Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 18

March 4, 2023

Ngô Tiến Nhân: “ Du học “ chùa Tây Trúc – Lộc ninh

“ Du học “ chùa Tây Trúc – Lộc Ninh

Ngô Tiến Nhân (Fb)

Theo thông lệ Nhóm Học Phật chùa Xá lợi sau những buổi “ dùi mài kinh sử “ tại Trung tâm Phật học lại tổ chức một ngày “ đi điền dã “ , “ nhập Pháp giới “ đặng coi cái Lý cái Sự có viên thông chăng ?
Kỳ này Trưởng tràng BS ĐHN chọn Tây du – Chùa Tây trúc, một ngôl chùa lá đơn sơ ở Lộc ninh một vùng quê nghèo, đất cằn cháy nắng nằm không xa biên giới Căm pu chia !
Không ngẫu nhiên ;
Sau chặng đường dài ( khởi hành từ 5.30 ) ngôi chùa giản dị hiện ra trong khung cảnh đồng quê hiền hoà. Ân cần tiếp đón đoàn là Sư cô trụ trì Thích nữ Trung Hiếu, tốt nghiệp Học viện Phật giáo K7, quê Bình định song chọn mảnh đất khô cằn, người dân lam lũ này làm nơi hoằng Pháp .
Khoan 60m đem nước phủ màu xanh, cùng dân làm 700.000 liều thuốc điều trị Covid, phổ biến giáo lý, chép kinh Pháp hoa “ nhất Tự – nhất Bái “ ( lạy mỗi chữ – một cách hành trì riêng )…
Và tâm hồn Thi sỹ trải trong 4 tập thơ tặng Đoàn.
Không thể bỏ qua buổi đàm đạo lý thú về liễu nghĩa Kinh Pháp hoa giữa Cô và Đoàn !
Thật là Trùng trùng duyên khởi .
Giờ mới hiểu tại sao Trưởng tràng Bác sỹ – Thi sỹ ĐHN chọn Tây trúc làm điểm đến hôm nay !
Thật ấm áp khi đến đây, chợt nhớ câu :
Phụng sự Chúng sinh là cúng dường Chư Phật !

……………………………………………………………………

(Vài hình ảnh và chú thích của ĐHN)

Thăm chùa Tây Trúc, Lộc Ninh ngày 1.3.2023)

 

 

 

Nhóm Học Phật chụp chung tấm hình kỷ niệm trước phòng trưng bày thư pháp “Chuyện Đạo Chuyện Đời” của chùa Tây Trúc.

trà đàm trao đổi kinh nghiệm học Phật

thăm hỏi bệnh tình phụ thân Sư cô đang nằm chữa trị tại chùa.

Trên đường về, Nhóm Học Phật ghé thăm chùa Phật Quốc Vạn Thành, có tượng Phật cao 73 m, ở Bình Long (Bình Phước).

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 04, 2023 01:47

February 24, 2023

Ban Mai (QN): Mời người lên xe về miền quá khứ… với Áo Xưa Dù Nhàu…

 

Mời người lên xe về miền quá khứ

BAN MAI

“Mời người lên xe, về miền quá khư” với tác phẩm Áo Xưa Dù Nhàu… của Đỗ Hồng Ngọc tại Hội quán Các Bà Mẹ Tp.HCM ngày 12.2.2023.
Ban Mai (Thanh Thúy. hàng đầu, góc trái).

“Mời người lên xe về miền quá khứ” là buổi trò chuyện về tập sách “Áo xưa dù nhàu” của Bs. Đỗ Hồng Ngọc viết về 18 tác giả là nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ, họa sĩ mà ông có dịp hạnh ngộ.

Tập sách gồm 309 trang, in khổ nhỏ, bìa sách trang nhã, do NXB Đà Nẵng cấp giấy phép tháng 10.2022. Với những bài viết:

Nguyễn Hiến Lê, “… Để người quân tử… hò ơ…”

Võ Hồng, “Nỗi cô đơn uy nghi

Cậu tôi, ông Ngu Í Nguiễn Hữu Ngư, “ người điên thứ thiệt

Giáo sư Trần Văn Khê, “Đời thường…”

Dương Cẩm Chương, “Kẻ lữ hành không mệt mỏi của đường dài

Thăm nhà văn Trang Thế Hy, … “thì cứ hỏi cuộc đời

Thi sĩ Quách Tấn, Đọng bóng chiều

Gặp gỡ với nhà thơ Huyền Chi, Thuyền Viễn Xứ

Tôn Nữ Hỷ Khương, “ Chỉ có tình thương để lại cho đời

Phạm Thiên Thư, “Như Lai thường trụ trên tà áo xuân

Nhớ Tiếng thu giữa Boston

Một hôm, có“chàng Huy Cận”

Võ Phiến, Cuối cùng là sự Mộc mạc

Nguyễn Bắc Sơn… Thy Đạo

Trần Vấn Lệ, may mà còn nhớ thương

Du Tử Lê, “ tung cánh vàng xưa hạc vút bay”

Khánh Minh, Còn chút để dành

Cao Huy Thuần, Người khuân đá

Chỉ cần vài nét chấm phá ông đã vẽ nên cái thần của người đối diện, mỗi tác giả khoảng vài mười trang, đặc biệt ông dành nhiều trang sách cho Ngu Í Nguiễn Hữu Ngư và Nguyễn Hiến Lê.

Đầu sách ông trang trọng giới thiệu học giả Nguyễn Hiến Lê, người ông chịu nhiều ơn như một người thầy. Bs Đỗ Hồng Ngọc từng khẳng định sách “Học làm người” của Nguyễn Hiến Lê có tầm ảnh hưởng to lớn cuộc đời của ông.. “Nhìn lại toàn bộ tác phẩm của ông, không ai chối cãi giá trị của những cuốn Đông Kinh nghĩa thục, Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, Đại cương triết học Trung Quốc, Ngữ pháp Việt Nam… và những Chiến tranh và Hoà bình, Sử kí Tư Mã Thiên, Chiến Quốc sách… Những tác phẩm đó thực sự có ích cho các nhà nghiên cứu, các sinh viên đại học và đã đóng góp một phần đáng kể cho nền văn hoá miền Nam. Nhưng theo tôi, những tác phẩm quan trọng trong đời ông, đáng cho ông hãnh diện chính là những tác phẩm nho nhỏ ông viết nhằm mục đích giáo dục thanh niên, hướng dẫn họ trong sự huấn luyện trí, đức. Đó là cuốn Kim chỉ nam của học sinh, Tự học để thành công, Tương lai trong tay ta, Rèn nghị lực…, và nhất là bộ Gương danh nhân của ông”.

Mấy năm trước, nhân chuyến đi về Miền Tây của các thành viên tạp chí Quán Văn ra mắt sách ở An Giang, chuyên đề “Trịnh Bửu Hoài- mùa nước nổi” Bs. Đỗ Hồng Ngọc đã đưa nhóm bạn tìm đến ngôi nhà cũ của học giả Nguyễn Hiến Lê, và đặt cuốn sách “Nguyễn Hiến lê con người và tác phẩm” được tái bản lần hai lên bàn thờ ông như một nén tâm nhang. Học giả Nguyễn Hiến Lê sống trong một ngôi nhà khá lớn, với khu vườn rộng xanh mát nằm trên mặt đường Tôn Đức Thắng, thành phố Long Xuyên. Ngày nay, ông bà đã mất chỉ còn bà Kim Liên, cháu gái vợ ông làm con nuôi gìn giữ ngôi nhà. Bà Kim Liên tiếp chúng tôi thân tình trong thư phòng làm việc của ông, cũng là nơi thờ tự di ảnh ông bà.

Nguyễn Hiến Lê sinh năm 1912, trong một gia đình nhà nho ở tỉnh Sơn Tây nay thuộc Hà Nội. Năm 1934, tốt nghiệp trường Cao đẳng Công chính Hà Nội ông được chuyển vào Nam làm việc và gắn bó đến cuối đời. Người vợ đầu có một con trai qua Pháp học từ nhỏ và định cư ở đó. Trước khi qua Pháp vợ ông đã đi hỏi cưới bà Nguyễn Thị Liệp là giáo viên dạy  trường nữ sinh Long Xuyên cho ông, nói là người sau nhưng thực ra bà Liệp lại là mối tình đầu khi ông vào Nam làm việc. Hai ông bà không có con, nên bà Liệp nhận cháu làm con nuôi. Năm 1984 học giả Nguyễn Hiến Lê qua đời, bà Liệp đi tu. Khi bà mất tro cốt của ông cũng được chôn cất chung trong một cái tháp cùng bà ở khu vườn riêng gia đình.

Thư phòng làm việc của Nguyễn Hiến Lê sạch mát, chỉ có một bàn nhỏ để viết, một tủ sách, một chiếc giường nhỏ để ông ngả lưng, bàn thờ ông đơn sơ. Ông là một học giả uyên bác của miền Nam Việt Nam mà tôi vô cùng kính trọng. Cũng như Bs Đỗ Hồng Ngọc, tôi chịu ơn ông rất nhiều và có lẽ rất nhiều tầng lớp hoa niên thế hệ Miền Nam chúng tôi cũng vậy khi có duyên tiếp cận tủ sách “học làm người” do ông biên soạn hoặc dịch thuật. Ông được mệnh danh là “ lương thức của thời đại”, tầm ảnh hưởng sách của ông rộng khắp các thế hệ thanh niên miền Nam. Ông xuất bản 120 tác phẩm, tác phẩm nào cũng có ích cho đời.

Với Bs Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Hiến Lê là một người thầy lớn của ông, là người khuyên ông theo học ngành Y, ông nói ngày đó nhà ông nghèo, cha mất sớm, ông học giỏi nên được nhảy lớp, và luôn đứng đầu, khi ông thi xong Tú tài II, ông vừa muốn học Văn khoa, Sư Phạm và ngành Y. Nguyễn Hiến Lê khuyên ông: Học Y, giúp gia đình và giúp đời cụ thể, nếu có tâm hồn và năng khiếu thì sau này có thể dạy học và viết Văn theo sở thích. Và về sau Bs. Đỗ Hồng Ngọcđã thực hiện được cả ba.

 “ Tôi là độc giả của ông từ ngày còn là một học trò Đệ Thất, lại được quen biết ông hơn 15 năm nay, nghĩ lại, nếu trong thời thơ ấu không được đọc những sách đó của ông, không được gặp ông, có lẽ tôi đã khác, nên tuy không được may mắn học với ông ngày nào, từ lâu tôi vẫn xem ông là một vị thâỳ của mình, hơn thế, một người thân” (1)

“Tôi chịu nhiều ảnh hưởng của ông. Cuốn sách đầu tay của tôi “Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò” chỉ là một phần bổ túc cho cuốn Kim chỉ nam của học sinh. Sau đó tôi viết thêm một cuốn khác, cùng loại y học phổ thông, cũng nằm trong chiều hướng nâng cao trình độ đại chúng mà ông đã vạch. Ông nói muốn cho nước giàu, dân mạnh thì không phải chỉ một người hay một nhóm người làm được, mà phải là toàn dân cùng ý thức, cùng thực hiện. Muốn vậy phải đặt nặng vấn đề giáo dục đại chúng. Với tôi, ông là một tấm gương sáng. Tấm gương của Nghị lực, của Tự học và của Phụng sự” (1)

Chính vì học theo tấm gương của học giả Nguyễn Hiến Lê “một nhà trí thức Việt Nam, ngoài công việc chuyên môn ra, phải phổ biến những kiến thức của mình trong đại chúng thì mới có thể gọi là làm tròn nhiệm vụ trong giai đoạn này được” (2)

Bs. Đỗ Hồng Ngọc đã làm được điều đó, nhờ am hiểu ngành y ông đã phổ biến kiến thức sức khỏe cho cộng đồng với lối việc hóm hỉnh, dí dỏm , làm những vấn đề trầm trọng của người già trở nên nhẹ nhàng,người đọc thỉnh thoảng phải bật cười vì thấy mình ở đó trong những cuốn sách viết về tuổi trung niên như: “Những người trẻ lạ lùng”, “Gió heo may đã về”, “Nghĩ từ trái tim” là những bài viết như vậy.

Đôn hậu, nghiêm túc là con người của BS. Đỗ Hồng Ngọc mà bất cứ ai đã được dịp tiếp xúc đều nhận ra ngay, trãi qua bao thăng trầm của đời người ông thấm nhuần Thiền Phật, những bài ông viết cho giới trẻ, cho tuổi già là những nhắn nhủ của một người làm chuyên môn cho lời khuyên xác đáng để con người biết sống nhẹ nhàng hơn khi đối diện với tuổi xế chiều.

Ngoài học giả Nguyễn Hiến Lê với bài “Để người quân tử … hò ơ”, Bs Đỗ Hồng Ngọc còn dành nhiều trang viết cho Ngu Í Nguiễn Hữu Ngư, người cậu tài hoa của mình “người điên thứ thiệt” người đã thay mẹ mình dắt ông đi học ngày đầu tiên đến trường, vì khi đó ông mồ côi cha, sống trong chùa ở Phan Thiết. Cậu ông về cho ông đi học. “ Bây giờ, mỗi lần nhớ tới cậu, tôi thường tự hỏi, hồi bằng tuổi cậu, tôi có làm được điều gì đó cho ai như cậu đã làm cho tôi không và tự nhiên tôi thấy lòng mình rộng mở, thanh thản, muốn giúp đỡ, chia xẻ”. Ngu Í Nguiễn Hữu Ngư nhà văn, nhà báo có nhiều bút danh trong đó bút danh Nguiễn Ngu Í (với I ngắn) được nhiều người biết với loạt bài phỏng vấn văn nghệ sĩ nổi tiếng đăng trên tạp chí Bách Khoa thập niên 1960 tài Sài Gòn. Ông có lối viết tiếng Việt riêng, gây nhiều tranh cãi. Ông là bạn cùng lớp, cùng trường Pétrua Ký với Trần Văn Khê, Lưu Hữu Phước, Huỳnh Văn Tiểng. Cuộc đời ông nhiều truân chuyên, tài hoa nhưng mắc bệnh không chữa được. Bị điên nhiều lần vào ra Dưỡng trí viện Biên Hòa, ông cùng các bạn điên ra tập thơ “Thơ điên thứ thiệt” trong đó có mấy bài góp mặt của Bùi Giáng. Thời đó, ngoài thuốc men, các bác sĩ ở Dưỡng Trí viện Biên Hòa còn khuyến khích bệnh nhân làm thơ, vẽ tranh, đánh cờ, lao động chân tay… như một liệu pháp chữa trị tâm bệnh. NguIễn Ngu Í có những bài rất cảm động như “ Má ơi con má điên rồi/ má còn trông đứng đợi ngồi mà chi?” hay ông làm câu đối trên bàn thờ ông bà “ Mắt mở đã thâý xiềng nô lệ/ Hồn đi còn mơ gió tự do”…, đọc thơ ông mà thương cho một kiếp người taì hoa, bất đắc chí.

Tập sách “Áo xưa dù nhàu” của Bs Đỗ Hồng Ngọc không phải là những bài phê bình văn học các tác giả, nó là những kỷ niệm, những tâm tình riêng của ông với bạn hữu, người thân mà ông yêu quý, kính trọng, nó như một tài liệu tham khảo trong làng Văn. Người đọc sẽ cảm được mạch văn giản dị, trong một con người đôn hậu, nghiêm túcmà bất cứ ai đã được dịp tiếp xúc đều nhận ra ngay.

Không gian trò chuyện trên căn gác nhỏ ở “Hội quán các bà mẹ” ấm áp thân tình, ông thích một không gian nhỏ để cuộc trò chuyện gần gũi hơn. Trong buổi trò chuyện tôi hỏi cuốn sách viết về những tác giả này ông có chuẩn bị trước tài liệu hay lên đề cương chi tiết cho từng tác giả, ông nói ông không chuẩn bị gì cả, cứ mỗi tác giả những kỷ niệm hình ảnh tự nhiên ùa về và thế là ông viết. Tình cảm của ông dành cho họ đã có sẵn trong tim cứ thế tuôn tràn. Đó là hạnh phúc của người viết cho từng hạnh ngộ. Địa điểm Bs Đỗ Hồng Ngọc chọn khá độc đáo nằm trong con hẻm giữa Đài truyền hình HTV và VOV số 7 Nguyễn Thị Minh Khai Quận 1. Lọt thỏm giữa trung tâm thành phố sầm uất lại có 1 phiên chợ quê, một tuần nhóm 1 lần dưới gốc cây đa cổ thụ vào sáng chủ nhật do “Hội quán các bà mẹ” tổ chức, tái hiện một chợ quê miền Nam mà người bán mặc áo dài với những mẹt thúng, mẹt rổ, những món ăn, rau trái dân dã, củ chuối, củ mình tinh, mứt vỏ bưởi sấy khô, bánh bột lọc, bánh nậm, bánh ú, bánh thuẫn, lâu rồi mới ăn lại cái bánh cam, vỏ bánh giòn rụm rưới mè, bên trong nhân đậu xanh vừa ngọt vừa bùi, bánh dẻo thơm mùi lá dứa, chén chè đậu xanh nước dừa… Cảm ơn anh Đỗ Hồng Ngọc đã cho tôi một buổi sáng chủ nhật thú vịvới ” Mời người lên xe về miền quá khứ”.

 

BAN MAI

18.2.2023

—————-

“Áo xưa dù nhau”. Bs Đỗ Hồng Ngọc, NXB Đà Nẵng, 2022, tr 23, 30Lời tựa của Nguyễn Hiến Lê viết cho tập sách “Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò” của Bs. Đỗ Hồng Ngọc, năm 1971.

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 24, 2023 00:43

February 20, 2023

Tự-tại Vô-ngại

 

Tự-tại Vô-ngại

(tặng Nguyên Giác Phan Tấn Hải),

Mục tiêu của Kinh Hoa Nghiêm là giúp ta có được cuộc sống an nhiên, tự tại, hạnh phúc ngay ở đây và bây giờ… Một thế giới hoa tạng, rực rỡ xinh đẹp sẽ được thành tựu tùy tâm mình. Cho nên người có khả năng làm chủ chính bản thân mình, người biết sống Tự-tại Vô-ngại là người làm chủ được cả… thế giới (Thế chủ diệu nghiêm) chớ không phải thần thánh từ phương nào!

Học Hoa Nghiêm là để thấy được Lý vô ngại, Sự vô ngại, và nhờ đó mà đạt đến “Sự Sự Vô Ngại” vậy.

Vô ngại là không bị trở ngại, không bị ngăn che, không bị chia cắt, không còn phân biệt, là được thông suốt, thông dung… vì đã thấy được cái này có vì cái kia có, cái này không vì cái kia không, trong mạng lưới trùng trùng duyên khởi, duyên sinh, thấy được “hữu-hóa” (Hoa Nghiêm) đều đến từ trong tánh Không (Bát Nhã), vì không có Tự tánh riêng biệt.

“Lý” mà được hiểu vậy rồi thì cái núi Tu-di to đùng kia có thể nhét vào hạt cải, nước bốn biển mênh mông nọ có thể dung chứa trong một lỗ chân lông. Bát Nhã giúp ta thấy được chân Không, vô tướng. Nhưng Không ở đây không phải là không có. Còn cái chỉ do duyên sinh mà có, nên được coi là “diệu hữu”, một cái tuyệt diệu, có khi nó chỉ hiện hữu trong thoáng chốc (vô thường) rồi biến mất làm cho ta ngẩn ngơ! Phải có cái nhìn (thấy biết) “thật tướng” như Phật dạy trong kinh Pháp Hoa: thì mới “ngộ nhập tri kiến Phật”.

Ở Kinh Pháp Hoa, Phật nói có một pháp môn rất hay, có thể giúp các vị Bồ-tát mau thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Pháp môn này gọi là Vô Lượng Nghĩa. “Vô lượng nghĩa này từ một pháp sanh ra, một pháp ấy chính là Vô tướng. Vô tướng ở đây nghĩa là vô tướng mà chẳng phải vô tướng, chẳng phải vô tướng mà vô tướng nên gọi là thật tướng”. Cái “thật tướng” đó nó mới đẹp làm sao! Nó hiện hữu từ vô tướng, sinh trụ dị diệt trong chốc lát ở nơi “hữu vi” rồi trở  về lại với vô tướng. Kim Cang nói: “Nhất thiết hữu vi pháp/ như mộng, huyễn, bào, ảnh/ như lộ, diệc như điện. Ưng tác Như-thị quán”. Tất cả mọi sự vật hiện tượng ở đời (hữu vi) thì như giấc mộng, như huyễn, như bèo bọt, như ảo ảnh, như sương mai, như điện chớp… Hãy quan sát để thấy như thế. Đừng có bám chấp, đừng có ảo vọng.

Cánh hoa lung linh trước gió, con bướm đầy màu sắc chập chờn, con ong hút mật, con công đang múa, sư tử gầm gừ… tất cả đều từ một “Tạng” mà ra. Chính là Như Lai tạng (tathagata-garbha). Tất cả pháp giới các vị Phật cho đến Thiên, Nhân… Ngạ quỹ cũng đều từ Như Lai tạng mà ra như thế. Bồ tát Phổ Hiền ở trong Tam muội của mình thấy rõ: “Nhất thiết chư Phật tỳ-lô-giá-na Như Lai tạng thân”. Nói khác đi, Thân của các vị Phật, chính là tỳ-lô-giá-na kia , đều từ Như Lai tạng mà ra!

Một lần nọ, Phật hỏi Duy-ma-cật ông quán Như Lai thế nào? Duy-ma-cật trả lời: Tôi quán pháp thân Như Lai, cũng như quán pháp thân Phật và tôi, không khác!

Có điều Phật thì do nghiệp do duyên từ nhiều đời nhiều kiếp, nay thành Đức Phật toàn giác với 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, còn tôi… chỉ là một vị được gọi là Bồ-tát ở thành Tỳ-da-ly này, tôi phải tu hành nhiều đời nhiều kiếp nữa! Phật cười: Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành! Bởi ai cũng sẵn có Phật tánh, ai cũng có Pháp thân sẵn đó rồi. “Một là tất cả và tất cả là Một” vậy.

Thú vị của Kinh Hoa Nghiêm là ở phẩm “Như Lai hiện tướng”! Như Lai vốn “vô tướng” bỗng “hiện tướng” ra Đức Phật. Để làm gì? Để “cứu khổ” cho muôn loài nên được gọi là Đạo sư, Thiên Nhân Sư.  Có một bài đồng dao của trẻ con: “Một ông Phật hiện ra, ba con Ma biến mất”! 3 con Ma là Ma tham, Ma sân và Ma si. Tham Sân Si mà… biến mất thì Niết-bàn đây rồi chớ đâu! Bằng cách nào? Dễ thôi. Tứ Diệu Đế, Bát chánh đạo, Thập nhị nhân duyên… từng bước cho đến khi thấy Như Lai vô tướng, thấy được Như Lai tạng, nhìn mọi thứ bằng thật tướng của nó và từ đó… sẽ Ung dung, Tự tại, Sự sự Vô ngại!

Phật lúc nào cũng ở trong Định, ít khi xuất hiện. Nhờ có hai “thị giả” là Bồ-tát Văn Thù trí tuệ cưỡi sư tử một bên và Bồ-tát Phổ Hiền từ bi cưỡi voi sáu ngà một bên thay Phật thuyết giảng. Phật chỉ ngồi yên cười… tủm tỉm, không nói năng chi. Trước khi nhập Niết-bàn Phật dặn dò đệ tử: Xưa nay, ta chẳng nói điều gì, ta chẳng dạy ai điều chi cả! Bởi Phật biết sau này có Internet, có AI các thứ thì họ sẽ nói lung tung rồi đổ thừa Phật!

Thiện tài Đồng tử được Di Lặc cho thấy lâu các Tỳ-lô-giá-na (Kinh Avatamsaka =Gandavyha). Tranh Nepal, thế kỷ 11-12.

 

Thiện Tài đồng từ là chàng thanh niên bỡ ngỡ bước vào đời muốn học Bồ-tát đạo, may gặp Văn Thù chỉ cho con đường và chàng lang thang khắp chốn để học với tất cả mọi người, mọi giới…với lòng khiêm cung, chí thành để cuối cùng gặp Phổ Hiền, học được Tam muội Đại định (Samadhi) mà thấy biết Pháp thân Tỳ-lô-giá-na của mình, quay trở về kho tàng thân xác của chính mình để từ đó “thành Phật” vậy.

Đỗ Hồng Ngọc

(Tôi học Phật)

(2.2023)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 20, 2023 22:29

February 17, 2023

Vài hình ảnh buổi Trò chuyện về cuốn “ÁO XƯA DÙ NHÀU…”

 

Thư gởi bạn xa xôi,

Vài hình ảnh về buổi Trò chuyện “ÁO XƯA DÙ NHÀU…”

Bạn bè nơi xa hỏi thăm buổi Trò chuyện của mình về cuốn sách mới: “Áo Xưa Dù Nhàu…” tại Hội quán Các Bà Mẹ 12.2.2023, trong đó Anh Hai Lấp Vò… cằn nhằn nhiều nhất: sao im re, chả viết “tường thuật” gì cả vậy!

Mình chọn địa điểm Hội quán CBM để thực hiện buổi Trò chuyện thân mật và ấm cúng về cuốn Áo Xưa Dù Nhàu… này vì nó còn giữ được nét quê mùa… “chật chội, nực nội” nên gần gũi và ấm cúng lắm. Nghĩ bụng chắc có chừng vài mươi người bạn thân thiết đến chơi là vui rồi, ai dè đông gấp 4-5 lần nên có người phải bực bội ra về. Rất xin lỗi nhe.

Xin gởi vài tấm hình bạn coi vui như mọi khi, vì lúc này làm biếng viết quá rồi đó.

Cô Thanh Thúy, Hội trưởng Hội quán CBM có đôi lời giới thiệu người không xa lạ là “Nhà thơ-Bac sĩ ĐHN” vốn từ xưa cùng GS Trần Văn Khê đã là “cố vấn” của Hội quán…

 

Sau đó mình phải giải thích tại sao mình chọn địa điểm “nhà quê” này -giữa thành phố có nhiều hội trường máy lạnh rộng rãi- vì ở đây còn có chợ quê, có cây đa cuối hẻm… và giải thích tại sao BTC giới thiệu mình là “nhà thơ-bác sĩ”, vì kinh nghiệm mấy lần ghi 2 chữ “Bác sĩ ĐHN”  thì thính giả chỉ hỏi miết về bệnh tật. Mình nói rõ thêm đã làm thơ từ trước khi làm bác sĩ và mình bèn đọc vài bài thơ… để làm chứng! Vậy đó.

Bạn bè đông thiệt, bất ngờ quá!

Nhạc sĩ Trần Văn Quang “phụ trách” phần âm nhạc hỗ trợ vì “Áo xưa dù nhàu…”,  và anh đã hát Phôi Pha (TCS) bằng giọng trầm ấm của một người bước vào “gió heo may…”

 

 

 

 

 

 

 

 

Đã có rất nhiều cậu hỏi… và không khí trở nên sôi động!

Thu Vân hát “Hạ Trắng”, là bài hát chủ đề của buổi hôm nay, có câu “Áo xưa dù nhàu, cũng xin bạc đầu, gọi mãi tên nhau…” của TCS… rất da diết, sâu lắng…

Ảnh Huỳnh Ly (TT)

 

Nguyễn Nhật Ánh Thy hát “Còn tuổi nào cho em” (TCS). Hát xong cô hỏi “sao con thấy bác có vẻ trầm ngâm vậy?” mình trả lời vì còn tuổi nào cho em đó mà!

 

 

 

 

 

 

 

 

Và đây là một vài comments:

Em cảm ơn anh đã mời em “lên xe, về miền quá khứ” của anh để thấy được những bài học giá trị, từ những con người rất đặc biệt. Họ có mặt trong cuộc đời anh, để một phần làm nên một Đỗ Hồng Ngọc hôm nay. Em cũng học được ở anh cách chia sẻ hồn nhiên và sâu sắc, tinh tế và dí dỏm. Em học được cách làm việc rất chuyên tâm của anh, mạch chuyện được viết xuống tờ giấy nhỏ, thỉnh thoảng ghi chú thêm, được anh dẫn dắt cách tự nhiên và nhạy bén. Anh cứ việc là mình vậy thôi, là vui rồi, phải không ạ? (M.Y)

 

Lòng biết ơn là một điều tuyệt vời trong cuộc sống. Lòng biết ơn cho ta thêm năng lượng tích cực, vừa biết yêu thương người khác, vừa biết yêu thương mình, lại thêm sức sống và yêu đời.
Con cũng học được cách yêu thương, quý trọng, nâng niu từng phút giây sống trong hiện tại.
“Còn gặp nhau thì hãy cứ vui
Chuyện đời như nước chảy hoa trôi
Lợi danh như bóng mây chìm nổi
Chỉ có tình thương để lại đời”
Thơ Tôn Nữ Hỷ Khương
Con đã đến buổi hội thảo và ra về mang theo nhiều hạnh phúc và nhiều giá trị không đong đếm được.
Cám ơn Bác.

(Tú Quyên)

Hẹn thư sau.

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc

(18.2.2023)

…………………………………………………………………………………………………….

Áo Xưa Dù Nhàu… và lời tri ân của nhà văn Đỗ Hồng Ngọc

Huỳnh Vy

(Theo https://tuoitre.vn/)

Ở tuổi 83, nhà văn – nhà thơ – bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc vẫn rất hóm hỉnh trong buổi trò chuyện thân tình cùng độc giả, nhân dịp giới thiệu quyển sách mới: ‘Áo xưa dù nhàu…’.

Trong không gian thân mật tại Hội quán Các bà mẹ trưa ngày 12-2-2023, nhiều bạn bè thân hữu và độc giả thân thiết đã đến chung vui cùng nhà thơ – bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, trong đó có những độc giả đến từ tận Tiền Giang, Đà Nẵng, Quy Nhơn…

Tri ân những người bạn lớn

Buổi trò chuyện bắt đầu bằng những ca khúc nhạc Trịnh quen thuộc. Cái tên Áo xưa dù nhàu… cũng chính là lời Bạt mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng viết cho quyển sách Gió heo may đã về của Đỗ Hồng Ngọc năm 1997. Đến nay, lại trở thành tên của quyển sách mới.

Áo xưa dù nhàu… là tập sách khắc họa chân dung 18 nhân vật qua góc nhìn riêng của tác giả Đỗ Hồng Ngọc. Ông cho biết mình không phải chuẩn bị lâu vì những câu chuyện, những kỷ niệm cùng các nhân vật đều nằm sẵn trong tim. Đó là những người thầy, những người bạn lớn trong cuộc đời ông.

Những gì ông kể ra chỉ là một phần nhỏ về họ. Một góc nhìn rất dung dị, gần gũi, thậm chí là hài hước. Cách sắp xếp các nhân vật trong sách cũng đơn giản đi từ già đến trẻ, từ những người đã mất đến vẫn còn sống…

Khi được hỏi về thông điệp của Áo xưa dù nhàu…, tác giả Đỗ Hồng Ngọc chia sẻ giản dị: “Đó là lời tri ân và gợi nhắc những kỷ niệm xưa. Ví như tôi học cách sống, cách viết của ông Nguyễn Hiến Lê. Còn với cậu tôi, ông Ngu Í Nguiễn Hữu Ngư, lại là những ký ức khó quên về người đã nắm tay dắt tôi đến trường.

Có rất nhiều kỷ niệm mang đậm tính cá nhân riêng tư như thế, nên thật khó nói thông điệp hay bài học. Tôi nghĩ chỉ cần tri ân những người đã giúp đỡ ta, vậy là tốt rồi!”.

“Nhà” nào cũng quyến rũ

Trong buổi trò chuyện, nhà thơ – bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cũng đùa vui về danh xưng “nhà thơ” của mình. Ông đã làm thơ đăng báo từ lúc 16 – 17 tuổi và có bút danh Đỗ Nghê (ghép từ họ của ba và mẹ) trước khi thi vào trường y và trở thành bác sĩ.

Những ngày đi thực tập đỡ đẻ ở Bệnh viện Từ Dũ, ông viết Thư cho bé sơ sinh – một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của ông. Hay bài thơ viết cho người mẹ đã mất nhân dịp Vu Lan, một bài thơ ngắn đầy xúc động của ông – cũng từng được nhiều người chia sẻ.

Khi được độc giả hỏi “anh có nhiều nhà” quá: nhà văn, nhà thơ, nhà thiền học, nhà giáo…, sắp tới nếu viết về một “nhà”, anh chọn “nhà” nào?”; tác giả Đỗ Hồng Ngọc cười: “Chắc là Nhà tôi!”.

Nhà văn Nguyên Cẩn bày tỏ sự ngưỡng mộ: “Nhà nào cũng vậy, Đỗ Hồng Ngọc luôn có thể viết đầy dung dị, hài hước, dễ hiểu và đầy quyến rũ”.

Những chân dung được Đỗ Hồng Ngọc “vẽ” lại theo cách riêng

Áo xưa dù nhàu… là tác phẩm mới nhất của nhà văn – nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc, do Phanbook và NXB Đà Nẵng ấn hành.

Cuốn sách tập hợp những ghi chép về 18 chân dung nhân vật Nguyễn Hiến Lê, Võ Hồng, Ngu Í Nguiễn Hữu Ngư, GS Trần Văn Khê, Dương Cẩm Chương, Trang Thế Hy, Quách Tấn, Huyền Chi, Tôn Nữ Hỷ Khương, Phạm Thiên Thư, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Võ Phiến, Nguyễn Bắc Sơn, Trần Vấn Lệ, Du Tử Lê, Khánh Minh, Cao Huy Thuần.

Nhà thơ Trần Thị Nguyệt Mai bình về Áo xưa dù nhàu…: “Ngoài là bác sĩ, Đỗ Hồng Ngọc còn là một nhà thơ (Đỗ Nghê), một họa sĩ của những bức ký họa được bạn bè yêu thích.

Nên những chân dung được ông “vẽ” lại theo cách rất riêng, không giống với một ai, bằng đôi mắt của người thầy thuốc yêu nghề, chọn lọc những góc cạnh độc đáo của họa sĩ và trải lòng với tâm cảm của nhà thơ, nên có những bài viết đẹp như thơ…”.

(Tuổi Trẻ online,12.2.2023)

 

 

 

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 17, 2023 17:20

February 8, 2023

Hội quán Các Bà Mẹ: THƯ MỜI

Hội Quán Các Bà Mẹ Tp. HCM

Thư Mời:

 

 

 

 

Áo xưa dù nhàu… là tuyển tập 18 bài viết của tác giả Đỗ Hồng Ngọc về 18 chân dung văn nghệ sĩ ở những lĩnh vực chủ yếu là văn chương, âm nhạc và hội họa. Đó có thể là những tên tuổi lớn như Nguyễn Hiến Lê, Trần Văn Khê, Du Tử Lê, Huy Cận… hay những người trong gia đình, người bạn thân quen của tác giả. Điểm chung giữa họ đó là đều có duyên hạnh ngộ với Đỗ Hồng Ngọc trên bước đường văn chương và cuộc đời.
Bằng giọng văn mộc mạc nhưng chan chứa tình cảm và sự trân trọng, Đỗ Hồng Ngọc đã truyền được cảm xúc của mình đến người đọc. Qua cái nhìn của tác giả, ta sẽ không chỉ khám phá được cái hay, cái đẹp của các nhân vật qua từng bài viết mà còn cảm nhận được cái nghĩa, cái tình trong mối quan hệ giữa người thầy thuốc viết văn ấy với bạn bè.

………………………………………………………………………………………………………….

Thân gởi bạn,

Rảnh đến chơi nhe.

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

9.2.2023

 

1 like ·   •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 08, 2023 17:48

February 5, 2023

Đọc thơ Khánh Minh: tháng năm là mộng đang đi

 

Đọc Thơ Khánh Minh

tháng năm là mộng đang đi

 

 

Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Nghê)

Khánh Minh tâm sự: “Với riêng tôi, Lục Bát thân thuộc như hơi thở. Cha mẹ tôi kể thường ru tôi ngủ bằng những câu thơ lục bát. Như thế thì chưa biết nói đã được nhạc Lục Bát ấp ủ trong từng hơi thở đầu đời. Cứ thế mà bén rễ, ăn sâu vào cảm thức, cho đến khi bật ra thành câu thuở chập chững làm thơ…

Và tôi đã cảm nhận rằng Lục Bát, dù mang nét chân phương như ca dao, vè, hay đầm đẫm nét sang cả của một Sáu Tám thâm viễn u u, thì ở mỗi tính cách, Lục Bát vẫn có sức quyến rũ riêng.

Tôi đã gom lại những bài Lục Bát của mình để có được một tặng phẩm nhỏ này như một tri ân Lục Bát, như quả thu được từ hoa lời ru của cha mẹ, như sợi tằm chắt chiu gửi cho Đời cho Người…”

– Nguyễn Thị Khánh Minh

(Sant a Ana, một ngày Thu, 2022)

Khánh Minh có lần cho biết, trong bài phòng vấn của Lê Thị Huệ trên gio.o.com  : Tôi vẫn luôn luôn viết từ cảm xúc tức thời của mình, về những điều tôi chợt thấy, hay về những điều ám ảnh và trở đi trở lại trong ý nghĩ mình, và tôi thường diễn đạt theo một thi pháp trong sáng nhất, trong sáng với nghĩa dễ hiểu, không nhiều ẩn dụ. Tôi mong là người đọc thơ tôi cảm được cái Thơ của nó không qua suy nghĩ. Một cái hiểu và cảm tức thì. (gio.o.com).

Nhiều người cho rằng Lục bát thì “dễ làm mà khó hay”, nên phải làm mới, đưa kỹ thuật hàn lâm vào để nâng cao, để có thứ lục bát “đầm đẫm nét sang cả của một Sáu Tám thâm viễn u u” thì tôi chịu thua! Theo tôi, làm mới lục bát đúng là một chuyện không dễ  và… không cần. Nó là một thứ tiếng nói. Tiếng nói Việt. Cho nên cách tân lục bát để “hàn lâm” nó chỉ gây thêm khổ cho cả người thơ và người đọc.

Nhiều bài lục bát hàn lâm, sang cả u u, tôi ráng hiểu, thấy khâm phục, nhưng lạ, sao không thấy hay! Đành cười mình dốt đặc! Hay, với tôi là cái đọng lại, cái ngẩn ngơ sau những câu chữ buột miệng, tình cờ… kiểu như thò tay ngắt một cọng ngò, thương anh đứt ruột giả đò ngó lơ… Phải, thứ lục bát của ca dao tôi, của tâm hồn tôi. Nó quê mùa, nó chơn chất. Trèo lên cây bưởi hái hoa/Bước xuống vườn cà… nó cứ trơn tuột như vậy, bước xuống vườn cà để làm gì? Để hái nụ tầm xuân. Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc/ Em có chồng rồi anh tiếc lắm thay. Ai bảo nó là lục bát. Ai bảo nó không là lục bát. Ba đồng một miếng trầu cay/ Sao anh không hỏi những ngày còn không/ Bây giờ em đã có chồng… Vậy đó. Nó cứ tuồn tuột. Mà nó bứt rứt, mà nó thốn đau, mà nó đay nghiến, mà nó dằn vặt… có khi đến trọn  đời. Với tôi, còn là thứ lục bát con cò mà đi ăn đêm, trông trời trông đất trông mây… toàn là những nỗi đau, nỗi mong, nỗi đợi. Lục bát như vậy nó không cần đi vào sang cả u u, phải vật vả truy tìm, mà nó đi thẳng vào tim với rung động sáu cách…!

tháng năm là mộng đang đi… của Khánh Minh là một tập thơ lục bát lạ, nó vừa “sang cả u u” lại vừa “chơn chất thật thà”, đầy những kỷ niệm nhỏ to với bạn bè khắp chốn. Bởi nó là mộng. Mộng thấy quê nhà là nét dễ mến nhất, “khánh minh” nhất. Mộng thấy biển xanh. Thấy bóng nắng. Thấy cổ tỉnh. “Vằng vặc một tấm lòng/ Giếng xưa trăng rọi bóng” (trạm trạm nhất phiến tâm/ minh nguyệt cổ tỉnh thủy. Nguyễn Du).

Vòng tay mở rất quê nhà

Trông lên đôi mắt đã là quê hương

(2008)

Tôi biết nhà thơ muốn viết đã nhòe quê hương…

(tháng năm là mộng đang đi)

 

Và ta hiểu nỗi cô đơn dằng dặc thế nào trong cảnh sống xa quê của một người có tấm lòng “cổ tỉnh”.

Nói thầm

Gọi thầm

Hát thầm

Luôn luôn như thế

Lặng câm

Một mình

Như cơn sốt nặng làm kinh

Bật lên tiếng gọi thình lình. Giữa đêm

Thì ra vì quá lặng im

Sợ quên. Nên gọi. Để tìm mình thôi

(Nói thầm)

Bỗng nhớ Thanh Tâm Tuyền hơn nửa thế kỷ trước:

Tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ

Thanh Tâm Tuyền Thanh Tâm Tuyền.

(Tôi không còn cô độc, 1956)

 

Không dừng ở đó, tháng năm là mộng đang đi lại là nỗi tìm về.

 

Về trong tiếng gọi cội nguồn

 Một tâm xao động. Một hồn tịch nhiên

Lắng vào lời của vô biên

Nghe trong ta nở một miền cỏ hoa.

(NHƯ)

Lắng vào lời của vô biên/ Nghe trong ta nở một miền cỏ hoa. Phải rồi. Đó mới chính là Khánh Minh. Là nghe tiếng gọi cội nguồn, là nghe lời nói của vô biên, là đã trở về với Như Lai thực tướng.

 

Thầy Phước Hậu năm xưa (1862-1949) đã ghi nhắc:

“Kinh điển lưu truyền tám vạn tư

Học hành không thiếu cũng không dư

Năm nay nghĩ lại chừng quên hết

Chỉ nhớ trên đầu một chữ NHƯ.”

 

*

Tôi thử đi tìm ca dao trong lục bát Khánh Minh. Có đó.

Vậy mà mình đã quên nhau

Lời ca dao cũ vọng đau tháng ngày

Sẻ chia một thoáng gừng cay

Muối tình phai giữa biển đầy lãng quên

(Gừng cay muối mặn)

Ôi, biển đã hết mặn rồi sao? Gừng đã không còn cay nữa sao?

 

Lúc đầu tôi định chỉ trích vài câu trong Bùa Quê thôi mà không cầm lòng được, đành trích nguyên bài “Lá bùa hộ mệnh” này. Và như vậy tôi mới thấy nhà thơ rõ hơn, ngôn ngữ “bùa mê thuốc lú” rõ hơn.

 

Quen hơi bóng nắng tre xanh

Cho ngơ cho ngẩn khi mình đi xa

Ếm vào chân nỗi nhớ nhà

Đường chông chênh lạ vẫn à ơi quê

Cứ như ai dắt bước về

Chợp con mắt lại bùa mê bóng làng

Hàng cau xanh biếc thời gian

Mầu hoa bí vẫn nở tràn giấc mơ

Bước non bước biển bây giờ

Mênh mông một khoảnh ao xưa, là nguồn

Lá bùa hộ mệnh – quê thơm –

Chở tim đồng nội, che rơm rạ lòng

Biển khơi, nhớ ngụm giếng trong

Nắng mười phương, vẫn hương đòng lúa hoa

Núm quê chiu chắt con xa…

 

(Bùa Quê)

2006

 

Không chỉ vậy, thấm đẫm nơi Khánh Minh còn là cõi Phật, với Nghiệp, với nhân quả, với “mũi tên nào để vết thương/ thôi thì đau, để nhẹ nhàng cái vay”.

 

Mũi tên nào để vết thương

Thôi thì đau, để nhẹ nhàng cái vay

Hạt vơi đong nỗi hạt đầy

Ơn trời, mưa bóng mưa mây thôi mà

Đi đi. Đường hãy còn xa…

(Dặm trường)

Tôi cũng nghĩ vậy. Đi đi. Đường hãy còn xa.

 

(ĐHN)

Nguyên tiêu, Quý Mão

(5.02.2023)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 05, 2023 04:16

January 30, 2023

Mấy ngày Tết

 

Thư gởi bạn xa xôi,

Mấy ngày Tết,

Thú thiệt, bây giờ mình không biết Tết là gì. Ngày nghỉ ư? Ngày nào mà chẳng là ngày nghỉ.  Giao thừa ư? Đêm nào mà chẳng là đêm giao thừa. Pháo nổ ư, có, pháo hoa, trên internet. Lời chúc Tết tràn lan trên mạng. Ai cũng giống ai. Ba cái lăng nhăng cũng không có. Ăn uống chỉ cần cơm trắng, cá khô đù một nắng, ít rau là đủ… Chưng một bình bông, trái cây lên bàn thờ. Xong.

Hết chuyện.

Ờ, mà có Tết chớ sao không! Ngủ một đêm sáng ra thấy mình thêm một tuổi. Ở đâu ra vậy? Trên cuốn lịch.  May có thằng con kêu để đến chở đi chơi một vòng. Ừ thì đi. Ba nhớ Lagi, Phan Thiết, Mũi Né… Nhớ gió bấc lắm. Xưa, chỉ cần nghe mùi gió bấc, mùi cốm hộc là biết Tết.

Sáng Mùng 2, Việt đến đưa Ba Má đi một vòng, có thằng Nguyên cháu nội cùng đi theo giúp đỡ ông bà. Ồ, có Tết rồi! Xe chạy vòng qua Bưng Riềng, khu rừng nguyên sinh thơm mùi cỏ cây tươi mát. Nhớ lúc 7-8 tuổi mình tản cư ở vùng này. Xe chạy dọc biển, ngang Láng Găng, khu rừng Tràm, rừng Khỉ, suối nước nóng Bình Châu. Xe tới làng gọi là “Làng Đồng Bào”… Thì ra đây là khu người Chăm, xưa tên là Phò Trì, mình lại nhớ từng ở đây lúc 5 tuổi, theo cha tản cư. Nhỏ xíu, sao còn nhớ được đã ở đậu nhà ông Hai Tại, có 2 thằng con cùng tuổi, tắm sông, vọc cát… Tối, mọi người đốt lửa suốt đêm, dùng củi gộc để cọp tránh xa, và un khói bằng phân trâu bò để tránh muỗi. Khoai lùi và hột đào (điều) nướng là tuyệt nhứt. Còn nhớ xưa làng có thầy Kiết hình như làm kiểm lâm, có cô vợ người Chăm lai Pháp rất đẹp (!). Hỏi thăm thì ai nấy đã không còn. Con cháu chẳng biết về đâu.

Ồ có cái quán cà phê ngộ. Có ruộng lúa, có con trâu… xa kia là động cát trắng và biển cả.

Quán cf Làng Đồng Bào trên đường về LaGi.

 

 

 

 

 

 

Từ đó, về LaGi không còn xa. Mình thích nhất là Farmstay ở đây, có tính gia đình, khung cảnh còn “quê mùa” tuyệt đẹp với thảm cỏ xanh, hồ nước đen, còn nhiều dừa chuối cây lá. Lần trước, nơi đây mình đã tổ chức một buổi họp mặt bà con, bạn bè nhân ra mắt cuốn Bông hồng cho Mẹ & Những cảm nhận học Phật. (www.dohongngoc.com).

LaGi Farmstay Đỗ Nguyễn Hồng Nguyên và Đỗ Châu Việt (Mùng 2 Tết Quý Mão, 2023)

Lần nào về Phan Thiết thì không thể không ghé cái “vườn dừa” Ocean này để ngắm biển, ngắm dừa…ba nhát truyền thống. Gió bấc thổi quặt quẹo mấy ngọn dừa. Lúc này đông người quá. Cũng vui như Tết.

Gió bấc

 

 

 

 

 

 

 

Mũi Né đây rồi! Gió rất mạnh. Nhưng sáng sớm, nước rút, bãi mênh mông…

 

Đỗ Hồng Ngọc một mình trên bãi biển Mũi Né, sớm Mùng 3 Tết Quý Mão 2023 (24.01.2023, ảnh Đỗ Châu Việt).

 

Đá Ông Địa,

 

 

 

Bãi Đá Ông Địa, Mũi Né 2023

 

 

 

 

 

 

 

Chút vậy thôi nhe.

 

Thân mến,

Đỗ Hồng Ngọc.

Mùng 9 Tết Quý Mão

(30.01.2023)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 30, 2023 00:31

January 20, 2023

Nguyên Giác: Mẹ dạy con ngồi như núi

 

Mẹ dạy con ngồi như núi

Nguyên Giác

 

1

mưa bụi lướt về trong mơ

ướt sũng một thời trí nhớ

thì thầm cổ tích như thơ

bay vào trong con giấc ngủ

 

mẹ ru con lời dịu dàng

nguyện cho mưa về tốt lúa

nguyện cho khắp cõi bình an

nguyện người người xa nhà lửa

 

2

mưa xa bay khắp bạt ngàn

nhớ thương về theo muôn lối

mẹ tập cho con đánh vần

dạy con thành sông, thành núi

 

mẹ nói con phải thương người

ba cõi kiếp xa vô lượng

đếm sao kể hết ơn đời

sống từng khoảnh khắc trân trọng

 

3

mưa đêm chở ngát rừng hương

về ôm từ bi phố nhỏ

nghe mẹ dạy con yêu thương

sợi nắng, cái bông, ngọn cỏ

 

mẹ dạy tỉnh thức dịu dàng

thương cả gà con, gà mẹ

coi chừng giẫm kiến bên đàng

con nhớ bước đi rất nhẹ

 

4

mưa khuya chở lạnh vào đêm

nghe mẹ đọc con trang sách

chen tiếng mưa sa bên thềm

ngủ ngoan giữa lời tí tách

 

mẹ hát ca dao ạ ơi

nguyện con vuông tròn học chữ

nguyện con thiện pháp không rời

nguyện con lời lời pháp ngữ

 

5

mưa đêm tiền kiếp chưa qua

mẹ dạy con ngồi như núi

nghe thở hơi gần, hơi xa

nghe vắng muôn sông nghìn suối

 

mẹ dạy không ta, không người

bước đi giữa rừng công đức

mắt từ nhìn khắp nơi nơi

rỗng lặng đêm ngày tỉnh thức

 

6

mưa đêm buồn khắp Sài Gòn

ướt sũng một thời mới lớn

mẹ hát rằng có là không

khổ đế mười phương đau đớn

 

rằng con là biển, là rừng

rằng con là mây, là nắng

rằng thân chảy xiết không ngừng

rằng tâm ba thời vắng lặng

 

7

Sông Hằng tiền kiếp mưa đêm

dịu dàng lưu chảy trong con

sáng trưa chiều tối hiện tiền

bờ này, bờ kia cạn dòng

 

lời mẹ con ghi vào thơ

chữ bay lưng trời cánh nhạn

cõi này con sống như mơ

đi đứng nằm ngồi rỗng lặng.

         —– Tết Nguyên Đán Quý Mão 2023.

Nguyên Giác Phan Tấn Hải.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 20, 2023 20:55

Đọc “IM LẶNG, như lời chia tay” của Cao Huy Thuần

Đọc “IM LẶNG, như lời chia tay” của Cao Huy Thuần“Im lặng như lời chia tay” – sách mới của GS.Cao Huy Thuần – Ảnh: HĐ———————-20/01/2023 14:41https://giacngo.vn/doc-im-lang-nhu-lo...Đỗ Hồng Ngọc———————-GNO – Anh Cao Huy Thuần thân mến, nếu thỉnh thoảng ta mà vào được Tam muội Phổ Hiền, thì ta cũng có thể nhận ra cái “thiêng liêng” đó anh à, cái thiêng liêng từ “vô tưóng” – trong Như Lai tạng – bỗng “hiện tướng”… đùa vui giữa chốn Ta-bà đó thôi.Anh Cao Huy Thuần gởi tôi tập Im Lặng, như lời chia tay … dặn để đọc mấy ngày Tết. Tôi nghĩ: chắc là Im Lặng thở dài… đây rồi! “Tôi đang lắng nghe tôi đang lắng nghe im lặng đời mình” (Trịnh Công Sơn)? Nhưng không. Cao Huy Thuần không thở dài! Anh nói về “thiêng liêng” về “chia tay mà không biệt ly của cánh hoa rơi”…

Bồng đứa bé mới sanh đỏ hỏn trên tay mà không thấy “thiêng liêng” sao? Đứa bé bỗng nhoẻn miệng cười không vì đâu cả mà không thấy “thiêng liêng” sao?… Người bạn, kêu sáng Mùng Một Tết chợt thấy “thiêng liêng”? Lạ quá. Thiêng liêng đến từ đâu? Thì đến từ thiêng liêng chớ từ đâu nữa! Từ cái nhoẻn miệng cười của đất trời, từ cái đất nước gió lửa run rẩy trong ta vì già nua giữa ngày Mồng Một Tết chớ đâu nữa!

Đọc “IM LẶNG, như lời chia tay” của Cao Huy Thuần ảnh 1 Một trong những minh họa trong “Im lặng như lời chia tay” – Ảnh HĐ chụp lại từ sách

Họa sĩ Poussin (1594-1665), bàn tay run rẩy bệnh hoạn không chịu nghe lời ông nữa, ông phải từ giả bút màu với nỗi buồn chán… Nhưng, bất ngờ, những bức tranh run rẩy của ông về sau được giới phê bình tán thưởng hơn bao giờ hết. Họ phát hiện ra rằng “không phải tay họa sĩ run mà là thời gian run”.

Còn họa sĩ Cézanne (1839-1906) viết “Tôi già và bệnh, nhưng tôi thề sẽ chết trong khi vẽ…”. Danh họa Nhật, Hokusai nói từ năm 73 tuổi mới hiểu cấu trúc của thiên nhiên, bởi vậy, 80 ông sẽ, 90, 100, 110… ông sẽ…

Để rồi cuối cùng, Cao Huy Thuần và người bạn đồng ý “ly cà phê buổi sáng là thiêng liêng”, “cái má núm đồng tiền là thiêng liêng”, “cái răng khễnh là thiêng liêng”… Ôi chao!

Phật dạy có bốn thứ Ma thân thiết với ta. Phiền não ma, Ngũ ấm ma, Thiên ma, Tử ma. Tử ma chính là “thị giả” của ta, gần gũi ta và giúp đỡ ta, gắn với ta từ trong trứng nước. Tưởng là kẻ xấu mà không, hắn rất tử tế, luôn nhắc ta từng chút, nhờ vậy mà ta tránh biết bao tai ương, khổ nạn.

Nhìn lại, có hay không có tái sinh? Có hay không có “kiếp” sau? Có lần khi trò chuyện với Ni sư Trí Hải tôi hỏi một kiếp dài khoảng chừng 10 phút không cô? Cô cười, không trả lời. Có lẽ cô muốn nói… một kiếp dài cỡ một sát-na!

Thầy Tuệ Sỹ trong cuốn Tổng quan về Nghiệp viết: Có hay không có Nghiệp? Có hay không có Tự ngã? Có hay không có Thời gian?…

Nghiệp, là kinh nghiệm được tích lũy và tồn tại trong nhiều đời sống. Không có thời gian, không có ký ức thì lấy đâu cho nghiệp vận hành, tạo tác, lưu trữ, lưu xuất, dị thục, nhân quả? (Tuệ Sỹ)

Có thực không có nhiều đời sống? Một đời trước và đời sau – những đời sau- để cho ký ức gợi lại, nhân quả. Bằng chứng đâu?

Nhưng, nếu hỏi tôi tin không? Tôi tin. Tại sao tin? Không biết! Phải chăng, thỉnh thoảng ta gặp một người nào đó thấy như đã từng hẹn nhau từ muôn kiếp trước, hay một nơi chốn nào đó thấy như về mái nhà xưa?

Ký ức được lưu trữ ở đâu để tạo thành Nghiệp mà truyền đi? Khoa học não bộ trả lời: ở hippocampus (hồi hải mã) trong não. Thế nhưng, khi thân này tan rã, hippocampus và toàn bộ thể viền của não bộ cũng không còn, ký ức được tàng trữ trong thân vật lý này cũng biến mất theo. Phải chăng “ngoài cơ chế vật lý của ký ức, còn có sự tham gia của một yếu tố phi vật chất, không nhất thiết là ý thức, để lấy đó làm cơ sở tiếp cận đến vấn đề nghiệp tích lũy, cho đến trong đời sau được xử lý để cho quả dị thục của nó”? (Tuệ Sỹ).

Đức Phật dạy: Có nghiệp được tạo tác, có quả dị thục được lãnh thọ, nhưng không có người tạo tác, không có người lãnh thọ.

Nhà khoa học cũng bảo: “Có design nhưng không có designer”. Nhưng sao chim bồ câu thì cứ bay ngàn dặm về đưa thư, cá hồi cứ bốn năm lại quay về chốn cũ để sinh đẻ rồi chết? Ngày nay, sinh vật từ hạt đậu đến chuột bọ, khỉ vượn… cũng được can thiệp vào gène để tạo ra những “dị thục” những “quả” bất ngờ, gọi là transgenic.

“Je pense, donc je suis – Tôi tư duy, nên tôi tồn tại” (Descartes). Vậy tôi không tư duy, thì không… có tôi? Phải chăng “vô niệm” thì vô ngã? Trong Tam muội Phổ Hiền (Samadhi) thì quả thấy vô ngã khi tan biến vào vô tướng của Như Lai tạng đó thôi. Cho nên nhìn mọi sự vật bằng cái nhìn Như Thực, cái nhìn “thật tướng vô tướng” thì chân không mà diệu hữu. Từ đó mà lý vô ngại, sự vô ngại, sự sự vô ngại vậy.

Ta cũng có thể bắt chước Descartes nói: “Tôi thở, vậy có tôi”. Nghĩa là nếu tôi không thở thì không có tôi. Nhưng cái thời tôi còn trong bụng mẹ, tôi cũng không thở mà vẫn có tôi đó thôi. Từ đó, suy ra rằng cái thời tôi… hết thở, ngừng thở, thì tôi vẫn còn đó chứ, sao không? Tôi lúc đó trở lại trong bào thai Mẹ (bào thai Như Lai) chứ? Tôi mới phải mang nghiệp theo để trả quả chứ? …

Tuệ Sỹ nói: Tồn tại trong quá khứ và vị lai là những thực thể vi tế, ẩn áo, không phải tri giác thường nghiệm mà có thể bắt nắm được.

Ta biết ngày nay, thời gian sẽ chảy chậm trong con tàu vũ trụ chạy nhanh. Với một vận tốc nào đó thời gian đứng lại. Cho nên Từ Thức lạc động Thiên thai là chuyện có thực.

Đọc “IM LẶNG, như lời chia tay” của Cao Huy Thuần ảnh 2 Một trang trong “Im lặng như lời chia tay” – Ảnh HĐ chụp lại từ sách

***

Im lặng bông hoa nở. Im lặng bông hoa tàn. Hoa rụng, nhưng mỗi cánh hoa rơi, bao nhiêu chân bướm vẫn còn lưu dấu… Đâu là cách chia tay mà không biệt ly? (Im Lặng)Rồi Cao Huy Thuần dẫn bài thơ Feuille morte (lá chết) của Hermann Hess, tác giả Siddhartha (Câu chuyện dòng sông, Phùng Khánh, Phùng Thăng dịch, Saigon 1966). Anh “phát hiện” một điều thú vị: ngôn ngữ Việt không ai nói “lá chết” mà nói “lá khô”, “lá rụng”. Quét lá rụng, quét lá khô, không ai nói quét lá chết như ngôn ngữ Pháp, Đức. Bởi vì, lá không bao giờ chết. Nó khô, nó rụng, rồi nó tái sinh thành lá búp lá non (Im Lặng).

“Chân lý” ấy do hai con sên của nhà thơ Jacques Prévert trên đường đi dự đám tang một chiếc lá chết, tựa là: “Bài ca hai con sên đi dự đám tang”.

Hai con sên đi đưa

Đám tang chiếc lá chết

Hai cái vỏ thì đen

Hai sừng băng trắng hết…

Hỡi ôi khi chúng đến

Mùa xuân đã đến rồi

Bao nhiêu lá chết xong

Tất cả đều lại sống

Hai bạn sên chúng ta

Ôi buồn ôi thất vọng…

Rồi hai chú sên rủ nhau đi Paris chơi! Mùa hè đã lại đến. Nắng đã rực vàng, tưng bừng ca hát khắp nơi.

Hai chú sên trở về

Với xiết bao cảm xúc

Lòng tràn ngập hân hoan

Và vô biên hạnh phúc…

Ôi, làm sao hai chú sên đi dự đám tang chiếc lá chết buồn xo giữa mùa thu… mà nay lòng lại tràn đầy hân hoan, hạnh phúc? Ấy bởi vì chúng là sên. Chúng “bò như sên”! Bò hết cả mùa đông, chưa kịp đến nơi mà xuân đã về rồi! “Bao nhiêu lá chết xong/ Tất cả đều lại sống…”.

Tiễn mùa thu thì gặp mùa xuân. Tiễn cai chết thì gặp cái sống. Tiễn ảm đạm thì gặp tưng bừng. Hai con sên chia tay mà chẳng biết biệt ly là gì! (Im Lặng)

Cao Huy Thuần nói nhỏ: “chẳng có cả khái niệm”. Phải, chúng chẳng có cả khái niệm. Dĩ nhiên, Cao Huy Thuần đang nói về Kim Cang đó! Khi ta mà biết sống “ly niệm”, khi ta không còn bám chấp vào khái niệm… thì “trí bất đắc hữu vô”, thong dong, tự tại.

Nhớ Huy Cận xưa có 2 câu thơ: Hạnh phúc rất đơn sơ/ Nhịp đời xin bước chậm…

Bước chậm. Chậm như sên càng tốt. Cái tội nghiệp của thời đại này là cái gì cũng tốc độ. Già cũng tốc độ. Để chỉ kịp khi “nhìn lại mình đời đã xanh rêu” (Trịnh Công Sơn).

Hình như có một nhà văn Pháp nào đó nói về chuyện đi bộ (promenade): đi không phải để đến, đi lang thang, dừng lại chỗ này chỗ nọ, ngắm hạt sương mai lấp lánh, nghe tiếng chim hót líu lo, tiếng dế mèn đang gọi người yêu, những cọng cỏ non vươn mình dưới nắng sớm… Thiệt khác với…Marathon!

Anh Cao Huy Thuần thân mến, nếu thỉnh thoảng ta mà vào được Tam muội Phổ Hiền, thì ta cũng có thể nhận ra cái “thiêng liêng” đó anh à, cái thiêng liêng từ “vô tưóng” – trong Như Lai tạng – bỗng “hiện tướng”… đùa vui giữa chốn Ta-bà đó thôi.

Trước mắt, hãy nhấp một ly cà phê thiêng liêng buổi sáng đã nhé.

Năm mới. Tháng Giêng. Mồng Một Tết.

Còn nguyên vẹn cả một mùa Xuân…

(Nguyễn Bính).

 

(28 Tết Quý Mão, 2023)

Đỗ Hồng Ngọc/Báo Giác Ngộ
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 20, 2023 00:27

January 19, 2023

Thích Phước An: GIÓ BẤC CUỐI NĂM

 

GIÓ BẤC CUỐI NĂM

Thích Phước An

(Chùa Hải Đức, Nha Trang)

 

Trong một lá thư viết cách đây hơn một năm (2021) gởi cho bác sĩ, nhà thơ

Đỗ Hồng Ngọc, GS Cao Huy Thuần đã nhắc đến Mark Epstein, là một bác sĩ

nổi tiếng của Mỹ, đã từng cộng tác trong ngành chuyên môn về phân tâm học

với Freud với Jung. Từ môi trường này, Epstein đã bắt gặp được tư tưởng Phật giáo,

ông say mê Phật giáo đến độ phải lặn lội qua Tây Tạng để học Phật. Và rồi cuối cùng

ông đã nổi tiếng cả hai, nghĩa là vừa là một bác sĩ giỏi lại vừa là một nhà Phật học uyên thâm,

và Giáo sư Cao Huy Thuần đã cho rằng, việc đó chẳng có gì lạ,

vì theo lời ông “Đức Phật của chúng ta đã chẳng phải là một thầy thuốc đó hay sao?”

Nhưng vì sao Đức Phật lại được tôn xưng là Y Vương? Và Ngài đã có

phương thuốc gì hay để chữa bệnh cho chúng sanh mà một thầy thuốc lỗi lạc như

Epstein phải rời thế giới văn minh tiến bộ của Tây Phương để lặn lội đến Tây

Tạng, một quốc gia sống biệt lập trên núi cao nhất thế giới, và gần như không bận

tậm gì mấy đến nền văn minh hiện đại của nhân loại để nghiên cứu Phật Giáo?

“Thầy thuốc chỉ chữa được cái đau mà không chữa được cái khổ, chữa được cái

bệnh mà không chữa được cái hoạn.

Phật là bậc Y Vương, giúp chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, ách nạn.

Tại sao ta không học Phật?”

Đó là lời bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc được đặt trang trọng nơi trang đầu của tác

phẩm, có đầu đề rất khiêm tốn là Tôi Học Phật, dày khoảng 800 trang.

Chính vì thế, chúng ta thấy trong các bộ kinh Đại Thừa thì bác sĩ Đỗ Hồng

Ngọc có vẻ đã say mê nhất là Kinh Kim Cang. Vì sao? Nơi trang 211 tác phầm Tôi Học

Phật, bác sĩ đồng thời cũng là nhà nghiên cứu Phật học đã cho biết lý do vì sao ông

lại say mê Kinh Kim Cang:

“Hơn 2600 năm trước, Tu Bồ Đề – một đại đệ tử của Đức Phật , người “Giải

Không Đệ Nhất” đã đặt một câu hỏi có lẽ còn vang vọng đến ngày nay, giữa thời

đại toàn cầu hóa, thế giới phẳng này “Làm thế nào để an trụ tâm? Làm thế nào để

hàng phục tâm?” (Vân hà ưng trụ, Vân hà hàng phục kỳ tâm?) và câu trả lời của

Đức Phật hết sức giản dị “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, nghĩa là “ Đừng có trụ

vào đâu cả mà sanh cái tâm”

Trong Kinh Trung A Hàm, một bộ kinh quan trọng của Phật giáo Nguyên Thủy,

Đức Phật cũng đã giải thích rõ ràng hơn cho các các Tỳ Kheo – đệ tử của Ngài về

cách an trụ và hàng phục cái Tâm:

“Này các Tỳ Kheo, Tâm dẫn thế gian đi, Tâm bị nhiễm trước, Tâm sinh khởi mà tự

tại. Này các Tỳ Kheo, chính nó dẫn thế gian đi, chính nó làm nhiễm trước và cũng

chính nó khởi tự tại. Này các Tỳ Kheo, Đa Văn Thánh đệ tử không để Tâm dẫn đi,

không để Tâm nhiễm trước, không để Tâm tự tại. Này các Tỳ Kheo, không vâng

theo sự tự tại của Tâm mà Tâm tùy theo tự tại của Đa Văn Thánh đệ tử.”

Không còn hồ nghi gì nữa, chính cái nghề thầy thuốc đã ảnh hưởng sâu sắc

đến việc nghiên cứu Phật học của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, và chính ông cũng đã thừa

nhận như vậy, nơi trang 215 trong bài Vận Dụng Kinh Kim Cang “là một thầy

thuốc, tôi đâu dám lạm bàn những chuyện “thậm thâm vi diệu khác” – nghĩa là ông

chỉ muốn mọi người đọc ông rồi đem áp dụng vào đời sống hàng ngày, như chính

bản thân ông cũng đã làm như vậy để khởi đầu “ hàng phục” cái Tâm của mình,

như bài thơ có tên là Thiền Tập ông đã cho chúng ta biết :

Thả lòng toàn thân / Như treo móc áo / Ngồi xếp bằng tròn / Vai nghiêng lưng sổ /

Dõi theo hơi thở / Như mượn từ xa / Khi vào khi ra / Khi sâu khi cạn

Nhà thơ khuyên chúng ta cứ nỗ lực như vậy, một lúc nào đó sẽ đạt được kết quả:

Thân tâm thanh tịnh / Không còn ý tưởng / Chằng có thời gian / Hạt bụi lang

thang / Dính vào hơi thở / Duyên sinh vô ngã / Ngũ uẩn giai không / Từ đó thong dong/ Thỏng tay vào chợ.

 

Trong lời ngỏ mở đầu cho tác phẩm của mình, Đỗ Hồng Ngọc đã cho biết lý

do tại sao ông phải học Phật, và đặt biệt là vì sao ông phải bỏ thời gian, công sức

ngồi ghi lại những cảm xúc của bản thân về Phật học, vì theo tác giả “thuốc men

chỉ chữa được cái đau mà không chữa được cái khổ, chữa được “triệu chứng” bên

ngoài mà không chữa được “căn nguyên” sâu xa lớp lớp bên trong”. Trong khi đó,

theo Đỗ Hồng Ngọc “thời đại của chúng ta , con người dùng khối óc quá nhiều,

nhiều đến nỗi người ta luôn luôn ở trong tình trạng “muốn điên cái đầu”, và thực

vậy bệnh tâm thần ngày càng phát triển, tự tử , ma túy, stress,… ngày càng gia tăng

trong xã hội mà người ta luôn luôn bị quay cuồng, luôn luôn chạy đua với tốc độ,

tuổi trẻ, nhan sắc, thành đạt… Có lẽ đã đến lúc nghe lại tiếng nói của trái tim.

Tác giả Tôi Học Phật không quên nhắc lại bài thơ nổi tiếng của Quách Thoại

ở đầu thế kỷ XX, một hôm bất chợt nghe được “lời em ca thiên thu” từ một bông

hoa dại đứng bên bờ rào đã khiến cho thi nhân phải sụp lạy cúi đầu. Theo tác giả

Tôi Học Phật, lời ca đó không phải phát xuất từ bông hoa vô tri, vô giác của đóa

hoa kia, mà nó đã được phát ra từ trái tim sâu thẳm của thi nhân.

Tập sách nghiên cứu về Phật học của ông cũng như vậy, ông đơn giản chỉ muốn

giúp chúng ta nghe lại tiếng hát thiên thu từ trái tim mà từ lâu ta đã vô tình đánh

mất giữa một xã hội chỉ biết đề cao khối óc, nghĩa là chỉ biết tính toán hơn thua mà

thôi .

Từ tiếng thở dài xót xa của ông đối với thời đại ông đang sống, thời đại của

khối óc mà bỏ quên trái tim yêu thương đó, khiến tôi chợt nhớ lại những bài thơ

mà Đỗ Hồng Ngọc đã sáng tác vào khoảng thập niên 70 của thế kỷ trước, lúc ông

còn trẻ, còn hoài bão nhiều cho quê hương đất nước. Ở đây tôi chỉ đề cập đến Quê

Nhà, nơi ông đã chào đời mà thôi :

 

Anh thương nhớ quá làm sao nói

Gọi tên em vang động gốc cây già

(Quê Nhà)

 

Thi nhân ngậm ngùi nhớ lại những mùa xuân của tuổi thơ mà bây giờ đã quá xa

xôi:

 

Mùa Xuân mừng tuổi thơm tho áo  

Nắng cũng vàng phai ngày cũng xa

(Quê Nhà)

 

Khi xuân về Tết đến thì bông cúc, bông mai được trưng bày rực rỡ nơi các thành

phố giàu sang như Sài Gòn chẳng hạn, vậy mà tuyệt nhiên nhà thơ của chúng ta

không hề thấy Tết:

 

Đi giữa Sài Gòn

Phố nhà cao ngất

Hoa nở rực vàng

Mà không thấy Tết

(Gió Bấc)

 

Chỉ khi được trở lại quê nhà, nghe được gió Bấc thổi thì đối với ông mới thực sự

thấy được cái hồn của Tết :

 

Một sáng về quê

Chợt nghe gió Bấc

Ô hay Xuân về

Vỡ òa ngực biếc

(Gió Bấc)

 

Bởi vậy, cứ đến những ngày cuối tháng Chạp thì thi nhân chúng ta lại náo

nức muốn bỏ lại phố phường chật chội sau lưng lên đường trở về lại quê nhà. Nơi

đó có ngọn gió Bấc của mùa Xuân đang thổi như chờ đợi người con xa xứ:

 

Hình như gió Bấc lùa trong Tết

Những chuyến xe đò giục bước chân

 

(Mũi Né)

 

Chắc chắn có nhiều người ngạc nhiên, tại sao một bác sĩ có đời sống khuôn

thước, mẫu mực như Đỗ Hồng Ngọc mà lại có thể trở thành một nhà thơ? Điều này

đã được ông tâm sự với Ngô Nguyên Nghiễm trong tác phẩm Đồng Hành Cùng

Tôi xuất bản năm 2010. Xin được trích ra đây như lời kết cho bài viết ngắn này:

 

“Ai bảo Y khoa là cái Thực và thi ca là cái Huyễn? Y khoa vừa là khoa học vừa là

nghệ thuật! Đọc được một bài thơ hay ta chẳng phải đã rung cảm đến tận tâm cang

đó sao.”

 

(TPA)

Nha Trang, những ngày cuối năm 2022

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 19, 2023 06:41

Đỗ Hồng Ngọc's Blog

Đỗ Hồng Ngọc
Đỗ Hồng Ngọc isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Đỗ Hồng Ngọc's blog with rss.