Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 13
December 30, 2023
Nguyên Cẩn: Đọc “Một ngày kia… đến bờ “của Đỗ Hồng Ngọc
Đọc “Một ngày kia… đến bờ “của Đỗ Hồng Ngọc
Nguyên Cẩn

hà thảo
Khi Đỗ Hồng Ngọc viết “Thư cho bé sơ sinh”, anh đã chân thành nói :
Khi anh cắt rún cho em
Anh đã xin lỗi chân thành rồi đó nhé
Vì từ nay em đã phải cô đơn
Em đã phải xa địa đàng lòng mẹ.
….
Thôi trân trọng chào em
Mời em nhập cuộc
Chúng mình cùng chung
Số phận…
Con người.
(ĐHN 1965)
Và rồi “tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người “ ( Trịnh Công Sơn ) đã
cùng đứa bé ấy bước vào hành trình “ Sinh- Lão- bệnh – Tử “ với tất cả thất tình
lục dục cho tới “ Một ngày kia …đến bờ “. Hôm nay đây Đỗ Hồng Ngọc ( ĐHN)
vị bác sĩ viết bài thơ ấy nhìn lại toàn bộ hành trình của mình và anh , qua 26 đề
mục của những bài tùy bút , viết theo dòng cảm hứng ngỡ như bất chợt , đã lý
giải sự hiện hữu của kiếp người , những thắc mắc băn khoăn về Ngã , về Ma
chướng , về Nghiệp, về Phật tánh , về chân Không diệu Hữu , về Như lai tạng… ,
đồng thời đúc kết những giải pháp giúp ta sống trọn vẹn , đầy đủ , viên mãn . Anh
viết với tư cách một hành giả , trải nghiệm thực chứng bằng chính kinh nghiệm tu
tập của mình , và dưới lăng kính một bác sĩ , một nhà khoa học , lý giải nhiều vấn
đề bằng tri thức về y học . Anh viết “ tưng tửng “ , nhẹ nhàng , dễ hiểu nhưng sâu
sắc , thấp thoáng sau bài viết nụ cười của một thiền giả . Ví dụ anh “ thấy tức
cười |” vì tự nhiên mình có mặt trên cuộc đời này , vì sao ? Anh lý giải “ từ cái
duyên của cha mẹ ông bà từ muôn vạn thứ duyên khác , từ đất , nước , gió lửa
…”Nhà Phật gọi là thân tứ đại .Rồi nhìn vũ trụ này , vạn vật này, anh nhận xét :
“Tóm lại trùng trùng những dây mơ rễ má , dính chùm dính chụp, mà ngộ , con nào
ra con đó ..Gene chăng , DNA, RNA, virus vi khuẩn rào rào kiếm ăn rồi nhân
giống , con này ăn con kia , rồi đơn bào đa bào , đâu đó răm rắp nề nếp chẳng chơi
…phải có một design , một thiết kế vĩ đại từ con virus đến con khủng long nhưng
không có designer .”Anh hiểu vạn pháp do duyên sinh .
Lý luận về Nghiệp , ĐHN không giải thích cầu kỳ mơ hồ về quan hệ nhân-duyên
– quả , tiền kiếp hay hậu kiếp mà anh dùng chính ý kiến của Thiền sư Tuệ Sỹ “
Ngoài cơ chế vật lý của ký ức , còn có sự tham gia của một yếu tố phi vật chất ,
không nhất thiết là ý thức , để lấy đó làm cơ sở tiếp cận đến vấn đề nghiệp tích lũy
, cho đến trong đời sau được xử lý cho quả dị thục của nó “ Thế nên , Nghiệp theo
ĐHN không chỉ từ gène mà còn từ môi trường ( biểu sinh = ngoại di truyền
epigenetic) chế độ ăn uống , bệnh tật, nghiện ngập , lối sống là cơ chế của y báo (
ngoại di truyền , epigenetic mechanisms, có tác động đến hoạt động của các gène ,
điều hòa các gène.”
Đặc biệt anh giải thích Phật và Như lai là một mà không phải một vì Phật cũng ốm
đau bệnh hoạn già chết nhưng Như lai thì không.” Thiện nam tử , Thân Như lai là
thân thường trụ , thân không thể hư hoại , thân kim cang , càng không phải thân do
sự ăn uống mà thành , chính là pháp thân “ ( Đại bát Niết bàn kinh ) “Phật thị hiện
bệnh khổ , thị hiện : là hiện ra cho thấy trước sau gì cũng …già, cũng bệnh cũng
chết . Thôi đừng có tham sân si gì nữa cho …mệt … Hãy sống trong pháp thân
trường cửu “
Ở đây chúng ta cần phân biệt báo thân, pháp thân và ứng thân là khác nhau . Ứng
thân (hóa thân ) chịu mọi đau khổ của già chết bệnh tật . sau khi chết ứng thân tự
tiêu diệt . Báo thân thường mang ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp và chỉ
Bồ Tát mới thấy trong giai đoạn cuối cùng của thập địa . Riêng pháp thân ( mà
trong MKKĐB , ĐHN gọi là Như lai ) thì không ,vì Như lai thì “ vô sở tùng lai ,
diệc vô sở khứ “ ( không từ đâu mà đến , chẳng đi về đâu )Như lai được xem là
danh hiệu Phật , là sứ gỉả trực tiếp của Chân như , là gạch nối giữa hiện tượng và
bản thể . Nên ĐHN viết “Khóm cây ngọn cỏ cũng là Như lai;con ong cái kiến cũng
là Như lai …”Phải chăng cũng trong suy nghĩ ấy , Phạm Thiên Thư viết :
Mười con nhạn trắng về tha
Như lai thường trụ trện tà áo xuân
Và Bùi giáng cũng tha thiết nhìn cuộc đời qua diệu pháp
“ Trần gian ơi , cánh bướm cánh chuồn chuồn
Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại
Con vi trùng sâu bọ cũng yêu luôn “
Vì như ĐHN nhận thức “ Một là tất cả “,khi anh nhìn người thợ tạo hình từ đất sét,
đã tạo nên nhiều hình tượng khác nhau ( duyên sinh ) Đất sét là một tạng . Từ một
đó mà cho ta tất cả . Rồi một hôm tất cả các vật dụng , sắc tướng này đổ bể , tan
vụn lại thành đất sét .Như nhạc sĩ họ Trịnh viết “ Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi / để
một mai tôi về làm cát bụi “ Chẳng phải một là tất cả và tất cả là một sao ?Chân
không mà diệu hữu đó sao ?”Cho nên bảo thực tướng là vô tướng mà chẳng phải vô tướng .’Kiến tướng phi tướng tức kiến Như lai’ ( Kinh Kim Cang )
ĐHN nhận định “Trong thân chúng sanh vốn có Phật tánh , tức Như lai tạng cũng
đã thấy biết Thường , Lạc , Ngã, Tịnh . Hãy tự quy y chỗ ‘tam quy chân thật này ,
chẳng cần tìm kiếm đâu xa .” Người trí biết rõ tánh đó vốn không có hai (Bất nhị
), đó là thật tánh .”
Như lai tạng vốn lìa ngoại tướng hữu vi .Cho nên Như lai tạng là ‘cái duy trì , cái
thiết lập ‘( Kinh Thắng Man ) Đến đây , ĐHN đưa ra ví dụ Francis Crick , người
cùng James D. Watson đồng phát hiện ra cấu trúc phân tử DNA và tuyên bố ‘ Phân
từ DNA là hệ thống chứa thông tin hiệu quả nhất trong toàn vũ trụ …Hình thành sự
sống là một phép mầu. ”
Anh giải thích giản dị nhưng sâu sắc “ Thực tướng là ta vừa vô tướng , vừa hữu
tướng . Vô tướng vì hiểu Bát Nhã , hiểu chân Không . Hữu tướng vì ta biết cái
duyên sinh , với vô vàn hình tướng , cái diệu Hữu ( Hoa Nghiêm ) Cho nên “ sự sự
vô ngại “ đó thôi… Ung dung , tự tại , an nhiên. Chẳng vì ta mà hoa nở , hoa tàn
chẳng vì ta mà gió mát trăng thanh , nhưng ta biết thưởng thức , ta “ enjoy” cuộc
sống của mình trong từng giây phút .
Chúng ta hiểu sống trong pháp giới Hoa Nghiêm là sống trong “tánh khởi” hay
trong Nhất Tâm của tất cả chúng sanh và thế giới. Tâm bất tịnh thì biến pháp giới
trở thành thế giới bất tịnh, do đó sống trong chia cắt, chướng ngại, xung đột, khổ
đau. Tâm thanh tịnh thì thấy và sống trong pháp giới thanh tịnh của Phật. Tâm Phật
thì tạo ra cảnh giới Phật. Tùy mức độ thanh tịnh của tâm đến đâu thì chứng nghiệm
được sự thanh tịnh của pháp giới đến đó.
Nói như Tô Thùy Yên
“Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi“
( Ta về )
Theo Tâm kinh thì “ Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng: Bất sanh, bất diệt, bất
cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm” Các pháp vốn không tướng nhưng khi có ảo
tưởng, vọng thức thì liền có các giả tướng B’, B’’. Khi trí tuệ bát-nhã chiếu soi thì
không tướng hay thực tướng của pháp xuất hiện. Vì vậy trí tuệ bát-nhã còn gọi là
tuệ không. Tuệ không nghĩa là không vô minh, ái dục, không ảo giác, ảo tưởng,
không lý trí, vọng thức v.v. Nhìn pháp bằng tuệ không thì thấy pháp là không
tướng, không tướng lại chính là thực tướng nên mới nói:
“Có thì có tự mảy may
Không thì cả thế gian này cũng không”.( Từ Đạo Hạnh )
Tướng không của pháp vượt ngoài ý niệm sinh diệt, sống chết, nhưng vẫn có thực
tánh sinh diệt, vì đó là bản chất của pháp hữu vi mà Dịch Lý gọi là “sinh sinh chi
vị dịch”. Cho nên em bé có sinh thì đương nhiên có chết. Chỉ có pháp vô vi mới
thực sự không sinh không diệt, nhưng vì không sinh nên không diệt chứ không có
nghĩa là trường tồn bất biến theo ý niệm thời gian của thường kiến luận.
ĐHN cũng đề cập ý này : “ Cho nên Tâm kinh viết ‘ Vô vô minh, diệc vô vô minh
tận,’ Không có vô minh mà cũng chẳng bao giờ hết vô minh ! Khoái thật. “ Hay
nói cách khác , không có lão tử cũng không có hết lão tử, tức không có 12 nhân
duyên.
Anh cũng đã từng trải qua giai đoạn làm việc quá độ rồi bị tai biến.Khi thoát được
giai đoạn thập tử nhất sinh ấy , anh thấy phải đi tìm một con đường khác. Đọc
Tâm kinh ,anh thấy câu “…chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách
.”Anh thấy phải ‘ tự tại “ thôi . Phải dựa vào chính mình . Phải thực hành thôi .”
Chúng ta đã biết rõ ngũ uẩn được cấu tạo như thế nào nên cũng có thể hiểu tại sao
soi thấy ngũ uẩn đều không thì vượt qua tất cả sự trói buộc của phiền não khổ đau.
Chính hành làm cho sắc, thọ, tưởng, thức bị rối loạn, nhưng khi hành được tuệ
chuyển hóa thì tưởng và thức không còn chấp trì kinh nghiệm, thành kiến, quan
niệm để bóp méo sự thật nữa, nghĩa là ngũ uẩn trở thành không: không ảo tưởng,
ảo giác, không còn cái gọi là A’, A’’, B’, B’’, không vô minh, ái dục.
Và thiền định là một giải pháp . ĐHN thấy rằng có sẵn một con đường mà bấy
lâu mình xa lạ. Con đường” chiếu kiến ‘ đó chính là Thiền Quán niệm hơi thở (
Anapanasati) An ban thủ ý , nhập tức xuất tức niệm “Thở vào thì biết thở vào , thở
ra thì biết thở ra. Trong 40 đề mục thiền quán , anh chọn một : chọn hơi thở . Thở
luôn trong thì hiện tại , ở đây và bây giờ Khi vào sâu trong thiền , hành gỉả sẽ
không cảm nhận mình còn thở nữa . Đó chính là “ quãng lặng :” ở cuối thì thở ra ..
Yếu tố quyết định nữa là thả lỏng toàn thân , giảm tiêu hao năng lượng ..Tác giả
cho biết nhúc nhích cơ hoành 1cm , đã có 250 ml không khí vào ra , bấy giờ họ
cần rất ít oxy …hiện tượng thiếu oxy kinh niên ( chronic hynoxia) tạo ra các
hormones như dopamine, serotomine, endorphine , oxytocin giúp sảng khoái . lâng
lâng , dễ chịu , gia tăng trí nhớ , giảm đau .. chính là trạng thái thiền duyệt vậy. tác
giả viết :”“Khi học Phật chữ Anapanasati tôi bèn tự đề ra cho mình chữ Pranasati ,
nghĩa là đặt chánh niệm vào giữa khoảng thở vào và thở ra đó. Nó là quãng lặng ,
là nghỉ ngơi , là ’ bardo’ giữa hai hơi thở , giữa sự sống và chết , tái sinh .”
Như Thiền sư Nhất Hạnh dạy chúng ta
Thở vào tâm tĩnh lặng
Thở ra miệng mỉm cười
An trú trong hiện tại
Giây phút đẹp tuyệt vời
Khi đã thiết lập được đời sống thăng bằng, bước tiếp nữa là điều phục tâm. “Hãy
chú tâm cảnh giác, chánh niệm tỉnh giác” là pháp hành quan trọng, cần duy trì liên
tục. Tâm luôn bị các chướng ngại pháp xâm chiếm. Chỉ một giây lơ là, vọng tưởng
sẽ dẫn dắt và lôi kéo chúng ta rời xa chánh niệm. Luôn nhớ nghĩ về đề mục, nhiếp
tâm vào đề mục với sự tỉnh thức và rõ biết tất cả. Những hoạt động trong đời sống
hàng ngày đều được ghi nhận rõ ràng. Chánh niệm, tỉnh giác hỗ trợ nhau và là nền
tảng quan trọng để tiến sâu vào thiền định.
ĐHN chỉ chúng ta Tứ niệm xứ .” Tứ Niệm xứ là con đường Thiền định .Thân thọ
tâm pháp mà các vị Tổ sau này rút gọn cho dễ nhớ :Thân bất tịnh , Thọ thị khổ,
Tâm vô thường , pháp vô ngã …Quán thân , thọ , tâm , pháp để đi vào Samadhi (
định ) .Phật lúc nảo cũng ở trong “ định “ và theo con đường Trung đạo.Vì chính
Phật lúc tưởng đâu chết vì ép xác tu khổ hạnh thì chén cháo sữa của Sujata làm
cho Người tỉnh táo . ĐHN đã rút ra bài học xương máu ấy và kết luận “ Thực tập
thiền Tứ niệm xứ ,quán, thấy biết và chứng cái tâm vô thường thì tất cả mọi việc
mình coi như gió thoảng mây bay. Cuối cùng thực chứng pháp vô ngã, phá được
tất cả trần lao, nghiệp chướng của chúng ta. Thật vậy, các pháp vô ngã thì ta, người
và sự vật đều vô ngã, không có thực tánh vì các pháp do duyên sanh. Quán sát và
thực chứng pháp vô ngã, tất nhiên phiền não không khởi lên, mình trở thành thanh
tịnh Tỳ-kheo giải thoát.” Và anh viết :”Ta cứ thuận pháp mà sống , hồn nhiên như
nhiên. ‘Đến nay ngẫm lại chừng quên hết / chỉ nhớ trên đầu một chữ Như ‘( TS
Phước Hậu ) .
Vì anh nói “Tôi cho rằng chính lúc cận kề vối cái chết , giai đoạn cận tử đó là đang
ở trong trạng thái “ Diêt thọ tưởng định “ mới thấy được cái vô tướng từ Như lai
tạng mà ra, từ Pháp thân của chính mình mà tỉnh ngộ … Từ đó có Tứ Diệu đế , Bát
Chánh đạo , Thập nhị nhân duyên để dần dần xóa bỏ Tham sân si của kiếp người “
Cũng nên chú giải thêm về Thập nhị nhân duyên , Hành là nhân chính tạo ra ngũ
uẩn mới, vòng duyên khởi mới. Và nếu hóa giải được sự tác nghiệp của hành là
vượt khỏi tam giới, là thoát ra luân hồi sinh tử, đến bờ kia và vượt qua mọi khổ
ách. Sở dĩ hành (ái, thủ, hữu) tạo tác được là do vô minh. Như vậy, khi trí tuệ hay
tri kiến như thực soi chiếu thì tưởng – hành không còn khả năng biến A thành A’,
A’’, không thấy B thành B’, B’’ được nữa, nghĩa là toàn bộ ảo tưởng, ảo giác, ảo
ảnh, ảo kiến, vọng thức trong khái niêm A’, A’’ – B’, B’’ đều biến mất, nhường
chỗ cho thực tánh hiển lộ. Đó chính là qua bờ bên kia (paramitā), là đáo bỉ ngạn.
Vì vậy trí tuệ này gọi là bát-nhã ba-la mật-đa (paññā paramitā).
Từ lâu nguyên tính A và B bị ngăn cách bởi sông mê (vô minh) bể khổ (ái dục).
Vượt qua – vượt qua bờ bên kia – chính là vượt qua vô minh ái dục, vượt qua ngũ
uẩn mà cụ thể là tưởng – hành. “Biển khổ mênh mông hồi đầu là bến”, cho nên bỉ
ngạn cũng chính là thực tại hiện tiền,không phải lúc nào, nơi nào khác. Quay lại là
thấy ngay tức khắc, chẳng cần rong ruổi tìm kiếm đâu xa.
Bờ đây là bờ mé của giác ngộ hay bờ vực cận kề cái chết ?
Trí tuệ bờ kia (paññā pāramitā) , bờ trên (paññā upapāramitā ) hay bờ cao thượng
(paññā paramattha pāramitā) là trí tuệ vượt qua vô minh ảo vọng, chấm dứt sự tạo
tác luân hồi sinh tử của các hành qua trực tiếp liễu tri thực tánh của pháp là chính.
Gate là vượt qua sông mê biển khổ ; Paragate là vượt qua luân hồi sinh tử bằng trí
tuệ này ;Parasamgate là trải nghiệm đại dụng của các pháp ,vượt qua trầm luân
sinh tử, vượt thoát vô minh ái dục bằng trí tuệ này…
ĐHN viết về “ ngày kia đến bờ” phải chăng nói về cái chết khi anh viết “Giác
ngộ tốt nhất là hiểu được cái chết là tất yếu và …thiết yếu , không có không được
của cuộc đời ta.”
Khi tôi viết bài này, một nhà văn dịch giả vừa qua đời ngay trong đêm Noel 2023,
anh Mai Sơn . Nhắc về anh, người ta đăng lại bài phỏng vấn anh về tác phẩm “ Hư
cấu “ . Người ta hỏi “Vậy trong Hư cấu (NXB Hội Nhà văn, 7/2004) với 10 truyện
ngắn, những ý tưởng mà anh cần bám đuổi và mổ xẻ nhiều nhất là gì? “Mai Sơn trả
lời “: – Nhiều nhất vẫn là cái chết. Không phải vì nó bí ẩn và đáng sợ mà vì cái
chết đã bị quên lãng trong cuộc tồn tại bề bộn này. Thật ra ai cũng biết, để vượt
qua cuộc sống khổ ải này thì cần phải rũ bỏ bớt những gánh nặng, đặc biệt là gánh
nặng về cái chết tất yếu. Nhưng cũng rất nhiều người tưởng mình sẽ sống mãi.
Chính vì những người này mà chúng ta cần phải phục hiện bộ mặt đáng kính của
cái chết. Và để thấy rằng sự chết là một thành phần sống động trong hiện hữu đầy
ắp của con người. Martin Heidegger nói: “Bản chất con người là luôn luôn bị ném
về phía trước, mà phía trước xa nhất là gì nếu không phải là cái chết.”
ĐHN đã tìm ra lời giải hay đáp số cho bài toán ấy. Anh viết “Chữ không ( sunyata)
như trả lời tôi câu hỏi ‘ Tại sao ?’ ( Why ?) Thắc mắc bấy nay về ‘ Tại sao có ta ?
Ta từ đâu đến ?Đến để làm gì ? ‘ … Và chuẩn bị cho một cái chết tốt ( good death )
và một giai đoạn cận tử vui…vui..”
Vậy giai đoạn cận tử ấy ,sau hơn 80 năm sống trên cõi đời này ,trải qua những giây phút cận kề cõi bên kia , sống như thế nào ? ĐHN cho rằng sống với chữ Như, trong thiền định và quán hơi thở, là “sống trong từng giây phút một . Mỗi khoảnh khắc , mỗi sát na là vô tận .Bởi không có thời gian chẳng có không gian , là sống với Như lai , sống cùng Như lai , sống trong Như Lai với Thường , Lạc , Ngã, Tịnh… và hiểu ngay Không đây không phải là không có mà do mà do duyên sanh , duyên khởi , không có tự tánh riêng biệt . “Vì anh biết rằng “..cái tướng mà ta đang sống đầy khổ đau đây vì “ vô thường , khổ , vô ngã , bất tịnh “ chẳng qua chỉ là cái thấy biết vì “ điên đảo mộng tưởng “ không có thiệt , bởi nó chỉ là thực tướng ‘ ảo‘. “ Và hãy nhớ “ well-being and well-dying nhé !”
Ta nhớ lời kinh nguyện “ngày an lành , đêm an lành , ngày đêm 6 thời đều an lành
… sống an lành và chết cũng an lành .“
Rồi nhắm mắt ta đi vào cõi mộng
Như sương mai như ánh chớp mây chiều (Tuệ Sỹ )
Xin mượn lời Thiền sư Tuệ Sỹ để kết bài viết này .
“Sống, tuy có danh nhưng không cần, không bám vào nó. Sống an nhiên với tâm
niệm rồi đây thân và danh này cũng mục nát với cỏ cây. Nếu có tài, gặp cơ duyên
thích hợp thì đem ra phụ giúp cho đời, đem khả năng của mình ra để phục vụ nhân
sinh. Hợp thời thế thì làm, bằng không thì cũng chẳng buồn bã chi. “Bất đắc chí,
độc hành kỳ đạo” có bạn đồng hành để xây dựng xã hội thì mình đi vào, không thì
sống với triết lý riêng của mình. Sống với thiên nhiên, với vũ trụ của mình. …Cái
triết lý sống này rất đẹp, nó gián tiếp tạo nên một cái trật tự xã hội, tạo nên một sự
cần thiết. Chúng ta sống làm sao cho đến lúc chết không có gì hối hận, không có gì
sai lầm. Đối với bạn bè không có sự lường gạt. Giao tiếp với mọi người không có
sự gian dối. Cho tới khi mình chết, mình an tâm, an toàn. Chết đi về đâu, không
cần biết. Chỉ cần biết mình đã làm những điều chân chánh , hợp đạo lý thì khi chết
nhất định sẽ đến những chỗ an toàn. (HT. Thích Tuệ Sỹ)
Tác phẩm của ĐHN được viết nhẹ nhàng , nhưng sâu lắng , nói bâng quơ như
những câu chuyện nhàn đàm nhưng là kết tinh của bao năm nghiên cứu Phật học
thâm sâu , với bao kinh nghiệm thực chứng của một hành giả trên hành trình tìm
chân lý , kể lại cho chúng ta nghe , để cùng cảm nhận và chia sẻ , dù khó khăn hay
dễ dàng tùy quá trình tu tập hay căn cơ từng người để rồi hiểu ra mình cũng sẽ “
một ngày kia …đến bờ “ vì ‘ đời người như gió qua. “ ( Trịnh Công Sơn )
Hãy hoan hỷ đọc và chiêm nghiệm với một nụ cười thanh thản .
Nguyên Cẩn
27.12.2023
Họp mặt với Đỗ Hồng Ngọc ở quê nhà Lagi (Bình Tuy) 2022
Buổi Họp Mặt với Đỗ Hồng Ngọc tại quê nhà Lagi 2022.
Tôi vừa nhận được clip này từ Nguyễn Văn Quyền gởi đến trong ngày cuối năm 31.12.2023. Cảm ơn Quyền và các cháu Dung Phan, Hải v.v… ở Lagi đã ghi lại buổi Họp Mặt rất nhiều kỷ niệm của riêng tôi với quê hương Lagi, Hàm Tân, Bình Tuy…
Cảm ơn các nhà thơ Đỗ Ái Liên, Phan Chính, Cao Hoàng Trầm, Dũng Nguyên… và các thân hữu văn nghệ sĩ Lagi, cùng anh chị em, bà con họ hàng, bạn bè thân thiết … đã tham dự buổi Họp Mặt. Riêng cảm ơn các cháu Trí và Đông của LagiFarmstay.
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
December 28, 2023
TÌM CHỐN NƯƠNG TỰA TRONG THẾ GIỚI NHIỀU BIẾN ĐỘNG
TÌM CHỐN NƯƠNG TỰA TRONG THẾ GIỚI NHIỀU BIẾN ĐỘNG
Trần Đăng Khoa
Trong hai tiếng đồng hồ tối ngày 27/12/2023, buổi Trò chuyện về “Cân bằng trong Khủng hoảng”, khán phòng The Prism của Nam Thi House chật kín chỗ ngồi, hơn một trăm độc giả đã có mặt để lắng nghe hai diễn giả của chương trình – nhà văn – bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cùng nhà văn Nguyễn Tường Bách chia sẻ câu chuyện về cân bằng trong khủng hoảng của xã hội hiện đại.
Giữa không gian ấm cúng nhưng cũng không kém phần sôi nổi, liên tục nhiều câu hỏi, trăn trở hàm chứa nỗi bất an, vô định đã được gửi đến hai diễn giả để mong muốn tìm kiếm được lối thoát trước tình thế bế tắc của đời sống.

Từ trái: Nguyễn Tường Bách, Đỗ Hồng Ngọc, MC Quỳnh Anh
Nhà văn Đỗ Hồng Ngọc và nhà văn Nguyễn Tường Bách đã có những kiến giải về nguồn gốc của làn sóng khủng hoảng hiện tại từ góc nhìn của những người làm khoa học thấu triệt tinh thần Phật giáo. Từ đó gợi mở ra con đường lạc quan từ quan điểm của phương Đông và phương Tây, của khoa học và thiền học.
Theo bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, chúng ta đang sống trong thời đại VUCA – Volatility (Biến động), Uncertainty (Không chắc chắn), Complexity (Phức tạp), và Ambiguity (Mơ hồ)…
Xã hội đầy rẫy những ngổn ngang, khiến nhiều người không thể bình an, thậm chí bị tâm thần!
“Như căn bệnh phổ biến trên toàn thế giới ngày nay chứ không riêng gì chúng ta, được gọi là S.A.D (viết tắt của Stresse- căng thằng, Anxiety- lo âu, sợ hãi, và Depression- trầm cảm). Đó là 3 thứ “tâm bệnh” không có thuốc nào chữa khỏi, mà phải chữa bằng Tâm lý trị liệu, Thiền định…”, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cho biết.
Còn nhà văn Nguyễn Tường Bách thì cho hay, ngay cả ở các nước giàu như Mỹ và châu Âu vẫn phổ biến tình trạng rối loạn lo âu. Mỗi cá nhân sẽ có những mối lo âu riêng dẫn đến khủng hoảng, khủng hoảng cá nhân kéo theo khủng hoảng xã hội. Và thế giới đang phải đối mặt với năm vấn đề nghiêm trọng, đó là: Thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng kinh tế, chiến tranh và di dân. Năm sự khủng hoảng đó dường như cảnh báo chúng ta về một vũ trụ đang xoay trục.
Cả hai diễn giả đều nhấn mạnh đến những hệ lụy nhãn tiền sự phát triển của công nghệ trong đời sống hiện đại. Biểu hiện rõ nhất là tình trạng lạm dụng internet trong giai đoạn giãn cách xã hội, gây nên các biểu hiện lệch lạc về đời sống tinh thần, thúc đẩy lo âu và mâu thuẫn trong quan hệ vợ chồng… Hai vị diễn giả cũng cảnh báo về nguy cơ của trí tuệ nhân tạo (AI), khi công nghệ tưởng chừng như đỉnh cao phát kiến của nhân loại lại đang quay ngược trở lại kiểm soát và điều khiển hành vi con người.
Quay về bên trong, “nương tựa chính mình” chính là lối thoát cho cuộc khủng hoảng hiện tại, đó là quan điểm chung của hai diễn giả với con mắt của những người học Phật. Tuy nhiên, ngày nay khi nói về thiền, chúng ta lại cảm thấy bối rối vì có quá nhiều “thầy”, quá nhiều sách, vô hình trung trong cuộc tìm kiếm hướng đi ta lại bị dẫn vào mê cung của giải pháp. Theo bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, để không bị lạc lối, chúng ta có thể lựa chọn thực tập thiền theo phương pháp đơn giản và khoa học nhất đó là tập trung vào hơi thở (Anapanasati).
Ngoài ra, theo nhà văn Nguyễn Tường Bách, bên cạnh thiền định, nghiên cứu ở các nước phương Tây cho thấy những hoạt động tìm về với thiên nhiên, chơi thể thao, học một môn nghệ thuật cũng có tác dụng tích cực giúp thư giãn tâm trí.
“Cân bằng trong khủng hoảng” là chủ đề lớn, trong thời lượng giới hạn của chương trình khó có thể giải quyết thật rốt ráo. Song chương trình đã “xới lên” nhiều vấn đề xã hội quan tâm, đó cũng là cơ sở để mở ra nhiều cuộc đàm luận tương tự trong thời gian tới!
(TĐK)
Trò chuyện về “Cân bằng trong Khủng hoảng” (*)

Ảnh: Trần Huy Cường
Đó là nhận định của bác sĩ, nhà văn Đỗ Hồng Ngọc tại buổi giao lưu tối 27-12 về chủ đề Cân bằng trong khủng hoảng.
Tọa đàm còn có sự góp mặt của tiến sĩ vật lý, nhà văn Nguyễn Tường Bách.
Cuộc trò chuyện bàn về những khủng hoảng tâm lý trong và sau đại dịch mà con người phải đối mặt và giải pháp vượt qua từ góc độ khoa học và thiền.
Khủng hoảng niềm tin và hiện sinhTại buổi giao lưu, nhiều ý kiến cho rằng sau đại dịch, con người phải đối diện với khủng hoảng tâm lý, trong đó có khủng hoảng niềm tin và hiện sinh.
Tác phẩm Một ngày kia… đến bờ của nhà văn, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc là những chiêm nghiệm về việc “con người đến từ đâu và sẽ đi về đâu?” – Ảnh: HỒ LAM
Chúng ta mất đi niềm tin vào chính mình, những người xung quanh và đôi khi hoang mang không biết mình sống để làm gì.
Theo tiến sĩ, nhà văn Nguyễn Tường Bách việc giãn cách xã hội trong đại dịch cùng với sự phát triển của Internet đã gây ra không ít tiêu cực cho sức khỏe tâm thần của nhiều người.
“Trong đại dịch, nhiều gia đình phải giam mình trong bốn bức tường. Cha mẹ, con cái không thể đi làm, đi học.
Họ bị tù túng, không có sự kết nối thực sự với xã hội, dẫn đến những tranh cãi, bất hòa. Và những cuộc ly hôn sau đại dịch tăng vọt”, ông Bách phân tích.
Ngoài ra, cả hai diễn giả đều đồng tình rằng dù sự phát triển vượt bậc của Internet, mạng xã hội có nhiều lợi ích to lớn nhưng cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sự lệch lạc trong tâm lý.
Nhiều người trẻ đang “nghiện” Internet và không thể sống được nếu thiếu điện thoại.
Đã có không ít trường hợp mắc chứng trầm cảm, rối loạn lo âu và mất dần đi động lực sống đúng nghĩa vì dùng mạng xã hội quá đà.
Hành thiền để tìm lại sự cân bằng trong tâm lýNhà văn Nguyễn Tường Bách giải thích: “Hành thiền là lúc chúng ta ngồi lại để tìm sự an tĩnh trong tâm hồn. Đó là cách tốt nhất để chữa trầm cảm và lệch lạc trong tâm trí.
Lúc ấy, tôi tin rằng ta sẽ có cơ hội thấy rõ mình và còn có thể thấy được tâm của người khác. Từ đó, lòng từ bi sinh ra, tâm an thay thế tâm ác”.
Trong Phật giáo, có nhiều phương pháp hành thiền. Nhưng với bác sĩ Ngọc, việc tập trung vào hơi thở là quan trọng nhất.
“Chúng ta cần tập trung vào hơi thở để thả lỏng tâm trí. Khi hít thở đúng thì cơ thể sẽ tiết ra hormone hạnh phúc – dopamin, serotonin, endorphine, oxytocin”, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chia sẻ.
Bên cạnh việc thiền, tìm về với thiên nhiên, chơi thể thao, học một môn nghệ thuật cũng là những cách hữu ích giúp con người giải tỏa những khủng hoảng tâm lý.
…………………………….
December 26, 2023
“MỘT NGÀY KIA… ĐẾN BỜ” Tuỳ bút Đỗ Hồng Ngọc
MỘT NGÀY KIA… ĐẾN BỜ
Tuỳ bút
Đỗ Hồng Ngọc
Cuốn sách gồm 26 tiểu mục với những chủ đề dàn trải, đề cập đến hầu hết các phần giáo lý cốt yếu từ những bộ kinh quan trọng của Phật giáo như Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Kim Cang, Duy-ma-cật… và đề cập đến những vấn đề quan trọng trong sự tu tập, từ sự nhận hiểu tinh yếu giáo pháp cho đến kinh nghiệm thực hành.
Đỗ Hồng Ngọc đã biến mọi vấn đề khô khan hay trừu tượng, siêu hình trở nên gần gũi, dễ hiểu và thiết thực, đó là những chia sẻ từ chính kinh nghiệm của người viết- những điều không thể tìm thấy trong bất kỳ bài thuyết giảng hay luận văn Phật giáo nào.
Tác giả đưa người đọc đi vào nội dung quyển sách từ những chiêm nghiệm của cả một đời người. Ở đó, ông tự mình vấn đáp về các vấn đề vĩnh hằng của vũ trụ: “con người từ đâu tới và sẽ đi về đâu?”.

Thư pháp của Thầy Viên Thức, Đà Lạt
(Viết tại Đường Sách Tp.HCM, ngày 16.12.2023)
Trước những truy vấn đó, trong vai trò bác sĩ, ông lần lượt tìm kiếm câu trả lời dưới góc độ khoa học về sinh lý con người như: Tế bào, DNA, Gen… Và khi tất cả đáp án đều chưa thỏa nan đề của tạo hóa, ông lại trở thành một thiền giả, luận giải từ góc nhìn của nhà Phật, bằng con mắt pháp, bằng triết lý duyên, nghiệp, sắc, không…
Để từ đó giúp tất cả chúng ta thấy rằng “Một ngày kia… đến bờ” là tất yếu, là lẽ đương nhiên, vì vậy mà không cần sợ hãi, lo lắng, đau khổ khi đối diện với biệt ly sinh tử.
“Well-Being & Well-Dying” Đỗ Hồng Ngọc viết.
Trần Đăng Khoa
December 21, 2023
THƯ MỜI tham dự buổi Trò chuyện với Đỗ Hồng Ngọc và Nguyễn Tường Bách
Trân trọng kính mời Anh/Chị và các bạn đến tham dự Chương trình Giao lưu “CÂN BẰNG TRONG KHỦNG HOẢNG” với Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc và Nhà văn Nguyễn Tường Bách:
Sẽ có nhiều vấn đề được đặt ra trong buổi Trò chuyện thân mật này với các “diễn giả”:
– Thời gian qua, thế giới chúng ta đang sống liên tục chịu nhiều tổn thương (dịch bệnh, thiên tai, khủng hoảng kinh tế, chiến tranh…). Những vấn đề đó ảnh hưởng ra sao đến tâm thức xã hội?
– Tình trạng mất cân bằng hiện nay thực sự đến từ những nguyên nhân khách quan hay từ chính bên trong chúng ta?
– Làm cách nào để con người tìm lại sự cân bằng trước những biến động?
– Thiền có phải là lối thoát cho cuộc khủng hoảng này?
– Khoa học nhìn nhận như thế nào về khả năng điều trị thực tế của thiền?
– Làm gì để có thể vững tâm đối diện với các biến cố tương tự có thể sẽ còn gặp lại trong tương lai?…
Trân trọng,
BTC
Ghi chú: Vào cửa tự do.
December 20, 2023
Thư của anh Hai Trầu phúc đáp ĐHN
Kính chào Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc,
Dà, rất vui được anh Ngọc nhắc trong Thư gởi bạn xa xôi vừa rồi. Xin đa tạ bác sĩ nhiều lắm!
Thật tình là bây giờ ở tuổi ngoài 80 này thì cái gì cũng ngán hết bác sĩ ơi! Thấy cục đá chắn ngang lối đi cũng sợ vấp té! Thấy cái cây đang cần nước phải tưới gấp vậy mà muốn lấy cặp gàu gánh nước dưới mương để tưới vài gàu cho cây chống chọi với nắng gắt năm ba ngày mà cũng ngán, làm hổng nổi!
Còn ba cái vụ sách vở lại càng ngán ngẩm dữ lắm nữa vì tuổi già mắt kém, tai điếc, nên đọc sách nhiều lúc đọc bên này chữ chạy qua bên kia, ít khi còn nhớ mình đọc gì nhưng nhờ có cái vui là hối đó tới giờ, tôi có thói quen đọc sách là ngồi xuống ghi lại cảm tưởng của mình hoặc có cây viết trên tay rồi chỗ nào hay là mình gạch đít để dành có khi mình sẽ đọc lại, có khi lâu ngày mình ngồi xuống chép lai và nhờ vậy mà mấy chục năm nay có được bộ sách NGƯỜI ĐỌC & NGƯỜI VIẾT bốn cuốn I, II, III và IV như Bác sĩ nhắc bên trên.
Bộ sách đó chỉ là những cảm nghĩ vụn vặt khi đọc sách, ở đó không phải là văn chương mà là những cảm tưởng rất thực tình của một người đọc nhà quê già khú đế mê đọc sách từ hồi còn trẻ tới giờ mà cũng là cái thú vui của tuổi già khú đế này khi mấy đứa con giúp ba của các cháu in được thành sách để dành kỷ niệm trong gia đình.
Ngoài ra, tôi cũng có ghi chép một số cảnh vật cùng đời sống dân quê tôi qua những mùa màng rồi gom góp lại in được đâu cũng chừng bảy tám cuốn và có lần mới đây tôi có ghi lại “Thử nhìn lại các tựa sách của mình” trong đó có đoạn:
“Hôm nay ngồi nhìn lại các cuốn sách có trước mặt (mà tôi không dám gọi đó là những tác phẩm vì thực ra đó chỉ là những trang viết lan man chơi thôi chứ không có dụng ý làm văn làm sách gì nên hổng dám nhận là tác phẩm là do vậy); thiệt tình đó là món quà vô cùng quý báu mà mình không ngờ thực sự nó đã có trước mặt mình như vậy!
Việc đánh giá sách hay hoặc sách dở, sách có giá trị hay không có giá trị là do ở người đọc; còn riêng tôi, tôi không biết nó hay hoặc dở thế nào, nhưng chắc chắn ở trong mỗi trang sách ấy dường như là mỗi trang đời mà mình có lúc hít thở cùng nhịp sống chẳng những mình đang sống với chính những gì mình đã ngồi chép lại mà nó còn là những kỷ niệm, những trang đời mà có lúc mình đã sống qua với chính nó; ở đó chắc chắn là những chất liệu sống rất thật, không màu mè, không tô vẽ, không thêm thắt, không trau chuốt để cho các trang sách ấy thành văn, thành sách mà cốt chỉ như một thú vui, một cách trị bịnh mau quên khi tuổi già cứ theo thời gian vùn vụt ùa lên tóc mỗi ngày, mỗi ngày… không kịp thở vậy! Có lẽ chính vì thế mà các trang sách vừa gom góp lại được này, cách nào đó nó rất hợp với cái chất hiền hòa, chất phác của mình mà cũng hợp với những tình cảm nhớ nhung, những suy nghĩ từ một người nhà quê già như mình có lúc đã sống và đã suy nghĩ như vậy.”
Vài hàng kính gởi san sẻ cùng Bác sĩ và một lần nữa xin chân thành cảm ơn Bác sĩ nhiều lắm là lúc nào cũng nhớ và nhắc người đọc sách nhà quê già khú đế này vậy.
Thân mến,
Hai Trầu Lương Thư Trung
NT KhánhMinh: Cười Với Nắng Một Ngày Sao Chóng Thế (Tuệ Sỹ)

Thầy Tuệ Sỹ, nơi bàn làm việc tại chùa Già Lam
Photo by nt khánh minh (2009)
Vâng, chóng đến nỗi tôi nghĩ đó là giấc mộng, giấc mộng thiện hảo quý báu quá khiến tôi tiếc ngẩn ngơ sao chóng đến vậy.
Đó là buổi ra mắt tập thơ của tôi tại quán cà phê Du Miên. – Chỉ với 50 ấn bản Bùa Hương do Ý Thức Bản Thảo ấn hành 2009 – với sự có mặt của các anh chị Đỗ Hồng Ngọc-Ngọc Bích, Lê Ký Thương-Kim Quy, anh Nguyên Minh và anh Lữ Kiều, và tôi. Bảy người, đối với riêng tôi, số 7 khiến tôi liên tưởng đến bảy sắc cầu vồng, bảy nốt trong âm nhạc, thất bảo, của một buổi sáng tuyệt vời.
Và bản quý duy nhất, Bùa Hương, được ấn chứng bằng những chữ ký thân tình. Buổi sáng đẫm hương bằng hữu. Nó không chỉ chấm dứt vào buổi trưa khi chia tay. Nó kéo dài cho tới bất cứ lúc nào hồi ức tôi lay động.
Sau buổi sáng, anh Lữ Kiều bảo, giờ anh sẽ đưa em đến chùa Già Lam, – Thầy Tuệ Sỹ ạ? – Ừ, mình cùng đi với Giai Hoa.
Lòng tôi vừa bồi hồi vừa lâng lâng khó tả. Run run. Vì sắp được gặp một người mà mình nghĩ rằng khó có cơ hội được diện kiến. Chùa Già Lam. Có đóa sala rụng ở sân chùa, cầm trong tay thơm ngát. Ép vào sách, đến giờ giở ra còn nghe thơm. Thơm phút giây nhặt nó ở sân chùa, thơm vì nó cùng tham dự với tôi buổi trưa độc nhất ấy, nơi có vị sư của những lời thơ Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ/ Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn… (Tuệ Sỹ, Không Đề) Đã bao trăng tàn bên chiếc lan can này nghe Sư nói chuyện một mình? Hai bóng sáng hòa âm trong đêm, để lại cho đời những lời thơ bất hủ, theo mãi trong lòng người hình bóng một vị chân tu.
Chúng tôi ngồi ở đó, ban công trước phòng Sư, trông xuống một vườn cảnh nhỏ, gió buổi trưa hiu mát, trái tim tôi như chiếc lá bay. Sư và anh Lữ Kiều, Giai Hoa đang bàn về chương trình buổi ra mắt tập thơ Những Điệp Khúc Cho Dương Cầm, tập thơ tôi được Sư tặng sau đó.
Tôi tặng Sư tập thơ Bùa Hương, và tôi có được chữ của Sư trong bản duy nhất kia. Chữ của Sư, chữ Hán lẫn Việt, lấp lánh dưới nắng trưa: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn/ Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về. Nét chữ có linh hồn của sự cương nghị bất khuất và u ẩn một điều cưu mang…
Mỗi khi giở xem lại nét chữ ấy lòng run run như đang mở xem điều gì đó vô cùng quý báu.
– Giai Hoa là người phụ đạo piano cho thầy-. Anh Lữ Kiều nói. Rồi, chúng tôi được nghe và thấy Sư ngồi đàn, một Nhà Thơ gõ trên phím những nốt nhạc của tâm hồn, Sư ngồi đó, Sư đang ở đó, như vừa mới đến, như vừa ra đi trong âm ba tiếng nhạc. Không gian thời gian như nhập lại một dòng trôi vi diệu vô thường…
Năm tháng vẫn như nụ cười trong mộng… ôi, Như Lai đâu có đi có đến…
Thời gian tiếng dương cầm, giờ như đang đọng từng hạt vàng trong nắng Già Lam. Đó Ngày Mộng của tôi. Ngày mộng khởi duyên cho bao thiện lành trong từng bước tu hướng về Người…
ĐỈNH ĐÁ NÀY VÀ HẠT MUỐI ĐÓ CHƯA TAN
(Tuệ Sỹ, Khung Trời Cũ)
Tôi kính ngưỡng nỗi u ẩn trong tình tự hạt muối chưa tan. Ôi biển đời kia xô động…
Cũng vì vậy, đọc thơ Tuệ Sỹ, tôi cứ thấy hình ảnh con đường dài, và muôn dặm bóng cô lữ một khung trời viễn mộng dằng dặc nỗi ưu tư,
Trời viễn mộng đọa đày đi mấy thuở
Mộng kiêu hùng hay muối mặn giữa trùng khơi
(Những Điệp Khúc Cho Dương Cầm)
Bước độc hành như sương hạt rơi khuya, như tiếng mõ trầm trầm hun hút ở rừng thẳm, ở núi cao… nhưng khó làm sao để tường tận cái chấp chới của vạt áo tỳ khưu đẫm ánh trăng đêm, của một vì sao bên khoé miệng rưng rưng, thấp thoáng ẩn hiện. Hiện lên Người và ẩn một cõi thơ tịnh tĩnh. Khó làm sao lọt được vào cõi im lặng tủy đá ấy…
Có chăng, tôi lần theo bằng nhịp đập của trái tim thơ khởi đi từ hạt lệ mở đường,
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn…
Cô quạnh và tự tại của hạt lệ đèn hòa thanh ánh trăng, và câu chuyện gì khiến thế gian nhỏ lệ? Đọc thơ Người thấy mình nhỏ bé quá dưới cái huyễn lộng, hay chỗ nào, vì sao hay, hỏi như hỏi mây xanh bay, theo như đuối dòng nước trôi hoài kia. Chuyện trăng tàn là chuyện gì, chưa nghe thấu nỗi đã rúng động. Trăng tàn giật mình sững sờ cái núi lạnh biển im, tấm lòng băng khiết?
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan…
Hỏi, tại sao, vì đâu lòng muối kiên định… để bất khuất chưa tan?
Tưởng chỉ là Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ, bỗng vầng trăng vụt sáng mới hay Lãng du ai ngỡ cô liêu bạc đầu! (Tóc huyền) Cô liêu tóc trắng ấy cũng ngang ngửa với cái cô quạnh nghìn năm viên đá cuội. Nghe quá cảm khái trong câu hỏi hồn tôi đâu…
Viên đá cuội mấy nghìn năm cô quạnh
Hồn tôi đâu trong dấu tích hoang đường?
(Dạ Khúc)
Hay đó là mênh mang sầu của cánh mỏng về đâu, là chiếc lá xa mùa đau lòng phận nước?
Con bướm nhỏ đi về trong cánh mỏng
Nhưng về đâu một chiếc lá xa mùa…
(Mưa cao nguyên)
Tôi sứ giả hư vô
Xin gởi trong đôi mắt bà
Một hạt cát
(Hạt cát)
Sứ giả của hư vô, gửi vào đôi mắt một hạt cát, để khơi lệ huyễn mộng rực rỡ không dấu chấm hết? Một hạt cát chứa vô biên không gian thời gian.
Tất cả câu hỏi về thơ Người, chỉ có thể tìm được câu trả lời qua những bước chân cô độc kiên trì trên con đường dài Người đã đi, qua tấm lòng băng khiết Người đã sống với Đạo với Đời, qua nếp sống giản dị thanh bạch của hạt cát tinh tuyền, giờ hạt cát ấy đã lồng lộng hư vô, nhưng âm thanh của cát vẫn vang động. Nếu chúng ta cùng nghe được âm vang của một hạt cát thì sứ giả hư vô ấy là trái tim son sắt của Người.
NHỚ BUỔI NGHE SƯ ĐÀN
Cùng nhà thơ Lữ Kiều và Giai Hoa, 20.9.2009, tại cốc của sư trong vườn chùa Già Lam
Buổi trưa ngồi nghe sư đàn
Trăm con lá rớt. Tình tang cõi ngoài
Mùa đâu hốt đã thu phai
Một phương viễn mộng. Đọa đày*. Bao thu
Viên đá cuội nghìn năm*. Ru
Niềm cô quạnh. Dấu biệt mù. Âm xưa
Trăng tàn nhỏ lệ đèn khuya
Hắt con bóng dựng đá chờ nước non
Áo tỳ khưu. Dặm mỏi mòn
Trùng khơi. Hạt muối đó còn chưa tan…
Nguyễn Thị Khánh Minh
9.2020
* Thơ Tuệ Sỹ: Trời viễn mộng đọa đày đi mấy thuở/… Viên đá cuội mấy nghìn năm cô quạnh/ Hồn tôi đâu trong dấu tích hoang đường…
(Nguồn: tranthinguyetmai.wordpress.com)
December 10, 2023
Thư gởi bạn xa xôi (tháng 12.2023)
Thư gởi bạn xa xôi (tháng 12.2023)
BÀY ĐẶT VẼ… VỜI
Bạn hỏi đang làm gì ư? Thì làm biếng chớ làm gi nữa! Nhiều bạn cùng lứa U90 kêu giờ chả biết gì, chỉ biết già!. Vậy mà có anh Hai Trầu, ít hơn mình vài tuổi vẫn tự hào cái sự “già khú đế” của anh. Già khú đế gì mà một lúc vừa tung cuốn Người đọc & Người viết IV, liền quảng cáo tiếp cuốn V, VI… sắp ra nữa, rồi còn hẹn tái bản một lô một lốc sách xưa nay của anh nữa trời ạ!
Mình lúc này hay đi về quê ở Lagi, cách Saigon chừng 160km, nay có cao tốc đi vài giờ thôi. Về ăn bánh căn, tắm biển, đi xe bò… rồi nằm võng đu đưa dưới bóng dừa cùng hay.
Cao hứng, bày đặt vẽ… vời nữa chớ! Mua hộp sơn dầu (thứ của trẻ con), rồi lấy ngón tay quẹt quẹt, bôi bôi, trét trét một lúc là xong một bức tranh… “trời ơi” ngay! Các bạn hoạ sĩ thứ thiệt của mình đừng la rầy chi nhe.
À, mà thú vị. Cũng là một cách “chánh niệm tỉnh giác” rất Thiền đó nhe. Chừng một lúc đã vào… Tứ thiền hổng hay đó chớ chẳng chơi!
Không dám cho ai coi. Vừa rồi, một nhà “phê bình” tình cờ xem, đã kêu lên: “Anh có một cái bàn vẽ thật đẹp!”. Vậy đó. Thôi kệ.
Kỷ niệm chuyến đi về Cao nguyên Đá ở Hà Giang, Đồng Văn, Mèo Vạc đó nhe.
Gởi bạn vài bức coi vui,

Lagi 2023

Đường đi Mèo Vạc

Đèo thẩm mã

Tam giác mạch

Sông Lô (Hà Giang)
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
November 15, 2023
Thư gởi bạn xa xôi (tiếp theo)
Thư gởi bạn xa xôi (tiếp theo)
Một Ngày Ở Hà Nội
Từ Mèo Vạc, trở về Đồng Văn tính ghé Sông Nho Quế, tiện thì đi thuyền trên dòng sông tuyệt đẹp giữa hai vách núi dựng đứng đó nhưng sương mù dày đặc, đành uống Cafe ở Panorama mà nhìn Nho Quế mờ mờ nơi xa… Tiếc quá! Thời gian lại gấp rút, phải về Hà Nội ngay trong đêm. Đến Hà Giang còn bị kẹt đường vì núi lở, phải đợi. Trên đường, ghé Seo Mẩy mua ít quà bánh làm bằng Tam giác mạch về tặng bạn bè.
Đến Hà Nội đã gần nửa đêm. Oải, rả rời. Thế mới biết “già mà ham” leo đồi leo núi ỏ Cao Nguyên Đá cho đã đời là vậy! Tuy vậy, sáng Chủ nhật 5.11.23 khi nghe tiếng chuông Nhà thờ lớn đổ lúc 6h30, cũng vội vả đến Nhà Thờ lớn thăm chút, rồi ghé Chùa Bà Đá cũng gần đó. Thả dọc ra bờ hồ Hoàn Kiếm. Đã nhộn nhịp. Quán cafe Lạc Thuỳ ở bờ hồ đã đông đúc. Vài bà đẩy xe bán bánh cam, cốm vòng… và những cô nàng quang gánh cốm vòng mùa thu đợi khách như cái thuở trong tiểu thuyết của Hà nội 36 phố phường quen thuộc ngày xưa… nhờ đọc Tự lực văn đoàn hồi còn nhỏ! Gởi bạn vài hình ảnh sinh hoạt coi vui nhe.
Thân mến
Đỗ Hồng Ngọc

Bờ hồ Hoàn Kiếm
Cốm Vòng
Cầu Thê Húc.

Các bé thực hành tiếng Anh với du khách nước ngoài

Các bạn trẻ rất thích xăm hình

Vẽ chân dung
Mình đến phố Đinh Lễ, khu sách cổ (thiệt ra sách loại nào cũng có!) tình cờ bước vào Sách Mụ Hoa. Sách chồng chất từ sàn nhà lên tới nóc, chừa lối đi hẹp lé, mua cuốn nào trên cao thì nữ gia chủ trèo thang lên lấy, đúng ngay cuốn đó! Giỏi thiệt!

Rồi thăm hỏi. Chị kêu: Ối là bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, “Già sao cho sướng” đó à? Tôi thì thấy chả có ai là già cả! Ở đây tôi có đến 30 tựa sách của anh rồi đó. Mình hỏi tại sao chị lấy tên “Mụ Hoa” có phải muốn ví mình là Cô Mụ, nâng đỡ và chăm sóc cho sách không? Chị cười to: “Đúng vậy đó, nhưng không dám nói ra. Nay mới thấy anh nói đó…!”.

Mình bèn tặng bà cuốn Bản thảo: “Một ngày kia… đến bờ” và bà không quên tặng lại một gói Cốm Vòng thiệt to! Vậy đó.
Đỗ Hồng Ngọc's Blog
- Đỗ Hồng Ngọc's profile
- 12 followers

