô tả một chuỗi nhân quả, trong đó mỗi mắt xích phụ thuộc vào mắt xích trước đó, dẫn đến sự phát sinh của các hiện tượng tiếp theo. Theo quan điểm này, không có điểm bắt đầu hay điểm kết thúc biệt lập, độc lập đối với bất cứ điều gì trong chu kỳ tồn tại. Mọi thứ đều có mối liên hệ với nhau và phụ thuộc lẫn nhau.

Còn khái niệm tính Không thì nhấn mạnh đến sự thiếu vắng của bản chất nội tại cố hữu của sự vật. Sự vật không có sự tồn tại cố hữu. Sự tồn tại của chúng phụ thuộc vào các yếu tố khác. Do đó, khởi đầu hay kết thúc của tồn tại trở nên vô nghĩa. Thay vào đó, sự tồn tại trải qua vô tận các chu kỳ lặp đi lặp lại gồm có sáng tạo, hủy diệt và tái sinh (mà ta gọi là luân hồi). Trong những chu kỳ này, không có điểm bắt đầu hay điểm kết thúc cuối cùng.

Nó chính là “nước” của Đỗ Nghê: Không đi chẳng đến.

Theo Tứ Diệu Đế, khổ đau là cố hữu do tham ái và vô minh. Tái sinh được xem là sự tiếp nối của vòng đau khổ này cho đến khi người ta đạt được giải thoát (niết bàn). Theo nghĩa này, tồn tại được xem là không có khởi đầu, với khả năng giải thoát đánh dấu sự kết thúc của vòng tái sinh.

Hiểu được bản chất của “nước” là hiểu được chu kỳ của tồn tại, là hiểu được con đường dẫn ta đến giải thoát. Tôi đồ nhà thơ Đỗ Nghê chỉ muốn nói có bấy nhiêu. Một điều vô cùng giản dị mà sao chẳng mấy ai thực hiện nổi!

Khái niệm “Sắc tức thị không, Không tức thị sắc” còn được thi sĩ nhắc lại trong bài thơ Có không:

 

Tràn vào khắp ngả

Đất trời mênh mông

Nhẹ như không có

Có mà như không…

 

Thơ Đỗ Nghê thấm đẫm mùi Thiền, rất nhiều bài trong tập thơ mang phong vị Thiền học, nhưng nó là cái Thiền giúp ta thong dong đi vào phố chợ, nhập cuộc trần ai, mà lòng an nhiên như đang thảnh thơi dạo bước trên con đường mòn giữa cánh đồng hoa lá:

 

Duyên sinh vô ngã

Ngũ uẩn giai không

Từ đó thong dong

Thõng tay vào chợ…

(Vè thiền tập)

 

Bởi thi sĩ hiểu rõ chân lý sinh diệt của vũ trụ tuần hoàn, từ cát bụi, ta là ta hôm nay, ta là “đất động” hay “sóng thần,” nhưng rồi một ngày nào đó không xa, ta lại trở về cát bụi:

 

Đất động ta cũng động

Sóng thần ta cũng sóng

Giật mình chợt nhớ ra

Vốn xưa ta là đất…

(Đất)

 

3.

 

Một người làm thơ trữ tình như Đỗ Nghê ắt hẳn không thể nào dửng dưng với đất nước quê hương mình. Quê hương của ông là biển, là sông, là hồ, là cát, là cây, là đá, tất cả hòa quyện trầm mặc trong thơ. Các địa danh xa lạ với nhiều người nhưng thân thương với thi nhân, như hòn Bà, đá Ngãnh, được đem vào thơ, tái hiện hoài hoài trong những giấc mơ, hay một ký ức không thể bào mòn.

Tôi đặc biệt yêu thích bài Hội An sớm:

 

Hội An còn ngái ngủ

Mái chùa ôm vầng trăng

Giật mình nghe tiếng chổi

Gà gáy vàng trong sương…

 

Như một khúc Đường thi. Thi ảnh, tuy cổ điển, nhưng đẹp não nùng. Và, chao ơi, tiếng chổi. Sao lại tiếng chổi từ trong sân chùa một cách mơ hồ vọng ra? Sao không là tiếng tụng kinh, tiếng chuông, tiếng mõ vào buổi sớm? Chính sự bất ngờ ấy, đánh động tâm hồn khiến thi nhân giật mình, đã làm tăng thú vị khi đọc bài thơ. Bất ngờ hơn chuyện ông Trương Kế lúc từ Phong Kiều bước xuống thuyền nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn vọng lại. Bài thơ của Đỗ Nghê là bức tranh hiện thực được vẽ bằng bốn câu thơ năm chữ.

Và tiếng gà. À, thì ra ngôi chùa chẳng ở đâu xa mà nằm gần kề một thôn xóm quê nghèo. Nó cho ta cảm giác ám áp, gần gũi, thân thương. Cụm từ “vàng trong sương” là một thủ pháp tu từ mỹ học. Ở đây nó là điểm nhấn như điểm nhấn trong hội họa, để từ đó người đọc thơ có thể vin vào, đoạn phóng chiếu ra tổng thể một cảnh tượng lung linh bóng hình thật đẹp, gồm có cả hình ảnh lẫn ảo ảnh. Hình ảnh là ánh tinh quang nhạt nhòa trong sương sớm. Ảo ảnh là một thôn làng xa xôi rơi rớt trong mớ ký ức ngổn ngang buồn nhớ.

Ngôi chùa ở Hội An của Đỗ Nghê thân quen, gần gũi trong một tâm trạng cảm hoài nhưng một tâm thế u tĩnh, yên bình. Ngôi chùa Hàn Sơn của Trương Kế thì xa lạ, trống vắng trong một cảm giác bất an, mông lung, thậm chí bồn chồn, hoang mang, lạc lõng.

 

4.

 

Tình yêu là đề tài trong thơ của gần như mọi thi sĩ đông tây kim cổ. Tình yêu trong thơ Đỗ Nghê là một thứ tình yêu đằm thắm, nhẹ nhàng. Bạn đừng tìm kiếm những tứ thơ nồng cháy nóng bỏng, khốc liệt trong thơ ông. Ngôn ngữ tình yêu là những nét chấm phá thi vị. Và ý nhị, thâm trầm:

 

Cảm ơn em sợi bạc

Cảm ơn em sợi hung

Cảm ơn em năm tháng

Đã theo già cùng anh.

(Theo già)

 

Hay:

 

Lá chín vàng lá rụng về cội

Em chín vàng chắc rụng về anh…

(Lá)

 

Tôi thích những vần thơ tình nhẹ nhàng của Đỗ Nghê, bởi dù trong xa vắng, tình yêu của thi sĩ vẫn đẹp. Tháng năm trôi qua, đôi khi chạnh lòng nhớ lại kèm theo một chút bùi ngùi thương nhớ:

 

Hoa vàng đã rụng đầy sân vắng

Tình cũng ngùi phai theo tháng năm…

(Cố nhân)

 

Lòng còn vương vấn dù thời gian dâu biển bao mùa đã qua. Chẳng còn gì để nhớ, để thương… Không, hình như vẫn còn… Và chỉ chừng đó thôi đã đủ cho “ta” bồi hồi sung sướng:

 

Trái thông khô rớt vèo chiều tím

May mà còn ánh mắt dao cau…

(Tím)

 

Hình ảnh “bạo liệt” nhất trong thơ Đỗ Nghê là bài sau:

 

Anh đọc bài thơ tình

Em ngồi nghe lặng thinh

Anh đọc thêm bài nữa

Em vẫn ngồi lặng thinh

Anh buồn không đọc nữa

Em chồm lên hôn anh

Như dổ dầu vào lửa…

(Thơ tình)

 

Và, không kém quan trọng, tình yêu trong thơ Đỗ Nghê bao giờ cũng hòa quyện với tình yêu quê hương đất nước, với biển, cát, sóng, trời:

 

Anh… ngoằn ngoèo trên cát

Không ngờ mà hóa tên em

Biển xanh nắng vàng sóng bạc

Không ngờ cùng kéo đến xem…

 

Tình yêu trong thơ Đỗ Nghê là thứ tình yêu phổ quát, đẹp muôn đời, đáng ca tụng mãi mãi, thế hệ nào cũng có thể liên kết cá thể mình vào được. Ngôn ngữ ca ngợi tình yêu của thi sĩ giản dị, chân thành, biểu hiệu một tấm lòng thương quý dành cho món quà quý giá nhất Thượng đế ban cho loài người. Một món quà như thế mà hình như chúng ta đang đánh mất nó, đang để nó vuột khỏi tầm tay. Một mai không còn tình yêu nữa, chúng ta sống vô cảm, vô tính như một robot AI hay một con người văn minh, chỉ biết có khoái lạc nhục dục và soma gây mê, như Aldous Huxley miêu tả trong cuốn tiểu thuyết Brave New World của ông, thì liệu lúc đó con người có còn là con người nữa không? Đọc thơ tình Đỗ Nghê để giữ gìn, trân quý món quà Trời cho đó, xin bạn đừng bao giờ đánh mất.

 

5.

 

Ngôn ngữ thơ của Đỗ Nghê, nói chung, mang phong cách truyền thống. Cấu trúc và thi pháp cổ điển. Bởi thế, nhạc tính và cú điệu trong thơ du dương, trầm lắng.  Đêm trên biển Lagi là một bài thơ với niêm luật chỉn chu theo đúng tinh thần Đường thi. Ông không tìm kiếm sự cách tân trong thơ mình. Kỹ thuật được ưa chuộng bởi các nhà thơ cách tân, như thủ pháp đặt cặp phạm trù/ thi ảnh tréo ngoe liền kề, không hề thấy trong suốt thi tập. Chữ nghĩa ông thâm trầm, dung dị. Ông không nệ chữ, không chuộng sử dụng những từ lạ, hoa mỹ, không vắt dòng vô cớ, không tra tấn người đọc bằng những ký hiệu rối rắm, ngớ ngẩn. Nhưng chữ nghĩa của ông là thứ chữ nghĩa có trọng lượng và buộc người đọc thơ phải suy ngẫm, liên tưởng, để trèo từ tầng chữ nghĩa lên tầng cảm xúc của thơ, để khám phá, để đắm chìm vào những khung trời, trong đó tâm hồn mình được vuốt ve, yên ủi.

Tuy vậy, đó không phải loại thơ “khẩu khí” vốn đè nặng thi ca Việt Nam suốt mấy trăm năm qua và phần nào tiếp diễn cho đến ngày hôm nay. Thơ ông là tiếng nói, tiếng nói thầm thì nhưng trong veo và có sức mạnh chuyển tải cảm xúc, biểu hiệu cho một tâm hồn thơ giàu suy cảm.

Có thể có kẻ thấy thiếu vắng một ý thức lịch sử, xã hội hay chính trị trong thơ Đỗ Nghê, thiếu cả những thao thức, khao khát nội tâm, do đó, họ biện biệt, thơ thiếu chất sống, không tiếp cận với đời sống con người, thân phận con người, vốn là cơ bản cho tất cả các thao tác văn học nói chung, thơ nói riêng.

Tôi phản bác lập luận này. Đồng ý, thơ phải có một “đời sống thơ,” nhưng đời sống ấy không phải sinh ra để gồng gánh những trọng trách như minh họa kỷ nguyên lịch sử, miêu tả xã hội, bảo vệ ý thức hệ – dù là một ý thức hệ tốt đẹp – như Milan Kundera từng phát biểu nhiều lần. Mượn lời Kundera, tôi có thể nói là, thay vào đó, thơ tự cho nó một nhiệm vụ nói lên những điều “chỉ thơ mới nói được.” Ngôi nhà chữ nghĩa của thơ vốn ảo diệu, khó vào, thông thường chỉ mở lối cho người đọc thơ đi vào bằng con đường trực cảm hoặc linh cảm, thậm chí thần cảm. Khoác chiếc áo sứ mệnh nặng khôn kham lên thơ chỉ làm thơ thêm tội nghiệp và giết chết thơ.

Ý thức rất rõ về điều đó, nhà thơ Đỗ Nghê đã không khoác chiếc áo sứ mệnh lên thơ mình.

Nhưng “đời sống thơ” trong thơ Đỗ Nghê là gì, và ta phải hiểu như thế nào?

Nhờ thấm đẫm Thiền vị, như đã nói bên trên, thơ Đỗ Nghê thắt buộc sự hiện hữu của con người vào thế giới xung quanh, và quan trọng hơn, tìm ra được quan hệ hài hòa giữa sự hiện hữu ấy với thế giới. Con người và thế giới không là chủ thể-khách thể như được hiểu theo ý nghĩa triết học cổ điển, mà là một tương tác giao thoa. Triết học Hiện sinh đặt vấn nạn chúng ta bị ném ra ngoài thế gian này mà không biết tại sao. Chúng ta giống nhân vật thần thoại Hy Lạp Sisyphus, bị kết án vĩnh viễn lăn tảng đá lên đỉnh núi chỉ để nhìn nó lăn xuống lần nữa. Thơ Đỗ Nghê không thắc mắc chuyện đó. Thơ ông cho ta thấy khả năng con người nhận thức được thực tế của hiện tồn, để từ đó biết trực diện với khổ đau và cái chết, đối đầu với những thách đố của đời sống dựa trên sự thông hiểu sâu sắc về bản chất của hiện tồn.

Nhưng không thể gọi thơ Đỗ Nghê là thơ triết học. Đó là thơ. Thơ với tất cả những tố chất cố hữu của thơ. Bởi thơ ông không đưa ra một suy niệm tiên nghiệm nào, và bởi thơ đi thẳng từ trái tim thi nhân vào trái tim người đọc.

Đọc “thơ ngắn đỗ nghê” giữa một thế giới đảo điên như hôm nay, giữa một cuộc sống đầy gian truân, trắc trở, với tôi, là một hạnh phúc.

 

– Trịnh Y Thư

(Ngôn Ngữ số đặc biệt Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc, tháng 5/2024)

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 16, 2024 23:24

May 15, 2024

Thư gởi bạn xa xôi (5.2024)

 

Thư gởi bạn xa xôi (5.2024)

“Nha Trang… ngày về”

Bạn biết không, bà xã mình thường “cằn nhằn” sao cứ đi hoài đi miết vậy, hết Huế tới Phú Yên, Mũi Né,  La Gi, La Gàn, rồi Long Thành, Phan Thiết… Mình bèn “phản biện” bây giờ còn không lo đi, đợi hết đi nổi mới đi hay sao? Vậy đó, bạn thấy được không?

Cao tốc Saigon – Nha Trang vừa làm xong, phải đi cho biết chớ. Nghe nói thay vì đi 9, 10 tiếng như xưa, nay đã rút ngắn còn 5 tiếng. Nghe nói cao tốc mà chưa có chỗ dừng nghỉ, vệ sinh, nên người ta phải nhảy rào, nay mới được dựng tạm mấy chỗ. Phải đi cho biết chớ.

Vậy là lên đường. Đúng là cao tốc có dễ đi hơn trước, nhanh hơn trước, chui mấy đường hầm ngồ ngộ, đến Nha Trang chỉ mất hơn 5 tiếng thiệt. Ghé nhà hàng “Nha Trang xưa” ăn cơm xem sao. Cũng được, có mấy món Bà ngoại làm trong thực đơn. Có ao sen, có chuối, có cau, có cầu khỉ… ÔI, đông khách quá.

Vào Nha Trang thấy lạ hoắc. Đường xá thênh thang. Còn Ga xe lửa. Nhà thờ đá. Nhứt định bắt bác tài phải chạy ra biển cho tui coi biển một chút. Ôi, không còn 4 mùa, không còn ki ốt, hàng quán… nào nữa. Chỉ thấy khách sạn cao ngút chen chúc dày đặc. Nhớ năm 1960, mình từng đi xe lửa ra Nha Trang một mình, tìm người bạn học Võ Tánh không gặp bèn cỡi quần áo nhảy ùm xuống nước tắm một mình rồi leo lên xe lửa về lại Saigon. Bây giờ đèo Rù Rì cũng không còn. Cầu Đá thì vắng vẻ… Chỉ còn khu náo nhiệt là khu Du lịch quá đông, quá xí xô xí xào, têy đầm, âu á. Tự nhiên thấy mọi thứ như không còn của mình nữa. May sao, chùa Long Sơn còn đó với tượng Phật vĩ đại trên đồi cao. Phía sau đó là chùa Hải Đức, nơi ngày xưa có thầy Tuệ Sỹ, Ni Trí Hải, các văn nhân Quách Tấn, Võ Hồng, Phạm Công Thiện… thường lui tới.

Ra Hòn Chồng uống Cafe. May còn có vài chỗ như Hòn Chồng có cafe fin. Còn hiện nay ở đâu cũng thấy toàn cafe máy. Bãi Hòn Chồng đẹp, thân thiện, đông vui. Tắm cái chớ. Uống dừa ba nhát cái chớ.

Để một ngày thăm bạn bè. Còn chẳng mấy. Khuất Đẩu & Huyền Chiêu ở Ninh Hoà, vợ chồng Võ Tấn Khanh ở Phan Rang… ai cũng kêu con cháu đi khắp nơi, chỉ còn hia ông bà già lui cui.

Trên đường về, mình không đi cao tốc nữa mà đi Quốc lộ 1 để qua Cam Ranh, Phan Rang, Cá Ná… quen thuộc.

Gởi bạn vài tấm hình coi vui thôi nhe.

Chùa Long Sơn, Nha Trang

 

 

 

Tượng Phật Thích Ca trên đồi cao, sau chùa Long Sơn.

 

 

Bãi biển Hòn Chồng

uống dừa ba nhát

 

Khuất Đẩu và Đỗ Hồng Ngọc (Ninh Hoà, 9.5.2024)

Võ Tấn Khanh

Cà Ná

Cà Ná

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 15, 2024 01:56

May 14, 2024

Minh Lê: Đọc và Cảm “Một ngày kia… đến bờ”

 

Đọc và Cảm “Một ngày kia… đến bờ”

Minh Lê

Các tùy bút của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc thường ngắn, dễ hiểu và hấp dẫn như “tiểu thuyết”. Đã đọc là không dừng được. Từ ngữ giản dị, giọng văn thân mật, dí dỏm. Nhưng đừng tưởng bở, tác giả toàn viết kiểu “ý ở ngoài lời”. Đọc lần thứ nhứt, cười ha hả. Đọc lần thứ hai, cười tủm tỉm. Đọc lần thứ ba và thứ n, gật gù “đúng hen!”.

Rồi trong tập mới nhứt “Một ngày kia… đến bờ”, tác giả đổi kiểu viết. Nói chi tiết, cụ thể, tuy giọng văn vẫn rất “Đỗ Hồng Ngọc”. Anh Ngọc viết riêng cuốn này cho bạn bè “cùng một lứa”, những người nhiều kinh nghiệm sống và có hiểu biết về Phật pháp, nên với những người còn đang “bận rộn” và những người vừa mới “gió heo may đã về”, đoc vô rất dễ “tẩu hỏa nhập ma”.

Biết mình chưa đủ trình để hiểu, tôi thử cảm bằng… trái tim. Cảm nhận luôn chủ quan, nếu có chỗ nào sai mong Anh Ngọc sẽ cười tha thứ.

Trịnh Công Sơn viết trong bài “Phôi pha”: “Về ngồi trong những ngày, nhìn từng hôm nắng ngời, nhìn từng khi mưa bay”. Để thấy được vẻ đẹp của nắng, của mưa thì tâm ta phải bình an, không chộn rộn với suy tính, lo âu. Ai sống mà không suy tính, lo âu? Anh Ngọc dặn: “Khi thấy những ý tưởng nọ kia xuất hiện cũng là chuyện bình thường thôi. Cứ để tự nhiên. Nó đến rồi nó đi.” (tr. 89 – 90) Không thèm nghĩ nữa, cho hết mấy thứ “sinh sự” đó đi rồi thì lòng ta nhẹ, tha hồ “về lại nơi cuối trời làm mây trôi”.

Có người hỏi, nó cứ dính mắc hoài, làm sao buông? Vì cái hiểu “đủ duyên thì hiện, hết duyên thì tan” có thể vô đầu ta mà chưa vô được trái tim ta. Ta không chịu chấp nhận “chuyện phải tới nó sẽ tới”, rằng không phải lúc nào nắng cũng hay, mưa cũng đẹp. Anh Ngọc giải cứu liền: “Chẳng vì ta mà hoa nở, hoa tàn. Chẳng vì ta mà gió mát trăng thanh. Nhưng ta biết thưởng thức. Ta enjoy cuộc sống của mình trong từng giây phút.” (tr. 43) Nếu lúc nào ta cũng biết thưởng thức và “cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy” thì ta sẽ “ung dung, tự tại, an nhiên” (tr. 43).

Nhưng chừng đó chưa đủ. Câu hỏi “ta là ai, tại sao ta sinh ra và khi chết sẽ đi về đâu” vẫn còn ám ảnh. Cả vũ trụ này là một khối năng lượng, và định luật bảo toàn năng lượng đã được các nhà khoa học khẳng định từ lâu: “Không có năng lượng nào tự sinh ra hay mất đi, chúng chỉ thay đổi từ dạng này qua dạng khác”.

Ai làm chủ sự thay đổi đó? “Stephen Hawking bảo chắc chắn phải có một design, một thiết kế vĩ đại từ trong con virus đến khủng long… nhưng không có designer, không có nhà thiết kế. Nhưng tôi tin có một cái gì đó, gọi bằng tên gì cũng được, tạo ra cái trò chơi này và ngắm nghía thú vị.” (tr. 13) Cái “trò chơi” này, nói nôm na là game, nó vô cùng vô tận, nên chúng ta, người chơi game, cũng sẽ chơi dài dài.

Mục đích của game là Chân – Thiện – Mỹ, level của thế gian là đạt thành Phật, thành Phật rồi sẽ được “chơi” cấp cao hơn. Tuy vậy có những vị Phật và Bồ Tát muốn giúp chúng sinh mau lên level, nên chịu khó dạy bảo, dẫn dắt như đàn anh trong game chỉ cho đàn em cách đánh quái vật. Và khi đàn em thua hoài thì được an ủi: “Phật cười: Ta là Phật đã thành, Ông là Phật sẽ thành!” (tr. 47) Hồi nhỏ dù ta học dốt tới đâu mà có một thầy cô tin tưởng khuyến khích, chắc chắn ta sẽ gắng học và trở nên giỏi hơn. Phật biết rõ điều đó!

“Ai nói gì không biết chớ tôi tin có kiếp trước kiếp sau. Phải có, mới tạo được sự công bằng, hoàn hảo chứ!” (tr. 105) Rốt cuộc ta là ai? Ta là một khối năng lượng có ý thức, nhờ duyên mà mượn thân xác kiếp này để học những gì cần học, học chưa xong ta lại sang kiếp sau học tiếp. Sau mỗi lần “ngủm” trong game, ta lại hồi sinh với nhiều kinh nghiệm hơn, có khả năng tới gần đích hơn. Một ngày nào đó trong tương lai, ta sẽ đạt tới level của Phật.

Vậy có gì đâu mà buồn mà sợ? Anh Ngọc nói không chỉ cần sống vui (well-being) mà còn cần chết vui (well-dying). Biết cái chết là tất yếu, nên sống hết mình từng giây phút để không tiếc nuối khi cái chết đến – đó là “chết vui”. Biết sống vui thì ta sẽ dễ dàng “chết vui”, ngược lại ngộ ra “chết vui” thì sống vui đâu có khó.

“Một ngày kia đến bờ, đời người như gió qua.” Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc luôn là cơn gió nồm nam mát rượi thổi bay sự oi bức trong đầu và trong lòng người đọc. Mọi thứ rồi sẽ “phôi pha”, nhưng những lời khai ngộ của Anh còn được nhớ hoài, như “bàn chân ai bước nhẹ, tựa hồn những năm xưa”.

Minh Lê

(Nha Trang, 05/2024)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 14, 2024 21:49

MINH LÊ: Đọc và Cảm “Một ngày kia… đến bờ”

 

Đọc và Cảm “Một ngày kia… đến bờ”

Minh Lê

Các tùy bút của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc thường ngắn, dễ hiểu và hấp dẫn như “tiểu thuyết”. Đã đọc là không dừng được. Từ ngữ giản dị, giọng văn thân mật, dí dỏm. Nhưng đừng tưởng bở, tác giả toàn viết kiểu “ý ở ngoài lời”. Đọc lần thứ nhứt, cười ha hả. Đọc lần thứ hai, cười tủm tỉm. Đọc lần thứ ba và thứ n, gật gù “đúng hen!”.

Rồi trong tập mới nhứt “Một ngày kia… đến bờ”, tác giả đổi kiểu viết. Nói chi tiết, cụ thể, tuy giọng văn vẫn rất “Đỗ Hồng Ngọc”. Anh Ngọc viết riêng cuốn này cho bạn bè “cùng một lứa”, những người nhiều kinh nghiệm sống và có hiểu biết về Phật pháp, nên với những người còn đang “bận rộn” và những người vừa mới “gió heo may đã về”, đoc vô rất dễ “tẩu hỏa nhập ma”.

Biết mình chưa đủ trình để hiểu, tôi thử cảm bằng… trái tim. Cảm nhận luôn chủ quan, nếu có chỗ nào sai mong Anh Ngọc sẽ cười tha thứ.

Trịnh Công Sơn viết trong bài “Phôi pha”: “Về ngồi trong những ngày, nhìn từng hôm nắng ngời, nhìn từng khi mưa bay”. Để thấy được vẻ đẹp của nắng, của mưa thì tâm ta phải bình an, không chộn rộn với suy tính, lo âu. Ai sống mà không suy tính, lo âu? Anh Ngọc dặn: “Khi thấy những ý tưởng nọ kia xuất hiện cũng là chuyện bình thường thôi. Cứ để tự nhiên. Nó đến rồi nó đi.” (tr. 89 – 90) Không thèm nghĩ nữa, cho hết mấy thứ “sinh sự” đó đi rồi thì lòng ta nhẹ, tha hồ “về lại nơi cuối trời làm mây trôi”.

Có người hỏi, nó cứ dính mắc hoài, làm sao buông? Vì cái hiểu “đủ duyên thì hiện, hết duyên thì tan” có thể vô đầu ta mà chưa vô được trái tim ta. Ta không chịu chấp nhận “chuyện phải tới nó sẽ tới”, rằng không phải lúc nào nắng cũng hay, mưa cũng đẹp. Anh Ngọc giải cứu liền: “Chẳng vì ta mà hoa nở, hoa tàn. Chẳng vì ta mà gió mát trăng thanh. Nhưng ta biết thưởng thức. Ta enjoy cuộc sống của mình trong từng giây phút.” (tr. 43) Nếu lúc nào ta cũng biết thưởng thức và “cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy” thì ta sẽ “ung dung, tự tại, an nhiên” (tr. 43).

Nhưng chừng đó chưa đủ. Câu hỏi “ta là ai, tại sao ta sinh ra và khi chết sẽ đi về đâu” vẫn còn ám ảnh. Cả vũ trụ này là một khối năng lượng, và định luật bảo toàn năng lượng đã được các nhà khoa học khẳng định từ lâu: “Không có năng lượng nào tự sinh ra hay mất đi, chúng chỉ thay đổi từ dạng này qua dạng khác”.

Ai làm chủ sự thay đổi đó? “Stephen Hawking bảo chắc chắn phải có một design, một thiết kế vĩ đại từ trong con virus đến khủng long… nhưng không có designer, không có nhà thiết kế. Nhưng tôi tin có một cái gì đó, gọi bằng tên gì cũng được, tạo ra cái trò chơi này và ngắm nghía thú vị.” (tr. 13) Cái “trò chơi” này, nói nôm na là game, nó vô cùng vô tận, nên chúng ta, người chơi game, cũng sẽ chơi dài dài.

Mục đích của game là Chân – Thiện – Mỹ, level của thế gian là đạt thành Phật, thành Phật rồi sẽ được “chơi” cấp cao hơn. Tuy vậy có những vị Phật và Bồ Tát muốn giúp chúng sinh mau lên level, nên chịu khó dạy bảo, dẫn dắt như đàn anh trong game chỉ cho đàn em cách đánh quái vật. Và khi đàn em thua hoài thì được an ủi: “Phật cười: Ta là Phật đã thành, Ông là Phật sẽ thành!” (tr. 47) Hồi nhỏ dù ta học dốt tới đâu mà có một thầy cô tin tưởng khuyến khích, chắc chắn ta sẽ gắng học và trở nên giỏi hơn. Phật biết rõ điều đó!

“Ai nói gì không biết chớ tôi tin có kiếp trước kiếp sau. Phải có, mới tạo được sự công bằng, hoàn hảo chứ!” (tr. 105) Rốt cuộc ta là ai? Ta là một khối năng lượng có ý thức, nhờ duyên mà mượn thân xác kiếp này để học những gì cần học, học chưa xong ta lại sang kiếp sau học tiếp. Sau mỗi lần “ngủm” trong game, ta lại hồi sinh với nhiều kinh nghiệm hơn, có khả năng tới gần đích hơn. Một ngày nào đó trong tương lai, ta sẽ đạt tới level của Phật.

Vậy có gì đâu mà buồn mà sợ? Anh Ngọc nói không chỉ cần sống vui (well-being) mà còn cần chết vui (well-dying). Biết cái chết là tất yếu, nên sống hết mình từng giây phút để không tiếc nuối khi cái chết đến – đó là “chết vui”. Biết sống vui thì ta sẽ dễ dàng “chết vui”, ngược lại ngộ ra “chết vui” thì sống vui đâu có khó.

“Một ngày kia đến bờ, đời người như gió qua.” Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc luôn là cơn gió nồm nam mát rượi thổi bay sự oi bức trong đầu và trong lòng người đọc. Mọi thứ rồi sẽ “phôi pha”, nhưng những lời khai ngộ của Anh còn được nhớ hoài, như “bàn chân ai bước nhẹ, tựa hồn những năm xưa”.

Minh Lê

(Nha Trang, 05/2024)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 14, 2024 21:49

May 6, 2024

Nguyên Giác: Mỹ Học Của Hư Vỡ

 

Mỹ Học Của Hư Vỡ

Nguyên Giác

B1 Buddha pexels-photo-

Đức Phật ngồi trong hư vỡ, vô thường. Hình: Pexels.com.

Hư vỡ là đặc tính bất biến của cuộc đời, của tất cả những gì có mặt trong vũ trụ này. Nghĩa là những gì hợp lại, thì sẽ tan; những gì sinh ra, rồi sẽ biến mất. Không có gì kiên cố, bất biến trên đời. Đức Phật đã chỉ ra sự thật đó, và biến những thái độ sống không vui thành sự kham nhẫn mỹ học: cái đẹp chính là vô thường. Bởi vì vô thường, nên có hoa mùa xuân nở, có những dòng suối chảy từ tuyết tan mùa hè, có những trận lá mùa thu lìa cành, và có những trận mưa tuyết mùa đông vương vào gót giày. Bởi vì sống hoan hỷ với hư vỡ là tự hoàn thiện chính mình, hòa hài làm bạn với hư vỡ là sống với sự thật, và cảm nhận toàn thân tâm trong hư vỡ từng khoảnh khắc là hòa lẫn vào cái đẹp của vũ trụ. Và sống với chân, thiện, mỹ như thế tất nhiên sẽ đón nhận được cái chết bình an.

Thân người chính là một bình gốm mong manh, dễ hư vỡ, và rồi sẽ một ngày tất nhiên phải hư vỡ. Đức Phật nói trong Kinh Pháp Cú, bài Kệ 40, qua bản dịch của Thầy Minh Châu là:

“Biết thân như đồ gốm,
Trú tâm như thành trì,
Chống ma với gươm trí;
Giữ chiến thắng không tham.”

Bài kệ trên nói rằng, thường trực biết thân mình, biết cơ thể mình mong manh như đồ gốm, là tâm sẽ khởi lên cái thấy của trí huệ, là tất nhiên lìa tham. Hiểu biết như thế, khi thấy đồ gốm quý tan vỡ, cũng sẽ tất nhiên không sân hận. Câu chuyện sau là dịch từ Thiền sử Nhật Bản.

Thiền sư Ikkyu, khi còn là thiếu niên đã lộ ra trí thông minh, nhanh nhẹn, và là một chú tiểu biết ứng biến. Thầy của Ikkyu có một tách trà quý giá, đó cũng là một cổ vật quý hiếm. Chú tiểu Ikkyu vô ý làm vỡ chiếc tách trà này và rất mực bối rối. Nghe tiếng bước chân của thầy, Ikkyu ôm những mảnh tách vỡ ra sau lưng. Khi thầy xuất hiện, Ikkyu hỏi: “Tại sao người ta phải chết?”

Vị thiền sư già giải thích, ““Đó là tự nhiên, vì mọi thứ có sinh thì phải có tử. Đó là luật vô thường, mọi thứ đều phải hư vỡ.”

Bấy giờ, chú tiểu Ikkyu lấy chiếc tách vỡ ra và nói với thầy: “Bạch thầy, đã đến lúc cái tách của thầy phải chết rồi.” Dĩ nhiên, vị thầy không giận.

Tất cả chúng ta trong đời đều phần nào chấp nhận mỹ học của sự hư vỡ. Nhiều người trong chúng ta, tại Việt Nam và cả tại Hoa Kỳ, đã từng đi lang thang trong các tiệm bán đồ cũ, vào các chợ trời, nhìn những thứ hư vỡ, và đôi khi mua những thứ còn có thể sử dụng được. Đôi khi, có những thứ không còn sử dụng được, nhưng mua về chỉ vì nó là đồ cũ, nó có giá trị của hư vỡ, cho dù hoàn toàn không có giá trị hiệu năng so với đời sống của thế kỷ 21 nữa, thí dụ, chiếc đèn dầu hột vịt, đồng hồ quả lắc…

Đức Phật đã lấy nhận thức về hư vỡ và thái độ sống hoan hỷ với hư vỡ thành một lộ trình giải thoát. Riêng chúng ta đã sống với hư vỡ theo một cách đơn giản đời thường, nhiều khi chỉ vì không có lựa chọn để được sống sang trọng, xa hoa. Trong khi đó, dân tộc Nhật Bản đã nâng tầm sống với hư vỡ, với sứt mẻ, với gãy đổ… thành một nghệ thuật. Đó là nghệ thuật Kintsugi, còn gọi là kintsukuroi, chữ này tiếng Anh dịch là “golden repair” – nghĩa là, sửa chữa bằng vàng.

Theo Wikipedia, Kintsugi là nghệ thuật sửa chữa đồ gốm bị nứt, bị vỡ của Nhật Bản bằng cách vá những chỗ bị vỡ bằng sơn mài urushi phủ bụi, hoặc trộn với bột vàng, bột bạc hoặc bột bạch kim. Về mặt triết lý, nghệ thuật này coi sự hư vỡ và việc sửa chữa như một phần lịch sử của một đồ vật, chứ không phải là thứ gì đó để ngụy trang, để che giấu. Phần lớn tập trung vào đồ gốm, vì dân Nhật Bản xem uống trà như một nghệ thuật.

Khi uống trà, tất nhiên là phải dùng tới những cái tách làm bằng đồ gốm. Thử hình dung, nếu uống trà bằng ly thủy tinh trong suốt, hay bình nhựa học trò… thì chẳng còn gì là nghệ thuật, và cũng không ai bận tâm sửa chữa những hư vỡ bằng bột vàng. Do vậy, uống trà phải là dùng tách làm bằng đồ gốm, hoặc với các vương triều, là tách làm bằng gốm tráng sơn mài. Kỹ thuật sơn mài, Nhật Bản gọi là maki-e, cũng là một nghệ thuật lâu đời tại Trung Hoa, Việt Nam, Đại Hàn…

B3 kintsugi_lay vang gan chen be lai

Dùng vàng để vá đồ gốm hư vỡ là truyền thống Nhật Bản.

Nhưng các thiền sư Nhật Bản chỉ uống trà trên các tách làm bằng đồ gốm trông có vẻ như thô, nhám. Và khi nâng tách trà lên, bên cạnh hương trà, là hai bàn tay cảm nhận chất thô, nhám của đồ gốm, của đất sét nung, của đất nước gió lửa… Trà đạo đối với Thiền Tông Nhật Bản không chỉ là lá trà, bột trà, chất trà, vị trà, mà là toàn bộ thân tâm hành giả trong từng cử chỉ nâng tách trà lên, nếm chút trà, tay xúc chạm vào đồ gốm, cảm nhận thế giới và thân tâm tan trong từng cử chỉ và cảm thọ.

Theo truyền thuyết Nhật Bản ghi lại, vào thế kỷ 15, Tướng quân Ashikaga Yoshimasa từng làm vỡ một bát trà Trung Quốc. Bát trà này là của hiếm, do từ nghệ nhân thủ công Trung Quốc gửi tặng, nghĩa là không có bát trà nghệ thuật thứ nhì giống như thế. Sau đó, Tướng quân gửi bát trà về Trung Quốc để sửa chữa, nhưng nó lại bị gửi lại bằng cách vá gốm, nhìn không vừa ý Tướng quân này. Yoshimasa sau đó đã yêu cầu các nghệ nhân của mình tìm cách vá gốm cho đẹp hơn, từ đó phát minh ra nghệ thuật vá đồ gốm bằng vàng của Nhật Bản.

Lịch sử ghi rằng, hồi thế kỷ 15, Nhật Bản vẫn còn chịu ảnh hưởng của Trung Quốc, nhưng sự tinh tế của văn hóa Nhật Bản vẫn tiếp tục phát triển… Dưới ảnh hưởng của Tướng quân Ashikaga Yoshimasa và những người kế vị ông, Nhật Bản đã phát minh ra một lối sống mới: văn hóa Higashiyama. Bắt nguồn từ dòng tư tưởng Thiền Tông, bầu không khí văn hóa này đã thúc đẩy sự phát triển của trà đạo, nghệ thuật cắm hoa (ikebana), kịch Nô và tranh thủy mặc vẽ bằng mực Tàu.

Trong nền văn hóa đầy Thiền vị này, nghệ thuật vá đồ gốm bằng vàng đã phát triển nhanh chóng… Đến mức một số nhà sưu tập bị thu hút bởi vẻ đẹp và triết lý của Kintsugi, đã cố tình đập vỡ một số đồ gốm cổ của nghệ thuật Nhật Bản để sửa chữa bằng vàng. Nghĩa là, làm thành một hóa thân mới, một kiếp sau của sản phẩm nghệ thuật. Thực tế, không phải ai cũng có điều kiện để sống huy hoàng như thế. Nhiều Thiền sư không cần vá gì, chỉ đơn giản sử dụng các chén, tách, tô… đã bị sứt mẻ. Và trong sứt mẻ đó, trong hư vỡ đó cũng là một thế giới mới được hình thành: sống hoan hỷ với hư vỡ. Đó cũng là ý nghĩa của Phật giáo.

Phong thái sống của các Thiền sư Nhật Bản là sống với hồn nhiên, đơn giản, khổ hạnh, tinh tế, lìa thói quen, tĩnh lặng, từ bi… Trong khi đó, giới nghệ nhân, từ nghệ thuật Kintsugi lấy vàng nấu chảy để vá gốm đã hòa lẫn với phong thái Thiền để hình thành một cách nhìn gọi là Wabi-sabi. Chữ này thịnh hành từ thế kỷ thứ 16, một chữ không còn mang ý nghĩa “lấy vàng vá gốm” nữa, mà là một nhận thức nhắc nhở chúng ta rằng tất cả chúng ta đều là những sinh vật nhất thời trên hành tinh này – rằng cơ thể chúng ta cũng như thế giới vật chất xung quanh chúng ta đang trong quá trình trở về cát bụi. Chu kỳ sinh trưởng, mục nát và xói mòn của tự nhiên được thể hiện ở các cạnh bị sờn, rỉ sét, đốm gan. Thông qua wabi-sabi, chúng ta học cách đón nhận cả niềm vui và nỗi buồn được tìm thấy trong những dấu vết của thời gian trôi qua.

Theo truyền thuyết Nhật Bản, một chàng trai trẻ tên là Sen no Rikyu đã tìm cách học hỏi những phong tục phức tạp được gọi là Trà Đạo. Anh ta đến gặp trà sư Takeeno Joo, người đã thử thách chàng trai trẻ bằng cách yêu cầu anh ta chăm sóc khu vườn. Rikyu dọn dẹp những rác vụn và cào đất cho đến khi nó thật hoàn hảo, sau đó xem xét kỹ lưỡng khu vườn sạch sẽ. Trước khi trình bày tác phẩm của mình với vị trà chủ, anh đã rung chuyển một cây anh đào khiến một vài bông hoa rơi ngẫu nhiên xuống đất. Chính cái bất toàn đó, những nụ hoa rơi trên nền cát trắng cho thấy cái đẹp của vô thường, của hư vỡ. Sách ghi rằng, cho đến ngày nay, người Nhật tôn kính Rikyu như một người hiểu rõ cốt lõi của sợi dây văn hóa sâu sắc được gọi là wabi-sabi.

Theo tự điển, Wabi là những thứ tươi mới, đơn giản và mang vẻ đẹp mộc mạc. Và Sabi là những rung động, cảm xúc trước vẻ đẹp của lớp gỉ đã cũ theo thời gian.

Chỉ có những người thấm đượm văn hóa Wabi-sabi mới hiểu được vẻ đẹp dịu dàng, nguyên sơ của những ngày tháng 12 xám xịt bao trùm lên một tòa nhà hoặc nhà kho bị bỏ hoang. Nó tôn vinh những vết nứt, kẽ hở, chỗ mục nát và tất cả những dấu vết khác mà thời gian, thời tiết và quá trình sử dụng để lại. Khám phá wabi-sabi là nhìn thấy vẻ đẹp đặc biệt ở một thứ mà thoạt nhìn có thể trông như là bất toàn và hư vỡ.

Theo dòng thời gian, tới thế kỷ 17, xuất hiện một Thiền sư được xem là sống trọn vẹn theo phong cách wabi-sabi.

Đó là Thiền sư Baisaō (1675-1763). Ông thuộc dòng thiền Ōbaku (Hoàng Bá). Thiền sử ghi rằng Hoàng Bá học từ Bách Trượng Hoài Hải. Hoàng Bá để lại một tác phẩm nổi tiếng là Hoàng Bá truyền tâm pháp yếu. Trong môn đồ của Hoàng Bá, nổi tiếng nhất là Lâm Tế. Baisaō nổi tiếng như một Thiền sư học giả, một nhà thơ, một nhà thư pháp… nhưng đã từ chối tất cả các lời mời trụ trì khi các tướng quân dâng cúng chùa, rồi cuối đời lang thang, ra đời làm một ông già lang thang Kyoto để bán trả. Một đời sống cực kỳ hồn nhiên, khổ hạnh, tĩnh lặng, từ bi… Tâm không vướng một niệm, nhưng toàn bộ thân tâm sống với cõi vô thường, lặng lẽ nghe hư vỡ từng ngày.

Để có thể hiểu về cách sống của Baisaō, chúng ta có thể dẫn ra tông yếu Thiền qua lời Hoàng Bá, trích theo bản dịch của Thầy Thanh Từ:

“… Người học Đạo hễ có một niệm vọng tâm là xa Đạo, ấy là điều tối kị. Hết thảy mọi niệm đều vô tướng, đều vô vi, tức là Phật. Người học Đạo nếu muốn thành Phật thì hết thảy Phật pháp đều không cần phải học, chỉ cần học cái không mong cầu, không chấp trước là đủ. Không mong cầu thì tâm không sinh, không chấp trước thì tâm không diệt.” (ngưng trích)

Thiền sử ghi rằng Baisaō là một Thiền sư nổi tiếng khi đi du lịch khắp Kyoto để bán trà. Quán trà của ông có ảnh hưởng rất lớn ở Kyoto, đặc biệt là với các nghệ sĩ và triết gia. Baisaō có nghĩa là, ông cụ bán trà. Nhưng tên trong nhà thiền ông là Gekkai Genshō (月海元昭, Nguyệt Hải Nguyên Chiêu). Sau này, ông về đời, sử dụng tên cư sĩ là Kō Yūgai (高遊外, Cao Du Ngoại).

Baisaō là một nhà thơ và là một tu sĩ Phật giáo, nhưng đã bỏ lại đằng sau những ràng buộc của cuộc sống chùa chiền và ở tuổi 49 du hành đến Kyoto, nơi ông bắt đầu kiếm sống bằng cách bán trà trên đường phố và tại các địa điểm có danh lam thắng cảnh xung quanh thành phố. Tuy nhiên, Baisaō còn pha chế nhiều thứ hơn là trà – khách hàng của ông, bao gồm các nghệ sĩ, nhà thơ và nhà tư tưởng có ảnh hưởng vào thời đó: họ xem việc tới gánh trà của ông có tầm quan trọng về mặt tôn giáo. Những chiếc giỏ đan bằng tre lớn chứa đầy dụng cụ pha trà của ông đã mang đến cho Baisaō và các khách hàng của ông cơ hội trò chuyện và làm thơ cũng như những loại trà đặc biệt.

B4 zen master Baisao

Thiền sư Baisaō. Hình trái do Ito Jakuchu vẽ. Hình phải do Tanomura Chikuden vẽ.

Baisaō sinh năm 1675 tại đảo Kyushu phía nam Nhật Bản. Là con trai của một trong những tầng lớp trí thức ưu tú trong vùng, anh nhận được một nền giáo dục sâu rộng và khi lên 11 tuổi, trở thành tu sĩ trong thiền phái Ōbaku, lấy tên là Gekkai Genshō. Năm 1687, ông cùng sư phụ Kerin Dōryū du hành đến Mampuku-ji, trụ sở của Ōbaku Zen. Một trong những nơi hai thiền sư đến thăm là Kōzan-ji, ở ngoại ô Kyoto, nơi trồng những vườn trà đầu tiên ở Nhật Bản.

Giống như nhiều thiền tăng khác, Baisaō trải qua nhiều nhiệm vụ khác nhau tại ngôi chùa riêng của mình, Ryūshin-ji. Sự nghiệp tôn giáo Baisaō có thể chia thành ba thời kỳ: thời kỳ rèn luyện trong trường thiền hơn hai thập niên, thời kỳ thứ hai, ông quản trị tăng chúng trong chùa và sau đó trên thực tế giữ chức quyền trụ trì tại Ryushin-ji ở Hasuike; và giai đoạn thứ ba, lang thang bụi đời ở Kyoto với tư cách là Ông già bán trà. Khi sư phụ qua đời, chức vụ trụ trì được chuyển giao cho một nhà sư trẻ hơn. Khi Baisaō được hỏi tại sao không nhận được chức trụ trì này, ông khiêm tốn trả lời “vì tôi không có trí tuệ hay đức hạnh.” Mặc dù nhiều lần được đề nghị tiếp quản ngôi chùa nhưng ông đều từ chối và ông lên đường về kinh đô Kyoto, nơi ông sẽ sống phần đời còn lại của mình.

Kyoto lúc đó là nơi tự do, phóng khoáng nhất Nhật Bản, nơi cho phép sự sáng tạo và nghệ thuật phát triển. Các nhà văn, nghệ sĩ và học giả rủ nhau đến thành phố, phá vỡ chủ nghĩa bảo thủ còn bao vây nhiều nơi ở Nhật Bản. Được bao quanh ba mặt bởi những ngọn đồi phủ đầy cây xanh rất đẹp và với dân số khoảng nửa triệu người, Kyoto là một trong những thành phố đẹp nhất trên trái đất (lúc đó, và cả bây giờ, khi trở thành cố đô Nhật Bản).

Vào thời điểm xã hội Nhật Bản chuyển đổi, Baisaō nổi bật nhờ kỹ năng của mình với tư cách là một nhà thơ và nhà thư pháp với kiến thức sâu rộng về văn học Trung Quốc, những kỹ năng được đánh giá cao ở Kyoto. Baisaō được tất cả những người tiếp xúc với ông đánh giá cao vì tâm hồn rộng rãi, từ bi, dịu dàng và cuộc sống dường như vô tư của ông, như dường từ chối hệ thống cấp bậc Phật giáo đã được thiết lập. Theo thời gian, ông trở thành một trong những nhân vật nổi tiếng nhất trong một thành phố đầy những nghệ sĩ và lập dị. Có rất nhiều nhân vật độc đáo ở Kyoto vào thời điểm này đến nỗi vào năm 1788, một cuốn sách đã được xuất bản, “Eccentric Figures of Recent Times” (Những dị nhân của thời đại gần đây), trong đó Baisaō đóng một vai trò nổi bật.

Ở tuổi sáu mươi, Baisaō mở một cửa hàng nhỏ hoặc có lẽ chỉ là một quầy hàng (ông gọi nó là “ngôi nhà ốc sên”) trên một cây cầu đông đúc bắc qua sông Kamo của Kyoto. Vào thời điểm đó, những người bán trà lưu động thuộc tầng lớp thấp nhất trong xã hội và bán loại trà bột kém chất lượng. Tuy nhiên, Baisaō đã giới thiệu sencha, một loại trà lá rời được đun trong nồi và được coi là loại trà cao cấp hơn nhiều; một loại trà mà chỉ cần “một ngụm, bạn sẽ vĩnh viễn thức dậy khỏi giấc ngủ trần tục.” Ngày nay chúng ta gọi loại trà này là trà xanh Nhật Bản. Trên thực tế, Baisaō không thực sự bán trà của mình mà chỉ nhận tiền quyên góp, nguyên tắc là miễn phí, nói rằng “Giá của loại trà này là từ một trăm đồng vàng đến nửa xu. Nếu bạn muốn uống miễn phí cũng không sao. Tôi chỉ tiếc là tôi không thể để bạn có nó với giá rẻ hơn.” Sau đó, Baisaō từ bỏ ‘cửa hàng’ nhỏ của mình và đi lang thang ở Kyoto và những ngọn đồi xung quanh, mang theo dụng cụ pha trà trên một chiếc sào tre và lập nghiệp ở bất cứ nơi nào có phong cảnh thu hút ông.

Những năm cuối đời của Baisaō đầy khó khăn khi tuổi già và bệnh tật ập đến. Mùa đông lạnh giá ở Kyoto tỏ ra đặc biệt khó khăn đối với một ông già ít tiền. Đói và lạnh là bạn đồng hành. Mặc dù ông được công nhận là một thiền sư nổi tiếng, nhưng chỉ trong những năm cuối đời ông mới nhận một số ít đệ tử. Trong suốt cuộc đời dài của mình, ông vẫn tiếp tục làm thơ và sáng tạo ra những tác phẩm thư pháp được đánh giá cao. Ngay trước khi ông qua đời ở tuổi tám mươi tám, bạn bè ông đã tặng ông một tuyển tập các tác phẩm in của ông, Baisaō Gego (“Những câu thơ và văn xuôi của người bán trà già”), khẳng định tầm quan trọng của ông trong đời sống văn hóa của Kyoto thế kỷ 17-18.

Ông đã sống lang thang trên những hư vỡ của đời. Gánh trà, vừa bán, vừa tặng. Viết thư pháp để tặng người hữu duyên. Làm thơ khi vào giữa cuộc đời xôn xao để hoằng pháp. Trong cái hư vỡ của vô thường, không thấy gì để mong cầu, không thấy gì để chấp trước. Thiền sư đã lấy vàng của chánh pháp để vá những mảnh gốm hư vỡ của thân tâm chúng sinh.

Nơi đây. xin trích từ mấy dòng thơ của Baisaō:
… Đừng nghĩ tôi là một ông già
với tình yêu say đắm dành cho trà.
Mục đích của tôi là đánh thức bạn
ra khỏi giấc ngủ trần gian của bạn.

Và cũng từ mấy dòng thơ khác, cũng của ông già bán trà, người đã lấy vàng của chánh pháp để vá những mảnh đời hư vỡ ở Kyoto:

… tuyệt đối không còn gì
chỉ còn lại duy nhất
một vầng trăng sáng và lạnh
nơi cửa sổ, lúc nửa đêm
chiếu sáng rực tâm Thiền
trên đường trăng về nhà.

Thiền sư Baisaō qua một đời sống dị thường đã trở thành một hóa thân của nghệ thuật Kintsugi, tự biến cuộc đời Thiền sư của mình trở thành chất vàng để nối kết những mảnh đời người hư vỡ vào với đường trăng giải thoát.

Nguyên Giác
(4/2024).

(tranthinguyetmai.wordpress.com)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 06, 2024 20:06

April 30, 2024

Thư gởi bạn xa xôi: Khoẻ Để Tu

 

Thư gởi bạn xa xôi (04/24)

Khoẻ Để Tu

 

Thân gởi bạn,

Gởi bạn một clip nhỏ, do em Quyền vừa mới làm xong.

Đó là buổi Trò chuyện thân tình của mình với các Sư cô Thiền Viện Trí Đức Ni tai Long Thành Đồng Nai, ngày 16.04.2024 vừa rồi, theo lời mời của Ni Sư Hạnh Chiếu, Trụ trì.

Mình hỏi, “Nói chuyện gì đây Ni sư?”. Ni sư nói năm xưa bác sĩ đã đến thăm Ni viện, đọc thơ, và hứa sẽ về Trò chuyện với các Sư cô một bữa, ai cũng mong, nhưng vì dịch Covid nên phải huỷ cuộc hẹn. Mình hỏi Ni sư muốn nói về đề tài gì hôm nay. Ni sư cười bảo bác sĩ cứ “ngẫu hứng” Trò chuyện, đề tài gì cũng được, à mà lần này nói về vấn đề sức khoẻ cho các Sư cô đang tu tập thì tốt.

Vì thế mà có cái clip này.

Cảm ơn Ni sư Hạnh Chiếu, các sư cô Thiền Viện Trí Đức Ni, Long Thành

Và riêng cảm ơn Lệ Mai, Thuỷ, Quyền, Hùng và chú Đức.

Thân mến,

ĐHN

 

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 30, 2024 18:41

April 7, 2024

“Phép lạ là đi trên mặt đất” (tiếp theo)

 

Thư gởi bạn xa xôi (tiếp theo)

“Phép lạ là đi trên mặt đất”

Như đã hứa, mình tiếp tục phần hoạt động “ngoại khoá” của mình để bạn coi cho vui nhe. Cũng xin chia sẻ với vài hình ảnh thôi. Làm biếng quá rồi!

Ngay buổi chiều đầu tiên đến Mũi Né, một vài vị đã đề nghị mình “kể chuyện học Phật”. Sc KN bảo, năm 2008, tại Huế, trong Tuần lễ Văn hoá Phật giáo, Sc có dịp dự, đã được nghe mình trình bày về Thở và Thiền rất ấn tượng.

Chị Nga, một doanh nhân có mặt kể chuyện 40 năm trước đã từng mang con gái 2 tuổi đến mình khám chữa bệnh, mình tiếp ở phòng khách chớ không có phòng mạch, và chỉ dặn cho bé ăn thêm dầu ăn để tăng cường calorie mà không cho thuốc men gì thêm. Vậy mà bé hết suy dinh dưỡng, hết bệnh, nay đã là cô giáo một ngôi trường lớn ở Sài gòn. Hồi đó mình nhớ mỗi khi khám bệnh cho một em bé`thì thường cho các bà mẹ khác bế con đứng sau lưng nghe… lóm. Đây là một phương pháp “giáo dục sức khoẻ” tốt nhất!

“Tiếng lành đồn xa”, sáng hôm sau, đã có buổi “văn nghệ” đặc biệt, khá rôm rả. Sư cô HN tặng mình cuốn “Tình Thầy” và đọc 2 bài thơ trong tập thơ “Đôi Khi” rất hay của Sư cô. Mình “đáp lễ” bằng cách đọc bài thở “Thư cho bé sơ sinh”, viết từ năm 1965 ở Bệnh viện Từ Dũ, rồi bài “Trong một nhà giữ lão ở Montreal” viết năm 1997 ở Canada, sau cùng là bài Bông hồng cho Mẹ. Lê Bá Thông ôm đàn hát tiếp bài thơ của Đỗ Trung Quân về Mẹ thật cảm động. Rồi một vị sư cũng ôm đàn hát thêm mấy bài nữa. Buổi họp mặt tạm ngừng khi đoàn doanh nhân vừa tụ tập về đến Mũi Né, chuẩn bị cho buổi Khai mạc.

Thấy Pháp Lâm ở Darlak gởi tặng mình bản thư pháp do thầy vừa mới viết xong. Buổi trò chuyện bên lề trên bãi cỏ xanh cùng các bạn trẻ doanh nhân sau khi đi thiền hành về rất vui.

Theo yêu cầu của các bạn trẻ và cả các vị “xuất sĩ” muốn mình đọc bài thơ Mũi Né ngay tại Mũi Né này. Mình nói đây là bài thơ tình, có nên đọc ở đây không?

Càng tốt, sao không!

Vậy là mình đọc. Em có về thăm Mũi Né không? Hình như trời đã sắp vào xuân…

Một cô bé bỗng mở bài hát Mũi Né do nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo phổ nhạc với tiếng hát Thu Vàng…  da diết. Không khí trầm lắng hẳn. Năm nay người có về ăn Tết/ Có ngậm ngùi nghe chút ấu thơ?

Đọc bài thơ Mũi Né ở… Mũi Né.

 

Buổi tối 29.3.2024, trước buổi Toạ Đàm, mấy bạn trẻ còn yêu cầu mình nói vài điều đáng nhớ. Đang ở biển, mình nói về Sóng và Nước. Về “bổn lai vô nhất vật”. “Ta xô biển lại sóng về đâu…?” (TCS). Rồi nói chút về Năng lượng. Về điện. Về thể, tướng và dụng… vì đang ngồi trong quán Bar, đèn sáng trưng!

Trò chuyện với các doanh nhân trẻ (tối 29.3.2024 tại Mũi Né)

Chỉ có vậy. Thôi nhé,

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc

(Saigon 8.4.2024)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 07, 2024 19:28

Đỗ Hồng Ngọc's Blog

Đỗ Hồng Ngọc
Đỗ Hồng Ngọc isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Đỗ Hồng Ngọc's blog with rss.