Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 17
April 25, 2023
Trần Tuấn Mẫn: ĐẠO ĐỨC HỌC CỦA GIẢI THOÁT
ĐẠO ĐỨC HỌC CỦA GIẢI THOÁT
Trần Tuấn Mẫn
Ghi chú: Cư sĩ Trần Tấn Mẫn, nguyên Phó Tổng biên tập Thường trực Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo (từ 2005 đến 2020), với gần 20 năm là giảng viên ở các Học viện Phật giáo Việt Nam tại Tp.HCM và tại Huế, là Tổng Thư ký Viện Nghiên cứu Phật học VN. Anh nay đã ngoài tuổi 80, gởi đến tặng tôi quyển Bản thảo Tâm Sự Với Ai? và cho biết đây cũng là “tác phẩm cuối cùng của anh”.(Xin nói thêm, anh là con nhà văn Trần Thanh Mại). Tôi xin phép anh cho post lại ở đây bài Đạo đức học của Giải thoát để chia sẻ với bạn bè. Bài này đã đăng trên Tập Văn Phật Đản , số 16,1991.
Đỗ Hồng Ngọc.
Đạo đức học là một bộ phận của triết học nhằm dựa vào lý trí mà thiết lập một sự phân biệt giữa thiện và ác, giữa điều được làm và điều bị cấm làm, nhằm nêu ra một nguyên tắc tổng quát để xếp loại và đánh giá các hành động. Đạo đức học nhằm nêu lên cứu cánh của mọi hành động hợp lý mà con người cố vươn tới, tức mục đích, lý tưởng của cuộc đời và tìm các phương cách giúp con người tiến tới mục đích lý tưởng ấy.
Khi bàn đến đạo đức, triết học lại nổi lên câu hỏi cơ bản: “Nguồn gốc của các nguyên tắc đạo đức là gì và đâu là giá trị của các nguyên tắc ấy?”. Câu hỏi kép gồm hai vế ấy có vế đầu liên hệ đến tâm lý học và vế sau liên hệ đến siêu hình học. Những tranh cãi thuộc vế đầu là: Nguyên tắc đạo đức là do kinh nghiệm hay do kế thừa, hay do xã hội, do lý trí, do bẩm sinh, và chi tiết hơn liên hệ đến lòng trắc ẩn, tự kỷ, vị tha, trách nhiệm, bổn phận… Những tranh cãi thuộc vế thứ hai là: Giá trị của các nguyên tắc đạo đức có thể quy vào một không? Giá trị tuyệt đối là gì, lý tưởng, thượng đế…? Từ đó đạo đức học bị chia thành nhiều loại như đạo đức học duy nghiệm, duy lý, duy nghiệm lý, rồi lại bị chia thành các phái như chủ nghĩa hoan lạc, khoái cảm, duy dụng, duy nhiên, duy cảm v.v…
Ước vọng có một đạo đức học đúng đắn, hiệu nghiệm và phổ quát cho mọi người luôn luôn là chính đáng. Cái yêu cầu ấy còn mạnh mẽ hơn với lòng yêu tuyệt đối luôn bùng cháy trong con người và khiến con người quay tìm đạo đức học trong tôn giáo. Nhưng tôn giáo thường đầy rẫy những luận giải siêu hình; nó thiết lập các giáo điều, nó ra mệnh lệnh, nó đòi hỏi sự tuân phục, thuần tín ở đấng tối cao… Phật giáo không phải là một tôn giáo theo nghĩa ấy và đạo đức học của Phật giáo có thể là đạo đức học cho mọi người.
Đức Phật dạy: “Ví như nước biển chỉ có một vị là vị mặn, cũng vậy, này Pahàrada, Pháp và luật của ta chỉ có một vị là vị giải thoát”. Ngài còn dạy: “Này các Tỳ kheo, xưa cũng như nay ta chỉ nói lên sự khổ và diệt khổ”. Trong lần chuyển pháp luân đầu tiên tại Benares, giảng về Tứ đế Đức Phật xác định đây là khổ, nêu nguyên nhân của khổ, nói đến sự chấm dứt khổ (giải thoát, Niết bàn) và con đường diệt khổ. Thế là Ngài đã tuyên bố mục đích của mọi hành động của con người và của giáo lý của Ngài là nhằm giải thoát khỏi khổ đau. Đối chiếu ý nghĩa này với định nghĩa chung về đạo đức học đã nêu, ta có thể nói toàn bộ giáo lý của Đức Phật là một giáo lý đạo đức, hay Phật học là đạo đức học, một đạo đức học xây dựng trên giải thoát, do một người đã giải thoát truyền dạy, lấy giải thoát làm cứu cánh, lấy giải thoát làm chuẩn tắc để đánh giá các hành động. Xác định nền tảng giải thoát này là xác định toàn bộ ý nghĩa, đối tượng, mục đích, phương pháp của đạo đức học Phật giáo.
Xác định nền tảng của đạo đức học Phật giáo là giải thoát, ta có thể dễ dàng giải đáp câu hỏi cơ bản đã nêu trên: Giải thoát là nguồn gốc của các nguyên tắc đạo đức. Thực ra mệnh đề này là kết quả của sự lập luận rằng: Do khổ, do kinh nghiệm khổ mà nảy sinh ra cái nguyên tắc đạo đức cơ bản là sự diệt khổ, thoát khổ, đẩy đưa đến sự diệt khổ tuyệt đối, cứu cánh, đấy là giải thoát tối hậu, Niết bàn. Giải thoát là mặt bên kia (mặt tích cực trong ý nghĩa đạo đức) của khổ đau, giải thoát và khổ đau là hai mặt của một thực tại đang hiện hữu tại đây, giờ đây. Vậy thay vì bảo giải thoát là nguồn gốc của các nguyên tắc đạo đức, ta có thể bảo khổ cũng là nguồn gốc ấy. Từ đây vế thứ hai của câu hỏi cũng được dễ dàng giải đáp : “Giải thoát là giá trị tối hậu đích thực của các nguyên tắc đạo đức.”
Dù Phật giáo không hề muốn bị xếp như một triết thuyết như duy nghiệm, duy lý, duy cảm v.v… nhưng Phật giáo, đạo đức học Phật giáo, không thể không là đối tượng nghiên cứu cho các nhà triết học và không thể tránh khỏi sự sắp xếp phân loại của các nhà nghiên cứu đạo đức. Thế thì hãy tạm gọi đạo đức học Phật giáo là đạo đức học Duy giải thoát mà phương Tây có thể nên gọi bằng một từ triết học mới nào đó, đại loại như “Emancipisme”! Và như vậy, vấn đề muôn thuở của đạo đức học nói chung như lương tâm hay ý thức đạo đức, tức cái khả năng nhận biết giá trị đạo đức của các hành động được đạo đức học Phật giáo gọi là ý thức giải thoát, hay ở mức độ cao gọi là trí giải thoát. Trí giải thoát lại còn được xem là nguồn gốc của lương tâm, của ý thức đạo đức tức là của chính nó, hiểu theo lập luận của E.Kant khi ông gọi nguồn gốc ấy là lý trí thuần túy thực tiễn, cái nhân tố phát khởi những mệnh lệnh quyết định. Nếu Descartes đẩy ý thức đạo đức lên thành các tác phẩm của thượng đế, nếu Spencer đẩy lùi nó vào cái thói quen do di truyền thì đạo đức học Phật giáo gọi nó là dư y của ý thức giải thoát, một thiện nghiệp trong quá khứ và có thể được vun đắp thêm trong hiện tại.
Nói đến giải thoát là nói đến tự do. Thông thường giải thoát được hiểu là trạng thái được sau khi thoát khỏi sự ràng buộc, sự trở ngại, khổ đau, mất tự do; tự do là trạng thái thoải mái, có thể tự mình quyết định hành động của mình, tự mình chọn lựa… Như vậy giải thoát và tự do có thể được xem là đồng nghĩa, nhất là khi ở bình diện tuyệt đối, Giải thoát và Tự do đồng nghĩa với Niết-bàn, là Niết-bàn là Phật. Ở bình diện tương đối của thế gian, giải thoát và tự do chỉ có thể được thực hiện trong giới hạn. Một hành động như tìm nước uống để thỏa mãn cơn khát, làm một việc thiện để đạt được niềm vui tự nội… đều có giá trị giải thoát tương đối. Tự do chọn nghề, tự do nghỉ ngơi… là những tự do tương đối vì người ta không thể tự do lấy của cải của người khác, không thể tự do vượt khỏi những hạn chế của cơ thể để thực hiện những điều không tưởng, không thể tự nhiên mà thoát được sinh, già, bệnh, chết… Cái kinh nghiệm giải thoát có thể thực hiện hàng ngày, qua từng công việc bình thường hoặc sâu đậm hơn, qua thiền định. Niềm vui, niềm hạnh phúc đạt được trong khi làm việc thiện, trong khi thiền định sẽ giúp ta phát triển ý thức đạo đức, đánh giá đúng đắn các hành động và truy tìm những hành động mang lại giải thoát, hạnh phúc.
Trước khi bàn tiếp hãy nhận định về cái thuật ngữ nổi cộm trong đạo đức học, đó là từ hạnh phúc (le bonheur). Người ta dễ dàng chấp nhận rằng mọi hành động đích thực của con người là nhằm mưu cầu hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc là gì? Câu trả lời cũng thường dễ dàng không kém: Hạnh phúc là sự thỏa mãn vật chất và tinh thần! Nhưng những yêu cầu vật chất, tinh thần của mỗi cá nhân lại khác nhau tùy theo hoàn cảnh, cá tính, thời gian v.v… Có phải những yêu cầu ấy là tiền bạc, sức khỏe, vợ con, sự tiện nghi… và là sự được khen, được yêu, được lao động, được thực hiện lý tưởng được gần gũi Thượng đế…? Nếu thế thì ý nghĩa của hạnh phúc vẫn mãi mãi là mối trnh cãi. Đạo đức học Phật giáo nêu rõ cái kinh nghiệm cơ bản về hạnh phúc là sự lạc thọ, tức sự thọ nhận cái cảm giác an vui, cái hoan hỷ tâm vậy. Đạo đức học Phật giáo đồng nghĩa hạnh phúc với giải thoát, hiểu hạnh phúc là phù hợp với con đường giải thoát. Đến đây, giáo lý vô ngã của Đức Phật đóng vai trò quan trọng trong đạo đức học Phật giáo. Vì vô ngã là bản chất của hết thảy mọi sự vật, là chân lý nên mọi hành động trái với vô ngã (tức hành động hữu ngã) là trái với bản chất của các sự vật, là trái với chân lý, tức là gây khổ đau, trở ngại cho sự giải thoát. Khi ta thực hiện vô ngã thì ta thấy có hạnh phúc, tức thấy có giải thoát. Vậy vô ngã có thể xem là đồng nghĩa với giải thoát. Trong một nghĩa hẹp, hành động vô ngã là một hành động quên mình, vị tha, là từ bi, hỷ xả, mang tinh thần đạo đức xã hội mà mọi người đều xem là thiện hạnh.
Trở lại việc đánh giá hành động: Đạo đức học Phật giáo lấy tiêu chuẩn giải thoát, vô ngã để đánh giá một hành động và cái chủ thể đánh giá là ý thức giải thoát. Do mức độ tu tập, hành trì, ý thức này có thể cao, thấp khác nhau. Lương tâm, ý thức đạo đức hay ý thức giải thoát mang tính tự do trong chính nó và như đã nói nó có thể bị sai lầm, bị yếu kém khiến một cá nhân bị thối thất hay chịu nhận khổ đau. Cho nên sự tu tập mới được đạo đức học Phật giáo đề cao, đấy là ý nghĩa tích cực của đạo đức học Phật giáo. Chúng ta thông cảm với nhận định hơi vội vàng của J.P. Sartre: “Tự do là nguồn gốc độc nhất của giá trị” (La liberté est I’unique source de la valeur), “Kết quả là, tự do của tôi là nền tảng độc nhất của các giá trị, và không có gì. tuyệt đối không có gì khiến tôi phải chấp nhận một giá trị thế này, thế nọ, một thang giá trị thế này, thế nọ”. Hay của S. de Beauvoir: ” Con người thì tự do, nhưng con người tìm thấy luật tắc của mình trong chính sự tự do của mình nữa.” Sự tự do ấy, nếu không phải là tuyệt đối tức cứu cánh giải thoát thì ít ra cũng phải là trạng thái của một người đã đạt nhiều tiến bộ trong tu tập, đang tiến gần đến giải thoát để có thể có nền tảng vững vàng trong sự phán đoán giá trị! Đấy là sự tự do ở một bậc chân tu chứ không phải là tự do ở bất cứ người nào như Sartre và De Beauvoir quan niệm.
Đức Phật là bậc đã đạt trọn vẹn Giải thoát. Ngài vạch con đường giải thoát cho con người. Giáo lý đạo đức của Ngài không phải là tác phẩm của các văn gia đạo đức như La Rochefoucauld, La Bruyère, Vauvenarge… hay của các triết gia đạo đức như Epicure, Aristote, Kant, Max Scheler… Đạo đức học của Ngài có phần lý thuyết toàn hảo nhưng Ngài chú trọng đến phần thực hành mà Ngài đã thực hiện để đạt giải thoát. Một đạo đức học tuyên bố rằng đời là khổ, đây là khổ, tự nhiên bao hàm sự tuyên bố rằng mọi hoạt động con người là nhằm thoát khổ, giải thoát. Đạo đức học ấy là đạo đức học của giải thoát, tích cực, cụ thể và lạc quan. Tích cực vì nó kêu gọi con người lên đường diệt khổ, khuyến khích sự tinh tấn, hành thiện, cụ thể và thực tiễn vì đối tượng giải thoát là con người, là cuộc đời ngay đây và bây giờ; lạc quan vì nó tuyên bố mọi người đều có đầy đủ khả năng giải thoát tối hậu.
Trần Tuấn Mẫn
(Trích Tập Văn Phật Đản , số 16, 1991)
April 21, 2023
“Tôi Học Phật” và “Áo Xưa Dù Nhàu” ở… Đà Lạt.
Thư gởi bạn xa xôi,
“Tôi Học Phật” và “Áo Xưa Dù Nhàu” ở… Đà Lạt.
Mình có chút việc riêng, đi Đà Lạt vài ba hôm. Chiều 9.4, mới đến Đà Lạt đã “tranh thủ” ghé thăm Gia đình Hoa Sen với nhóm “thiền ca” của nhạc sĩ Thuần Nhiên Nguyễn Đức Vinh (em nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, phong trào Du ca thuở xưa), cùng Phạm Gia Cẩn, Nguyễn Mậu Pháp (Ngũ Hành Sơn), Trần Quốc Dũng, Bác sĩ Đào, Lê Viết Cảnh, bs Tuệ Hương, Diệu Cát, Thảo Nhiên v.v… Theo yêu cầu của các bạn, dịp này muốn được nghe mình nói một chút về hai cuốn sách mới xuất bản: Tôi Học Phật và Áo Xưa Dù Nhàu.
Áo Xưa Dù Nhàu… là những lời Tri Ân chân thành đến những bậc thầy, bậc đàn anh, bạn bè gần xa đã giúp mình trở thành… mình hôm nay trong việc viết lách… Thời gian trôi nhanh, trí nhớ cùn mòn nếu không ghi chép lại ít nhiều kỷ niệm với Nguyễn Hiến Lê, với Võ Hồng, Nguiễn Ngu Í, Dương Cẩm Chương… bởi “Áo xưa dù nhàu, cũng xin bạc đầu gọi mãi tên nhau…” (Hạ Trắng, TCS). Cảm ơn Phanbook nhiều lắm đó nha.
Còn Tôi Học Phật, thì trước hết phải cảm ơn Anh 5 Hiền (Nguyễn Hiền Đức), người cả chục năm kiên trì rị mọ, gò lưng gõ gõ các bài viết về Phật học của mình, rồi tung lên mạng (Thư viên Hoa Sen, 2019) để chia sẻ cùng bạn đạo trong khi mình vẫn còn e dè, muốn giấu nhẹm. Thế rồi, năm 2021, mình biên soạn lại, bổ sung, rồi in nháp một ít bản thảo để “pretesting”, lắng nghe ý kiến các Thầy, các Thiện tri thức. Và sau khi hoàn chỉnh, tháng 3.2023 này, đã được Nhà xuất bản Tổng họp TP.HCM chính thức in ấn và phát hành. Cảm ơn Thanh Thủy, Thi Anh, Mai Quế Vũ… và tất cả.
Trong dịp gặp Gia đình Hoa Sen ở Đà Lạt, tôi nói “Tôi Học Phật” theo một cách riêng của mình, một người bác sĩ học với bậc Y vương, để tự chữa bệnh cho mình và cho bạn bè đồng bệnh tương lân. Những bài học dưới góc nhìn “khoa học thực nghiệm”, không mê tín dị đoan và chia sẻ chân thành từ những trải nghiệm, thực nghiệm trên bản thân mình suốt hơn hai mươi năm qua.
Dịp này, mình nhắc 2 câu thơ của Sư Giới Đức (Minh Đức Triều Tâm Ảnh) tặng cho nhóm Quán Văn do mình đưa đến thăm Sư ở Huyền Không Sơn Thượng ngày 22.3.2023 vừa qua:
Nhẹ nhàng, thanh thản, tự nhiên thôi
Với cả nhân gian một nụ cười…
Và dưới đây là vài hình ảnh buổi gặp gỡ các bạn Gia đình Hoa Sen ở Đà Lạt (ngày 9.4.2023):
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.

Nhạc sĩ Thuần Nhiên Nguyễn Đức Vinh.
April 5, 2023
Thư gởi bạn xa xôi: “Về miền trung…” (tiếp theo)
Thư gởi bạn xa xôi:
“Về miền trung…” (tiếp theo)
Kể tiếp hả? Lúc này mà bạn chịu đọc, lại còn đòi đọc tiếp nữa là mình mừng lắm rồi đó.
Nhưng, mình cũng chỉ có thể thêm vài hình ảnh coi vui thôi nhe.
Lâu nay mơ một chuyến đi Bạch Mã mà chưa có dịp. Có lần mình viết mấy câu:
Tháng hai hẹn về Bạch Mã
Nhìn em múa kiếm dưới trăng
Cỏ cây giật mình sửng sốt
Sương mù tứ phía giăng giăng…
(ĐN)
Lần này mình theo đoàn Quán Văn của Nguyên Minh và các bạn, với lời mời của Võ sư Nguyễn Văn Dũng và Tịnh Thy đi Bạch Mã một chuyến cho biết.

Vọng Hải Đài trên đỉnh Bạch Mã (internet)

Những bờ tường rêu phủ…

Còn chút quán lá đơn sơ…

Vọng Hải Đài, nơi cao nhất ở núi Bạch Mã (1440m).

Võ sư Nguyễn Văn Dũng và Đỗ Hồng Ngọc bên gốc anh đào. (Bạch Mã, 20.3.2023)

Võ sư Nguyễn Văn Dũng, Đỗ Hồng Ngọc và Tịnh Thy.
Ngày nay Bạch Mã đã có năm ba khách sạn mới chỉnh trang, nhiều điểm tham quan rất đẹp như Thác Đỗ Quyên, Ngũ Hồ… và du khách đã bắt đầu về thăm Bạch Mã.
……………………………………………………………………………….
Thêm vài hình ảnh ở Huyền Không Sơn Thượng
Lần nào đến Huyền Không Sơn Thượng, ngoài được gặp Sư Giới Đức để học hỏi, bao giờ mình cũng ghé thăm một nhà sư trẻ, sư Chơn Quán, ở trong một cái cốc nhỏ giữa hồ, có một cái cầu tre lắc lẻo bắc qua. Sư Chơn Quán trước đây là người phụ trách trang web của HKST giúp Thầy Giới Đức – đã đăng một số bài viết của mình nên đã quen biết nhau – nhưng nay trang web tạm ngưng để tập trung cho Facebook, rộng mở và phù hợp hơn. Facebook ngắn gọn, tương tác nhanh nên tiện lợi hơn Website.
Lần này mình cùng vài người bạn ghé cốc thăm sư Chơn Quán, uống ly trà thơm do chính tay Sư pha chế. Phải nói mình rất thích cách bài trí ở đây, có cái gì đó vừa xa lạ vừa thân quen từ xa xưa lắm…
Xin chia sẻ vài hình ảnh cùng bạn xa xôi nhé.
Thân mến,
Hẹn thư sau.
Đỗ Hồng Ngọc.
March 30, 2023
Nguyễn Thị Tịnh Thy: BÙI GIÁNG – HƠN MỘT ĐỜI THƠ
Nguyễn Thị Tịnh Thy:
BÙI GIÁNG – HƠN MỘT ĐỜI THƠ
Tác giả Bửu Ý đặt nhan đề cho cuốn sách là BÙI GIÁNG, MỘT ĐỜI THƠ. Tuy nhiên, những gì mà cuốn sách thể hiện còn hơn cả thế. Bởi vì, qua trang viết của Bửu Ý, Bùi Giáng không chỉ là một nhà thơ, một đời thơ; mà còn là một dịch giả, nhà phê bình văn học, một triết gia.Viết về Bùi Giáng, nói về Bùi Giáng, kể về Bùi Giáng, thêu dệt về Bùi Giáng thì đã quá nhiều. Vì thế, làm thế nào để thể hiện sự riêng biệt, mới lạ là một thử thách đối với người cầm bút.Nhà văn Bửu Ý đã chọn hồi ức và tư liệu để vượt qua thử thách ấy và làm thế mạnh cho mình.Là người có cơ duyên ở gần Bùi Giáng trong những tháng năm tuổi trẻ, Bửu Ý đã kể cho bạn đọc nghe câu chuyện về một chàng thanh niên Bùi Giáng trong cuộc sống đời thường: gần gũi, hiền lành, nhân hậu, trong sáng, liều lĩnh và đa tình nhưng nhút nhát đến mức “yêu trần gian mà chưa dám cầm tay”*.BÙI GIÁNG, MỘT ĐỜI THƠ là bộ sưu tập tư liệu phong phú và công phu về Bùi Giáng từ báo chí, sách vở. Nếu bạn muốn thực hiện công trình nghiên cứu về Bùi Giáng, cuốn sách là một tài liệu quan trọng, cần thiết cho phần “lịch sử vấn đề” của bạn.Qua tư liệu, Bửu Ý đã xây dựng nên một chân dung Bùi Giáng sống động: đi đứng, ăn ở, nói năng, viết vẽ, buồn vui, điên tỉnh… Bùi Giáng có những bình luận rất sắc sảo về thơ Nguyễn Du, Quang Dũng, Hồ Dếnh; có những quan tâm đến thời cuộc và phản ứng chính trị đầy trách nhiệm công dân. Và, bên cạnh một Bùi Giáng trào lộng, tưng tửng, còn là một Bùi Giáng có khi da diết đằm sâu:“Đi về làng xóm năm xưaViếng thăm người cũ, người chưa quên người”.Qua cách xử lý tư liệu, lựa chọn và trích dẫn quan điểm, bình luận cũng như sáng tác của Bùi Giáng, về Bùi Giáng, nhà văn Bửu Ý đã làm sống dậy một Bùi Giáng đa tài đa tình, trí tuệ và minh triết. Đồng thời, từ chân dung và cuộc đời nhân vật, người đọc có thể hình dung được một thời kỳ hoạt động báo chí và học thuật sôi nổi của miền Nam trước 1975.Cuốn sách mạnh về tư liệu, ít nhận định. Nhưng nhận định nào của tác giả Bửu Ý cũng hay, rất sắc; nó mang lại cho người đọc những kiến thức và kinh nghiệm học thuật, kinh nghiệm văn chương quý báu.Văn phong của Bửu Ý giản dị nhưng tinh tế, dùng từ rất “đắt”. Ông cũng “vọc chữ”, “cưỡng ngôn”, cà rỡn, tung hứng, tung tẩy không kém gì Bùi Giáng. Mà, một khi văn phong của người nghiên cứu, khảo cứu bắt nhịp được với văn phong của đối tượng được nghiên cứu là tác phẩm đã đạt đến sự thành công.Có lẽ do quan điểm hoặc do khó khăn riêng, cuốn sách còn thiếu mảng tư liệu học thuật về Bùi Giáng. Dĩ nhiên, nếu chạm đến mảng này, tác giả sẽ phải mất nhiều thời gian và công sức hơn, mà với một người cầm bút U90, đó là điều bất khả.Với tôi, cuốn sách này gây ấn tượng mạnh ở hai điều:1/ Khai thác ký ức, viết về kỷ niệm riêng với một người nổi tiếng, nhưng tác giả Bửu Ý đã không phô bày cái tôi của mình – cái tôi đặc quyền sở hữu ký ức. Đó là sự “lịch lãm” của một quý ông trong văn chương. Tuy nhiên, sự đời là vậy, khi bạn biết đặt mình lui sau thì mình sẽ đứng trước, đặt mình ở ngoài thì mình sẽ được vào trong. Tự nhiên nhi nhiên, trong cuốn sách về Bùi Giáng, ta vẫn thấy được một Bửu Ý có tâm, có tài, có công, có trách nhiệm, nghiêm túc mà hóm hỉnh khi mang đến cho người đọc một Bùi Giáng khác lạ, mới mẻ.2/ Trong tiểu sử Bùi Giáng, nhà văn Bửu Ý đã có một lối viết đúng kiểu Bùi Giáng, mà cũng đúng kiểu “hiện nguỵ” của Bửu Ý:– 1941: Về Quảng Nam chăn dê– 1941-1945: Trở ra Huế vì nhớ nhung gái HuếTôi thích kiểu viết, câu viết tiểu sử “hiện nguỵ” này: “Trở ra Huế vì nhớ nhung gái Huế”.Ui chao! Vì câu viết trên, gái Huế này xin lạy các ông ba lạy!……………………Bùi Giáng, một đời thơ (Bửu Ý), Nxb. Dân Trí, 2023.* Thơ của Minh Đức Triều Tâm Ảnh******Vài hình ảnh buổi ra mắt sách BÙI GIÁNG- Một Đời Thơ của Bửu Ý tại Huế ngày 22.3.2023
Ra mắt sách Bùi Giáng, Một Dời Thơ của Bửu Ý, (ảnh ĐHN, Huế 22.3.2023)

Từ trái Nguyễn Thị Tịnh Thy, Bửu Ý, Nguyễn Khoa Diệu Hà
March 27, 2023
Thăm Sư Giới Đức: HUYỀN KHÔNG SƠN THƯỢNG
Thư gởi bạn xa xôi
Thăm Sư Giới Đức ở HUYỀN KHÔNG SƠN THƯỢNG
Mình vừa làm một chuyến “du hành” khá thú vị “Về Miền Trung…” với nhóm bạn Quán Văn. Không phải Về Miền Trung với miền thùy dương bóng dừa ngàn thông thuyền ngược xuôi… gì đó đâu nhe, lần này… leo núi. Nhờ có Võ Sư Nguyễn Văn Dũng nên mình được leo lên tận đỉnh Bạch Mã, lâu nay ao ước mà chưa được đến. Ôi đường núi cheo leo, ngoằn ngoèo, khúc khuỷu, quanh co, cùi chỏ, thấy mà ớn với một ông già “khú đế” như mình!
Ngày hôm sau, lại có dịp lên Huyền Không Sơn Thượng thăm Sư Giới Đức, tức Minh Đức Triều Tâm Ảnh, một nhà thơ, nhà văn, nhà thư pháp nổi tiếng một thời.
Mình không hẹn trước với Sư. Xưa nay vẫn quen vậy. Cho nên khi gặp Sư, mình nói “Tôi không hẹn trước với Thầy, vì “có duyên” thì gặp cũng tốt, mà không gặp cũng… tốt”. Sư cười. Tay bắt mặt mừng. Sư khác hẳn xưa. Xưa, là hơn 3 năm trước, thấy Sư nghiêm nghị, có vẻ luôn “căng thẳng”. Đó là trước khi Sư nhập thất 3 năm ẩn cư, “để coi có thấy được gì hay không”, có đạt được “quả” gì không. Hôm nay sau 3 năm tu thiền nghiêm nhặt, Sư thấy được chỗ sai chỗ đúng, của Định, của Tuệ, thấy Thiền Định mà không khéo, bước vào đời sống dễ bị 8 ngọn bát phong đập tơi tả. Bây giờ nhìn Sư mình mừng, thấy Thầy thảnh thơi, an nhàn, ung dung, tự tại…
Sư nắm chặt tay mình, bảo tay mình sao cứng chắc vậy, và nói với mọi người Bs Đỗ Hồng Ngọc còn lớn hơn Sư một tuổi! Trong đoàn còn có Nguyên Minh, cùng 82 tuổi với thầy, vốn xưa đã cùng học Khóa 1 Sư phạm Quy Nhơn 60 năm trước!
Mình hỏi thăm Sư về sức khỏe, mừng vì thấy Sư nay an lạc, hạnh phúc, vì mình biết khi Sư ra khỏi thất sau 3 năm đã suy kiệt đến nỗi phải vào bệnh viện “cấp cứu” 6 ngày để được truyền đạm, truyền dịch, phục hồi dinh dưỡng… Bây giờ thấy Sư tủm tỉm cười, mắt sáng , ung dung. Sư thẳng thắn cho biết những “sai lầm” của mình ở năm thứ nhứt, lúc “ham hố” (chữ của Sư) mỗi ngày thức dậy từ 1 giờ sáng, tu tập sai lầm 6 tháng đến nỗi cơ thể bất an, bệnh lý phát triển, sau Sư phải thay đổi, suốt 6 tháng sau mới bình ổn lại. Vào 6 tháng cuối của năm thứ 3, khi Xả thất, sư bắt đầu… “sống” thiền, buông thả, thảnh thơi, Sư thấy đã có được “Nụ cười”.
Sư bảo “ngồi quá nhiều”, “ăn ít quá”. Và Sư có lời khuyên mọi người khi Thiền tập rất dễ đi lạc, nhiều cạm bẫy, không nên đi sâu vào các tầng Định theo sách vở. Kinh điển nhiều khi chỉ là ước lệ, phổ quát, quá vắn tắt nên dễ gây lầm lạc. Mỗi người phải tự thực hành, tự chứng nghiệm, và phải thực hành trong đời sống hàng ngày.
Sư đọc hai câu thơ tặng đoàn:
Nhẹ nhàng, Thanh thản, Tự nhiên thôi
Với cả nhân gian một Nụ Cười…
Vả mình đã thấy được Nụ Cười đó ở Sư Giới Đức hôm nay, giữa Huyền Không Sơn Thượng!
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc
(22.3.2023)
Vài hình ảnh:

Sư Giới Đức và Đỗ Hồng Ngọc tại Huyền Không Sơn Thượng, (22.3.2023)
March 25, 2023
Tuyển Tập TÔI HỌC PHẬT của Đỗ Hồng Ngọc (2023)
Tuyển Tập TÔI HỌC PHẬT của Đỗ Hồng Ngọc
do Nhà xuất bản Tổng hợp TP Hồ Chí Minh ấn hành (2023)

(Bìa Mai Quế Vũ)
Tôi học Phật
Lời thưa,
Càng có tuổi, hình như tôi càng nhận ra có cái gì đó ở ngoài ý chí mình, can thiệp vào mình tùy hứng khiến mình đôi lúc không khỏi chưng hửng, ngỡ ngàng, thầm nghĩ “duyên” chăng? Nhưng duyên là gì thì không biết. “Nghiệp” chăng? Nhưng nghiệp là gì cũng không biết. Thôi thì, cứ để nó trôi chảy, tự nhiên, bởi nó có vẻ chẳng cần đến ta, chẳng phải là ta, chẳng phải của ta…
Ngoài tuổi 80, tôi nghĩ đã đến lúc “về thu xếp lại”, đã đến lúc “nhìn lại mình…” như người bạn nhạc sĩ họ Trịnh kia đã nói.
Về thu xếp lại, bởi “chút nắng vàng giờ đây cũng vội”, vì rất nhanh thôi, các tế bào thân xác kia đã có vẻ rả rượi, ù lì, và cũng rất nhanh thôi các tế bào thần kinh nọ cũng mịt mờ, mỏi mệt… Đầu năm 2019, tôi gom góp in cuốn Về thu xếp lại như một cột mốc, một hẹn hò, rồi cuối năm tiếp tục gom góp in thêm cuốn Biết ơn mình như một nhắc nhở, rồi đến 2022, in tiếp cuốn Buông…
Tôi mong gom góp, tập hợp một số bài viết, một số biên chép bấy nay trong lúc lõm bõm học Phật, thấp thoáng lời kinh, làm thành một tập tư liệu để ngẫm ngợi khi cần và chia sẻ cùng bè bạn thân quen. Muốn thì muốn vậy, nhưng lực bất tòng tâm rồi.
Duyên may lại đến.
Cách đây mấy năm, một buổi chiều, khi đi café với một người bạn trẻ về đến nhà thì nhận được 3 cuốn bản thảo “Tuyển tập Đỗ Hồng Ngọc” dày cả ngàn trang A4 của một người không quen biết gởi tặng. Giật mình. Ai vậy cà? Thấy có kẹp mảnh giấy nhỏ, ghi số điện thoại tên Nguyễn Hiền Đức. Bèn phone thăm hỏi mới biết đó là một bạn đọc quý mến mình, đã “dõi theo” hành trình viết lách của mình từ lâu, nay tỉ mẩn ghi chép lại cả một tuyển tập đồ sộ gởi tặng và nói còn sẽ gởi tiếp mấy tập nữa! Lúc đầu tưởng anh gom góp từ trên mạng, nhưng không, anh cho biết anh đã gò lưng đánh máy từ những trang sách mà anh ưa thích! Thời buổi này. Lạ thiệt.
Rồi hẹn gặp, mới biết Nguyễn Hiền Đức (thường gọi anh 5 Hiền), trước 1975 từng có thời là Thư ký Tòa soạn Tạp chí Tư Tưởng, Trưởng phòng Tu Thư Đại học Vạn Hạnh, thư ký của Thầy Thích Minh Châu. Một hôm, một người bạn bên kia nửa vòng trái đất cho hay thấy có Tuyển tập Đỗ Hồng Ngọc “Thấp Thoáng Lời Kinh” trên Thư Viện Hoa Sen (30/11/2019) tôi khá bất ngờ…
Sau đó, được thư anh 5 Hiền “trần tình”:
Tôi bắt đầu “gõ” và “gõ”, mải mê “gõ” cuốn “TUYỂN TẬP ĐỖ HỒNG NGỌC – THẤP THOÁNG LỜI KINH” này từ năm 2010 và kết thúc năm 2018. Tôi rất thích từ “Thấp thoáng” vì nó thể hiện rất rõ, rất đúng cái chất “thấp thoáng”, “lõm bõm” của tôi khi học Phật.
Ngay trong bước đầu “tập tễnh học Phật” tôi đã chọn cách học hợp với sở thích của mình. Đó là chọn bài, chọn sách rồi… rị mọ. cặm cụi, kiên trì “gõ” vào máy. Cách làm này giúp tôi đọc chậm, đọc kỹ từng đoạn, từng trang, từng bài, rồi chú tâm sửa lỗi. Tôi đọc ít nhất 5 lần cho mỗi trang với lòng thanh thản, thư thái. Tôi không “ép” mình phải ghi, phải nhớ một điều gì cứ để nó trôi chảy như một dòng sông. Rồi biết đâu mười năm sau, hay hơn nữa những gì tôi đã đọc, đã “gõ” sẽ giúp tôi nhiều hơn, tốt hơn trên con đường học Phật. Tôi chỉ đặt ra một thứ kỷ luật tự giác mà tôi phải tuân thủ, đó là mỗi ngày “gõ” ít nhất 5 trang, mỗi tháng tối thiểu 120 trang học Phật (…).
Làm sao không cảm động với một người bạn không quen biết chí tình như vậy. Cho nên tôi đã gởi thêm cho anh cuốn Cõi Phật Đâu Xa viết về kinh Duy-ma-cật. Vậy là tập sơ thảo Tôi Học Phật hình thành dưới sự trợ giúp của Nguyễn Hiền Đức. Tôi nghĩ không có anh 5 Hiền mải mê rị mọ “gõ” và “gõ” như vậy suốt tám năm những trang tôi viết về chuyện “học Phật” của mình rồi mạnh dạn tung lên mạng thì tôi vẫn cứ còn mãi ngần ngại, đắn đo, chưa dám phổ biến. Cho tôi nói lời cảm tạ chân thành đến Nguyễn Hiền Đức (5 Hiền) nơi đây. Thật lạ, hôm qua Nhà xuất bản Tổng hợp TP.HCM vừa gởi tặng tôi bản chính thức Tôi học Phật (2023) vừa in xong này cũng chính là dịp Kỷ niệm 100 ngày Nguyễn Hiền Đức đã đi xa.
Tôi nhớ thuở xưa, nơi rừng Simsapa nọ, Phật nắm trong tay một nhúm lá và hỏi các đệ tử rằng nhúm lá trong tay ta nhiều hay lá trong rừng Simsapa kia nhiều hơn? Rồi ân cần giải thích “Ta chỉ dạy các ông những điều như nhúm lá trong tay này, còn cái ta biết thì như lá trong khu rừng kia…”.
Tôi hiểu nhúm là trong tay Phật chỉ là những “key words”, còn Phật dành nguyên cả khu rừng mênh mông kia cho ta tự tìm lấy, tự học lấy trong chính mình, quay về nương tựa chính mình, “đến để mà thấy”.
Tôi người thầy thuốc, tìm học Phật- bậc Y vương- là để tự chữa bệnh thân – tâm cho chính mình và chia sẻ cho những bạn bè đồng bệnh tương lân. Tôi chưa từng tụng kinh gõ mõ. Tôi chỉ lõm bõm tự học, tự hành, tự lần mò tìm kiếm trong khu rừng bí mật – “Con người, kẻ xa lạ” (L’homme cet inconnu, Alexis Carrel) trong tự bản thân mình đây, một con đường tu tâm dưỡng tánh theo lời bậc “đạo sư” và thấy có nhiều phúc lạc.
Trong tuyển tập Tôi học Phật này, tôi chân thành sẻ chia những điều mình đã học và đã hành suốt mấy chục năm qua. Có thể bạn thấy hạp, có thể bạn thấy không hạp, thậm chí dị ứng. Điều đó là rất bình thường, bởi khi học Phật, bậc đạo sư đã chỉ dạy cho ta mỗi người mỗi khác, tùy “căn cơ”, tùy bối cảnh. Phật là một nhà khoa học, một “thầy thuốc vĩ đại”, không chỉ chữa nỗi đau mà chữa nỗi khổ của kiếp người nên vẫn được xưng tụng là bậc Y vương .
Phật từng dặn dò “Đừng vội tin ta, hãy đến nếm thử đi rồi biết”. Thử là thực hành, nếm là cảm nhận. Nói khác đi là hãy tự mình thể nghiệm, trải nghiệm, tự chứng, tự nội.
Chân thành,
Đỗ Hồng Ngọc
(Saigon tháng 3, 2023)
***
Vài nhận xét:
Ngô Tiến Nhân, người bạn trong Nhóm Học Phật tại chùa Xá Lợi cùng tôi hơn mười năm qua đã có nhưng nhận xét:
(…) Hãy xem cách “lõm bõm” học Phật của Đỗ Hồng Ngọc:
Trước rừng thiên kinh vạn quyển Phật học Anh chọn cho mình chỗ đột phá: Tâm kinh. Đây là cốt tủy của Bộ kinh Bát nhã 600 quyển rút còn 260 từ rồi rút nữa còn 4 từ (ngũ uẩn giai không) rồi kết tinh trong một chữ Không. Đây cũng là liễu nghĩa của Trung quán luận, là hạt nhân của Phật học, ai ngộ nhập được sẽ mở lối vào Phật đạo thênh thang, sẽ đến vô trí vô đắc vô ngã… thật dũng mãnh mà cũng thật sảng khoái!
Nhưng không “túc duyên” thì dễ gì ngộ nhập!
Rồi Anh tấn công vào kinh Kim Cang để giải phóng mình ra khỏi mọi hệ quy chiếu (ưng vô sở trụ), mọi mô thức tư duy, mọi hình thái của não trạng để tự do trực nhận chân lý!
Anh chọn Kinh Pháp Hoa với tinh thần “khai thị chúng sinh – ngộ nhập trí kiến Phật”
Thế là tạm đủ để Anh xây dựng một nền tảng vững chắc cho việc đi hết con đường Phật học!
Rồi nữa Anh chọn kinh Duy Ma Cật để thống nhất Đạo – Đời để xây cầu Bất nhị để thấy đời không chỉ khổ đau mà còn phúc lạc để thấy cõi Phật đâu xa…
Khi “công phá” một công án Anh tiếp cận đa ngành có hệ thống. Anh vừa có tư duy khoa học phân tích mổ xẻ của một bác sĩ y khoa vừa mở con mắt trực giác của một thiền giả cộng thêm sự nhạy cảm của một thi sĩ Đỗ Nghê. Đừng quên Anh có sự mẫn cảm về sinh tử qua các bài thơ viết từ hồi 1965(Thư cho bé sơ sinh) hay “Mới hôm qua thôi”(1993) ở Montreal Canada, có kinh nghiệm cận tử nghiệp và tái sinh sau cơn bạo bệnh cùng kinh nghiệm làm truyền thông với kiến thức tâm lý học và xã hội học. Anh tiếp cận một vấn đề bài bản cả về bản thể luận lẫn phương pháp luận, thấy cả Thể – Tướng đặc biệt là Dụng của nó. Anh đào từ hai đầu theo cách nói của Harari tác giả Lược sử loài người.
(…) Thế nên vẫn phải miên mật văn tư tu, miên mật giới định tuệ, không phải chỉ tọa thiền mà sống thiền, không phải tụng Tâm Kinh mà phải sống Tâm Kinh trong từng sát na để rồi Gate gate paragate parasamgate…
(14-8-2021)
***
Nguyên Giác Phan Tấn Hải:
“(…) nhưng tận cùng thích nhất của tôi vẫn là đọc Đỗ Hồng Ngọc viết về kinh Phật. Và tôi tin, nhiều thế hệ sau sẽ nhớ tới một Đỗ Hồng Ngọc viết về lĩnh vực này, đó là những gì anh đã đọc, đã hiểu, đã sống và đã ghi xuống các trang giấy trọn một pháp giới học Phật của anh.
Làm thế nào Đỗ Hồng Ngọc viết được như thế? Phước đức, học lực của một đời hẳn là không đủ. Hẳn phải là nhiều đời. Tôi suy nghĩ về câu hỏi đó, khi đọc Tôi học Phật
(…) Tuyệt vời nơi Đỗ Hồng Ngọc là “chúng sinh” muốn nghe chuyện gì thì anh nói chuyện đó. Muốn nghe chuyện ứng dụng thế gian, họ Đỗ trở thành một bác sĩ phân tích về sức khỏe thân và tâm. Muốn nghe chuyện giải thoát, họ Đỗ liền trở thành một người kể lại các kinh nghiệm học Phật mà ai cũng có thể học theo và tự chứng ngộ được.
(…) Có thể tin rằng, những gì tác giả Đỗ Hồng Ngọc viết về học Phật sẽ lưu giữ rất lâu trong nền văn học Phật giáo quê nhà, vì toàn văn tuy rời rạc, nhiều chủ đề, nhưng vẫn xuyên suốt là một tập luận thư để chú giải kinh Phật. Điều rất khác giữa Đỗ Hồng Ngọc và nhiều vị tiền bối là từ chỗ rất lơ mơ trong 6 thập niên, chứ không phải vào chùa học Phật từ thời thơ ấu, cho nên văn phong của anh là một pháp giới xen lẫn của một nhà văn, một nhà thơ, và là một nhà khoa học. Đây cũng là chỗ độc đáo không chỉ của anh, mà là của rất nhiều người từ một thế hệ học Phật cùng thời (….).
Một điểm đặc biệt trong Tôi học Phật của Đỗ Hồng Ngọc, và cũng hiếm thấy nơi các tác giả khác: bạn có thể ngưng ở bất kỳ trang nào, ở bất kỳ dòng chữ nào, để tự nghiệm những lời kinh được chú giải ngay trên thân và tâm của bạn. Bạn hãy đọc rất chậm và hãy nghiệm như thế, nơi từng hơi thở của bạn, nơi từng niệm và nơi từng cảm thọ của bạn. Những dòng chữ Đỗ Hồng Ngọc viết xuống trong sách cũng là từ các thể nghiệm thực chứng của tác giả. Đó là những dòng trực giải kinh Phật rất mực trang nghiêm, nơi đó từng dòng chữ đã trở thành những trận mưa hoa để cúng dường chư Phật. Nơi đó là hạnh phúc, là an lạc và là vô lượng công đức.
(Giác Ngộ Online 20.9.2021)
***
Giáo sư Cao Huy Thuần,
trong một thư riêng:
« (…) bây giờ tôi hỏi anh câu này nhé: Anh “học Phật” trước hay học Y trước? Chắc anh sẽ trả lời: hiển nhiên là học Y. Nhưng mà, nghĩ thêm chút nữa, cái gì xúi anh học Y? Cái gì xúi anh thích Y? Cái gì xúi anh thành ông bác sĩ như thế, lúi húi hành nghề rồi lúi húi dùi mài kinh kệ? “Cái đó”, tôi chắc là anh có trước khi học Y. “Cái đó”, tôi cũng chắc là ông Epstein có trước khi thành danh với bác sĩ tâm thần. “Cái đó”, chính là cái xúi anh đến với Phật mà anh không biết đó thôi, anh đến với Phật trước khi học Y. Anh “học Phật” từ lâu rồi, từ kiếp nảo kiếp nao, để bây giờ thành danh với… Đỗ Hồng Ngọc. Cho nên tôi nói: “Tiên học Phật, hậu học…”. Hậu học cái gì cũng được, cái gì cũng thành danh, ít nhất là thành danh con người.
Nhưng tôi chưa nói hết: anh đâu phải chỉ là ông thầy thuốc, cái danh của Đỗ Hồng Ngọc còn là con người thơ. Thơ đến với anh từ trước khi anh làm thơ. Thơ là tiếng nói trong tận cùng thâm cung bí sử của tư tưởng. Cái gì mà tư tưởng không nói nên lời được thì phải diễn tả bằng thơ. Thơ đời Lý đời Trần là như vậy. Và thơ đó, chắc anh đã đọc không phải chỉ ở trong kiếp này. Cho nên bây giờ hồn anh nhập vào thơ của Thầy Tuệ Sỹ. Cho nên bây giờ anh thấy Phật trong thơ. Cho nên bây giờ một tay anh bốc thuốc, một tay anh viết thơ, thuốc thơm mùi thơ, thơ thơm mùi thuốc»…
(Paris 29.10.2021)
***
Năm 2010, tôi nhận được một bức thư từ Canada của một Ni sư:
Xin chân thành cảm ơn Bác Sĩ đã gởi Gươm Báu Trao Tay. Nhận được tập sách tự dưng cảm động. In xuống đọc xong, mới hiểu mình cảm động vì nhận một tấm lòng. Bác sĩ chữa bệnh cho người đời rồi, lại nghĩ làm sao giúp họ bớt khổ. Chúng tôi nghĩ Gươm Báu Trao Tay hay Nghĩ Từ Trái Tim là những lá Thư nối tiếp bài thơ Thư Cho Bé Sơ Sinh của bác sĩ ngày xưa.
Cách viết của bác sĩ thật vui, uyên bác nhưng lại rất nhẹ nhàng, dí dỏm, giúp người đọc – nhất là người trẻ – đi vào Phật Pháp một cách nhẹ nhàng, hứng khởi. Viết về Phật Pháp mà viết như vậy là cả một nghệ thuật. Hiện nay ít người làm được. Xin phép bác sĩ cho chúng tôi được trích đăng & sử dụng tập sách mới này.(…)
GN (Chùa Diệu Không)
***
Nhưng cảm động nhất với tôi là bức thư viết tay của một bé 15 tuổi ở Bình Chánh (Saigon) kể rằng Bà em rất thích cuốn Nghĩ Từ Trái Tim, bắt em đọc mỗi ngày, đọc đi đọc lại cho Bà nghe nên khi bà mất, em đã đốt cuốn sách đó theo Bà…

Từ trái: Đỗ Hồng Ngọc, Thu Trà, Ngân Hà, Kim Quy, Lê Ký Thương. Đường Sách, TP. HCM (25.3.2023).

“Ra mắt sách” Tôi học Phật rất tình cờ ở Đường Sách TP.HCM 25.3.2023
March 18, 2023
Bhante Sujatha (Sri Lanka) thăm chùa Xá Lợi (Tp.HCM-Saigon)
Thư gởi bạn xa xôi (3.2023)
Vài hình ảnh
Bhante Sujatha (Sri Lanka) thăm chùa Xá Lợi (Tp.HCM-Saigon)
Bác sĩ Hồ Đắc Đằng ở Mỹ về thăm, cùng đi với Bhante Sujatha, Sư người Sri Lanka (Tích Lan), 53 tuổi, và mươi Cư sĩ người Việt và Mỹ ghé thăm Nhóm Học Phật tại chùa Xá Lợi Tp. HCM (Saigon) ngày 16.3 2023.
Sư Sujatha trụ trì chùa Blue Lotus ở Illinois, dạy Thiền Từ bi (metta-bhavana), Loving-Kindness Meditation, ông cũng là tác giả các chương trình Morning Coffee, đàm đạo mỗi ngày về Pháp (dharma) trên Zoom. Sư cũng góp sức thực hiện các Chương trình giúp y tế và giáo dục tại Sri Lanka, nên tuy là vị Sư truyền thống Nguyên thủy nhưng hành Bồ-tát đạo có tiếng (www.bhantesujatha.org).
Bs Hồ Đắc Đắng là bạn cùng lớp với Đỗ Hồng Ngọc và Thân Trọng Minh tại Y khoa Đại học đường Saigon (1962-1969), sống ở Mỹ 40 năm nay, mới về thăm lại Saigon lần đầu cùng nhóm bạn đạo. Cha anh là người đã phiên dịch cho Sư Narada (Sri-Lanka) tại chùa Xá Lợi năm 1953, nay anh làm phiên dịch cho chúng mình cũng ngộ thiệt.
Vài hình ảnh về buổi gặp gỡ, trao đổi về Phật pháp với Sư Sujatha.

Từ trái: Hồ Đắc Đằng, Đỗ Hồng Ngọc, Bhante Sujatha, Thân Trọng Minh tại Chánh điện chùa Phật học Xá Lợi (Saigon, 16.3.2023).

Thảo luận tại Phòng họp.

Một tấm hình chụp chung kỷ niệm trước Chùa Xá Lợi.
Những ngày sau đoàn tiếp tục đi thăm Thiền Viện Thường Chiếu, Chơn Không (Vũng Táu), rồi đi Đalat, Nha Trang, Đà Nẵng, Huế… trong chuyến du hành lần đầu đến thăm Việt Nam.
Thân mến,
Hẹn thư sau.
Đỗ Hồng Ngọc.
March 16, 2023
Nguyễn Hiền Đức: ĐỖ HỒNG NGỌC – TIẾNG GỌI SÂU THẲM CỦA Y VƯƠNG
Đôi lời:
Bài viết này do anh Nguyễn Hiền Đức (5 Hiền) thực hiện vào tháng 3.2021, đến nay đã vừa đúng 2 năm. Anh nói anh đã tập hợp “nhiều nguồn tư liệu” từ những bài viết rải rác của tôi trên trang www.dohongngoc.com và trên báo chí, blog, Fb… của nhiều người, để tặng Sinh nhật Bs Đỗ Hồng Ngọc, 81 tuổi. Trong quá trình thực hiện anh cũng rất thận trọng, trao đổi với tôi qua email để chỉnh sửa đôi chi tiết khi cần. Tôi rất quý mến cách làm việc của 5 Hiền (cách gọi thân tình giữa chúng tôi) , cặm cụi, chân thành, nhiệt tình… đáng nể trọng! Thế nhưng tôi vẫn có chút ngại ngần khi bài viết về cá nhân mình, nên không đăng lên blog mình bấy lâu.
Hai năm đã trôi qua từ ngày đó. Anh Nguyễn Hiền Đức đã mất sau thời gian đau bệnh kéo dài tại Mỹ. Ngày 26.2 vừa qua, tại Bệnh Viện Nhi Đồng 1 Tp.HCM có buổi Họp Mặt nhiều thế hệ Thầy thuốc kỷ niệm Ngày Thầy Thuốc Việt Nam (27.2), và cũng để kỷ niệm 67 năm thành lập Bệnh viện Nhi Đồng Saigon, tôi được mời phát biểu, đã nhắc lại những … chuyện xưa khiến các bạn thầy thuốc trẻ bất ngờ tôi có thời làm việc ở Nhi Đồng suốt 12 năm, là Trưởng phòng Cấp cứu và Trưởng Khu Phòng khám (Ngoại chẩn). Lứa tôi dần chẳng còn mấy người, chỉ còn thấy Gs Nhan Trừng Sơn chống gậy từng bước, Bs Nguyễn Hữu Hưng (PGĐ), cô Võ Kim Sa (Điều dưỡng trưởng) tóc trắng xóa, tôi cảm động được gặp lại bác sĩ Bạch Văn Cam, Bs Tường Vy, Ds Cúc, Bs Lại Văn Tiến, Đỗ Hiệp Phố, Nguyễn Văn Sĩ, Ngươn (ngoại)… Bs Trần Tấn Trâm, Nguyễn Thị Ngọc Anh (GĐ) đã mất… Các Bs Trần Ngọc Mạnh, Trần Thành Trai, Lê Văn Tú… cả Cô Bùi Thị Gấm (ĐDT) đều không đến dự được…
Năm nay tôi cũng đã có tuổi, 83 rồi! Nghĩ, có lẽ đã đến lúc nên đăng bài viết của Nguyễn Hiền Đức về Đỗ Hồng Ngọc như một kỷ niệm với riêng người bạn thương quý này, và nhất là cũng để trả lời các thầy thuốc trẻ hỏi thăm chuyện ngày xưa…
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
(16.3.2023)
………………………………………………………………………………………………………….
ĐỖ HỒNG NGỌC –
TIẾNG GỌI SÂU THẲM CỦA Y VƯƠNG
* Thay Quà Tặng mừng Sinh Nhật 81của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc
Tặng Bác sĩ Văn Công Trâm (Đức quốc)
Nguyễn Hiền Đức
Vì sao Đỗ Hồng Ngọc chọn ngành Y?
Đậu tú tài II xong, Đỗ Hồng Ngọc băn khoăn trước ngã ba đường: Vừa muốn học y, lại muốn học sư phạm, học văn khoa. Cuối cùng thì Đỗ Hồng Ngọc quyết định thi vào trường y.
Đỗ Hồng Ngọc chỉ thi vào trường y, theo tôi từ những nguyên do sâu xa, những “ám ảnh không rời” ngay từ quãng đời tuổi thơ côi cút của anh ở quê nhà:
– Nguyện vọng của gia đình;
– Thân phụ mất ở trong rừng vì thiếu thầy, thiếu thuốc. Nỗi đau và sự mất mát to lớn đó đã “đưa”, đã “đẩy” anh chọn nghề thầy thuốc.
– Vì mang đủ thứ bệnh nên mỗi ngày, anh vẫn thường qua lại bằng đò ngang để đến nhà thương thí chích thuốc! Riết rồi anh “ghiền cái mùi nhà thương.”
Tôi tin câu này, lời này của Đỗ Hồng Ngọc: “Riết rồi tôi ghiền cái mùi nhà thương!” Vâng, anh ghiền cái “mùi nhà thương” cũng như tôi đã ghiền cái mùi nhà in, nên tôi đã theo học nhiều khóa về kỹ thuật ấn loát và quản trị nhà in; rất say mê khi nhìn ngắm, tìm hiểu các loại máy in, các loại mực in, giấy in… Tôi mê cái không khí sôi động, ồn ào ở nhà in, mê mùi mực, mùi giấy… nên nhiều buổi trưa tôi nằm chèo queo ngủ ngon lành trên đống giấy vụn tại Ấn quán Đại học Vạn Hạnh sau những giờ chấm morasse bộ Trường Bộ Kinh, Trung Bộ Kinh do Ôn Thích Minh Châu dịch từ Pali ra tiếng Việt và nhiều tác phẩm khác về Phật học, thế học do Tu Thư Đại Học Vạn Hạnh xuất bản mà tôi thực hiện với trách nhiệm là Trưởng phòng Tu Thư. Đến nay, hơn bốn mươi năm sau, tôi vẫn luôn ghiền cái mùi nhà in, vẫn muốn tiếp tục học ngành in và làm thêm việc ở nhà in.
– Cuối cùng, chính lời khuyên chí lý, sáng suốt và trách nhiệm của cụ Nguyễn Hiến Lê mà Đỗ Hồng Ngọc đã quyết định thi vào trường y. Cụ Lê khuyên “nên học y để giúp đỡ cụ thể cho gia đình, nếu học giỏi sau này có thể làm “thầy giáo” và nếu có năng khiếu, cũng có thể viết lách được…!” Thế là Đỗ Hồng Ngọc học y, học thêm văn, thêm xã hội học… rồi viết lách, giảng dạy… suốt mấy chục năm nay.
Được học giả Nguyễn Hiến Lê khuyên nên anh đã nghe theo và bắt đầu dấn thân vào ngành học rất cực nhọc mà cũng rất nhân văn này.
Từ ngày tuyên thệ, đọc lời thề Hippocrates, Đỗ Hồng Ngọc trở thành một bác sĩ “mát tay”, đặc biệt ông ít dùng đến thuốc, luôn chú trọng đến việc chữa cả thân bệnh lẫn tâm bệnh nên trong các dịp lễ Tết, ông thường chúc mọi người: “Thân tâm thường an lạc!” là xuất phát từ cái thân tâm bất dị này.
Học và hành nghề y– Năm 1962, Đỗ Hồng Ngọc đậu vào trường y. Vốn là người ham đọc, ham học, có ý chí và biết tự học nên ngoài việc học y, ông cũng đã ghi danh học thêm ở Đại học Văn khoa, và xã hội học ở Đại học Vạn Hạnh.
Tóm tắt quá trình học và hành nghề y của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc như sau:
* 1962 thi đậu APM vào Đại học Y khoa Sài Gòn.
* Năm 1965 thực tập tại Bệnh viện Từ Dũ, đã đỡ được một ca đầu tiên mẹ tròn con vuông! Với lòng lâng lâng, ông lập bản “phúc trình”, viết ngay sau phần bệnh án một bài thơ nhỏ: Thư Cho Bé Sơ Sinh. Bài thơ khá nổi tiếng này được đưa vào tập thơ đầu tay của ông: Tình Người, xuất bản năm 1967. Có thể nói kể từ năm 1965, Đỗ Hồng Ngọc đã thực sự dấn thân vào lãnh vực Nhi khoa, nên có thể nói ông là một bác sĩ yêu trẻ và có nhiều kinh nghiệm về Nhi khoa.
* Năm 1968 và 1969 là Nội trú ủy nhiệm (Interne fonctionnel) của bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn.
* Năm 1969 tốt nghiệp Đại học Y khoa Sài Gòn.
* Năm 1970, bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ với đề tài “Bệnh Sốt Rét Ở Trẻ Em”, Đỗ Hồng Ngọc được nhận Văn bằng Tiến sĩ Y khoa Quốc gia.
* Năm 1971 là bác sĩ điều trị tại Dưỡng đường Nhi khoa Trần Bình Trọng, Chợ Lớn (GĐ Bs Trần Văn Còn).
* Năm 1972, xuất bản cuốn sách đầu tay: Những Tật Bệnh Thông Thường Trong Lứa Tuổi Học Tròdo học giả Nguyễn Hiến Lê đề Tựa. Trong tập này Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chia sẻ với các bạn trẻ những kinh nghiệm về tổ chức việc học và cách học sao cho có hiệu quả ngoài các cách phòng tránh bệnh thường gặp ở lứa tuổi.
* Năm 1973, Đỗ Hồng Ngọc làm Trưởng phòng Cấp cứu Khu Ngoại chẩn Bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn
* Năm 1974, xuất bản cuốn Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng. Cuốn này được Giáo sư Phan Đình Tuân, Giám đốc Bệnh viện Nhi Đồng thời Đỗ Hồng Ngọc làm việc viết Lời Tựa. Chính Giáo sư Phạm Đình Tuân cũnglà người đã đỡ đầu luận án tốt nghiệp của Đỗ Hồng Ngọc và trong Lời Tựa cho cuốn sách này ông gọi là “sách gối đầu giường cho các bà mẹ.”
* 1977 Trưởng khu Phòng Khám và Cấp cứu Bệnh viện Nhi Đồng I (Bv Grall thành lập bệnh viện Nhi Đồng 2).
* Từ năm 1981, là Giảng viên thỉnh giảng Bộ môn Nhi, Đại học Y Dược. Trong thời gian công tác tại đây, ông đã đỡ đầu luận văn khoảng 10 đề tài cho các thầy thuốc trẻ. Ông còn viết nhiều cuốn sách y học phổ cập như Những Bệnh Nguy Hiểm Thường Gặp Ở Trẻ Em, Nuôi Con, Săn Sóc Con Ở Nơi Xa Thầy Thuốc.
* Từ những năm 1984 – 1986, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc triển khai các Chương trình “Săn Sóc Sức Khỏe Ban Đầu Cho Trẻ Em” ở Quận 6, để làm thí điểm phòng bệnh từ xa với một chiến lược mới, cần có sự tham gia của cộng đồng và sự phối hợp liên ngành. Ông được sự đồng tình ủng hộ của nhiều đồng nghiệp và trường Đại học Y Dược thành phố lúc đó đã gởi nhiều sinh viên theo học và làm luận văn về hướng Nhi khoa xã hội này. Và ông bắt đầu thực hiện các buổi nói chuyện trên Đài Truyền hình và Đài Phát thanh. Từ năm 1986 ông ở trong nhóm thực hiện Chương trình Săn sóc Sức khỏe Ban đầu cho xã Hiệp Phước, Nhà Bè
* Từ 1986, Giám đốc Trung Tâm Truyền Thông – Giáo Dục Sức Khỏe Thành phố Hồ Chí Minh.
* Ông triển khai hai bộ môn mới do ông làm chủ nhiệm là Bộ môn “Khoa học Hành vi và Giáo dục Sức khỏe” thuộc Trung tâm Đào tạo và Bồi dưỡng Cán bộ Y tế Thành phố (nay là Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch) và Bộ môn Sức khỏe Phụ nữ của Đại học Mở. Ông còn thực hiện “Chương trình Giáo dục Sức khỏe Phòng chống AIDS, Thuốc lá” v. v…, dạy học, viết báo…
* 1993 Tu nghiệp Y tế công cộng tại Đại học Harvard Hoa Kỳ và 1997 Giáo dục Sức khỏe tại CFES Paris, Pháp.
* Từ năm 1989 đến năm 2000, ông giữ mục Phòng Mạch Mực Tím trên báo Mực Tím, một tờ báo dành cho lứa tuổi mới lớn để giúp các em giải tỏa những băn khoăn thắc mắc của lứa tuổi mình, những băn khoăn thắc mắc về phát triển tâm sinh lý, về bệnh tật… Trước 1975, ông đã viết cho các báo Tuổi Ngọc, Mây Hồng, rồi sau này là Khăn Quàng Đỏ, Mực Tím… những tờ báo dành cho tuổi trẻ.
Nhân dịp Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc nghỉ hưu (2006), Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố đã tái bản cuốn Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng được cập nhật và bổ sung đầy đủ – gần 400 trang mà ông xem là một món quà nhỏ gởi đến các ông bố, bà mẹ trẻ mới sinh con đầu lòng…Một cuốn sách về y học mà được tái bản đến hơn 40 lần, quả là một kỷ lục. Năm 2008, cuốn sách này nhận “Giải Bạc Sách Hay”.
Trả lời câu hỏi của các học trò, trong một buổi giao lưu tại Trung tâm Truyền thông và Giáo dục sức khỏe:“Thưa thầy, kinh nghiệm của thầy khi đi nước ngoài, bài học thầy áp dụng vào ngành truyền thông – giáo dục sức khỏe của Việt Nam?”
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chân thành chia sẻ:
“Thầy có không nhiều dịp đi nước ngoài, nên mỗi dịp đều là một cơ hội để được học thêm và rút kinh nghiệm đem về áp dụng những điều hay. Lần nào thầy cũng mang về một lô sách và tài liệu để sử dụng cho ngành mình và kể cả về đào tạo y khoa, như lần đi dự hội nghị về “Đào Tạo Chuyên Viên Phát Triển Sức Khỏe” của WHO tại Ai Cập (1988), thầy được mời tham gia trong nhóm sáng lập Trung tâm Đào tạo và Bồi dưỡng cán bộ y tế thành phố, sau này là Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch. Nhờ thời gian tu nghiệp ở Đại học Harvard (1993), thầy về triển khai Bộ môn Khoa Học Hành Vi và Giáo Dục Sức Khỏe cho trường. Lúc tu nghiệp ở CFES, Paris (1997) thầy thấy họ làm nghiên cứu về Giáo dục sức khỏe rất bài bản, dựa trên đó xây dựng các chương trình can thiệp có hiệu quả, khi về, thầy củng cố thư viện T4G, lập bộ phận tổ chức tư liệu (documentation) và đẩy mạnh các nghiên cứu khoa học trong lãnh vực giáo dục sức khỏe. Khi đi Ấn Độ dự Hội thảo quốc tế về HIV/AIDS (1996) thầy ứng dụng “truyền thông thay đổi hành vi” cho những lớp huấn luyện theo phương pháp giáo dục chủ động, tạo tham gia…
Tóm lại, học đối với thầy bao giờ cũng đi đôi với hành. Học mà không hành thì không thể nào “chín” được. Thầy cũng mong các em: đi học, nhất là du học không chỉ để lấy cái bằng cấp về treo, để “hù” thiên hạ… mà phải rút ra được bài học gì ứng dụng phù hợp vào hoàn cảnh nước ta với sự sáng tạo riêng của mình. Nhân dịp cũng nói thêm với các em rằng khi tiếp các đoàn chuyên gia quốc tế, đừng thụ động đối phó, lo trả lời những câu hỏi của họ đặt ra mà phải chủ động… đặt câu hỏi, đưa ra những ý tưởng của mình để tranh luận, từ đó mới có cơ hội học hỏi lẫn nhau…”
Đối với các bạn trẻ mong muốn chọn ngành y làm con đường nghề nghiệp, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chia sẻ:
“Rất hoan nghênh các bác sĩ trẻ này. Đây là một ngành đang có nhu cầu rất lớn của xã hội. Nhưng chọn học y là chọn con đường gian nan, hằng ngày trực diện với những nỗi đau nỗi khổ của kiếp người (sanh, lão, bệnh, tử)… Phải thực sự yêu nghề và có năng lực. Nói chung, học y cần có một lý tưởng nhân đạo, một “tiếng gọi sâu thẳm” (vocation) của nghề nghiệp. Nếu học y để mong đầu tư… làm giàu trên bệnh nhân thì không nên! Thực ra học y cũng rất thú vị, nhiều thử thách đòi hỏi trách nhiệm cao. Luôn đứng trước lương tâm của mình. Hạnh phúc rất lớn khi thấy mình sống hữu ích cho gia đình, cho cộng đồng, cho xã hội. Bà con mình thường nói:“Cứu sống một mạng người bằng… lập năm bảy kiểng chùa” phải không”?
Trò chuyện, tâm tình, gởi gắm niềm tin vào các bạn trẻ đang học ngành y, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc nói:
“Để thành công, phải thực sự say mê, cần phải đi chuyên sâu về một lãnh vực nào đó nhưng đồng thời không quên mở rộng kiến thức văn hóa nói chung. Phải học hỏi không ngừng. Thầy thuốc là một sinh viên y khoa suốt đời. Không học thêm thì sau vài ba năm đã lạc hậu. Nghiên cứu, giảng dạy là cơ hội học tập tốt nhất. Đừng quên chia sẻ kiến thức của mình với người bệnh và luôn tôn trọng lắng nghe họ, sẽ học được rất nhiều từ họ.”
“Y khoa là một khoa học nhưng cũng là một nghệ thuật. Nó gắn liền với thân và tâm của con người. Mà cái gì đã liên quan đến con người thì luôn là một “nghệ thuật’’ chứ, phải không? Cho nên ngày nào y khoa trở thành hoàn toàn máy móc thì nguy cho con người lắm! Khi máy móc hóa hay thương mại hóa mối quan hệ “thầy thuốc – bệnh nhân’’ thì có nhiều vấn đề đặt ra.
Đỗ Hồng Ngọc và những “sở đắc” về ngành yNăm 1972, tức là chỉ ba năm sau khi tốt nghiệp Bác sĩ Y khoa Quốc gia, Đỗ Hồng Ngọc xuất bản cuốn Những Tật Bệnh Thông Thường Trong Lứa Tuổi Học Trò trong loại y học phổ cập. Theo Đỗ Hồng Ngọc:
“Cuốn sách đầu tay không những được các em học sinh mà cả các bậc phụ huynh cũng nồng nhiệt đón nhận. Nhà văn Trần Phong Giao – Tổng thư ký báo Văn lúc đó – đã bắt con mình học… thuộc lòng cả một chương trong sách! Nhà xuất bản Lá Bối của thầy Từ Mẫn độc quyền phát hành và chỉ vài tháng sau sách đã được tái bản”. Trong lời Tựa cuốn này, học giả Nguyễn Hiến Lê viết:
“Tập này là tác phẩm đầu tay của ông. Ông dùng kinh nghiệm bản thân khi đi học và đi dạy (vì như một số sinh viên khác, ông phải tự túc), cùng những sở đắc trong ngành y để hướng dẫn các bạn học sinh trong việc giữ gìn sức khỏe, ngừa trước những bệnh thông thường và khi bệnh đã phát thì nên làm gì. Yêu nghề và có lương tâm, ông không mách thuốc bừa bãi như thỉnh thoảng chúng ta thấy trên một số báo, ông phản đối thái độ ‘vô trách nhiệm’ đó”.
Từ đó chúng ta có thể thấy, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc tuy mới ra trường 3 năm mà đã dùng kinh nghiệm bản thân khi đi học và đi dạy, cùng những sở đắc trong ngành y để hướng dẫn các bạn trẻ giữ gìn sức khỏe… Ông lại rất yêu nghề và có lương tâm. Tri thức chuyên ngành và lương tâm của người thầy thuốc ngày càng khẳng định “sở đắc”, tầm nhìn mới của ông trong ngành y.
Năm 1974, Đỗ Hồng Ngọc hoàn thành cuốn Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng, lúc ông đang làm việc tại Bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn và cũng vừa có 3 đứa con “đầu lòng”. Cuốn này được cụ Nguyễn Hiến Lê góp ý và “khen” Đỗ Hồng Ngọc là một thầy thuốc nhi khoa tốt, yêu trẻ con.
Tôi cảm kích và vui mừng về bước khởi đầu viết lách của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc khi đọc những nhận xét về tác phẩm này của những người đồng nghiệp, những bậc đàn anh, những người Thầy của Đỗ Hồng Ngọc. Trước hết là bài Tựa của Giáo sư, Giám đốc Bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn Phan Đình Tuân, cũng là người đỡ đầu luận án tốt nghiệp của Đỗ Hồng Ngọc. Bài Tựa có đoạn viết:
“Đọc quyển sách Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, các bà mẹ sẽ tìm thấy những lời chỉ dẫn ân cần về những vấn đề thiết thực, để bớt những bỡ ngỡ băn khoăn, lo lắng vô ích. Thêm vào đó, tác giả còn đả phá những thành kiến sai lầm, những tập quán nguy hiểm từ lâu vẫn lan tràn ở nước ta gây nhiều tai hại cho trẻ nhỏ… (…)
Một quyển sách về y học, dù là y học phổ thông, thường thường rất khô khan, ít ai muốn đọc, nhưng quyển sách của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc lại khác. Tác giả có lối hành văn trong sáng, nhẹ nhàng, thân mật, gần gũi, có chỗ dí dỏm nên thơ, đọc không biết chán.
Tôi mong rằng quyển sách này sẽ là sách gối đầu giường không những của các bà mẹ sanh con đầu lòng mà còn của tất cả các bà mẹ vậy.”
Tôi đọc 16 cuốn gọi chung là “Câu chuyện sức khỏe” từ tác phẩm đầu tay của ông xuất bản: Những Tật Bệnh Thông Thường Trong Lứa Tuổi Học Trò (1972),đến các tác phẩm mới nhất là Sức Khỏe Gia Đình, Ăn Vóc Học Hay và Thiền Và Sức Khỏe. Rồi đọc tiếp 18 bài Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trả lời phỏng vấn trên nhiều tờ báo, chung quy ông cũng đề cập đến vấn đề giữ gìn sức khỏe, nâng cao sức khỏe và chất lượng cuộc sống theo định nghĩa về sức khỏe của WHO: “Sức khỏe là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái (well being) về thể chất, tâm thần và xã hội chứ không phải chỉ là không có bệnh hay tật.”
Càng đọc nhiều sách loại này, tôi càng thấy rõ Đỗ Hồng Ngọc xem cuộc sống là một điều kỳ diệu, tôn vinh giá trị gia đình, xác quyết mối quan hệ thân – tâm không thể tách rời nhau. Ông hô hào mọi người hãy đầu tư cho chính mình để được hạnh phúc. Mỗi người hãy trở về với hải đảo của mình; hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi theo lời dạy của Đức Phật. Ông kêu gọi mọi người hãy sống tự tại hơn để hạnh phúc hơn, ông thành tâm cầu mong mọi người thân tâm thường an lạc. Ông chia sẻ những kinh nghiệm, trải nghiệm và thể nghiệm từ bản thân mình để xiển dương những lợi ích và lợi lạc của việc tập thở, tập thiền, hành thiền. Với ông tu là học và tu là hành… nhờ đó mà ông được nhiều người tin cậy và làm theo hướng dẫn của ông. Những bài trả lời phỏng vấn của ông về y học, vốn là chuyên ngành sâu, là nghề và nghiệp của ông nên ông viết luôn luôn rõ ràng, rành mạch, chính xác, với lời lẽ chân thành, thân ái, gần gũi, thấu cảm nên người đọc vừa tin yêu vừa phấn chấn. Làm được vậy chẳng dễ tí nào! Những lời ông tâm tình, trao đổi, gợi ý, chia sẻ với các bạn trẻ, với những học trò cũ vừa chân tình vừa cảm động, vừa ý nhị sâu sắc, vừa thiết thực, cụ thể, có lúc nghiêm khắc nhưng đầy lòng khoan dung và khích lệ. Hơn 50 năm trước tôi đã đọc nhiều cuốn sách, có cuốn tôi gọi là “cuốn sách cứu người”, cuốn sách “làm thay đổi cuộc đời” của cụ Nguyễn Hiến Lê, thì nay đọc sách, đọc các bài viết về y, về Phật họccủa Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc tôi cũng có cảm nhận sâu sắc và chân thành như vậy. Xin hết lòng biết ơn Thầy Nguyễn Hiến Lê và Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc!
Trong các bài viết về chuyên đề sức khỏe, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc luôn cẩn trọng, khiêm tốn, vui vẻ. Ông luôn luôn dung dị mà sâu sắc, dí dỏm, hóm hỉnh, trí tuệ, thông minh, sắc sảo mà gần gũi và thân ái. Ông thể hiện tròn đầy lòng chân thành, sự thấu hiểu, thấu cảm nên mang tính thuyết phục cao đối với đông đảo người đọc. Tôi rất tâm đắc khi đọc những bài này của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc và xem nó là một trong những dấu ấn sâu đậm, đáng yêu và sống lâu bền trong lòng người đọc.
Ở đây, tôi xin phép được trích dẫn một số cảm nhận chân thành của bạn đọc để làm rõ thêm ý kiến mà chúng tôi đã nêu trên:
Yumi.multiply.com
(…) Ở đó, tôi không chỉ nắm bắt được những kiến thức khoa học để nuôi con mà còn gặp được tấm lòng một người cha vĩ đại. Ông kể chuyện của con mình, kể về nỗi buồn lo, ân hận của mình để mà truyền kinh nghiệm cho bạn, cho tôi. Khi con mọc răng nóng sốt, khi con quấy khóc, ốm đau, khi con chán ăn, khi con biết lẫy, biết bò…ôi đều giở sách ra, đôi khi không chỉ đọc để biết phải làm gì mà còn tìm trong đó một nguồn an ủi, vỗ về.Mỗi lần nâng quyển sách ấy trên tay, tôi không nghĩ mình đang đọc sách mà đang trò chuyện với ông, ấm áp và tin tưởng lạ thường!
blog.dongchay.com
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc không phải viết theo phong cách của một bác sĩ cho các đồng nghiệp, không phải cho thân nhân người bệnh, cũng không phải theo khuôn mẫu của một sách giáo khoa khô khan. Bác sĩ viết như người bạn viết cho người bạn, người anh, người chú lớn tuổi nhiều kinh nghiệm viết cho những người em bắt đầu làm bố, làm mẹ. Lời lẽ thân thiện, dễ gần, hình ảnh sống động, dễ hiểu, trình bày khoa học, dễ tra cứu. Quả thực, mẹ học được rất nhiều từ cuốn sách và cũng đã nhiều lần cuốn sách đã giải tỏa cho mẹ những ưu tư , rồi cả những hủ tục, những quan niệm sai lầm khi nuôi con của các bà mẹ ngày xưa.
Mẹ rất thích cuốn sách, đọc đi đọc lại nhiều lần, ngẫm nghĩ những điều nằm ngoài chuyên môn mà bác sĩ Ngọc đã gửi gắm. Mẹ cảm thấy việc sinh con, nuôi con ý nghĩa hơn. Mẹ cũng cảm thấy trách nhiệm của bố và mẹ lớn lao hơn khi giờ đây, bố mẹ là người cha, người mẹ và trước kia, bố mẹ cũng là những người con bé bỏng và ông bà nội ngoại đã phải vất vả ra sao mới có bố mẹ, có con như bây giờ…
Lê Uyển Văn says
Vẫn là phong cách của Đỗ Hồng Ngọc, con chữ của Đỗ Hồng Ngọc – lấp lánh yêu thương – sao như lần đầu được gặp, chúng tôi đọc mải miết, những kiến thức đã từng biết bỗng trở nên gần gũi và sống động lạ thường.
Không đúc kết nào gọn gàng hơn “ BUSĂC” – phổ biến những điều căn bản nhất để nuôi con sao cho khỏe mạnh. Không cách so sánh nào cụ thể, dễ nắm bắt mà xúc động hơn cách hướng dẫn làm dung dịch như Oresol tại nhà : “…pha xong nếm thử thấy nó y như nước mắt là được / Nước mắt ở đâu mà thử?/ Thì bà mẹ nào có con tiêu chảy cấp mà không khóc chứ?”. Cũng không gì thuyết phục hơn khi khuyên mẹ tự làm thức ăn cho con: “Bây giờ có nhiều thức ăn làm sẵn / Phải, nhưng không có thứ “tình thương” làm sẵn nào cả !”….
… “ Mẹ cứ kỳ vọng vào con đi”,“ Có hiểu mới thương”, “ Thương nhớ… đòn roi”… đều là những “Bài học quý giá” mà tôi, các con tôi đang rất cần. Có những điều, tôi không sao nói được với con mình thì tác giả đã nói hộ rồi, tôi chỉ cần hỏi “con đã đọc “bài học quý giá” của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chưa?”, con đáp “dạ, rồi!”,tôi nghe như trút vài gánh đá, đọc rồi nghĩa là con hiểu con phải làm gì để đối diện với kỳ thi đang rất gần kề.
Với ông, y khoa là một khoa học nhưng cũng là một nghệ thuật. Kỹ thuật y khoa càng tiến bộ thì càng cần hơn tính nhân văn trong y học vì nó đứng trước cái sống, cái chết, cái đau, cái khổ của kiếp người. Y học ngày càng tiến bộ, kỹ thuật ngày càng cao, thuốc men ngày càng nhiều thì… bệnh tật cũng ngày càng phát triển, gia tăng, đôi khi đe dọa cả hành tinh…
Vì thế, ông hô hào: “Bớt kỹ thuật – Thêm nhân văn” và hãy đầu tư cho chính mình để được hạnh phúc. Ông quan tâm tới khía cạnh tâm lý xã hội của vấn đề chứ không đơn thuần ở góc độ bệnh lý. Ông khởi xướng và đã cùng với cộng sự, học trò tập trung nhiều công sức, tâm huyết, trí lực vào việc xây dựng và phát triển ngành Truyền Thông – Giáo Dục Sức khỏe và Nâng cao sức khỏe.
Ông cảnh báo về nguy cơ lớn nhất của ngành y là đi quá sâu vào kỹ thuật và tách hẳn cái thân ra khỏi cái tâm, thậm chí trong cái thân lại chẻ nhỏ ra thành những mảnh thân nhỏ hơn nữa để đi chuyên sâu. Ông cho rằng điều đó có lợi về mặt khoa học nhưng lại làm cho con người không còn toàn vẹn nữa vì thân và tâm không thể chia chẻ được và không thể nào có cái thân mà không có cái tâm và ngược lại: Hai cái đó vốn là một. Vì thế, một người thầy thuốc khi chữa bệnh cho bệnh nhân, nếu chỉ thấy cái thân bệnh, mà không thấy cái tâm bệnh, tức là chỉ thấy cái “đau” mà không thấy được cái “khổ” của họ thì không thể chữa thành công.
Ông băn khoăn, trăn trở trước nguy cơ kỹ thuật hóa, thương mại hóa ngành y. Có cách nào làm giảm bớt nguy cơ đó không? Có cách nào phục hồi tính nhân bản của ngành y như những “ngày xưa thân ái” không? Dĩ nhiên không thể trở lại thời kỳ y khoa phù thủy, nhưng cũng không thể đẩy đến bờ vực thẳm của y khoa kỹ nghệ… Trước thực trạng, y khoa ngày càng nặng về kỹ thuật., người thầy thuốc trẻ dần dần có khuynh hướng chạy theo kỹ thuật, xa cách dần với… con người. Nó làm cho người thầy thuốc trở nên bí hiểm… chẳng khác gì các phù thủy của những bộ lạc ngày xưa! Thế nhưng con người từ xưa đến nay vẫn không thay đổi: cũng những lo âu, phiền muộn, sợ hãi, cũng những ganh tị, ghen ghét, mừng vui, cũng vẫn già nua, tuổi tác, ốm đau bệnh hoạn…
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đưa ra một số giải pháp, theo tôi là mới mẻ, thiết thực và hiệu quả:
“Chỉ có cách là phá vỡ huyền thoại (démystification) về người thầy thuốc, về nghề y và nâng cao kiến thức của người dân để họ tự bảo vệ sức khỏe của mình và hợp tác với thầy thuốc một cách có ý thức. Bên cạnh việc thay đổi chương trình giảng dạy ở các đại học y khoa sao cho ngành y vừa kỹ thuật mà cũng vừa nhân văn, đưa các môn tâm lý, xã hội, nhân chủng, quan hệ thầy thuốc – bệnh nhân, y đức, nghĩa vụ luận… vào giảng dạy. Giáo dục sức khỏe là biện pháp cần thiết để nâng cao dân trí, thay đổi hành vi có hại sức khỏe của cá nhân và góp phần đề ra các chính sách nhằm nâng cao sức khỏe cộng đồng…”
Muốn giải quyết vấn đề bệnh ngày càng nhiều, bệnh viện quá tải…, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc thấy cần “phải giải quyết cái gốc từ xã hội, tức là phải giải quyết trên vấn đề sức khỏe toàn diện chứ không chỉ là vấn đề y tế đơn thuần. Y tế chỉ cung cấp dịch vụ chữa bệnh, còn sức khỏe bao gồm cả môi trường sống, môi trường xã hội và thiên nhiên, cho đến hành vi, lối sống của mỗi cá nhân. Đã đến lúc cần giải quyết trên một bình diện rộng. Một mặt, ngành y tế tổ chức lại hệ thống chăm sóc sức khỏe tốt hơn, mang tính dự phòng tích cực từ cơ sở, nâng cao dân trí để mọi người biết tự bảo vệ sức khỏe cho cá nhân mình, gia đình và cộng đồng. Mặt khác, xã hội phải coi trọng việc đầu tư chăm sóc sức khỏe người dân hơn là tập trung mở thêm nhiều bệnh viện để hứng bệnh tật, tức là chăm lo bảo vệ môi trường, quan tâm giáo dục từ tuổi ấu thơ nhằm thay đổi hành vi, lối sống với các chương trình nâng cao sức khỏe (health promotion).
Từ kinh nghiệm bản thân, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cho rằng:
“Truyền thông trị liệu”, “Truyền thông thay đổi hành vi” không dễ tí nào! Nó là một khoa học, bao gồm cả tâm lý- xã hội – nhân chủng (văn hóa) ứng dụng vào ngành y, giúp cải thiện mối quan hệ thầy thuốc – bệnh nhân và nâng cao y đức. Làm sao người thầy thuốc thấy được nỗi khổ sau nỗi đau, để thấu cảm với người bệnh. Một lời nói, một cử chỉ của thầy thuốc có thể làm cho bệnh nặng hơn hay nhẹ đi, vơi đi. Những kỹ năng ứng dụng này phải bằng cái tâm của người thầy thuốc.” Và rằng: “Thầy thuốc không chỉ là một chuyên viên tư vấn (consultant) về y học mà còn phải là một chuyên viên tham vấn (counselor) về sức khỏe, bởi người bệnh đến với họ vì tin tưởng rằng người thầy thuốc ngoài việc chữa bệnh còn có thể an ủi, giúp đỡ họ. Người bệnh cũng rất nhạy cảm với những “truyền thông không lời” trong mối giao tiếp đặc biệt này. Chỉ cần nhìn nét mặt, cử chỉ, nghe giọng nói, cái vỗ vai, cái bắt tay… cũng được bệnh nhân hiểu bao nhiêu điều…”
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc mong muốn bản thân ngành y cần coi trọng vấn đề nhân sự của ngành, vì không chỉ cần có kỹ năng, có học thuật mà còn cần đến tấm lòng, vì đó là con đường của y đức và y đạo.” Ông cho rằng: “Nói y đức suông mà không có tay nghề thì… hại người ta nhiều hơn, làm người ta “đau” nhiều hơn. Còn giỏi kỹ thuật chuyên môn mà thiếu y đức thì làm cho người ta “khổ” nhiều hơn.
Riêng vấn đề y đức phải được quan tâm đúng mức, đặt trong hệ thống đào tạo người thầy thuốc tương lai. Rồi đây, quản lý bệnh viện dần dần sẽ là những doanh nhân chứ không phải là bác sĩ, các bác sĩ sẽ chỉ là người làm công tác ăn lương. Y đức như vậy phải được mở rộng cho giới doanh nhân “khai thác” ngành y.”
Đỗ Hồng Ngọc theo ngành Nhi khoa và thực sự “say mê” trẻ em. Vì vậy mà Đỗ Hồng Ngọc đi đến một kết luận đáng chú ý: “Tôi thấy rõ một điều là dù người thầy thuốc có “ba đầu sáu tay” cũng không thể cứu giúp được trẻ con nếu người mẹ, gia đình vẫn mắc phải những sai lầm tai hại. Từ đó tôi luôn quan tâm đến lãnh vực giáo dục sức khỏe, làm sao để giúp bà mẹ những kiến thức tối thiểu cần thiết để nuôi con khỏe mạnh, không ốm đau bệnh tật.” Ông cho rằng, bà mẹ mới thực sự là “trung tâm bảo vệ sức khỏe” của con mình chứ không phải là bệnh viện hay các Trung tâm y tế.”
Trong Lời Ngỏ cuốn Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc viết:
“… ở đây không có “ông bác sĩ” viết cho thân nhân trẻ bệnh mà chỉ có người bạn viết cho người bạn, chỉ có người trong gia đình viết cho anh chị em mình, cho nên tôi viết bằng một giọng thân mật và cố gắng tránh những lý thuyết, những danh từ chuyên môn dễ nhàm chán”. Và trong lời Viết thêm ông bày tỏ một cách chân tình với bạn đọc: “Cuốn sách là những lời tâm tình, chia sẻ của một người vừa là thầy thuốc, vừa là người cha những năm xưa, nay đã trở thành ông nội, ông ngoại của mấy nhóc nhỏ rồi! Thời gian trôi nhanh thật.”
Trong nhiều thập niên và mãi đến giờ, cuốn sách này đã trở thành cuốn “sách gối đầu giường”, là “bửu bối”, là “báu vật” theo cảm nhận chân thành của nhiều người mẹ qua nhiều thế hệ.
Đỗ Hồng Ngọc thổ lộ: “Không gì vui hơn khi các bà mẹ nói rằng nhờ cuốn đó mà họ đã nuôi con được khỏe mạnh, và đặc biệt đã làm cho họ vơi bớt nỗi lo âu. Đối với tôi, bà mẹ mới thực sự là “trung tâm bảo vệ sức khỏe” của con mình chứ không phải là bệnh viện hay các Trung tâm y tế.”
Sau hai cuốn sách chuyên ngành mang tính phổ thông, thiết thực và có ích đó được đông đảo người đọc đón nhận và yêu thích, Đỗ Hồng Ngọc vẫn luôn luôn âm thầm đọc, học, viết. Có thể nói ông đã kết hợp nhuần nhuyễn, tài tình, khéo léo, hiệu quả đối với công việc “bộ ba” của ông: truyền thông giáo dục sức khỏe – dạy học – viết lách. Ông đã nghiền ngẫm viết lách, giảng dạy, chia sẻ kinh nghiệm với người khác. Để làm được những điều đó ông phải đọc, học, trải nghiệm rất nhiều và ông cho rằng “Viết cũng là học”. Vào thời điểm này, ông đã có ba cuốn sách về lãnh vực nhi khoa được phổ biến khá rộng rãi và một số sách viết cho tuổi già; mảng sách viết về học… Phật.
Trong buổi giao lưu với học trò cũ, ông tâm tình và chia sẻ như sau:
“Những năm cơ cực sau 1975, thầy bận rộn suốt ngày với bệnh nhi ở phòng cấp cứu Bệnh viện Nhi Đồng, ở nhà trông cậy một mình cô nuôi dạy các con. Nhiều bữa thầy về nhà tối om, đem thịt cá được “Tổ đời sống” chia cho đã ôi thiu về, cô chỉ biết cười trừ…”
Tình cảnh khó khăn, bi đát như thế cộng với rất nhiều khó khăn khác chắc chắn là ông rất ít có thì giờ, sức lực, điều kiện để đọc, để học, để viết. Nhà thơ Đỗ Trung Quân cho biết:
“Một ngày của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc thật không còn chỗ thở: hội họp, giảng dạy, hướng dẫn chuyên môn, khám chữa bệnh ngoài giờ cho trẻ con. Anh là bạn thân của lứa tuổi Mực tím (Phòng mạch Mực Tím), là “ông ngoại” của những đứa nhỏ đang ốm sốt trong tay người mẹ trẻ. Việc viết lách, viết sách, làm thơ khi trời hừng sáng, dậy sớm, ngồi vào bàn computer gõ, để đó, khi nào rảnh mới xem lại, sửa chữa, sắp xếp. Sức làm việc thật dữ dội và tất nhiên cũng phải… chớm già thôi!’
Khó khăn, bận rộn là thế nhưng rồi ông đã vượt lên tất cả để viết và viết hàng loạt tác phẩm về y học như: Thầy Thuốc Và Bệnh Nhân, Săn Sóc Con Em Nơi Xa Thầy Thuốc (1986), Nuôi Con (1988), Nói Chuyện Sức Khỏe Với Tuổi Mới Lớn (1989), Sức Khỏe Trẻ Em (1991), Viết Cho Tuổi Mới Lớn (1994), Bỗng Nhiên Mà Họ Lớn, Bác Sĩ Và Những Câu Hỏi Của Tuổi Mới Lớn, Câu Chuyện Sức Khỏe (Tháng 6. 1994).
Nhà văn Nguyễn Lệ Uyên trong bài viết về tác giả Đỗ Hồng Ngọc (Khói trời Phương Đông, 2012) đã viết: Câu nói “Làm thầy thuốc là để cứu người; làm nhà văn là để cứu đời” có lẽ rất đúng với trường hợp Đỗ Hồng Ngọc- với những tác phẩm đa dạng của ông trong văn thơ, y học và Phật học.
Ông quan tâm đến những chuyện mà nhiều người lo âu và chia sẻ:
“Nhắc lại, giấc ngủ rất quan trọng. Phải ngủ đủ. Khoảng 7 – 8 tiếng một đêm ở tuổi này. Khi nào buồn ngủ thì đi ngủ, không thì thôi. Bài viết Có Một Nghệ Thuật Ngủ của tôi được nhiều bạn bè chia sẻ. Nhà văn Hồ Anh Thái ở Hà Nội bảo đã photocopy ra khá nhiều để gởi cho bạn bè vì lúc này nhiều người mất ngủ quá! Trên thế giới thì thuốc ngủ vẫn là thứ thuốc bán nhiều nhất! Tuổi càng cao, càng cần ngủ, như pin điện thoại xài lâu, sạc phải càng lâu. Ăn thì rất đơn giản thôi. Có gì ăn nấy. Tôi thường tự chế biến thức ăn cho mình. Càng ngày tôi càng học tốt hơn hạnh “độc cư”, “kham nhẫn / tri túc”.
Học với Y vươngNăm 1997, Đỗ Hồng Ngọc bị tai biến mạch máu não. Trong cái rủi có cái may, trong thất bại có mầm mống của thành công. Sau cơn bệnh thập tử nhất sinh này, Đỗ Hồng Ngọc đã “ngộ” ra nhiều điều. Ông đến với thiền, kết hợp phương pháp thở bụng của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện và nghiền ngẫm, “hành thâm” Bát Nhã Tâm Kinh. Rồi 5 năm sau là Kim Cang, 5 năm tiếp theo là Diệu Pháp Liên Hoa, hình thành mảng sách mới lạ, độc đáo, cuốn hút người đọc từ các vị cao tăng, Tăng Ni, Phật tử đến những người “mê” Đỗ Hồng Ngọc ở những tác phẩm: Nghĩ Từ Trái Tim, Gươm Báu Trao Tay, Thấp Thoáng Lời Kinh, Ngàn Cánh Sen Xanh Biếc, Cõi Phật Đâu Xa, Thoảng Hương Sen… mà ông đều ghi là: “Thấp thoáng lời kinh…”. Từ những “thấp thoáng” đó, ông “ngộ” ra lẽ huyền vi của “lấp lánh ánh vàng”. Những cuốn sách thuộc loại “thấp thoáng lời kinh” này thực sự là một “hiện tượng” mới lạ, sôi nổi và độc đáo trong sinh hoạt văn học nghệ thuật nước nhà và văn học Phật giáo trong nhiều năm qua. Tôi không cường điệu chút nào khi nghĩ và viết như vậy!
Tôi chợt nhớ lại, khi Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc lâm trọng bệnh có thể gọi là “thập tử nhứt sinh” (năm 1997) thì có người bạn dí vào tay ông cuốn Trái Tim Hiểu Biết dạng ronéo của Nhất Hạnh. Đỗ Hồng Ngọc từ đó tìm hiểu, nghiên cứu sâu thêm, nghiền ngẫm và thực hành Tâm Kinh Bát Nhã… Sau đó ông viết cuốn Nghĩ Từ Trái Tim để chia sẻ với mọi người với phong cách và cái nhìn của một bác sĩ, mang tính “khoa học thực nghiệm”. Ông ngại ngùng, đắn đo và cân nhắc dữ lắm, nhưng rồi ông cũng viết và gởi bản thảo nhờ Ni Sư Thích Nữ Trí Hải đọc và góp ý. Đêm hôm đó chùa bị cúp điện, Ni Sư Trí Hải nói phải đốt đèn, ráng đọc “chữ bác sĩ”. Sáng sớm hôm sau, Sư gởi lại bản thảo với lời khuyên: “Bác sĩ nên cho xuất bản cuốn sách này đi vì sẽ rất có lợi lạc cho nhiều người”. Nghĩ Từ Trái Tim xuất bản lần đầu năm 2003 đến nay đã tái bản 15 lần (2020)!
Đến đây thì chúng ta có thể “đồng tình” với tạp chí Văn Hóa Phật Giáo rằng: “Có một Đỗ Hồng Ngọc là người viết văn, làm thơ, có một Đỗ Hồng Ngọc là người viết về Phật học, có một Đỗ Hồng Ngọc là bác sĩ và cũng là nhà tư vấn tâm lý và sức khỏe cho tuổi mới lớn, doanh nhân, người già… được nhiều người quý mến”.
Phương châm, phong cách của Đỗ Hồng Ngọc khi viết là chân thành, tôn trọng, thấu cảm, thấu hiểu người khác, nhất là về những nỗi mất mát, để tạo nên năng lượng hóa giải sự khổ. Đỗ Hồng Ngọc tâm sự:
“Viết cho tuổi mới lớn, thì tôi… ở tuổi mới lớn, sống cùng tuổi đó, sống với tuổi đó, nghĩ như họ, nói như họ. Tôi viết như mình đang được trò chuyện với họ, như họ đang ngồi trước mặt tôi. Khi viết cho tuổi chớm già… thì tôi đang ở tuổi chớm già… Tóm lại, phải “thấu cảm” (empathy) nghĩa là phải “sống với”, cho thấu suốt nguồn cơn…”. Ông nghĩ rằng: “Y khoa là một khoa học nhưng cũng là một nghệ thuật. Tiếp cận với những cảnh đời, những con người, cũng là một nguồn cảm xúc để cầm lấy cây bút”.
Đỗ Hồng Ngọc được nhiều độc giả quý mến, chắn hẳn do cách viết của mình. Ông chỉ viết những gì mình thực sự trải nghiệm. Ông viết để chia sẻ kinh nghiệm chứ không phải từ sách vở mà ra. Khi viết, ông luôn nghĩ rằng như có độc giả đang ở trước mắt mình và đang trò chuyện với mình. Có lẽ kiểu viết như thế làm cho người đọc cảm nhận được người viết và độc giả có sự gần gũi, chia sẻ, trao đổi một cách chân thành, không kiểu cách, xa lạ. Đỗ Hồng Ngọc được mọi người hiểu, cảm, yêu, mến, vì ông trải lòng mình để chia sẻ cùng người đọc. Ông cho rằng chuyện viết lách là cái tình. “Ta cũng nòi tình, thương người đồng điệu…” (Chu Mạnh Trinh.)
Qua cơn mổ sọ não vì tai biến mạch máu, Đỗ Hồng Ngọc đến với Thiền học, Phật học để tiếp nối hơn 40 năm gắn bó với ngành y, để “dấn thân” hết mình theo tiếng gọi sâu thẳm của Y Vương:
“Cũng vậy. Khi tôi bị một vố bệnh nặng – tai biến mạch máu não, phải mổ cấp cứu – sau đó tôi đã tìm cách tự chữa trị cho mình. Tôi biết trường hợp này thuốc men chỉ là phụ, cái chính là thay đổi nếp sống, thay đổi nếp nghĩ, nếp nhìn. Tôi tìm đến Thiền học, Phật học là vì thế. Mình là bác sĩ, bất quá chữa được một phần cái “đau” còn cái “khổ” mình không chữa được. Có một bậc thầy, một y vương là Phật, sao không học nhỉ? Lại có một Bồ tát rất dễ thương tên là Dược Vương – thuốc vua – sao không học nhỉ? Vậy là tôi học. Rồi chia sẻ, bàn bạc, trao đổi lẫn nhau giữa bạn bè anh em, những người đồng bệnh tương lân.”
Quý hóa thay và đáng kính thay cái trí, cái tài và cái tâm của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc!
Trong nhiều năm ở những bước đầu tập tễnh học Phật tôi may mắn được Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chỉ dẫn, khích lệ, đặc biệt là những bài học “thân giáo” mà tôi cảm nhận được. Nhờ đó mà tôi đã làm xong Tuyển tập Tôi Học Phật. Nội dung chính của Tuyển tập này gồm 4 cuốn “cốt lõi” trải dài trong 20 năm nghiền ngẫm, “lõm bõm học Phật” mới có được của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Đó là:
Nghĩ Từ Trái Tim (Viết về Tâm Kinh Bát Nhã),Gươm Báu Trao Tay (Viết về Kim Cang),Ngàn Cánh Sen Xanh Biếc (Viết về Pháp Hoa),Cõi Phật Đâu Xa (Viết về Duy Ma Cật).Theo Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc thì cuốn Cõi Phật Đâu Xa rất “quan trọng” vì nói lên vai trò của Cư sĩ, nhất là trong thời đại hiện nay (với cái nhìn khá mới mẻ). Và, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cũng nói thêm rằng hai cuốn Thấp Thoáng Lời Kinh và Thoảng Hương Sen… là những bài học tự rút ra cho bản thân mình, những giải thích, nhận định… để làm sáng tỏ thêm nội dung của 4 cuốn “cốt lõi” đã nêu trên.
Tuyển tập này được các anh chị trong nhóm “Phật học và Đời sống” chùa Xá Lợi chào đón và Hòa thượng Thích Đồng Bổn, Trụ trì chùa Xá Lợi gởi tặng Trang Nhà Quảng Đức. Và sau đó là Trang nhà Thư Viện Hoa Sen, Rộng Mở Tâm Hồn, Chùa Hương Sen v.v…
Trong Lời Ngỏ tuyển tập“Tôi Học Phật” Bác Sĩ Đỗ Hồng Ngọc viết:
“Vào tuổi 80, tôi nghĩ đã đến lúc “về thu xếp lại”, đã đến lúc “nhìn lại mình…” như người bạn nhạc sĩ họ Trịnh kia đã nói. Về thu xếp lại, bởi “chút nắng vàng giờ đây cũng vội”, vì rất nhanh thôi, các tế bào thân xác kia đã có vẻ rã rượi, ù lì, và cũng rất nhanh thôi các tế bào thần kinh nọ cũng mịt mờ, mỏi mệt, nhớ trước quên sau… Đầu năm 2019, tôi gom góp in cuốn Về thu xếp lại như một cột mốc, một hẹn hò, rồi cuối năm tiếp tục gom góp in thêm cuốn Biết ơn mình như một nhắc nhở… Bên cạnh đó, cũng đã tạm một tệp bản thảo Đi Để Học, Ghi Chép Lang Thang… chủ yếu là một dịp để giúp “Nhìn lại mình”… Tôi cũng mong gom góp, tập hợp được một số bài viết, một số quyển sách nhỏ những lời biên chép bấy nay trong lúc lõm bõm học Phật, thấp thoáng lời kinh, làm thành một tệp để ngẫm ngợi khi cần. Muốn thì muốn vậy, nhưng lực bất tòng tâm rồi. Duyên may lại đến…
“… Cái học y khoa, tâm lý học, xã hội học cũng đã giúp tôi thấy rõ hơn vai trò thầy thuốc, tham vấn viên của bậc Y vương qua hình tượng các vị Bồ tát Thường Bất Khinh, Dược Vương, Diệu Âm, Quán Thế Âm… để không chỉ học hiểu lời kinh mà còn vận dụng vào nghề nghiệp cho sáng tỏ hơn… Ở Duy-ma-cật, học Bất nhị. Kinh mở ra một cách tiếp cận mới, sinh động, cho dòng chảy mênh mang rộng khắp.
“Chắc chắn Phật không muốn chỉ có các đệ tử ngồi thiền định dưới gốc cây, tới giờ đi khất thực và đợi ngày nhập Niết bàn. Phật cần có những vị Bồ-tát đem đạo vào đời, tự giác giác tha. Thế nhưng, các Bồ-tát đầu tròn áo vuông cũng khó mà “thõng tay vào chợ” giữa thời đại bát nháo này. Vì thế mà cần Duy-ma-cật. Một thế hệ cư sĩ tại gia, nhằm thực hiện lý tưởng của Phổ Hiền Bô-tát…!
“Rồi từ những điều học hỏi, nghiền ngẫm, thể nghiệm… bấy nay mà tôi mạnh dạn sẻ chia với “Thấp Thoáng Lời Kinh”, “Thoảng Hương Sen”, “Thiền Và Sức Khỏe”, “Nếp Sống An Lạc”… như một ứng dụng Phật pháp vào đời sống. Khi được hỏi “kinh nghiệm” về học Phật, tôi nghĩ trước hết, cần nắm được các thuật ngữ, sau đó là hiểu được các ẩn dụ, ẩn nghĩa, hàm chứa trong lời Kinh và quan trọng nhất là thực hành, ứng dụng vào đời sống, ở đây và bây giờ…
“Những năm sau này, tôi có dịp cùng học với nhóm bạn tại Chùa Phật học Xá Lợi về Lăng Nghiêm, Viên Giác, Lăng Già… Con đường học Phật thênh thang như cánh rừng kia mà ta mới tiếp cận vài hạt bụi rơi từ nắm lá Simsapa dạo nọ.
Xin được thưa thêm rằng Tuyển tập “Tôi Học Phật” gồm 4 cuốn “cốt lõi” trải dài trong 20 năm nghiền ngẫm, “lõm bõm học Phật” mới có được của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Theo Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc thì cuốn Cõi Phật Đâu Xa rất “quan trọng” vì nói lên vai trò của Cư sĩ, nhất là trong thời đại hiện nay (với cài nhìn khá mới mẻ).
Với tấm lòng khao khát học hỏi và trí thông minh sẵn có, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã tiếp nhận rất bén nhạy nhanh chóng giáo lý vi diệu Phật Đà. Cũng có thể những tri kiến này được tích lũy từ nhiều kiếp trước, đã tiềm ẩn đâu đó trong Tạng Thức của ông nên những kinh sách ông học đã thấu đáo nghĩa lý. Kiến thức Phật Học của ông được nhiều bậc Tôn Đức, thức giả khen ngợi.
Khi Thầy Tuệ Sỹ tặng sách HUYỀN THOẠI DUY-MA-CẬT cho Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, Thầy đã ghi ở đầu sách, như một lời xác nhận cái trí tuệ đó :“Quý tặng Duy Ma Cư Sĩ Đỗ Hồng Ngọc.”
Tôi vui mừng và hãnh diện về điều này.
Như vầy tôi nghe; thưa Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc!
Nguyễn Hiền-Đức
Santa Ana, tháng 3.2021
Sửa chữa, bổ sung tháng 7/2021
ĐỖ HỒNG NGỌC – TIẾNG GỌI SÂU THẲM CỦA Y VƯƠNG
Đôi lời:
Bài viết này do anh Nguyễn Hiền Đức (5 Hiền) thực hiện vào tháng 3.2021, đến nay đã vừa đúng 2 năm. Anh nói anh đã tập hợp “nhiều nguồn tư liệu” từ những bài viết rải rác của tôi trên trang www.dohongngoc.com và trên báo chí, blog, Fb… của nhiều người, để tặng Sinh nhật Bs Đỗ Hồng Ngọc, 81 tuổi. Trong quá trình thực hiện anh cũng rất thận trọng, trao đổi với tôi qua email để chỉnh sửa đôi chi tiết khi cần. Tôi rất quý mến cách làm việc của 5 Hiền (cách gọi thân tình giữa chúng tôi) , cặm cụi, chân thành, nhiệt tình… đáng nể trọng! Thế nhưng tôi vẫn có chút ngại ngần khi bài viết về cá nhân mình, nên không đăng lên blog mình bấy lâu.
Hai năm đã trôi qua từ ngày đó. Anh Nguyễn Hiền Đức đã mất sau thời gian đau bệnh kéo dài tại Mỹ. Ngày 26.2 vừa qua, tại Bệnh Viện Nhi Đồng 1 Tp.HCM có buổi Họp Mặt nhiều thế hệ Thầy thuốc kỷ niệm Ngày Thầy Thuốc Việt Nam (27.2), và cũng để kỷ niệm 67 năm thành lập Bệnh viện Nhi Đồng Saigon, tôi được mời phát biểu, đã nhắc lại những … chuyện xưa khiến các bạn thầy thuốc trẻ bất ngờ tôi có thời làm việc ở Nhi Đồng suốt 12 năm, là Trưởng phòng Cấp cứu và Trưởng Khu Phòng khám (Ngoại chẩn). Lứa tôi dần chẳng còn mấy người, chỉ còn thấy Gs Nhan Trừng Sơn chống gậy từng bước, Bs Nguyễn Hữu Hưng (PGĐ), cô Võ Kim Sa (Điều dưỡng trưởng) tóc trắng xóa, tôi cảm động được gặp lại bác sĩ Bạch Văn Cam, Bs Tường Vy, Ds Cúc, Bs Lại Văn Tiến, Đỗ Hiệp Phố, Nguyễn Văn Sĩ, Ngươn (ngoại)… Bs Trần Tấn Trâm, Nguyễn Thị Ngọc Anh (GĐ) đã mất… Các Bs Trần Ngọc Mạnh, Trần Thành Trai, Lê Văn Tú… cả Cô Bùi Thị Gấm (ĐDT) đều không đến dự được…
Năm nay tôi cũng đã có tuổi, 83 rồi! Nghĩ, có lẽ đã đến lúc nên đăng bài viết của Nguyễn Hiền Đức về Đỗ Hồng Ngọc như một kỷ niệm với riêng người bạn thương quý này, và nhất là cũng là để trả lời các thầy thuốc trẻ hỏi thăm chuyện ngày xưa…
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
(16.3.2023)
………………………………………………………………………………………………………….
ĐỖ HỒNG NGỌC –
TIẾNG GỌI SÂU THẲM CỦA Y VƯƠNG
* Thay Quà Tặng mừng Sinh Nhật 81của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc
Tặng Bác sĩ Văn Công Trâm (Đức quốc)
Nguyễn Hiền Đức
Vì sao Đỗ Hồng Ngọc chọn ngành Y?
Đậu tú tài II xong, Đỗ Hồng Ngọc băn khoăn trước ngã ba đường: Vừa muốn học y, lại muốn học sư phạm, học văn khoa. Cuối cùng thì Đỗ Hồng Ngọc quyết định thi vào trường y.
Đỗ Hồng Ngọc chỉ thi vào trường y, theo tôi từ những nguyên do sâu xa, những “ám ảnh không rời” ngay từ quãng đời tuổi thơ côi cút của anh ở quê nhà:
– Nguyện vọng của gia đình;
– Thân phụ mất ở trong rừng vì thiếu thầy, thiếu thuốc. Nỗi đau và sự mất mát to lớn đó đã “đưa”, đã “đẩy” anh chọn nghề thầy thuốc.
– Vì mang đủ thứ bệnh nên mỗi ngày, anh vẫn thường qua lại bằng đò ngang để đến nhà thương thí chích thuốc! Riết rồi anh “ghiền cái mùi nhà thương.”
Tôi tin câu này, lời này của Đỗ Hồng Ngọc: “Riết rồi tôi ghiền cái mùi nhà thương!” Vâng, anh ghiền cái “mùi nhà thương” cũng như tôi đã ghiền cái mùi nhà in, nên tôi đã theo học nhiều khóa về kỹ thuật ấn loát và quản trị nhà in; rất say mê khi nhìn ngắm, tìm hiểu các loại máy in, các loại mực in, giấy in… Tôi mê cái không khí sôi động, ồn ào ở nhà in, mê mùi mực, mùi giấy… nên nhiều buổi trưa tôi nằm chèo queo ngủ ngon lành trên đống giấy vụn tại Ấn quán Đại học Vạn Hạnh sau những giờ chấm morasse bộ Trường Bộ Kinh, Trung Bộ Kinh do Ôn Thích Minh Châu dịch từ Pali ra tiếng Việt và nhiều tác phẩm khác về Phật học, thế học do Tu Thư Đại Học Vạn Hạnh xuất bản mà tôi thực hiện với trách nhiệm là Trưởng phòng Tu Thư. Đến nay, hơn bốn mươi năm sau, tôi vẫn luôn ghiền cái mùi nhà in, vẫn muốn tiếp tục học ngành in và làm thêm việc ở nhà in.
– Cuối cùng, chính lời khuyên chí lý, sáng suốt và trách nhiệm của cụ Nguyễn Hiến Lê mà Đỗ Hồng Ngọc đã quyết định thi vào trường y. Cụ Lê khuyên “nên học y để giúp đỡ cụ thể cho gia đình, nếu học giỏi sau này có thể làm “thầy giáo” và nếu có năng khiếu, cũng có thể viết lách được…!” Thế là Đỗ Hồng Ngọc học y, học thêm văn, thêm xã hội học… rồi viết lách, giảng dạy… suốt mấy chục năm nay.
Được học giả Nguyễn Hiến Lê khuyên nên anh đã nghe theo và bắt đầu dấn thân vào ngành học rất cực nhọc mà cũng rất nhân văn này.
Từ ngày tuyên thệ, đọc lời thề Hippocrates, Đỗ Hồng Ngọc trở thành một bác sĩ “mát tay”, đặc biệt ông ít dùng đến thuốc, luôn chú trọng đến việc chữa cả thân bệnh lẫn tâm bệnh nên trong các dịp lễ Tết, ông thường chúc mọi người: “Thân tâm thường an lạc!” là xuất phát từ cái thân tâm bất dị này.
Học và hành nghề y– Năm 1962, Đỗ Hồng Ngọc đậu vào trường y. Vốn là người ham đọc, ham học, có ý chí và biết tự học nên ngoài việc học y, ông cũng đã ghi danh học thêm ở Đại học Văn khoa, và xã hội học ở Đại học Vạn Hạnh.
Tóm tắt quá trình học và hành nghề y của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc như sau:
* 1962 thi đậu APM vào Đại học Y khoa Sài Gòn.
* Năm 1965 thực tập tại Bệnh viện Từ Dũ, đã đỡ được một ca đầu tiên mẹ tròn con vuông! Với lòng lâng lâng, ông lập bản “phúc trình”, viết ngay sau phần bệnh án một bài thơ nhỏ: Thư Cho Bé Sơ Sinh. Bài thơ khá nổi tiếng này được đưa vào tập thơ đầu tay của ông: Tình Người, xuất bản năm 1967. Có thể nói kể từ năm 1965, Đỗ Hồng Ngọc đã thực sự dấn thân vào lãnh vực Nhi khoa, nên có thể nói ông là một bác sĩ yêu trẻ và có nhiều kinh nghiệm về Nhi khoa.
* Năm 1968 và 1969 là Nội trú ủy nhiệm (Interne fonctionnel) của bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn.
* Năm 1969 tốt nghiệp Đại học Y khoa Sài Gòn.
* Năm 1970, bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ với đề tài “Bệnh Sốt Rét Ở Trẻ Em”, Đỗ Hồng Ngọc được nhận Văn bằng Tiến sĩ Y khoa Quốc gia.
* Năm 1971 là bác sĩ điều trị tại Dưỡng đường Nhi khoa Trần Bình Trọng, Chợ Lớn (GĐ Bs Trần Văn Còn).
* Năm 1972, xuất bản cuốn sách đầu tay: Những Tật Bệnh Thông Thường Trong Lứa Tuổi Học Tròdo học giả Nguyễn Hiến Lê đề Tựa. Trong tập này Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chia sẻ với các bạn trẻ những kinh nghiệm về tổ chức việc học và cách học sao cho có hiệu quả ngoài các cách phòng tránh bệnh thường gặp ở lứa tuổi.
* Năm 1973, Đỗ Hồng Ngọc làm Trưởng phòng Cấp cứu Khu Ngoại chẩn Bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn
* Năm 1974, xuất bản cuốn Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng. Cuốn này được Giáo sư Phan Đình Tuân, Giám đốc Bệnh viện Nhi Đồng thời Đỗ Hồng Ngọc làm việc viết Lời Tựa. Chính Giáo sư Phạm Đình Tuân cũnglà người đã đỡ đầu luận án tốt nghiệp của Đỗ Hồng Ngọc và trong Lời Tựa cho cuốn sách này ông gọi là “sách gối đầu giường cho các bà mẹ.”
* 1977 Trưởng khu Phòng Khám và Cấp cứu Bệnh viện Nhi Đồng I (Bv Grall thành lập bệnh viện Nhi Đồng 2).
* Từ năm 1981, là Giảng viên thỉnh giảng Bộ môn Nhi, Đại học Y Dược. Trong thời gian công tác tại đây, ông đã đỡ đầu luận văn khoảng 10 đề tài cho các thầy thuốc trẻ. Ông còn viết nhiều cuốn sách y học phổ cập như Những Bệnh Nguy Hiểm Thường Gặp Ở Trẻ Em, Nuôi Con, Săn Sóc Con Ở Nơi Xa Thầy Thuốc.
* Từ những năm 1984 – 1986, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc triển khai các Chương trình “Săn Sóc Sức Khỏe Ban Đầu Cho Trẻ Em” ở Quận 6, để làm thí điểm phòng bệnh từ xa với một chiến lược mới, cần có sự tham gia của cộng đồng và sự phối hợp liên ngành. Ông được sự đồng tình ủng hộ của nhiều đồng nghiệp và trường Đại học Y Dược thành phố lúc đó đã gởi nhiều sinh viên theo học và làm luận văn về hướng Nhi khoa xã hội này. Và ông bắt đầu thực hiện các buổi nói chuyện trên Đài Truyền hình và Đài Phát thanh. Từ năm 1986 ông ở trong nhóm thực hiện Chương trình Săn sóc Sức khỏe Ban đầu cho xã Hiệp Phước, Nhà Bè
* Từ 1986, Giám đốc Trung Tâm Truyền Thông – Giáo Dục Sức Khỏe Thành phố Hồ Chí Minh.
* Ông triển khai hai bộ môn mới do ông làm chủ nhiệm là Bộ môn “Khoa học Hành vi và Giáo dục Sức khỏe” thuộc Trung tâm Đào tạo và Bồi dưỡng Cán bộ Y tế Thành phố (nay là Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch) và Bộ môn Sức khỏe Phụ nữ của Đại học Mở. Ông còn thực hiện “Chương trình Giáo dục Sức khỏe Phòng chống AIDS, Thuốc lá” v. v…, dạy học, viết báo…
* 1993 Tu nghiệp Y tế công cộng tại Đại học Harvard Hoa Kỳ và 1997 Giáo dục Sức khỏe tại CFES Paris, Pháp.
* Từ năm 1989 đến năm 2000, ông giữ mục Phòng Mạch Mực Tím trên báo Mực Tím, một tờ báo dành cho lứa tuổi mới lớn để giúp các em giải tỏa những băn khoăn thắc mắc của lứa tuổi mình, những băn khoăn thắc mắc về phát triển tâm sinh lý, về bệnh tật… Trước 1975, ông đã viết cho các báo Tuổi Ngọc, Mây Hồng, rồi sau này là Khăn Quàng Đỏ, Mực Tím… những tờ báo dành cho tuổi trẻ.
Nhân dịp Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc nghỉ hưu (2006), Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố đã tái bản cuốn Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng được cập nhật và bổ sung đầy đủ – gần 400 trang mà ông xem là một món quà nhỏ gởi đến các ông bố, bà mẹ trẻ mới sinh con đầu lòng…Một cuốn sách về y học mà được tái bản đến hơn 40 lần, quả là một kỷ lục. Năm 2008, cuốn sách này nhận “Giải Bạc Sách Hay”.
Trả lời câu hỏi của các học trò, trong một buổi giao lưu tại Trung tâm Truyền thông và Giáo dục sức khỏe:“Thưa thầy, kinh nghiệm của thầy khi đi nước ngoài, bài học thầy áp dụng vào ngành truyền thông – giáo dục sức khỏe của Việt Nam?”
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chân thành chia sẻ:
“Thầy có không nhiều dịp đi nước ngoài, nên mỗi dịp đều là một cơ hội để được học thêm và rút kinh nghiệm đem về áp dụng những điều hay. Lần nào thầy cũng mang về một lô sách và tài liệu để sử dụng cho ngành mình và kể cả về đào tạo y khoa, như lần đi dự hội nghị về “Đào Tạo Chuyên Viên Phát Triển Sức Khỏe” của WHO tại Ai Cập (1988), thầy được mời tham gia trong nhóm sáng lập Trung tâm Đào tạo và Bồi dưỡng cán bộ y tế thành phố, sau này là Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch. Nhờ thời gian tu nghiệp ở Đại học Harvard (1993), thầy về triển khai Bộ môn Khoa Học Hành Vi và Giáo Dục Sức Khỏe cho trường. Lúc tu nghiệp ở CFES, Paris (1997) thầy thấy họ làm nghiên cứu về Giáo dục sức khỏe rất bài bản, dựa trên đó xây dựng các chương trình can thiệp có hiệu quả, khi về, thầy củng cố thư viện T4G, lập bộ phận tổ chức tư liệu (documentation) và đẩy mạnh các nghiên cứu khoa học trong lãnh vực giáo dục sức khỏe. Khi đi Ấn Độ dự Hội thảo quốc tế về HIV/AIDS (1996) thầy ứng dụng “truyền thông thay đổi hành vi” cho những lớp huấn luyện theo phương pháp giáo dục chủ động, tạo tham gia…
Tóm lại, học đối với thầy bao giờ cũng đi đôi với hành. Học mà không hành thì không thể nào “chín” được. Thầy cũng mong các em: đi học, nhất là du học không chỉ để lấy cái bằng cấp về treo, để “hù” thiên hạ… mà phải rút ra được bài học gì ứng dụng phù hợp vào hoàn cảnh nước ta với sự sáng tạo riêng của mình. Nhân dịp cũng nói thêm với các em rằng khi tiếp các đoàn chuyên gia quốc tế, đừng thụ động đối phó, lo trả lời những câu hỏi của họ đặt ra mà phải chủ động… đặt câu hỏi, đưa ra những ý tưởng của mình để tranh luận, từ đó mới có cơ hội học hỏi lẫn nhau…”
Đối với các bạn trẻ mong muốn chọn ngành y làm con đường nghề nghiệp, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chia sẻ:
“Rất hoan nghênh các bác sĩ trẻ này. Đây là một ngành đang có nhu cầu rất lớn của xã hội. Nhưng chọn học y là chọn con đường gian nan, hằng ngày trực diện với những nỗi đau nỗi khổ của kiếp người (sanh, lão, bệnh, tử)… Phải thực sự yêu nghề và có năng lực. Nói chung, học y cần có một lý tưởng nhân đạo, một “tiếng gọi sâu thẳm” (vocation) của nghề nghiệp. Nếu học y để mong đầu tư… làm giàu trên bệnh nhân thì không nên! Thực ra học y cũng rất thú vị, nhiều thử thách đòi hỏi trách nhiệm cao. Luôn đứng trước lương tâm của mình. Hạnh phúc rất lớn khi thấy mình sống hữu ích cho gia đình, cho cộng đồng, cho xã hội. Bà con mình thường nói:“Cứu sống một mạng người bằng… lập năm bảy kiểng chùa” phải không”?
Trò chuyện, tâm tình, gởi gắm niềm tin vào các bạn trẻ đang học ngành y, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc nói:
“Để thành công, phải thực sự say mê, cần phải đi chuyên sâu về một lãnh vực nào đó nhưng đồng thời không quên mở rộng kiến thức văn hóa nói chung. Phải học hỏi không ngừng. Thầy thuốc là một sinh viên y khoa suốt đời. Không học thêm thì sau vài ba năm đã lạc hậu. Nghiên cứu, giảng dạy là cơ hội học tập tốt nhất. Đừng quên chia sẻ kiến thức của mình với người bệnh và luôn tôn trọng lắng nghe họ, sẽ học được rất nhiều từ họ.”
“Y khoa là một khoa học nhưng cũng là một nghệ thuật. Nó gắn liền với thân và tâm của con người. Mà cái gì đã liên quan đến con người thì luôn là một “nghệ thuật’’ chứ, phải không? Cho nên ngày nào y khoa trở thành hoàn toàn máy móc thì nguy cho con người lắm! Khi máy móc hóa hay thương mại hóa mối quan hệ “thầy thuốc – bệnh nhân’’ thì có nhiều vấn đề đặt ra.
Đỗ Hồng Ngọc và những “sở đắc” về ngành yNăm 1972, tức là chỉ ba năm sau khi tốt nghiệp Bác sĩ Y khoa Quốc gia, Đỗ Hồng Ngọc xuất bản cuốn Những Tật Bệnh Thông Thường Trong Lứa Tuổi Học Trò trong loại y học phổ cập. Theo Đỗ Hồng Ngọc:
“Cuốn sách đầu tay không những được các em học sinh mà cả các bậc phụ huynh cũng nồng nhiệt đón nhận. Nhà văn Trần Phong Giao – Tổng thư ký báo Văn lúc đó – đã bắt con mình học… thuộc lòng cả một chương trong sách! Nhà xuất bản Lá Bối của thầy Từ Mẫn độc quyền phát hành và chỉ vài tháng sau sách đã được tái bản”. Trong lời Tựa cuốn này, học giả Nguyễn Hiến Lê viết:
“Tập này là tác phẩm đầu tay của ông. Ông dùng kinh nghiệm bản thân khi đi học và đi dạy (vì như một số sinh viên khác, ông phải tự túc), cùng những sở đắc trong ngành y để hướng dẫn các bạn học sinh trong việc giữ gìn sức khỏe, ngừa trước những bệnh thông thường và khi bệnh đã phát thì nên làm gì. Yêu nghề và có lương tâm, ông không mách thuốc bừa bãi như thỉnh thoảng chúng ta thấy trên một số báo, ông phản đối thái độ ‘vô trách nhiệm’ đó”.
Từ đó chúng ta có thể thấy, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc tuy mới ra trường 3 năm mà đã dùng kinh nghiệm bản thân khi đi học và đi dạy, cùng những sở đắc trong ngành y để hướng dẫn các bạn trẻ giữ gìn sức khỏe… Ông lại rất yêu nghề và có lương tâm. Tri thức chuyên ngành và lương tâm của người thầy thuốc ngày càng khẳng định “sở đắc”, tầm nhìn mới của ông trong ngành y.
Năm 1974, Đỗ Hồng Ngọc hoàn thành cuốn Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng, lúc ông đang làm việc tại Bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn và cũng vừa có 3 đứa con “đầu lòng”. Cuốn này được cụ Nguyễn Hiến Lê góp ý và “khen” Đỗ Hồng Ngọc là một thầy thuốc nhi khoa tốt, yêu trẻ con.
Tôi cảm kích và vui mừng về bước khởi đầu viết lách của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc khi đọc những nhận xét về tác phẩm này của những người đồng nghiệp, những bậc đàn anh, những người Thầy của Đỗ Hồng Ngọc. Trước hết là bài Tựa của Giáo sư, Giám đốc Bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn Phan Đình Tuân, cũng là người đỡ đầu luận án tốt nghiệp của Đỗ Hồng Ngọc. Bài Tựa có đoạn viết:
“Đọc quyển sách Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, các bà mẹ sẽ tìm thấy những lời chỉ dẫn ân cần về những vấn đề thiết thực, để bớt những bỡ ngỡ băn khoăn, lo lắng vô ích. Thêm vào đó, tác giả còn đả phá những thành kiến sai lầm, những tập quán nguy hiểm từ lâu vẫn lan tràn ở nước ta gây nhiều tai hại cho trẻ nhỏ… (…)
Một quyển sách về y học, dù là y học phổ thông, thường thường rất khô khan, ít ai muốn đọc, nhưng quyển sách của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc lại khác. Tác giả có lối hành văn trong sáng, nhẹ nhàng, thân mật, gần gũi, có chỗ dí dỏm nên thơ, đọc không biết chán.
Tôi mong rằng quyển sách này sẽ là sách gối đầu giường không những của các bà mẹ sanh con đầu lòng mà còn của tất cả các bà mẹ vậy.”
Tôi đọc 16 cuốn gọi chung là “Câu chuyện sức khỏe” từ tác phẩm đầu tay của ông xuất bản: Những Tật Bệnh Thông Thường Trong Lứa Tuổi Học Trò (1972),đến các tác phẩm mới nhất là Sức Khỏe Gia Đình, Ăn Vóc Học Hay và Thiền Và Sức Khỏe. Rồi đọc tiếp 18 bài Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trả lời phỏng vấn trên nhiều tờ báo, chung quy ông cũng đề cập đến vấn đề giữ gìn sức khỏe, nâng cao sức khỏe và chất lượng cuộc sống theo định nghĩa về sức khỏe của WHO: “Sức khỏe là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái (well being) về thể chất, tâm thần và xã hội chứ không phải chỉ là không có bệnh hay tật.”
Càng đọc nhiều sách loại này, tôi càng thấy rõ Đỗ Hồng Ngọc xem cuộc sống là một điều kỳ diệu, tôn vinh giá trị gia đình, xác quyết mối quan hệ thân – tâm không thể tách rời nhau. Ông hô hào mọi người hãy đầu tư cho chính mình để được hạnh phúc. Mỗi người hãy trở về với hải đảo của mình; hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi theo lời dạy của Đức Phật. Ông kêu gọi mọi người hãy sống tự tại hơn để hạnh phúc hơn, ông thành tâm cầu mong mọi người thân tâm thường an lạc. Ông chia sẻ những kinh nghiệm, trải nghiệm và thể nghiệm từ bản thân mình để xiển dương những lợi ích và lợi lạc của việc tập thở, tập thiền, hành thiền. Với ông tu là học và tu là hành… nhờ đó mà ông được nhiều người tin cậy và làm theo hướng dẫn của ông. Những bài trả lời phỏng vấn của ông về y học, vốn là chuyên ngành sâu, là nghề và nghiệp của ông nên ông viết luôn luôn rõ ràng, rành mạch, chính xác, với lời lẽ chân thành, thân ái, gần gũi, thấu cảm nên người đọc vừa tin yêu vừa phấn chấn. Làm được vậy chẳng dễ tí nào! Những lời ông tâm tình, trao đổi, gợi ý, chia sẻ với các bạn trẻ, với những học trò cũ vừa chân tình vừa cảm động, vừa ý nhị sâu sắc, vừa thiết thực, cụ thể, có lúc nghiêm khắc nhưng đầy lòng khoan dung và khích lệ. Hơn 50 năm trước tôi đã đọc nhiều cuốn sách, có cuốn tôi gọi là “cuốn sách cứu người”, cuốn sách “làm thay đổi cuộc đời” của cụ Nguyễn Hiến Lê, thì nay đọc sách, đọc các bài viết về y, về Phật họccủa Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc tôi cũng có cảm nhận sâu sắc và chân thành như vậy. Xin hết lòng biết ơn Thầy Nguyễn Hiến Lê và Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc!
Trong các bài viết về chuyên đề sức khỏe, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc luôn cẩn trọng, khiêm tốn, vui vẻ. Ông luôn luôn dung dị mà sâu sắc, dí dỏm, hóm hỉnh, trí tuệ, thông minh, sắc sảo mà gần gũi và thân ái. Ông thể hiện tròn đầy lòng chân thành, sự thấu hiểu, thấu cảm nên mang tính thuyết phục cao đối với đông đảo người đọc. Tôi rất tâm đắc khi đọc những bài này của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc và xem nó là một trong những dấu ấn sâu đậm, đáng yêu và sống lâu bền trong lòng người đọc.
Ở đây, tôi xin phép được trích dẫn một số cảm nhận chân thành của bạn đọc để làm rõ thêm ý kiến mà chúng tôi đã nêu trên:
Yumi.multiply.com
(…) Ở đó, tôi không chỉ nắm bắt được những kiến thức khoa học để nuôi con mà còn gặp được tấm lòng một người cha vĩ đại. Ông kể chuyện của con mình, kể về nỗi buồn lo, ân hận của mình để mà truyền kinh nghiệm cho bạn, cho tôi. Khi con mọc răng nóng sốt, khi con quấy khóc, ốm đau, khi con chán ăn, khi con biết lẫy, biết bò…ôi đều giở sách ra, đôi khi không chỉ đọc để biết phải làm gì mà còn tìm trong đó một nguồn an ủi, vỗ về.Mỗi lần nâng quyển sách ấy trên tay, tôi không nghĩ mình đang đọc sách mà đang trò chuyện với ông, ấm áp và tin tưởng lạ thường!
blog.dongchay.com
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc không phải viết theo phong cách của một bác sĩ cho các đồng nghiệp, không phải cho thân nhân người bệnh, cũng không phải theo khuôn mẫu của một sách giáo khoa khô khan. Bác sĩ viết như người bạn viết cho người bạn, người anh, người chú lớn tuổi nhiều kinh nghiệm viết cho những người em bắt đầu làm bố, làm mẹ. Lời lẽ thân thiện, dễ gần, hình ảnh sống động, dễ hiểu, trình bày khoa học, dễ tra cứu. Quả thực, mẹ học được rất nhiều từ cuốn sách và cũng đã nhiều lần cuốn sách đã giải tỏa cho mẹ những ưu tư , rồi cả những hủ tục, những quan niệm sai lầm khi nuôi con của các bà mẹ ngày xưa.
Mẹ rất thích cuốn sách, đọc đi đọc lại nhiều lần, ngẫm nghĩ những điều nằm ngoài chuyên môn mà bác sĩ Ngọc đã gửi gắm. Mẹ cảm thấy việc sinh con, nuôi con ý nghĩa hơn. Mẹ cũng cảm thấy trách nhiệm của bố và mẹ lớn lao hơn khi giờ đây, bố mẹ là người cha, người mẹ và trước kia, bố mẹ cũng là những người con bé bỏng và ông bà nội ngoại đã phải vất vả ra sao mới có bố mẹ, có con như bây giờ…
Lê Uyển Văn says
Vẫn là phong cách của Đỗ Hồng Ngọc, con chữ của Đỗ Hồng Ngọc – lấp lánh yêu thương – sao như lần đầu được gặp, chúng tôi đọc mải miết, những kiến thức đã từng biết bỗng trở nên gần gũi và sống động lạ thường.
Không đúc kết nào gọn gàng hơn “ BUSĂC” – phổ biến những điều căn bản nhất để nuôi con sao cho khỏe mạnh. Không cách so sánh nào cụ thể, dễ nắm bắt mà xúc động hơn cách hướng dẫn làm dung dịch như Oresol tại nhà : “…pha xong nếm thử thấy nó y như nước mắt là được / Nước mắt ở đâu mà thử?/ Thì bà mẹ nào có con tiêu chảy cấp mà không khóc chứ?”. Cũng không gì thuyết phục hơn khi khuyên mẹ tự làm thức ăn cho con: “Bây giờ có nhiều thức ăn làm sẵn / Phải, nhưng không có thứ “tình thương” làm sẵn nào cả !”….
… “ Mẹ cứ kỳ vọng vào con đi”,“ Có hiểu mới thương”, “ Thương nhớ… đòn roi”… đều là những “Bài học quý giá” mà tôi, các con tôi đang rất cần. Có những điều, tôi không sao nói được với con mình thì tác giả đã nói hộ rồi, tôi chỉ cần hỏi “con đã đọc “bài học quý giá” của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chưa?”, con đáp “dạ, rồi!”,tôi nghe như trút vài gánh đá, đọc rồi nghĩa là con hiểu con phải làm gì để đối diện với kỳ thi đang rất gần kề.
Với ông, y khoa là một khoa học nhưng cũng là một nghệ thuật. Kỹ thuật y khoa càng tiến bộ thì càng cần hơn tính nhân văn trong y học vì nó đứng trước cái sống, cái chết, cái đau, cái khổ của kiếp người. Y học ngày càng tiến bộ, kỹ thuật ngày càng cao, thuốc men ngày càng nhiều thì… bệnh tật cũng ngày càng phát triển, gia tăng, đôi khi đe dọa cả hành tinh…
Vì thế, ông hô hào: “Bớt kỹ thuật – Thêm nhân văn” và hãy đầu tư cho chính mình để được hạnh phúc. Ông quan tâm tới khía cạnh tâm lý xã hội của vấn đề chứ không đơn thuần ở góc độ bệnh lý. Ông khởi xướng và đã cùng với cộng sự, học trò tập trung nhiều công sức, tâm huyết, trí lực vào việc xây dựng và phát triển ngành Truyền Thông – Giáo Dục Sức khỏe và Nâng cao sức khỏe.
Ông cảnh báo về nguy cơ lớn nhất của ngành y là đi quá sâu vào kỹ thuật và tách hẳn cái thân ra khỏi cái tâm, thậm chí trong cái thân lại chẻ nhỏ ra thành những mảnh thân nhỏ hơn nữa để đi chuyên sâu. Ông cho rằng điều đó có lợi về mặt khoa học nhưng lại làm cho con người không còn toàn vẹn nữa vì thân và tâm không thể chia chẻ được và không thể nào có cái thân mà không có cái tâm và ngược lại: Hai cái đó vốn là một. Vì thế, một người thầy thuốc khi chữa bệnh cho bệnh nhân, nếu chỉ thấy cái thân bệnh, mà không thấy cái tâm bệnh, tức là chỉ thấy cái “đau” mà không thấy được cái “khổ” của họ thì không thể chữa thành công.
Ông băn khoăn, trăn trở trước nguy cơ kỹ thuật hóa, thương mại hóa ngành y. Có cách nào làm giảm bớt nguy cơ đó không? Có cách nào phục hồi tính nhân bản của ngành y như những “ngày xưa thân ái” không? Dĩ nhiên không thể trở lại thời kỳ y khoa phù thủy, nhưng cũng không thể đẩy đến bờ vực thẳm của y khoa kỹ nghệ… Trước thực trạng, y khoa ngày càng nặng về kỹ thuật., người thầy thuốc trẻ dần dần có khuynh hướng chạy theo kỹ thuật, xa cách dần với… con người. Nó làm cho người thầy thuốc trở nên bí hiểm… chẳng khác gì các phù thủy của những bộ lạc ngày xưa! Thế nhưng con người từ xưa đến nay vẫn không thay đổi: cũng những lo âu, phiền muộn, sợ hãi, cũng những ganh tị, ghen ghét, mừng vui, cũng vẫn già nua, tuổi tác, ốm đau bệnh hoạn…
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đưa ra một số giải pháp, theo tôi là mới mẻ, thiết thực và hiệu quả:
“Chỉ có cách là phá vỡ huyền thoại (démystification) về người thầy thuốc, về nghề y và nâng cao kiến thức của người dân để họ tự bảo vệ sức khỏe của mình và hợp tác với thầy thuốc một cách có ý thức. Bên cạnh việc thay đổi chương trình giảng dạy ở các đại học y khoa sao cho ngành y vừa kỹ thuật mà cũng vừa nhân văn, đưa các môn tâm lý, xã hội, nhân chủng, quan hệ thầy thuốc – bệnh nhân, y đức, nghĩa vụ luận… vào giảng dạy. Giáo dục sức khỏe là biện pháp cần thiết để nâng cao dân trí, thay đổi hành vi có hại sức khỏe của cá nhân và góp phần đề ra các chính sách nhằm nâng cao sức khỏe cộng đồng…”
Muốn giải quyết vấn đề bệnh ngày càng nhiều, bệnh viện quá tải…, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc thấy cần “phải giải quyết cái gốc từ xã hội, tức là phải giải quyết trên vấn đề sức khỏe toàn diện chứ không chỉ là vấn đề y tế đơn thuần. Y tế chỉ cung cấp dịch vụ chữa bệnh, còn sức khỏe bao gồm cả môi trường sống, môi trường xã hội và thiên nhiên, cho đến hành vi, lối sống của mỗi cá nhân. Đã đến lúc cần giải quyết trên một bình diện rộng. Một mặt, ngành y tế tổ chức lại hệ thống chăm sóc sức khỏe tốt hơn, mang tính dự phòng tích cực từ cơ sở, nâng cao dân trí để mọi người biết tự bảo vệ sức khỏe cho cá nhân mình, gia đình và cộng đồng. Mặt khác, xã hội phải coi trọng việc đầu tư chăm sóc sức khỏe người dân hơn là tập trung mở thêm nhiều bệnh viện để hứng bệnh tật, tức là chăm lo bảo vệ môi trường, quan tâm giáo dục từ tuổi ấu thơ nhằm thay đổi hành vi, lối sống với các chương trình nâng cao sức khỏe (health promotion).
Từ kinh nghiệm bản thân, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cho rằng:
“Truyền thông trị liệu”, “Truyền thông thay đổi hành vi” không dễ tí nào! Nó là một khoa học, bao gồm cả tâm lý- xã hội – nhân chủng (văn hóa) ứng dụng vào ngành y, giúp cải thiện mối quan hệ thầy thuốc – bệnh nhân và nâng cao y đức. Làm sao người thầy thuốc thấy được nỗi khổ sau nỗi đau, để thấu cảm với người bệnh. Một lời nói, một cử chỉ của thầy thuốc có thể làm cho bệnh nặng hơn hay nhẹ đi, vơi đi. Những kỹ năng ứng dụng này phải bằng cái tâm của người thầy thuốc.” Và rằng: “Thầy thuốc không chỉ là một chuyên viên tư vấn (consultant) về y học mà còn phải là một chuyên viên tham vấn (counselor) về sức khỏe, bởi người bệnh đến với họ vì tin tưởng rằng người thầy thuốc ngoài việc chữa bệnh còn có thể an ủi, giúp đỡ họ. Người bệnh cũng rất nhạy cảm với những “truyền thông không lời” trong mối giao tiếp đặc biệt này. Chỉ cần nhìn nét mặt, cử chỉ, nghe giọng nói, cái vỗ vai, cái bắt tay… cũng được bệnh nhân hiểu bao nhiêu điều…”
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc mong muốn bản thân ngành y cần coi trọng vấn đề nhân sự của ngành, vì không chỉ cần có kỹ năng, có học thuật mà còn cần đến tấm lòng, vì đó là con đường của y đức và y đạo.” Ông cho rằng: “Nói y đức suông mà không có tay nghề thì… hại người ta nhiều hơn, làm người ta “đau” nhiều hơn. Còn giỏi kỹ thuật chuyên môn mà thiếu y đức thì làm cho người ta “khổ” nhiều hơn.
Riêng vấn đề y đức phải được quan tâm đúng mức, đặt trong hệ thống đào tạo người thầy thuốc tương lai. Rồi đây, quản lý bệnh viện dần dần sẽ là những doanh nhân chứ không phải là bác sĩ, các bác sĩ sẽ chỉ là người làm công tác ăn lương. Y đức như vậy phải được mở rộng cho giới doanh nhân “khai thác” ngành y.”
Đỗ Hồng Ngọc theo ngành Nhi khoa và thực sự “say mê” trẻ em. Vì vậy mà Đỗ Hồng Ngọc đi đến một kết luận đáng chú ý: “Tôi thấy rõ một điều là dù người thầy thuốc có “ba đầu sáu tay” cũng không thể cứu giúp được trẻ con nếu người mẹ, gia đình vẫn mắc phải những sai lầm tai hại. Từ đó tôi luôn quan tâm đến lãnh vực giáo dục sức khỏe, làm sao để giúp bà mẹ những kiến thức tối thiểu cần thiết để nuôi con khỏe mạnh, không ốm đau bệnh tật.” Ông cho rằng, bà mẹ mới thực sự là “trung tâm bảo vệ sức khỏe” của con mình chứ không phải là bệnh viện hay các Trung tâm y tế.”
Trong Lời Ngỏ cuốn Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc viết:
“… ở đây không có “ông bác sĩ” viết cho thân nhân trẻ bệnh mà chỉ có người bạn viết cho người bạn, chỉ có người trong gia đình viết cho anh chị em mình, cho nên tôi viết bằng một giọng thân mật và cố gắng tránh những lý thuyết, những danh từ chuyên môn dễ nhàm chán”. Và trong lời Viết thêm ông bày tỏ một cách chân tình với bạn đọc: “Cuốn sách là những lời tâm tình, chia sẻ của một người vừa là thầy thuốc, vừa là người cha những năm xưa, nay đã trở thành ông nội, ông ngoại của mấy nhóc nhỏ rồi! Thời gian trôi nhanh thật.”
Trong nhiều thập niên và mãi đến giờ, cuốn sách này đã trở thành cuốn “sách gối đầu giường”, là “bửu bối”, là “báu vật” theo cảm nhận chân thành của nhiều người mẹ qua nhiều thế hệ.
Đỗ Hồng Ngọc thổ lộ: “Không gì vui hơn khi các bà mẹ nói rằng nhờ cuốn đó mà họ đã nuôi con được khỏe mạnh, và đặc biệt đã làm cho họ vơi bớt nỗi lo âu. Đối với tôi, bà mẹ mới thực sự là “trung tâm bảo vệ sức khỏe” của con mình chứ không phải là bệnh viện hay các Trung tâm y tế.”
Sau hai cuốn sách chuyên ngành mang tính phổ thông, thiết thực và có ích đó được đông đảo người đọc đón nhận và yêu thích, Đỗ Hồng Ngọc vẫn luôn luôn âm thầm đọc, học, viết. Có thể nói ông đã kết hợp nhuần nhuyễn, tài tình, khéo léo, hiệu quả đối với công việc “bộ ba” của ông: truyền thông giáo dục sức khỏe – dạy học – viết lách. Ông đã nghiền ngẫm viết lách, giảng dạy, chia sẻ kinh nghiệm với người khác. Để làm được những điều đó ông phải đọc, học, trải nghiệm rất nhiều và ông cho rằng “Viết cũng là học”. Vào thời điểm này, ông đã có ba cuốn sách về lãnh vực nhi khoa được phổ biến khá rộng rãi và một số sách viết cho tuổi già; mảng sách viết về học… Phật.
Trong buổi giao lưu với học trò cũ, ông tâm tình và chia sẻ như sau:
“Những năm cơ cực sau 1975, thầy bận rộn suốt ngày với bệnh nhi ở phòng cấp cứu Bệnh viện Nhi Đồng, ở nhà trông cậy một mình cô nuôi dạy các con. Nhiều bữa thầy về nhà tối om, đem thịt cá được “Tổ đời sống” chia cho đã ôi thiu về, cô chỉ biết cười trừ…”
Tình cảnh khó khăn, bi đát như thế cộng với rất nhiều khó khăn khác chắc chắn là ông rất ít có thì giờ, sức lực, điều kiện để đọc, để học, để viết. Nhà thơ Đỗ Trung Quân cho biết:
“Một ngày của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc thật không còn chỗ thở: hội họp, giảng dạy, hướng dẫn chuyên môn, khám chữa bệnh ngoài giờ cho trẻ con. Anh là bạn thân của lứa tuổi Mực tím (Phòng mạch Mực Tím), là “ông ngoại” của những đứa nhỏ đang ốm sốt trong tay người mẹ trẻ. Việc viết lách, viết sách, làm thơ khi trời hừng sáng, dậy sớm, ngồi vào bàn computer gõ, để đó, khi nào rảnh mới xem lại, sửa chữa, sắp xếp. Sức làm việc thật dữ dội và tất nhiên cũng phải… chớm già thôi!’
Khó khăn, bận rộn là thế nhưng rồi ông đã vượt lên tất cả để viết và viết hàng loạt tác phẩm về y học như: Thầy Thuốc Và Bệnh Nhân, Săn Sóc Con Em Nơi Xa Thầy Thuốc (1986), Nuôi Con (1988), Nói Chuyện Sức Khỏe Với Tuổi Mới Lớn (1989), Sức Khỏe Trẻ Em (1991), Viết Cho Tuổi Mới Lớn (1994), Bỗng Nhiên Mà Họ Lớn, Bác Sĩ Và Những Câu Hỏi Của Tuổi Mới Lớn, Câu Chuyện Sức Khỏe (Tháng 6. 1994).
Nhà văn Nguyễn Lệ Uyên trong bài viết về tác giả Đỗ Hồng Ngọc (Khói trời Phương Đông, 2012) đã viết: Câu nói “Làm thầy thuốc là để cứu người; làm nhà văn là để cứu đời” có lẽ rất đúng với trường hợp Đỗ Hồng Ngọc- với những tác phẩm đa dạng của ông trong văn thơ, y học và Phật học.
Ông quan tâm đến những chuyện mà nhiều người lo âu và chia sẻ:
“Nhắc lại, giấc ngủ rất quan trọng. Phải ngủ đủ. Khoảng 7 – 8 tiếng một đêm ở tuổi này. Khi nào buồn ngủ thì đi ngủ, không thì thôi. Bài viết Có Một Nghệ Thuật Ngủ của tôi được nhiều bạn bè chia sẻ. Nhà văn Hồ Anh Thái ở Hà Nội bảo đã photocopy ra khá nhiều để gởi cho bạn bè vì lúc này nhiều người mất ngủ quá! Trên thế giới thì thuốc ngủ vẫn là thứ thuốc bán nhiều nhất! Tuổi càng cao, càng cần ngủ, như pin điện thoại xài lâu, sạc phải càng lâu. Ăn thì rất đơn giản thôi. Có gì ăn nấy. Tôi thường tự chế biến thức ăn cho mình. Càng ngày tôi càng học tốt hơn hạnh “độc cư”, “kham nhẫn / tri túc”.
Học với Y vươngNăm 1997, Đỗ Hồng Ngọc bị tai biến mạch máu não. Trong cái rủi có cái may, trong thất bại có mầm mống của thành công. Sau cơn bệnh thập tử nhất sinh này, Đỗ Hồng Ngọc đã “ngộ” ra nhiều điều. Ông đến với thiền, kết hợp phương pháp thở bụng của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện và nghiền ngẫm, “hành thâm” Bát Nhã Tâm Kinh. Rồi 5 năm sau là Kim Cang, 5 năm tiếp theo là Diệu Pháp Liên Hoa, hình thành mảng sách mới lạ, độc đáo, cuốn hút người đọc từ các vị cao tăng, Tăng Ni, Phật tử đến những người “mê” Đỗ Hồng Ngọc ở những tác phẩm: Nghĩ Từ Trái Tim, Gươm Báu Trao Tay, Thấp Thoáng Lời Kinh, Ngàn Cánh Sen Xanh Biếc, Cõi Phật Đâu Xa, Thoảng Hương Sen… mà ông đều ghi là: “Thấp thoáng lời kinh…”. Từ những “thấp thoáng” đó, ông “ngộ” ra lẽ huyền vi của “lấp lánh ánh vàng”. Những cuốn sách thuộc loại “thấp thoáng lời kinh” này thực sự là một “hiện tượng” mới lạ, sôi nổi và độc đáo trong sinh hoạt văn học nghệ thuật nước nhà và văn học Phật giáo trong nhiều năm qua. Tôi không cường điệu chút nào khi nghĩ và viết như vậy!
Tôi chợt nhớ lại, khi Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc lâm trọng bệnh có thể gọi là “thập tử nhứt sinh” (năm 1997) thì có người bạn dí vào tay ông cuốn Trái Tim Hiểu Biết dạng ronéo của Nhất Hạnh. Đỗ Hồng Ngọc từ đó tìm hiểu, nghiên cứu sâu thêm, nghiền ngẫm và thực hành Tâm Kinh Bát Nhã… Sau đó ông viết cuốn Nghĩ Từ Trái Tim để chia sẻ với mọi người với phong cách và cái nhìn của một bác sĩ, mang tính “khoa học thực nghiệm”. Ông ngại ngùng, đắn đo và cân nhắc dữ lắm, nhưng rồi ông cũng viết và gởi bản thảo nhờ Ni Sư Thích Nữ Trí Hải đọc và góp ý. Đêm hôm đó chùa bị cúp điện, Ni Sư Trí Hải nói phải đốt đèn, ráng đọc “chữ bác sĩ”. Sáng sớm hôm sau, Sư gởi lại bản thảo với lời khuyên: “Bác sĩ nên cho xuất bản cuốn sách này đi vì sẽ rất có lợi lạc cho nhiều người”. Nghĩ Từ Trái Tim xuất bản lần đầu năm 2003 đến nay đã tái bản 15 lần (2020)!
Đến đây thì chúng ta có thể “đồng tình” với tạp chí Văn Hóa Phật Giáo rằng: “Có một Đỗ Hồng Ngọc là người viết văn, làm thơ, có một Đỗ Hồng Ngọc là người viết về Phật học, có một Đỗ Hồng Ngọc là bác sĩ và cũng là nhà tư vấn tâm lý và sức khỏe cho tuổi mới lớn, doanh nhân, người già… được nhiều người quý mến”.
Phương châm, phong cách của Đỗ Hồng Ngọc khi viết là chân thành, tôn trọng, thấu cảm, thấu hiểu người khác, nhất là về những nỗi mất mát, để tạo nên năng lượng hóa giải sự khổ. Đỗ Hồng Ngọc tâm sự:
“Viết cho tuổi mới lớn, thì tôi… ở tuổi mới lớn, sống cùng tuổi đó, sống với tuổi đó, nghĩ như họ, nói như họ. Tôi viết như mình đang được trò chuyện với họ, như họ đang ngồi trước mặt tôi. Khi viết cho tuổi chớm già… thì tôi đang ở tuổi chớm già… Tóm lại, phải “thấu cảm” (empathy) nghĩa là phải “sống với”, cho thấu suốt nguồn cơn…”. Ông nghĩ rằng: “Y khoa là một khoa học nhưng cũng là một nghệ thuật. Tiếp cận với những cảnh đời, những con người, cũng là một nguồn cảm xúc để cầm lấy cây bút”.
Đỗ Hồng Ngọc được nhiều độc giả quý mến, chắn hẳn do cách viết của mình. Ông chỉ viết những gì mình thực sự trải nghiệm. Ông viết để chia sẻ kinh nghiệm chứ không phải từ sách vở mà ra. Khi viết, ông luôn nghĩ rằng như có độc giả đang ở trước mắt mình và đang trò chuyện với mình. Có lẽ kiểu viết như thế làm cho người đọc cảm nhận được người viết và độc giả có sự gần gũi, chia sẻ, trao đổi một cách chân thành, không kiểu cách, xa lạ. Đỗ Hồng Ngọc được mọi người hiểu, cảm, yêu, mến, vì ông trải lòng mình để chia sẻ cùng người đọc. Ông cho rằng chuyện viết lách là cái tình. “Ta cũng nòi tình, thương người đồng điệu…” (Chu Mạnh Trinh.)
Qua cơn mổ sọ não vì tai biến mạch máu, Đỗ Hồng Ngọc đến với Thiền học, Phật học để tiếp nối hơn 40 năm gắn bó với ngành y, để “dấn thân” hết mình theo tiếng gọi sâu thẳm của Y Vương:
“Cũng vậy. Khi tôi bị một vố bệnh nặng – tai biến mạch máu não, phải mổ cấp cứu – sau đó tôi đã tìm cách tự chữa trị cho mình. Tôi biết trường hợp này thuốc men chỉ là phụ, cái chính là thay đổi nếp sống, thay đổi nếp nghĩ, nếp nhìn. Tôi tìm đến Thiền học, Phật học là vì thế. Mình là bác sĩ, bất quá chữa được một phần cái “đau” còn cái “khổ” mình không chữa được. Có một bậc thầy, một y vương là Phật, sao không học nhỉ? Lại có một Bồ tát rất dễ thương tên là Dược Vương – thuốc vua – sao không học nhỉ? Vậy là tôi học. Rồi chia sẻ, bàn bạc, trao đổi lẫn nhau giữa bạn bè anh em, những người đồng bệnh tương lân.”
Quý hóa thay và đáng kính thay cái trí, cái tài và cái tâm của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc!
Trong nhiều năm ở những bước đầu tập tễnh học Phật tôi may mắn được Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chỉ dẫn, khích lệ, đặc biệt là những bài học “thân giáo” mà tôi cảm nhận được. Nhờ đó mà tôi đã làm xong Tuyển tập Tôi Học Phật. Nội dung chính của Tuyển tập này gồm 4 cuốn “cốt lõi” trải dài trong 20 năm nghiền ngẫm, “lõm bõm học Phật” mới có được của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Đó là:
1. Nghĩ Từ Trái Tim (Viết về Tâm Kinh Bát Nhã),Gươm Báu Trao Tay (Viết về Kim Cang),Ngàn Cánh Sen Xanh Biếc (Viết về Pháp Hoa),Cõi Phật Đâu Xa (Viết về Duy Ma Cật).Theo Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc thì cuốn Cõi Phật Đâu Xa rất “quan trọng” vì nói lên vai trò của Cư sĩ, nhất là trong thời đại hiện nay (với cái nhìn khá mới mẻ). Và, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cũng nói thêm rằng hai cuốn Thấp Thoáng Lời Kinh và Thoảng Hương Sen… là những bài học tự rút ra cho bản thân mình, những giải thích, nhận định… để làm sáng tỏ thêm nội dung của 4 cuốn “cốt lõi” đã nêu trên.
Tuyển tập này được các anh chị trong nhóm “Phật học và Đời sống” chùa Xá Lợi chào đón và Hòa thượng Thích Đồng Bổn, Trụ trì chùa Xá Lợi gởi tặng Trang Nhà Quảng Đức. Và sau đó là Trang nhà Thư Viện Hoa Sen, Rộng Mở Tâm Hồn, Chùa Hương Sen v.v…
Trong Lời Ngỏ tuyển tập“Tôi Học Phật” Bác Sĩ Đỗ Hồng Ngọc viết:
“Vào tuổi 80, tôi nghĩ đã đến lúc “về thu xếp lại”, đã đến lúc “nhìn lại mình…” như người bạn nhạc sĩ họ Trịnh kia đã nói. Về thu xếp lại, bởi “chút nắng vàng giờ đây cũng vội”, vì rất nhanh thôi, các tế bào thân xác kia đã có vẻ rã rượi, ù lì, và cũng rất nhanh thôi các tế bào thần kinh nọ cũng mịt mờ, mỏi mệt, nhớ trước quên sau… Đầu năm 2019, tôi gom góp in cuốn Về thu xếp lại như một cột mốc, một hẹn hò, rồi cuối năm tiếp tục gom góp in thêm cuốn Biết ơn mình như một nhắc nhở… Bên cạnh đó, cũng đã tạm một tệp bản thảo Đi Để Học, Ghi Chép Lang Thang… chủ yếu là một dịp để giúp “Nhìn lại mình”… Tôi cũng mong gom góp, tập hợp được một số bài viết, một số quyển sách nhỏ những lời biên chép bấy nay trong lúc lõm bõm học Phật, thấp thoáng lời kinh, làm thành một tệp để ngẫm ngợi khi cần. Muốn thì muốn vậy, nhưng lực bất tòng tâm rồi. Duyên may lại đến…
“… Cái học y khoa, tâm lý học, xã hội học cũng đã giúp tôi thấy rõ hơn vai trò thầy thuốc, tham vấn viên của bậc Y vương qua hình tượng các vị Bồ tát Thường Bất Khinh, Dược Vương, Diệu Âm, Quán Thế Âm… để không chỉ học hiểu lời kinh mà còn vận dụng vào nghề nghiệp cho sáng tỏ hơn… Ở Duy-ma-cật, học Bất nhị. Kinh mở ra một cách tiếp cận mới, sinh động, cho dòng chảy mênh mang rộng khắp.
“Chắc chắn Phật không muốn chỉ có các đệ tử ngồi thiền định dưới gốc cây, tới giờ đi khất thực và đợi ngày nhập Niết bàn. Phật cần có những vị Bồ-tát đem đạo vào đời, tự giác giác tha. Thế nhưng, các Bồ-tát đầu tròn áo vuông cũng khó mà “thõng tay vào chợ” giữa thời đại bát nháo này. Vì thế mà cần Duy-ma-cật. Một thế hệ cư sĩ tại gia, nhằm thực hiện lý tưởng của Phổ Hiền Bô-tát…!
“Rồi từ những điều học hỏi, nghiền ngẫm, thể nghiệm… bấy nay mà tôi mạnh dạn sẻ chia với “Thấp Thoáng Lời Kinh”, “Thoảng Hương Sen”, “Thiền Và Sức Khỏe”, “Nếp Sống An Lạc”… như một ứng dụng Phật pháp vào đời sống. Khi được hỏi “kinh nghiệm” về học Phật, tôi nghĩ trước hết, cần nắm được các thuật ngữ, sau đó là hiểu được các ẩn dụ, ẩn nghĩa, hàm chứa trong lời Kinh và quan trọng nhất là thực hành, ứng dụng vào đời sống, ở đây và bây giờ…
“Những năm sau này, tôi có dịp cùng học với nhóm bạn tại Chùa Phật học Xá Lợi về Lăng Nghiêm, Viên Giác, Lăng Già… Con đường học Phật thênh thang như cánh rừng kia mà ta mới tiếp cận vài hạt bụi rơi từ nắm lá Simsapa dạo nọ.
Xin được thưa thêm rằng Tuyển tập “Tôi Học Phật” gồm 4 cuốn “cốt lõi” trải dài trong 20 năm nghiền ngẫm, “lõm bõm học Phật” mới có được của Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Theo Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc thì cuốn Cõi Phật Đâu Xa rất “quan trọng” vì nói lên vai trò của Cư sĩ, nhất là trong thời đại hiện nay (với cài nhìn khá mới mẻ). Và, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc nói thêm rằng hai cuốn Thấp Thoáng Lời Kinh và Thoảng Hương Sen là những bài học tự rút ra cho bản thân mình, những giải thích, nhận định… để làm sáng tỏ thêm nội dung của 4 cuốn “cốt lõi” đã nêu trên.
Với tấm lòng khao khát học hỏi và trí thông minh sẵn có, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã tiếp nhận rất bén nhạy nhanh chóng giáo lý vi diệu Phật Đà. Cũng có thể những tri kiến này được tích lũy từ nhiều kiếp trước, đã tiềm ẩn đâu đó trong Tạng Thức của ông nên những kinh sách ông học đã thấu đáo nghĩa lý. Kiến thức Phật Học của ông được nhiều bậc Tôn Đức, thức giả khen ngợi.
Khi Thầy Tuệ Sỹ tặng sách HUYỀN THOẠI DUY-MA-CẬT cho Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, Thầy đã ghi ở đầu sách, như một lời xác nhận cái trí tuệ đó :“Quý tặng Duy Ma Cư Sĩ Đỗ Hồng Ngọc.”
Tôi vui mừng và hãnh diện về điều này.
Như vầy tôi nghe; thưa Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc!
Nguyễn Hiền-Đức
Santa Ana, tháng 3.2021
Sửa chữa, bổ sung tháng 7/2021
March 10, 2023
Bệnh viện Nhi Đồng 1: Họp mặt Thầy Cô nhân Ngày Thầy Thuốc Việt Nam 27.2
Bệnh viện Nhi Đồng 1:
Họp mặt Thầy Cô nhân Ngày Thầy Thuốc Việt Nam 27.2Ngày CN 26.2. 2023, Bệnh viện Nhi Đồng 1 tổ chức buổi Họp Mặt Thầy Cô nhân Ngày Thầy Thuốc Việt Nam 27.2, cũng để kỷ niệm 67 năm Ngày thành lập Bệnh Viện Nhi Đồng Saigon (1956).
Vài hình ảnh từ Video ngắn 1.48
để tặng các bạn Bv Nhi Đồng 1 (Bệnh viện Nhi Đồng Saigon) gần xa…
Thân mến,
ĐHN
Đỗ Hồng Ngọc's Blog
- Đỗ Hồng Ngọc's profile
- 12 followers

