Nguyễn Quang Lập's Blog, page 65

March 5, 2013

Vài câu hỏi gửi ông Thiếu tướng Ts Nguyễn Xuân Mười

JB. Nguyễn Hữu Vinh- Blog NHV


hiếu tướng Nguyễn Xuân Mười – Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Xây dựng lực lượng Công an nhân dânThưa ông Nguyễn Xuân Mười

Thiếu tướng Nguyễn Xuân Mười – Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Xây dựng lực lượng Cand


Đọc trên tờ Công an Nhân dân bài viết: “Đảng Cộng sản Việt Nam – Lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội phải là nguyên tắc hiến định” mới thấy buồn cho trình độ của ông Tiến sĩ mang lon Thiếu tướng của “nhà nước ta”. Định bỏ đi, đọc vào thêm rác tai, những bài viết kiểu bịt tai và trùm chăn gào lấy được này thì nhan nhản trên báo chí giai đoạn qua, chẳng qua là vì chức tước, quyền lợi mà bán rẻ tri thức và lương tâm. Nhưng đã mất công đọc thì không thể không có vài lời với ông Nguyễn Xuân Mười, đành mất đi buổi tán gẫu về chân dài, về mại dâm, về tai nạn giao thông vậy. Dù tôi chẳng có cái mác Tiến sĩ, cũng không biết quân hàm Thiếu tướng là cái gì.


Thưa ông Nguyễn Xuân Mười


Chưa cần nói đến việc hơn 80 năm qua, đảng đã đưa đất nước ta vốn là một nước được chính Hồ Chí Minh miêu tả: “Nước ta ở vào xứ nóng, khí hậu tốt. Rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu. Nhân dân dũng cảm và cần kiệm, các nước anh em giúp đỡ nhiều” nay đã đi đến đâu. Chỉ cần nói đến lịch sử đất nuớc ta luôn tự hào là có 4000 năm lịch sử dựng nước và giữ nước, vậy mà ngay câu đầu tiên trong bài viết, ông chỉ cắt một đoạn ngắn có “hơn 80 năm qua” để khẳng định cho cái mà ông gọi là “Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu lịch sử, là nguyên nhân thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam”. Vậy thì với 4000 – 83 năm kia, cả đất nước này, dân tộc này  tiến hành hàng loạt cuộc chiến tranh dựng nước và giữ nước thắng lợi mà không có cái  Đảng cộng sản của ông, thì khi đó đảng cộng sản có “là tất yếu lịch sử, là nguyên nhân thắng lợi” hay không? Những năm dài lịch sử kia, cha ông ta dựng nước, giữ nước có phải là sự nghiệp cách mạng không? Nếu không phải thì có nhất thiết phải cần có cái “sự nghiệp cách mạng” để đưa đất nước đến nông nỗi ngày hôm nay không?


 Ông viết: “…Hiến pháp và pháp luật nước ta chính là sự thể chế hóa Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng; thực chất của việc tuân thủ nghiêm minh Hiến pháp, pháp luật chính là sự thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng trong mọi hoạt động của Nhà nước, trong đời sống xã hội và như vậy mới bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng”.


Nếu “Hiến pháp và pháp luật nước ta là sự thể chế hóa cương lĩnh, đường lối, chủ trương của đảng” thì cần quái gì phải sinh ra Hiến Pháp để làm gì? Chỉ cần phố biến cái Cương lĩnh, đường lối của Đảng và những quy định để thực hiện cương lĩnh đó là xong. Dù cương lĩnh đó có đưa cả nước đi vào cơn hoang tưởng “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiếng vững chắc lên Chủ Nghĩa xã hội” hoặc có đưa cả nước đi theo “16 chữ vàng, 4 tốt” thì cũng mặc kệ đời và mặc kệ đất nước. Để thực hiện đường lối của Đảng Cộng sản thì đã có muôn vàn văn bản, nào là Nghị Quyết Đại hội Đảng, rồi đề cương, truyên truyền, vận động, chủ trương, nội chính, kinh tế, đối ngoại, nội vụ… đủ các loại ban bệ. Mỗi ban bệ hàng hà sa số người ăn lương của dân sản sinh ra hàng đống văn bản, nghị quyết, công văn… việc quái gì phải sinh ra cái Quốc hội mang tiếng “của dân, do dân, vì dân” kia làm gì cho cách rách.


Đã là chỉ để thể chế hóa cương lĩnh đường lối của Đảng, thì cần gì một đám nghị sĩ quốc hội hàng năm cũng họp hành, cũng đủ thứ biểu diễn cho tốn tiền tốn cơm nhân dân? Hàng năm hai ba Hội nghị của Đảng tiêu tiền dân chưa đủ hết sao lại còn bày ra Quốc hội? Đại hội Đảng còn bí mật giữ như từ giữ oản, còn đã là Quốc Hội thì phải có màn trình diễn “công khai, chất vấn…” Để rồi ông nghị này chửi ông nghị kia một cách thiếu văn hóa như phường hàng tôm hàng cá ngoài chợ cho người dân tím cả mặt vì mang oan trên danh nghĩa là ông ta đang “đại diện” cho mình? Để rồi nhỡ vô tình có những đại biểu của dân lỡ miệng tiết lộ bí mật quốc gia về trình độ của các ông nghị Việt Nam như “Nghị rau muống, nghị Luật nhà thơ, nghị Lăng Tần”… thì có phải muối mặt sĩ diện quốc gia ra không?


Dù rằng ai cũng biết cái gọi là Quốc Hội mà trong đó đảng viên chiếm tới cỡ 90% thì con số này là rõ ràng là “một bộ phận không nhỏ” – nói theo cách của lãnh đạo hay dùng để chỉ đảng viên, quan chức tham nhũng trong đảng – nên Quốc Hội cũng chỉ là công cụ của Đảng. Nhưng nói huỵch toẹt ra rằng nào là Hiến Pháp hay Pháp luật, hay gì gì đi nữa thì cũng chỉ là để “thể chế hóa cương lĩnh của Đảng” và nhằm để “bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng” thì quả là ông có hàm cấp tướng nên dám mạnh miệng. Ông đã không chừa nốt cái lá nho còn lại cho Đảng đang hô hào xây dựng “Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa” và hàng loạt câu khẩu hiệu nhan nhản “Sống và làm việc theo Hiến pháp và Pháp Luật” đã bị ông bóc mẽ là có thể thay tất cả bằng “Sống, làm việc theo cương lĩnh và chủ trương của Đảng” cho nó gọn.


Nếu chỉ để thực hiện chủ trương đường lối của Đảng thì chẳng cần bày vẽ ra nào là Quốc Hội, Hiến pháp, Hội đồng nhân dân, Mặt trận với văn bản nọ, nghị quyết kia, luật này luật khác làm gì cho rách việc… Chẳng hạn đường lối kinh tế như làm Boxit Tây Nguyên, Cảng Dung Quất v.v… được đơn giản hóa bằng câu nói “Đó là chủ trương lớn của Đảng, phản đối vẫn làm” thế là xong. Mặc dù kết quả là mỗi năm, dân ta è cổ bù lỗ vài trăm triệu đôla cũng có sao. Nhân dân cứ cắn răng mà chịu, bấm bụng mà lo trả nợ cho “Chủ trương lớn của Đảng” chứ ai dám hé răng nếu không muốn vào nhà đá.


Tuy nhiên, đọc hết câu thì cũng hiểu được điều ông muốn nói, tất cả những điều ông đưa ra để lý luận cùn như trên bất chấp mọi thứ chỉ vì “như vậy mới bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng”. Thưa ông, ông nói với mấy cái ông đảng viên cộng sản của ông thì được, có thể họ cũng cùng duộc với ông, cố bám lấy những luận điệu đó nhằm bào chữa cho việc bám trụ chiếc ghế trên đầu trên cổ thiên hạ vì lợi ích cá nhân, phe nhóm của ông. Còn chúng tôi thì không, cả thế giới này chắc cũng không nốt. Cái cách bóp méo khái niệm về Hiến Pháp, dùng làm công cụ của Đảng chỉ để nhằm “giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng” tức là bất chấp tất cả, miễn giữ được cái ghế của mình thì ai cũng hiểu, không cần nói nhiều thêm buồn cười. Phải chăng đây mới chứng minh được lời bà Doan “Nước ta có nền dân chủ gấp vạn lần dân chủ tư sản” là ở đây?


Ông nên nhớ rằng đó là cách nghĩ của riêng ông và là cách nghĩ quái gở, còn cái định nghĩa chung về Hiến pháp mà cả thế giới thừa nhận thì đó là: “Hiến pháp là đạo luật cơ bản nhất của một Nhà nuớc,nó thể hiện ý chí và nguyện vọng của tuyệt đại đa số dân chúng tồn tại ở trong hoặc ngoài nhà nước đó,nhưng vẫn là dân thuộc về nhà nước đó”. Ý chí và nguyện vọng của “Tuyệt đại đa số dân chúng” chứ không phải chỉ của mấy đảng viên nhà ông, thưa ông Mười.


Đọc đến câu văn sau nghe vừa lủng củng, khiên cưỡng, cố tình nói lấy được “Nội dung Điều 4 khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng qua việc xác định tôn chỉ, mục đích, sứ mệnh của Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội…” Nó lủng củng ở chỗ: Đã là “của cả dân tộc” lại còn tách giai cấp công nhân, nhân dân lao động ra thành một vế khác. Nghĩa là công nhân và nhân dân lao động không thuộc vào dân tộc này mà chỉ là giai cấp riêng của Đảng? Còn cái vế “trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc” hay không thì chẳng cần nhìn, chỉ nghe cũng đủ biết. Giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam đang là những con lừa, càng ngày càng chở nặng gánh nợ quốc gia sau những chủ trương lớn của Đảng, ngày càng bị bần cùng hóa, bị bóc lột bởi chính bọn tư bản giãy chết nước ngoài ngay trên quê hương mình. Một phần đất nước đang dưới gót giày quân xâm lược bành trướng Bắc Kinh là người bạn lớn của Đảng với phương châm 16 chữ vàng và 4 tốt. Nguy cơ mất nước đang hiển hiện trong khi lãnh đạo đảng và nhà nước lo cùng bạn vàng “đi lên chủ nghĩa xã hội”. Ông có thấy không thưa ông?


Nực cười ở chỗ ông viết tiếp như sau: “Thực tiễn cách mạng nước ta đã chứng minh Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Như trên đã nói, với 4000-83 năm còn lại không có đảng CS, thì ai là người lãnh duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam? Hay ngay cả Quang Trung, Lê Lợi hoặc cả 18 đời vua Hùng kia cũng thuộc Đảng Cộng sản Việt Nam? Hay ông lại đánh tráo khái niệm khi dùng từ “cách mạng nước ta” để chỉ nói về giai đoạn 83 năm ấy?


Thưa ông Tiến sĩ, theo định nghĩa Tiếng Việt, thì “Cách mạng là xóa bỏ cái cũ và thay thế cái mới tiến bộ hơn, là một thay đổi sâu sắc, thường là xảy ra trong một thời gian tương đối ngắn. Hoặc là “cuộc biến đổi xã hội – chính trị lớn và căn bản, thực hiện bằng việc lật đổ một chế độ xã hội lỗi thời, lập nên một chế độ xã hội mới, tiến bộ” (Theo Wikipedia và Từ Điển Tiếng Việt). Vậy trong lịch sử nước ta đã có bao cuộc Cách mạng đã xảy ra. Chỉ cần đọc lại vài dòng lịch sử đất nước như sau:


“Năm 542, Lý Bí khởi nghĩa thành công, giành lại đuợc độc lập từ tay nhà Lương, xưng là Lý Nam Đế, lập ra nước Vạn Xuân với mong muốn đất nước mãi mãi trường tồn. Năm 905, Khúc Thừa Dụ khởi nghĩa giành được chính quyền. Nhà Đường công nhận chính quyền tự chủ của ông.


Năm 937, Kiều Công Tiễn giết Dương Đình Nghệ cướp quyền lãnh đạo. Ngô Quyền là con rể Dương Đình Nghệ khởi binh trừng phạt. Kiều Công Tiễn cầu cứu nước Nam Hán. Năm 938, quân Nam Hán do thái tử Hoằng Tháo kéo sang nước ta theo đường thủy định phối hợp với Kiều Công Tiễn đánh bại Ngô Quyền. Nhưng Hoằng Tháo chưa đến nơi thì Ngô Quyền đã diệt được Kiều Công Tiễn và bố trí trận địa chờ sẵn. Khi quân Nam Hán lọt vào trận địa mai phục của Ngô Quyền ở cửa sông Bạch Đằng thì bị đánh cho tan tác. Hoằng Tháo chết trận, quân Nam Hán tháo chạy về nước. Vua Nam Hán bỏ mộng xâm lược.


Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, dựng kinh đô tại Cổ Loa. Mở ra thời kỳ độc lập tự chủ hòan toàn cho nước ta sau hơn 1000 năm bị đô hộ bởi phong kiến phương bắc”.


Chỉ có một giai đoạn đó thôi, thì đất nước ta đã có bao lần “cách mạng” bởi đúng nghĩa là sau mỗi cuộc cách mạng nhanh chóng đó, đã lập nên những nhà nước tiến bộ hơn trước. Đâu có phải chỉ khi nào “đảng của giai cấp tự nhận là vô sản” nhưng sở hữu hàng đống tài sản lãnh đạo thì mới được gọi là “cách mạng”.  Vậy thì đó có phải là những cuộc cách mạng trong lịch sử nước ta? Hay theo trình độ của ông thì chỉ có cách mạng kể từ khi có Đảng CS? Hay ông lại cho rằng ngay cả những cuộc cách mạng trước đây từ thế kỷ thứ 10, thứ 11 đều “chứng minh Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Bản chất gian dối tranh công, đổ lỗi vẫn thường thấy ở Việt Nam nhưng chẳng lẽ ở đây cũng xảy ra chuyện này?


Còn nếu ông chỉ lấy cái đoạn 83 /4000 năm lịch sử để cố chứng minh điều ông nói, thì quả là buồn cười hơn trẻ con. Với một chế độ cộng sản độc đảng, độc trị mà nghe nói rằng “Thực tiễn cách mạng nước ta đã chứng minh Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội” thì quả là không khác gì khi bác sĩ dốt mổ cho bệnh nhân chết nhăn răng, để chạy tội thì bệnh viện báo cáo “Thực tiễn việc điều trị của bệnh nhân đã chứng minh rằng bác sĩ này là người duy nhất mổ cho bệnh nhân trong bệnh viện” mà không nói rằng: Cuối cùng thì bệnh nhân đã chết.


Thưa ông Nguyễn Xuân Mười, tiến sĩ, thiếu tướng.


Đọc bài viết của ông, mới thấy sự đau đớn cho nền giáo dục Việt Nam, mới thấy khá lo ngại cho hàng tướng lĩnh Việt Nam. Một Tiến sĩ mà chỉ duy nhất viết được những điều con vẹt có thể làm tốt hơn, một người mang lon Thiếu tướng mà chỉ có một tư duy là cố bằng mọi cách giữ lấy sự độc quyền, độc trị để bảo vệ lợi ích phe nhóm.


Thì thử hỏi xã hội sao không đến chỗ suy đồi và vận nước sao không đến chỗ nguy cấp.


Kỷ niệm 34 năm Ngày quân Bành trướng Trung cộng xâm lược phải ôm đầu máu rút chạy về bên kia biên giới.


Hà Nội, ngày 5/3/2013



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 05, 2013 17:57

Càng ngụy biện, dấu dốt thì càng chết!

Tô Văn Trường-NLG


 250213_TT_VinacomithongtinveviectamdungdautucangKeGaTheo thông tin trên báo Tuổi Trẻ ngày 4-3, trả lời báo giới trong cuộc họp báo thường kỳ tháng 2-2013, ông Nguyễn Mạnh Quân, Vụ trưởng Vụ Công nghiệp nặng (Bộ Công thương), lần đầu tiên đã cung cấp những thông số mới đánh giá tính hiệu quả của các nhà máy alumin tại Tây nguyên.


Ông Quân công nhận hiện tại nhà máy không hiệu quả nhưng cho rằng cần giảm đền bù giải phóng mặt bằng và thuế, phí để dự án tăng hiệu quả. Bộ Công thương đang chỉ đạo Tập đoàn Công nghiệp than – khoáng sản VN (TKV) tính lại hiệu quả dự án Tân Rai để từ đó có định hướng điều hành cũng như đề xuất chính sách. Với kết quả kiểm tra hiệu quả kinh tế vào tháng 12-2012, với cơ chế hiện hành, đúng là nhà máy đã phải tăng tổng mức đầu tư khoảng 30% (do tăng tỉ giá, thuế tài nguyên – môi trường, nguyên vật liệu tăng, lương tăng…). Trong khi đó, yếu tố hết sức quan trọng là giá bán alumin tại thời điểm tháng 12-2012 chỉ khoảng 326,5 USD/tấn, đã giảm khoảng 42 USD/tấn so với giá tại thời điểm tính toán hiệu quả nhà máy (năm 2009, tính giá bán sẽ khoảng 365 USD/tấn). Và đúng là với giá thời điểm này thì dự án có rủi ro lớn hay gọi đúng tên là lỗ lớn.


Sau thời gian dài ngụy biện, bảo thủ bất chấp các ý kiến phản biện góp ý chân thành xây dựng của các vị lão thành cách mạng, trí thức và người dân đến nay TKV đã chính thức “quy hàng” thừa nhận bài toán kinh tế bị lỗ nhưng vẫn “cố đấm ăn xôi” bằng cách xin nhà nước xem xét lại về mức thuế xuất khẩu alumina, có cơ chế ưu đãi miễn thuế nhập khẩu đối với các vật tư nguyên liệu đầu vào cho nhà máy, đưa dự án sản xuất alumin vào hộ tiêu dùng điện đặc biệt, bảo lãnh vay vốn ưu đãi cho dự án, giảm thuế phí môi trường, thuế tài nguyên vv…chưa kể vấn đề nan giải của bài toán giao thông vận chuyển nguyên vật liệu cả 2 chiều (mới hủy bỏ cảng Kê Gà) và các tác động xấu đến môi trường sinh thái và văn hóa xã hội Tây Nguyên!


Giá thành tại thời điểm dự án được duyệt là 284 USD/tấn. Đến năm 2012 tính toán lại do một loạt chi phí tăng thì giá thành lên thành 333 USD/tấn


Trong tương lai những yếu tố tỉ giá, nguyên vật liệu, lương vẫn tăng, thuế tài nguyên thì tính theo % nên cũng tăng tỉ lệ thuận. Vì thế mà hy vọng 4-5 năm nữa giá bán tăng không có gì là chắc chắn nhưng giá thành sẽ tiếp tục tăng lại là yếu tố chắc chắn, và sẽ tăng 20-30% nữa như đã tăng trong 5 năm qua. Tức là 333 USD x 130% = 432$.


Đền bù hoa màu cho nhân dân 3 năm mới nghe có vẻ hợp lý nhưng đây là khai thác công nghiệp, người ta cần giải phóng cả trăm ha, thay đổi cả địa hình, có thể tác động lớn đến nước ngầm và chất đất canh tác. Dân vẫn phải di đi chỗ khác. Sau khi hoàn thổ phải nhiều năm sau mới có thể canh tác bình thường. Nếu TKV tin tưởng vào khả năng hoàn thổ của mình thì họ vẫn nên mua vĩnh viễn đất của người dân rồi sau khi hoàn thổ sẽ bán lại cho dân với giá thị trường tùy theo khả năng canh tác lúc đó. Đấy là cách giải quyết sòng phẳng nhất.


Nếu chấp nhận tính toán hiệu quả kinh tế theo kiểu đổ hết bất lợi cho dân thì thua rồi. Theo đạo lý thì phải tính hiệu quả kinh tế xã hội chứ không thể chỉ tính hiệu quả kinh tế. Dân chịu đền bù thấp, môi trường xung quanh chịu ô nhiễm vì không có kinh phí xử lý thì đấy là thiệt hại về mặt xã hội. Phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản (theo Nghị định 63/2008/ND-CP) là theo nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền, bất kể đã phải chi phí đầu tư xử lý như thế nào (thải chất thải không đạt quy chuẩn thì phải chịu xử lý theo quy định của các văn bản pháp luật khác).


Đây là dự án tác hại lớn nhất về môi trường cho nên Bộ Tài nguyên và môi trường không thể tùy tiện đồng ý cho giảm phí môi trường mà phải yêu cầu chủ dự án tuân thủ đúng mức phí môi trường theo Nghị định số 74/2011/NĐ-CP ngày 25/8/2011 của Chính phủ. Các bộ ngành như Kế hoạch Đầu tư, Tài chính, Công thương cũng không được tùy tiện miễn giảm các loại thuế theo đúng quy định của Nhà nước, đúng đạo lý xử thế công bằng với các doanh nghiệp khác.


Không chỉ có TKV mà ngay cả những người “bảo kê” ủng hộ chủ trương dự án bôxit cũng như đang “cưỡi trên lung hổ”! Sớm hay muộn người ta cũng sẽ tìm mọi cách đổ vấy trách nhiệm cho nhau, chỉ có người dân là lãnh mọi hậu quả!


Để thức tỉnh, TKV phải tính giá FOB tại cảng như sau: (i) Giá thành (giá sản xuất). Rent paid on non-newable resources (phí tài nguyên trả cho xã hội) và (ii) Giá chuyên chở ra cảng. Chỉ có giá FOB tại cảng này mới có thể so với giá quốc tế, để xem có lãi không.


Phí tài nguyên xã hội, không phải là thuế và không nên gọi là thuế tài nguyên, là điều bắt buộc, vì lấy tài nguyên của xã hội đem bán cho nước ngoài ở giá zero là điều vô lý không chấp nhận được. Đây là chưa kể tới chi phí ngầm về hoàn nguyên môi trường chưa được tính tới. Tạo việc làm hay đóng thuế sản xuất (taxes on production) là nằm ở giá thành. Chỉ có cách tính như trên là dựa theo giá dollars để có thể so sánh với giá trên thế giới. Nên nhớ rằng về nguyên tắc kinh tế vốn vay bằng dollars và trả bằng dollars, nguyên liệu nhập bằng dollars.


Do đó, có thể kết luận các con số mới công bố của Bộ Công thương và TKV chỉ là ngụy biện, không đủ cơ sở để tính giá FOB. Vậy thì việc tăng hối suất đâu có làm thay đổi hầu hết giá trị đã nói ở trên ? Càng ngụy biện, càng dấu dốt, thì càng chết!


 


 



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 05, 2013 16:04

Quê Choa thứ tư ngày 06/03/2013

Cập nhât liên tục trong ngày


boxit-dan-sieu Suy nghĩ về việc kiến tạo sức mạnh dân tộc để dân chủ hóa đất nước


Vừa mới xuất hiện, Nguyễn Đắc Kiên có thể được xem như một hiện tượng. Bài viết ngắn gọn của anh thẳng như một mũi lao phóng trúng đích. Rõ ràng, chính xác, cương quyết, không ai có thể hiểu lầm hay diễn giải khác. Nó cũng thể hiện phẩm chất của một con người sáng suốt, rạch ròi, dũng cảm, biết và dám phản kháng. Bài viết như đúc kết ước mong, khát vọng của rất nhiều người mà từ trước đến nay chưa ai có thể diễn đạt rõ ràng hơn.


bauxite3-mau Bauxite Tân Rai vẫn còn đó những chất vấn, âu lo


Những ngày gần đây, dư luận rộ lên vấn đề hiệu quả kinh tế của dự án Bauxite Tân Rai. Mọi chất vấn của nhiều chuyên gia kinh tế và của cá nhân người viết (Bauxite Tân Rai, đôi điều chất vấn và kiến nghị, 23/2/2013) vẫn chưa có lời giải đáp thuyết phục bởi những người có trách nhiệm khi trả lời công luận xét cho cùng chỉ là cách nói lấy được, tiền hậu bất nhất nên các vị càng cao giọng càng nói hớ, càng gia tăng nỗi âu lo trên công luận. Nhận thấy việc ngừng hai Dự án Bauxite Tân Rai và Nhân Cơ là đòi hỏi bức thiết của hàng chục triệu công dân Việt Nam, đặc biệt là công dân hai tỉnh Lâm Đồng, Đắc Nông, người viết muốn được làm rõ mấy điểm căn cốt sau đây:


chuyen_o_nong_trai ĐỜI ĐỜI ƠN BÁC NA PỒ LÊ ÔNG


Thương biết mấy khi gà con tập gáy

Tiếng đầu lòng em gáy “Napoleon”

Thương cha, thương mẹ, thương chồng

Thương mình thương một, thương ông thương mười

Nhờ ông mới có mặt trời

Nhờ ông mới có một đời tự do

Nhờ ông có bát cơm no

Nhờ ông gà gáy ó o vang hòa


quantoa Không thể tồn tại song song cơ chế Tam quyền phân lập và hệ thống chính trị độc đảng


Các “dư luận viên” và những người ủng hộ đường lối độc đảng của ĐCSVN luôn nói rằng nếu áp dụng đa nguyên, đa đảng thì đất nước sẽ có nội loạn, sẽ có bất ổn, rối ren, … làm nguy hại đến sự ổn định, phát triển của đất nước rồi lấy ví dụ của Thái Lan ra để hù dọa nhân dân. Điều này hoàn toàn thiếu cơ sở lập luận và thực tiễn. Bởi trong 1 hệ thống dân chủ, nhà nước pháp quyền, có xã hội dân sự phát triển thì mọi hoạt động chính trị nói chung, hoạt động của các đảng phái nói riêng được điều chỉnh bằng luật pháp và hệ thống đảm bảo thực thi luật pháp 1 cách nghiêm minh thì sẽ không thể có chuyện gây bất ổn, rối ren hay nội loạn được.


1_b57d6


Kiểm điểm một Vụ trưởng vì nói dân “quen hít khí trời”!


Ngày 5-3, Ngân hàng (NH) Nhà nước đã có thông cáo báo chí về việc kiểm điểm Vụ trưởng Vụ Thanh toán Bùi Quang Tiên vì những lời nói không phù hợp, thiếu nghiêm túc tại cuộc họp báo thu phí giao dịch thẻ ATM vừa qua.


Theo NH Nhà nước, tại cuộc họp báo của Hội thẻ NH Việt Nam tổ chức ngày 27-2 vừa qua, ông Bùi Quang Tiên khi trao đổi thông tin với một số nhà báo đã có một số lời nói dùng hình ảnh ví von không phù hợp, thiếu nghiêm túc.


20130305164431_2 Chính sách giáo dục đang bị lợi dụng?


Thực tế cho thấy nguyên lý “hình ống” ở GD đang làm cho học sinh, sinh viên ngày càng lười biếng không chịu học tập. Đó cũng là một trong những nguyên nhân làm cho GD xuống cấp.


 Mùa tuyển sinh cao đẳng, đại học 2013 đã cận kề. Nhiều tiếng nói được cất lên cả ở phía Bộ Giáo dục và Đào tạo lẫn Hiệp hội các trường CĐ, ĐH ngoài công lập. Ngay sau Tết Quý Tỵ những tiếng kêu cứu, những văn bản, bài báo xuất hiện mà sự quyết liệt của ngôn từ đã khiến nhiều người phải ngỡ ngàng


20130305124839_IMG_2988 Bộ trưởng Quốc phòng Nga: Sẽ cùng nỗ lực hiện đại hóa Hải quân VN


Nhận lời mời của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam, Đại tướng Phùng Quang Thanh, Đoàn đại biểu quân sự cấp cao Liên bang Nga do Đại tướng Sergei Shoigu Kuzugetovich, Bộ trưởng Bộ quốc phòng Liên bang Nga dẫn đầu, thăm chính thức Việt Nam từ ngày 4 đến 5-3.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 05, 2013 16:00

Thư ngỏ của Minh Diện về bài báo ” Ân oán từ lâu”

 Theo Blog BVB
minhdienKính gửi Bạn đọc gần xa!
             Mấy ngày nay dư luận xôn xao về việc bà Nguyễn Phương Hằng, vợ ông Huỳnh Uy Dũng nói tôi hư cấu bài báo “Ân oán còn lâu”, nhằm bêu xấu vợ chồng bà.
 
          Là tác giả của bài báo đó, tôi xin có vài lời như sau:
        Chuyện về Huỳnh Phi Dũng trước kia và là Huỳnh Uy Dũng hiện nay nhiều báo đã viết, từ việc làm ăn đến các mối quan hệ, nhưng chưa hết đâu, có thể nói một cuốn tiểu thuyết vài trăm trang cũng không  hết. Việc nhà văn Chu Lai đưa lên phim và báo Công an thành phố vừa nêu là ví dụ. Tôi cũng phần nào ngờ rằng hiện nay vợ chồng Dũng -Hằng đang rao bán Đại Nam, bài báo này tung ra vào thời điểm bất lợi cho họ (!?).

          Tôi khẳng định rằng những chuyện tôi viết trong “Ân oán còn lâu” không phải hư cấu, các nội dung nêu, vẫn đề và dẫn liệu cũng không co gì mới. Lâu nay ngươi ta đã nói phát ngán tai cả rồi!


Việc bà Hằng, ông Thìn, và chị bà Hằng gặp tôi ở văn phòng công ty Đại Nam, có  nhà báo Hồng Quang  chứng kiến. Việc  tôi nói với anh Sáu Bằng  cũng là sự thật.  Bữa ăn ở nhà hàng hôm đó bà Hằng kể chuyện cướp biển  đâu chỉ một mình tôi nghe? Lễ mừng thọ đâu phải một mình tôi dự ? Bà Chín (mẹ đã mang nặng dẻ đau ra Dũng), chị Trần Thị Tuyết vợ cũ bị Dũng ruồng bỏ,  cháu Huy con trai Dũng, cùng hai cô em gái của Dũng là Cúc, Mai, Vì mối quan hệ của gia đình tôi với bà Chín, cô Tuyết, các cháu lên nhà tôi đâu phải một lần ? Đâu  chỉ  một mình tôi tiếp?  Việc tôi  đưa bà Chín , chị Tuyết, chị Mai, đi Đồng Tháp gặp thầy Quốc Ánh , chùa Pháp Hoa gặp thầy Thích Như Niệm, là chuyện thật, tôi không bịa đặt, các  vị sư và những người cùng đi còn đó.  Không việc gì tôi phải mất công ngồi mà tưởng tượng! Bà Chín, chị Tuyết, cô Cúc, cô Mai …tất cả còn đó. Những nhân chứng ấy sẽ chứng minh nếu cần, bởi không ai có thể phủ nhận được sự thật.


           Điều tôi muốn nói thêm là, tôi không làm những việc đó vì tiền, vì danh, cũng chẳng thù oán cá nhân gì với Dũng-Hằng (Tuyền) mà chỉ vì thương cảm cho hoàn cảnh bà Chín, chị Tuyết bị đại gia ruột thịt đưa đẩy, chị Tuyết phát bệnh nặng. Nếu các bạn nhìn bà mẹ Dũng khóc và hình hài chị Tuyết đang bị bệnh nặng thì chắc chắn sẽ hành động như tôi.
           Tôi sẽ không viết bài nói rõ thêm này, nếu như Huỳnh Phi Dũng không đăng  báo  treo giải thưởng 100 tỷ đề chứng minh chuyện  vợ ông không nợ tiền, như một hình thức PR, khi người dân đang nghèo khổ.  Hơn nữa, việc làm đó Dũng đã công khai nói rằng thời nay cóc sợ ai, nếu cần thì chơi luôn “nén bạc đâm toạc tờ giấy”.
              Chuyện bà Hằng tố cáo, đẩy người chồng cũ vào tù cũng gây phản cảm, dù tôi không quen biết ông Thìn.  Đã từng là vợ chồng đầu ấp má kề, có với nhau một đứa con, sao nỡ làm như thế? Có những người từng làm đơn bãi nại cho kẻ  hại mình, vậy  mà  một người vợ  đối xử với chồng như vậy sao ? Hết  tình còn nghĩa chứ? Đứa con chung kia lớn lên sẽ nghĩ gì khi biết mẹ đẩy bố vào tù?
              Có thể bà Hằng không  theo đạo Phật, nhưng Huỳnh Uy Dũng là người ăn chay niệm Phật, xây hẳn một ngôi chùa lớn nhất Việt Nam,  đã làm hàng trăm  bài thơ tâm linh, sao nỡ làm như vậy?  Sao không hiểu: “ Dù xây bảy tháp phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người!?
                Huỳnh Uy Dũng đâu chỉ là một người dân bình thường, mà  đã từng là đại biểu Quốc Hội, hiện  đang  Tổng giám đốc một Công ty, một Trung tâm văn hóa thể thao. Lẽ  ra Huỳnh Uy Dũng phải  làm gương về đạo đức như chính ông đã dạy mọi người, trái lại việc làm của Huỳnh Phi Dũng khiến mẹ ông, các em ông và người thân của ông còn bất bình.
               Điều cuối cùng tôi xin thưa với bạn đọc, là gần hai chục năm qua tôi không viết báo vì từng phải chịu nhiều điều oan trái bởi cái tính cương trực, thẳng thắn, không phải là “bốp” ngay, không nói nhiều! Cái khí chất miến Đông Nam bộ nó cũng hun đức thêm bản lĩnh ấy của tôi. Vừa qua bạn bè khuyến khích tôi cầm bút trở lại, tham gia tiếng nói để “xóa đói tự do tư tưởng, lành mạnh xã hội” thời bĩ này. Tôi không muốn moi móc đời tư của ai, nhưng nếu họ làm hại những người lương thiện yếu thế thì tôi lên tiếng. 
               Cuối cùng tôi xin cảm ơn bạn đọc. Tôi thành thật xin lỗi và mong bạn đọc thông cảm, nếu có câu chữ nào vô tình, hoặc chi tiết nào chưa hoàn toàn chính xác trong các bài viết của mình.
 MINH DIỆN 
(ĐT: 0988578108; E.mail:  nhabaominhdien@gmail.com )  


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 05, 2013 07:58

Hướng dẫn dư luận viên trả lời Kiến nghị 72

question[1]Mình không biết Kami là ai nhưng mình thích đọc ông này. Cái ông Kami này bàn những chuyện quốc gia đại sự thường là hay, hễ bàn cái gì đó cụ thể, riêng tư thường là hỏng.  Bài Vì sao TBT Nguyễn Phú Trọng phải lên tiếng răn đe trong việc sửa Hiến pháp (tại đây) của Kami rất hay. Mình không dám đăng vì phần cuối hơi căng, đăng rồi sợ người ta chụp cho cái mũ hô hào lật đổ thì cũng bỏ mẹ.


Mình rất nhất trí với Kami khi ông nhận định về lực lượng dư luận viên  đang ra sức bảo vệ Đảng: “Những lập luận ngây ngô trong các bài viết khiến cho người đọc (xem) phát ngượng, với cảm giác vừa bực mình, vừa buồn cười và cộng thêm chút thương hại đối với các tác giả….”…. “Nếu nói như ai đó nói “Đảng không có quyền lực và lợi ích nào khác ngoài quyền lực và lợi ích của nhân dân” thì xin hỏi tại sao đảng lại muốn quân đội trung thành với đảng trước, rồi mới đến tổ quốc và nhân dân?”


Bảo vệ Đảng như rứa càng làm mất uy tín Đảng, càng làm cho người ta thấy Đảng đang đuối lý và quanh co. Do vậy, mình cũng nhất trí luôn với Kami, câu trả lời dứt khoát thẳng thắn, thiết thực nhất hiện nay là:“Giữ chùa, thờ Phật thì được ăn oản”. Chẳng có câu trả lời nào hay hơn thế.


Vì sao không tam quyền phân lập?- Vì  giữ chùa thờ Phật thì được ăn oản!


Vì sao đất đai phải  sở hữu toàn dân?- Vì giữ chùa thờ Phật thì được ăn oản!


Vì sao quân đội phải trung thành với Đảng?- Vì giữ chùa thờ Phật thì được ăn oản!


Vì sao không được bỏ điều 4?- Vì giữ chùa thờ Phật thì được ăn oản!


Cả 7 kiến nghị trong kiến nghị 72 đều được trả lời đúng một câu: Vì giữ chùa thờ Phật thì được ăn oản!


Rứa thôi!


Cả những câu hỏi cụ thể như vì sao Bản Giốc, Vì sao Hoàng Sa, Vì sao Bauxite, Vì Sao Vinashin, Vì sao Vinalines…vân vân và vân.. thì các dư luận viên vẫn cứ kiên quyết trả lời đanh thép: Vì giữ chùa thờ Phật thì được ăn oản!


Cứ trả lời như thế nhất định bọn suy thoái sẽ phải câm miệng.


Rứa đo rứa đo!


NQL



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 05, 2013 06:42

Xã hội dân sự và bản Hiến pháp

Phạm Lê Vương Các-HDTG


Hiến pháp bútĐợt đóng góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp 1992 đang bước vào giai đoạn cuối với những diễn biến đầy bấy ngờ và cũng không kém phần sôi động.


 Mở đầu bằng ý kiến chỉ đạo của Tổng Bí thư Đảng nói về sự “suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống” dành cho những những góp ý đòi xóa bỏ điều 4 Hiến pháp, đòi đa nguyên đa đảng, tam quyền phân lập, và phi chính trị hóa quân đội.


 Một ngày sau, Chủ tịch Quốc hội cũng có quan điểm tương tự khi cảnh cáo việc lợi dụng góp ý dự thảo Hiến pháp để chống phá Đảng, Nhà nước, và cũng không quên phê phán việc tự tổ chức lấy ý kiến là “không đúng quy định”.


 Tiếp theo đó, các chuyên gia lý luận nhà binh tấn công dồn dập vào quan điểm “phi chính trị hóa quân đội”


 Các động thái này như một cú “vỗ mặt” hàng ngàn người trực tiếp ký tên vào Kiến nghị 72 được khởi xướng từ những thành phần tinh hoa và dũng cảm nhất của dân tộc vào thời điểm này.


 Qua đó cho thấy rằng, những góp ý sửa đổi Hiến pháp 1992 chưa được tôn trọng một cách đúng mực, cầu thị và dân chủ.


 Thế nhưng, qua đợt sửa đổi Hiến pháp lần này đã gửi đi những tín hiệu tích cực dự báo cho một sự chuyển dịch xu thế chính trị theo hướng dân chủ trong tương lai thông qua các phong trào xã hội dân sự.


 Sức mạnh từ phong trào


 Trước tiên, có thể nói phong trào xã hội dân sự đã được hình thành có khả năng gây sức ép lên nhà cầm quyền.


 Biểu hiện là những cá nhân, không thông qua đảng phái hay tổ chức chính trị, đã tự tương tác với nhau hình thành nên những phong trào có một tiếng nói chung.


 Đáng kể đến trong thời gian gần đây Lời kêu gọi thực thi Quyền con người và Kiến nghị 72 đã tập hợp nên một lực lượng đông đảo về số lượng lẫn chất lượng gây ra những âm vang dân chủ thôi thúc lòng người.


 Hay như Kiến nghị của Sinh viên và Cựu sinh viên Luật, dù không có sự tham gia đông đảo của giới chuyên ngành nhưng qua đó cho thấy, mỗi cá nhân khi đã ý thức được vai trò của mình trong xã hội cũng đều có thể tạo ra các phong trào theo khả năng và sở trường của mình.


 Cho đến các phong trào dường như đã vượt ra khỏi sự sợ hãi và kìm kẹp từ phía chính quyền.


 Chẳng hạn phong trào No-U ở Hà Nội và Sài Gòn đã cố gắng duy trì các cuộc biểu tình chống Trung quốc thời gian gần đây bất chấp những quyết tâm ngăn cản từ phía chính quyền, cũng như cho tới việc đứng trước các đồn công an “đòi trả người” khi bị bắt bớ, một việc mà đảng phái hay tổ chức chính trị đối lập sẽ còn rất lâu để dám làm.


 Hay như “Tuyên bố của Công dân tự do” vào trưa ngày 28/2 vừa qua được khởi xướng chủ yếu từ các blogger trẻ trong nước đã quy tụ được hơn 3 ngàn chữ ký chỉ sau 72 giờ, với những nội dung “đáp trả” vào các điều khoản thiêng liêng mà nhà cầm quyền đang ra sức bảo vệ.


 Với lời mở đầu bằng việc “Sát cánh bên Nhà báo Nguyễn Đắc Kiên”, những người ký tên vào Tuyên bố này như muốn nói lên rằng: không ai lẻ loi trong cuộc tranh đấu vì tự do, dân chủ và nhân quyền.


 “Chúng tôi không chỉ muốn bỏ Điều 4… Chúng tôi ủng hộ đa nguyên, đa đảng … Chúng tôi ủng hộ xây dựng một chính thể tam quyền phân lập …Chúng tôi ủng hộ phi chính trị hóa quân đội…” được tuyên bố ngay sau phát biểu của các nhà lãnh đạo đòi “xử lý” những quan điểm này.


 Điều này cho thấy họ, những người ký tên vào Tuyên bố ở ViệtNam, như đang chứng minh cho sự dấn thân của mình, bất chấp những răn đe của nhà cầm quyền, sẵn sàng đối mặt với bất kỳ sự trừng phạt nếu có xảy ra.


Thử thách cho chính quyền


 Có thể nói, đây là những thử thách mà bất kỳ nhà cầm quyền nào cũng lo ngại.


 Tiêu diệt đảng phái và tổ chức chính trị đối lập là việc mà đảng cầm quyền hiện nay có thể làm được. Nhưng không thể nào tiêu diệt được phong trào xã hội dân sự, vì nó như là hơi thở cuộc sống, được sinh ra một cách tự nhiên từ những đòi hỏi cấp bách và nhu cầu cần thiết của mỗi con người.


 Thực tế cũng cho thấy rõ điều này. Năm 2006, các đảng phái và tổ chức chính trị ở Việt Nam nở rộ như “nấm mọc sau cơn mưa”, tạo ra những phong trào dân chủ, nhưng sau đó nhanh chóng bị nhà cầm quyền tiêu diệt, và giờ đây như đang ở trạng thái “chết lâm sàng” và gần như không có hoạt động nào đủ sức gây ảnh hưởng lên đời sống chính trị hiện tại Việt Nam.


 Trong khi đó, các phong trào ký tên kiến nghị, các tuyên bố, các lời kêu gọi đã tập hợp được hàng chục ngàn người tham gia, dù không có bất kỳ cương lĩnh, hay đường lối và phương pháp đấu tranh … nhưng đã tạo ra những hiệu ứng tích cực bằng sức lan tỏa vào quần chúng nhân dân một cách sâu sắc trước sự bất lực của chính quyền nhằm đối phó với các phong trào này.


 Chính quyền muốn “đánh” vào phong trào xã hội này cũng chẳng biết đánh vào đâu. Bỡi lẽ nó không phải là một thực thể nhất định, nó không có cơ quan đầu não, không có người lãnh đạo, không có cơ cấu tổ chức và có thể biến dạng và chuyển hóa một cách linh động.


 Với hiệu quả lớn nhất là khả năng bảo toàn nguồn nhân lực và lan rộng một cách nhanh chóng dưới sự tiếp sức của nền “báo chí công dân”, các phong trào này luôn trao cho mỗi các nhân tưởng chừng như rất bình thường đều có khả năng gây ra đột biến khi có điều kiện thích hợp, mà vụ Nguyễn Đắc Kiên vừa mới xảy ra là một ví dụ.


Chính quyền nên làm gì?


 Qua đó cho thấy, tạo ra và hưởng ứng các phong trào xã hội dân sự sẽ là hướng đi hiệu quả trong cuộc vận động dân chủ trong hiện tại và tương lai.


 Bất kỳ phản ứng “cứng rắn” nào từ phía nhà cầm quyền nhằm dập tắt các phong trào xã hội cũng sẽ là phản tác dụng vì phong trào xã hội là nơi tích tụ của những nhu cầu và mong muốn chính đáng của phần đông dân chúng hiện nay.


 Phong trào xã hội dân sự như một quả bong bóng, đánh chỗ này thì nó sẽ lăn đi chỗ khác, bóp chỗ này thì nó lại phì sang chỗ kia, mà nếu chọc mạnh vào thì nó sẽ phát nổ kèm theo một hiệu ứng lây lan.


 Diễn biến ở các quốc gia Bắc Phi gần đây cho thấy, đối đầu hay đàn áp các phong trào này, sẽ là sự ngu ngốc của bất kỳ chế độ chính trị nào.


 Nhưng không vì thế mà trở nên lo sợ phong trào xã hội dân sự, sự thật là, hoạt động của các phong trào xã hội này không có mục đích tranh giành quyền lực, không nhắm vào mục tiêu “lật đổ chính quyền”, mà chỉ đưa ra các yêu sách buộc chính quyền phải tự cải cách, minh bạch và thực thi dân chủ để đáp ứng nhu cầu phù hợp với cuộc sống hiện tại.


 Nếu chính quyền không biết lắng nghe, đáp ứng những nhu cầu đòi hỏi của nó, mà lựa chọn phương pháp đối đầu, thì các phong trào này có thể “xô ngã” bất kỳ thể chế chính trị lúc nào, và tạo thời cơ cho đảng phái khác đứng lên nắm quyền.


 Do vậy, một chính thể khôn ngoan là một chính thể biết cách hòa mình vào các phong trào xã hội, biết cách đáp ứng đòi hỏi của nó, và qua đó mới có thể điều chỉnh và định hướng các phong trào xã hội nhằm giữ vững sự ổn định và cả mục đích bảo vệ sự an toàn cho chính thể.


 Ở Việt Nam trong thời điểm này, sẽ là tốt hơn cho chính quyền nếu có những cuộc “đối thoại” với các phong trào này một cách cầu thị khi nó còn nằm trong tầm kiểm soát.


 Điều này đòi hỏi nhà cầm quyền hiện nay cần phải tỉnh táo và đòi hỏi cả sự dũng cảm. Chấp nhận tự thay đổi và tự lột xác mình để được tồn tại và phát triển.


 Cố gắng duy trì và bảo thủ “ý thức hệ” như hiện nay không những dẫn đến những sai lầm không đáng có, mà còn tạo ra những vực thẳm chôn vùi những năng lực và sức mạnh vốn có của mình.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 05, 2013 02:48

Làm rõ 3 tội danh của “ông trùm” Nguyễn Đức Kiên

Đào Minh Khoa-CAND


Bầu Kiên và căn biệt thự.

Bầu Kiên và căn biệt thự.


Đã hơn 6 tháng kể từ thời điểm ông Nguyễn Đức Kiên (bầu Kiên) bị bắt  về tội “Kinh doanh trái phép”. Quá trình điều tra  đã làm rõ hành vi “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” và hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” của bầu Kiên cũng như 7 bị can khác có liên quan.


Được coi là người có tầm ảnh hưởng bởi nắm giữ nhiều cổ phần ở một số ngân hàng, nhưng thực chất, bầu Kiên  có tiềm lực thật sự hay không? Câu trả lời đang dần được hé mở.


Từ vốn ảo trở thành… “ông trùm” tài chính


Trong các năm 2006 và 2008, Nguyễn Đức Kiên thành lập và điều hành 3 công ty, gồm: Công ty cổ phần Đầu tư thương mại B&B (Công ty B&B), Công ty cổ phần Đầu tư ACB Hà Nội và Công ty TNHH Đầu tư tài chính Á Châu Hà Nội (Công ty ĐTTCAC Hà Nội. Ngày 30/11/2010, Kiên sử dụng  pháp nhân Công ty B&B vay của Ngân hàng ACB số tiền 1.000 tỷ đồng thông qua hình thức phát hành và bán trái phiếu cho Ngân hàng ACB trong thời hạn 120 tháng.


Khi vay được số tiền trên, ông Nguyễn Đức Kiên và 8 người thân trong gia đình đã sử dụng 974,85 tỷ đồng để mua 33% cổ phần của Ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Nam Thương Tín (VietBank), nâng số cổ phần của ông Nguyễn Đức Kiên và gia đình lên 41% cổ phần của VietBank. Ngày 10/1/2011, ông Nguyễn Đức Kiên dùng số cổ phần mua mới của VietBank làm tài sản thế chấp cho khoản vay 1.000 tỷ của Ngân hàng ACB.
 
Cùng ngày, ông Nguyễn Đức Kiên sử dụng pháp nhân của Công ty ĐTTC Á Châu Hà Nội vay của Ngân hàng ACB số tiền 659 tỷ đồng thông qua hình thức phát hành và bán trái phiếu cho Ngân hàng ACB. Số tiền này, sau khi vay được ông Nguyễn Đức Kiên sử dụng vào việc mua cổ phiếu của chính Ngân hàng ACB nhằm sở hữu 2% cổ phần của ngân hàng này.
 
Để đảm bảo cho khoản vay 659 tỷ đồng, ông Nguyễn Đức Kiên dùng số cổ phần mua của Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á (Ngân hàng Đại Á) và Ngân hàng Thương mại cổ phần Kiên Long (Ngân hàng Kiên Long) để thế chấp. Đáng lưu ý là số cổ phần thế chấp của Ngân hàng Đại Á và Ngân hàng Kiên Long cũng được hình thành từ khoản vay 800 tỷ đồng của Ngân hàng ACB, dưới pháp nhân của đơn vị vay là Công ty cổ phần Đầu tư ACB Hà Nội.
 
Bằng thủ đoạn trên, ông Nguyễn Đức Kiên đã vay số tiền hơn 2.400 tỷ đồng của Ngân hàng ACB; sau đó sử dụng tiền vay mua cổ phần, cổ phiếu của một số ngân hàng, rồi dùng số cổ phần, cổ phiếu đó để thế chấp lại các khoản vay ban đầu tại Ngân hàng ACB, tạo ra vốn ảo, gây ảnh hưởng xấu đến chính sách tài chính, tiền tệ của Nhà nước. Hành vi này của ông Nguyễn Đức Kiên có dấu hiệu phạm tội “Kinh doanh trái phép”.
 
Cố ý làm trái, gây thất thoát hơn 718 tỷ đồng
 
Với quyền hạn là Phó Chủ tịch Hội đồng sáng lập Ngân hàng ACB, từ tháng 5/2010 đến tháng 11/2011, ông Nguyễn Đức Kiên đã chỉ đạo Thường trực Hội đồng quản trị Ngân hàng ACB, trong đó có các ông Trần Xuân Giá, Lê Vũ Kỳ, Trịnh Kim Quang, Phạm Trung Cang và Lý Xuân Hải ra chủ trương để ngân hàng ACB ủy thác cho nhân viên gửi tiền vào các tổ chức tín dụng sai qui định, cụ thể:
 
Từ ngày 27/6 đến 27/9/2011, Ngân hàng ACB ủy thác cho 19 nhân viên gửi 718,9 tỷ đồng vào Chi nhánh Nhà Bè và Chi nhánh TP Hồ Chí Minh của một ngân hàng với lãi suất trong hợp đồng là 14%/năm, lãi chênh lệch ngoài hợp đồng từ 3,7 đến 13%/năm vi phạm Luật các tổ chức tín dụng và Thông tư số 02/2011/TT-NHNN ngày 3/3/2011 của Ngân hàng Nhà nước qui định về trần lãi suất, để Huỳnh Thị Huyền Như, nguyên Trưởng phòng Giao dịch Điện Biên Phủ, thuộc Chi nhánh TP Hồ Chí Minh lợi dụng lừa đảo chiếm đoạt số tiền 718,9 tỷ đồng.
 
Ngoài ra, từ tháng 5/2010 đến tháng 11/2011, bất chấp quy định về điều hành lãi suất của Nhà nước, Kiên đã chỉ đạo Ngân hàng ACB ủy thác cho nhân viên gửi tiền vào 22 ngân hàng, thu số tiền chênh lệch ngoài hợp đồng hơn 247 tỷ đồng, làm ảnh hưởng đến an ninh tiền tệ và điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ.
 
Tài sản đã thế chấp vẫn đem bán
 
Vẫn bằng thủ đoạn cũ, ông Nguyễn Đức Kiên đã sử dụng pháp nhân Công ty cổ phần Đầu tư ACB Hà Nội vay của Ngân hàng ACB 307 tỷ đồng thông qua phát hành trái phiếu để mua gần 30 triệu cổ phiếu của Công ty cổ phần Thép Hòa Phát, sau đó lại dùng hơn 22 triệu cổ phiếu của Công ty cổ phần Thép Hòa Phát thế chấp cho Ngân hàng ACB để đảm bảo cho việc phát hành trái phiếu.
 
Ngày 15/5/2012, ông Nguyễn Đức Kiên lại chỉ đạo nhân viên dưới quyền lập biên bản họp Hội đồng quản trị để quyết định chuyển nhượng 20 triệu cổ phần của Công ty cổ phần Thép Hòa Phát, trị giá 264 tỷ đồng để bán cho Công ty TNHH một thành viên thép Hòa Phát.
 
Điều đáng lưu ý là 20 triệu cổ phần này nằm trong số hơn 22 triệu cổ phần đã được thế chấp cho Ngân hàng ACB để đảm bảo việc phát hành trái phiếu. Như vậy, ông Nguyễn Đức Kiên cùng 2 đồng phạm là Trần Ngọc Thanh và Nguyễn Thị Hải Yến có hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, mang tài sản đã thế chấp đem bán nhằm chiếm đoạt 264 tỷ đồng.

Xem xét dấu hiệu tội danh thứ 4: trốn thuế


Trong khi chúng tôi đang hệ thống những hành vi về “ông trùm” tài chính này thì nhận được thông tin: Cơ quan tố tụng đang xem xét dấu hiệu trốn thuế của Nguyễn Đức Kiên; nếu vậy, sẽ có 4 tội danh đang đối mặt với ông Nguyễn Đức Kiên?


Vụ án ông Nguyễn Đức Kiên vẫn đang ở giai đoạn điều tra mở rộng. Bên cạnh việc tái cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, thì việc xử lý nghiêm những đối tượng như ông Nguyễn Đức Kiên có hành vi lũng đoạn thị trường tài chính cũng là một biện pháp quan trọng nhằm làm lành mạnh hóa thị trường – vốn được coi là “xương sống” của nền kinh tế và hết sức nhạy cảm này




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 05, 2013 00:51

March 4, 2013

Vẫn tư duy ” đào hầm trú ẩn” và “đứng trên nhân dân”!

TS Vũ Công Giao- DV


imageDự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi vẫn còn chưa thực sự tiếp cận được với tư duy khai phóng, tiến bộ về nhân quyền đang là chủ đạo trên thế giới.


So với Chương 5 Hiến pháp 1992, Chương 2 Dự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2013 có một số ưu điểm nổi bật, cụ thể như đã khắc phục được nhiều hạn chế về kỹ thuật lập hiến; cân bằng được cấu trúc giữa các nhóm quyền; nỗ lực sửa đổi tư duy cũ về chủ thể của quyền. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm mạnh, dự thảo vẫn còn một số hạn chế, tiêu biểu.


Thứ nhất, cách viết và nội dung của nhiều quy định trong chương này cho thấy việc biên soạn vẫn chưa thoát hẳn được tư duy cũ về một Nhà nước “đứng trên nhân dân”, “ban phát”, “kiểm soát” các quyền cho nhân dân và luôn “sợ hãi”, “đề phòng” nhân dân đấu tranh đòi hỏi sự tôn trọng và bảo đảm các quyền và tự do hiến định. Minh chứng là việc nêu quy định về giới hạn quyền ở điều đầu tiên của chương này.


Đồng thời ngay sau đó bổ sung một điều mới (Điều 16, quy định cấm lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác) mà nội dung toát lên tính “răn đe” rất rõ trong khi về thực chất đã bao hàm trong khoản 2 Điều 15. Tiếp theo, dự thảo còn có Điều 20 (sửa đổi, bổ sung Điều 15) cũng nhằm “nhắc nhở” người dân là “quyền đi liền với nghĩa vụ với Nhà nước” và những quyền của họ là do Hiến pháp, luật pháp (tức Nhà nước) quy định, cho dù nội dung của điều này không thực sự chính xác về mặt thực tế và có khía cạnh đi ngược lại với nhận thức chung của cộng đồng quốc tế. Ngoài ra, việc “quyết giữ” các cụm từ “theo pháp luật”, “do pháp luật quy định” hoặc “theo quy định của pháp luật” trong nhiều quy định về các quyền quan trọng đã nêu ở trên và một số quy định khác cũng phản ánh tâm thế “đề phòng” nhân dân và “dự phòng” khả năng có thể “rộng tay” hành động để kiểm soát, giới hạn các quyền hiến định về sau này.


Sự lạm dụng các quy định mang tính “răn đe” và “phòng ngừa” nhân dân trong Chương II dự thảo như đã nêu ở trên là rất ít có trong chế định về quyền con người, quyền công dân của hiến pháp các quốc gia trên thế giới. Trong khi đó, tương tự như Chương 5 Hiến pháp 1992, Chương II dự thảo thiếu hẳn những quy định tuyên bố một cách rõ ràng, cụ thể, trực tiếp về nghĩa vụ tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân của các cơ quan, viên chức nhà nước – điều luôn được nhắc đến trong các điều ước quốc tế về quyền con người và được nhấn mạnh trong hiến pháp của nhiều quốc gia.


Từ những phân tích trên, có thể thấy rằng, tuy đã có khá nhiều cải tiến, việc hiến định các quyền con người, quyền công dân trong Dự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi vẫn còn chưa thực sự tiếp cận được với tư duy khai phóng, tiến bộ về nhân quyền đang là chủ đạo trên thế giới.


Thứ hai, khá nhiều quy định trong Chương II dự thảo còn thiếu hợp lý, thiếu đầy đủ hoặc chưa chặt chẽ. Ví dụ quyền sống (Điều 21) quy định quá ngắn gọn (chỉ vọn vẹn 5 từ) không nêu được sự liên hệ của quyền này với vấn đề hình phạt tử hình, điều cần được làm rõ giống như trong hiến pháp của nhiều quốc gia… Việc sửa đổi một số quyền học tập, quyền được chăm sóc sức khỏe, các quyền về hôn nhân – gia đình… vô hình trung làm suy yếu cơ chế bảo đảm các quyền này, trong khi lẽ ra cần phải tăng cường hoặc ít nhất là duy trì nguyên trạng…



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 04, 2013 23:58

Lực lượng vũ trang không phải trung thành với một đảng là phi chính trị?

Gò Cỏ May- Blog GCM



733763_10151435788603808_1867610347_nKiến nghị 7 điểm được khởi xướng bởi 72 nhân sỹ trí thức (gọi tắt: Kiến nghị 72), tính đến hôm nay (4/3 – đợt 20) đã có 6611 chữ ký hưởng ứng. Mặc dù vấp phải sự răn đe của hai ông đầu trò Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Sinh Hùng vào các hôm 25 và 27/2. Tới ngày khoá sổ (31/3), chắc chắn con số sẽ còn tăng thêm. Điều này chứng tỏ, người dân Việt Nam đã dần vượt qua sợ hãi để vươn lên làm chủ vận mệnh của mình. Bất chấp mọi tai ương.


Một trong những điều gây tranh cãi nhiều nhất. Lực lượng vũ trang (Quân đội nhân dân Việt Nam), khi không còn phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam (như Kiến nghị thứ năm của các nhân sỹ) có phải là “phi chính trị“ như lời ông Trọng cảnh tỉnh hay không?


Với kiến thức còn hạn hẹp của mình, tôi có vài nhời thử “loạn bàn“ xem sao. Rất mong các bậc cao minh chỉ giáo để được sáng mắt thêm!


Thông thường ở các nước dù khác nhau về hệ thống chính trị hay địa lý nhưng lực lượng vũ trang vẫn bao gồm Lực lượng vũ trang theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, lực lượng chiến đấu của nhà nước có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, an ninhquốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội…. những lực lượng chính là quân độicảnh sát và dân quân. Có nhiều nước chỉ tính quân đội. Quân đội có nhiệm vụ bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền của quốc gia, chống ngoại xâm. Cảnh sát có nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự nội địa. Dân quân là lực lượng bán vũ trang, thường được các quốc gia tổ chức như là một lực lượng dự phòng nhằm huy động sức mạnh từ số đông quần chúng. Ngoài ra, còn một lực lượng nữa cũng nằm trong lực lượng vũ trang là lực lượng an ninh, có trách nhiệm bảo vệ an ninh quốc gia.


Còn theo Từ điển Tiếng Việt, Lực lượng vũ trang của một nước phải phục vụ cho mục đích chính trị. Hai từ chính trị, tưởng đơn giản. Song hiểu cho thấu đáo không phải ai cũng tỏ tường. Chính trị được người Trung Hoa thời cổ đại viết bằng chữ tượng hình như sau: 政治.


Theo giải thích của GS Nguyễn Ngọc Huy (1924-1990), chữ chính, trong Hán văn gồm hai phần: bên trái là chữ chính có nghiã là ngay thẳng, bên phải là bộ phác hàm ý hành động. Chữ trị cũng gồm hai phần: bên trái là bộ thủy là nước, bên phải làn âm để đọc là trị. Theo nghiã đen, trị có nghiã là dùng thuốc để chữa bệnh. Chữ trị là bộ thủy, lúc ban sơ người Trung Hoa đã biết dùng thảo mộc nấu trong nước (sắc thuốc) đem uống (hoặc bôi) trị bệnh. Về sau chữ trị được mở rộng nghiã, chỉ việc dùng sự trừng phạt để loại bỏ những phàn tử hủ bại xấu xa khiến xã hội được ổn định.


Như thế, nghiã gốc của từ chính trị (政治) nói chung là việc làm ngay thẳng, lành mạnh.


Người Tây Phương cũng có định nghiã chính trị (politics, politique, polis *) một cách tương đồng – Học giả người Pháp – Jehan Bodin (1529-1596), viết trong bộ sách Republique (Cộng hòa), cho rằng: “Chính trị là sự điều khiển ngay thẳng nhiều gia đình và những gì chung cho các gia đình ấy với một quyền lực tối cao“ (“République est un droit gouvernement de plusieurs ménages et de ce qui leur est commun, avec puissance souveraine”).


Trở lại với câu chuyện sửa đổi Hiến Pháp 1992, Kiến nghị 72 của các nhân sỹ (trong phần kiến nghị thứ năm) có đúng là “phi chính trị hóa quân đội“ như qui kết của TBT Nguyễn Phú Trọng? Khi kiến nghị cho rằng, mọi hoạt động của các lực lượng vũ trang chỉ để bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ quốc gia và phục vụ nhân dân…. yêu cầu bỏ quy định lực lượng vũ trang phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam. Chỉ cần trung thành với Tổ quốc và nhân dân… là đủ.


Trong chế độ toàn trị như ở xứ ta, những ai bị qui kết là “phi (vô) chính trị“ là một tội khá nặng. Tuy chỉ vài câu nói nhỏ nhẹ của ông Trọng ở Vĩnh Phúc hôm 25/2 “các đồng chí quan tâm xử lý cái này“. Nhưng đó chính là thông điệp mạnh mẽ của người đứng đầu chế độ. Nhằm mục đích ngăn chặn những ý kiến góp ý trái với khẩu vị của đảng. Cho dù, cách đây chưa lâu, vào ngày 28/12/2012, thay mặt Bộ chính trị, TBT Nguyễn Phú Trọng ký Chỉ thị số 22-CT/TW về việc lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Chỉ thị nêu rõ: “Đây là một đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn trong toàn đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị, nhằm phát huy quyền làm chủ, trí tuệ, tâm huyết của các tầng lớp nhân dân, của các cấp các ngành, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của mỗi cá nhân và cơ quan, tổ chức đối với việc sửa đổi Hiến pháp, thi hành pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân”.


Nhận xét về các phát biểu thiếu nhất quán của ông Trọng. Nhà báo Minh Diện đã chẩn ông Tổng bị mắc “căn bệnh” nói trước quên sau **.


Còn Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, trả lời BBC ngày 28/2, cho rằng, điều này (quy định lực lượng vũ trang phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992) là đi ngược lại với tư tưởng Hồ Chí Minh. Ông Vĩnh nói: “Trước đây Hồ Chủ tịch chỉ nói quân đội phải trung với nước, hiếu với dân.”


“Lâu nay người ta nói học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh mà sao bây giờ người ta lại muốn làm trái là thế nào? Sao lại thay đổi ý kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh?”


“Gọi quân đội là quân đội nhân dân, thế thì là từ nhân dân mà ra. Cho nên phải trung với nước, hiếu với dân là đúng rồi. Chứ không ai nói là quân đội Đảng Cộng sản.” ***


Ngược với ý kiến của vị tướng già, Tạp chí Cộng sản ngày 1/3/2013, trong bài “Quân đội không thể và không nên trung lập” đã đanh thép đập lại: “Quân đội luôn là một lực lượng chính trị, một bộ phận đặc biệt quan trọng của chính quyền nhà nước. Mọi điều kêu gọi trung lập hay chia tách sự lãnh đạo của chính đảng cầm quyền đối với quân đội đều là vô nghĩa, phản khoa học, kéo theo những tư tưởng chính trị phản động…“  ****


Thật đúng là “sư nói sư phải, vãi nói vãi hay“. Chả nhẽ trên đời này có hai cách hiểu trái ngược nhau về chính trị hay chính trị có thể đổi thay theo thời tiết hoặc sức khoẻ tâm thần của từng con người?


TBT Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Vĩnh Phúc hôm 25/2/2013.

TBT Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Vĩnh Phúc hôm 25/2/2013.


Theo cảm nhận của tôi, chính câu nói của ông Trọng hôm 25/2 mới là “phi chính trị“. Bởi vì nếu xét theo tiêu chí chính trị là một việc làm chính danh, đạo đức (ngay thẳng) thì sự riêng sự nói trước quên sau (nuốt lời) đã thể hiện đầy đủ tính phi chính trị của người cầm quyền. Còn Tướng Vĩnh nói riêng và 72 nhân sỹ trí thức hàng đầu nói chung đã bày tỏ thái độ chính trị rõ ràng và tích cực. Khi hưởng ứng lời kêu gọi của đảng nhằm phát huy quyền làm chủ, trí tuệ, tâm huyết.. đối với việc sửa đổi Hiến pháp, thi hành pháp luật mà viết rằng: “Hiến pháp đặt lợi ích của toàn dân lên trên lợi ích của bất kỳ một tổ chức hay cá nhân nào. Mọi hoạt động của các lực lượng vũ trang chỉ để bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ quốc gia và phục vụ nhân dân. Lực lượng vũ trang phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không phải trung thành với bất kỳ tổ chức nào, như quy định tại Điều 70 của Dự thảo. Chúng tôi yêu cầu bỏ quy định lực lượng vũ trang phải trung thành với Đảng Cộng sản ViệtNam“.


Bởi chỉ thây ma của chế độ phong kiến lạc hậu. Hay các thể chế quân phiệt phát xít mới khăng khăng bắt các lực lượng vũ trang phải trung thành với ngôi báu (quyền cai trị) bất chấp quyền lợi của nhân dân và quyền lợi và an nguy của quốc gia dân tộc.


Có ý kiến còn ngộ nhận rằng: “nếu nói “Quân đội nhân dân Việt nam chỉ cần trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, và nhân dân Việt Nam” là còn trừu tượng, chưa đầy đủ và chưa cụ thể…. “muốn trung thành với Tổ quốc, với nhân dân, Quân đội trước tiên phải trung thành với Đảng cái đã.“ (trích phản hồi của: lockim, on Tháng Ba 2, 2013 at 3:16)


Chắc ông Trọng chưa khi nào nhìn thấy cái ca này?

Chắc ông Trọng chưa khi nào nhìn thấy cái ca này?


Tóm lại, nếu công cuộc góp ý sửa đổi bản Hiến pháp 1992 do đảng phát động mà biết phát huy quyền làm chủ, huy động trí tuệ, tâm huyết, tạo sự đồng thuận của nhân dân để toàn dân chung tay đóng góp, xây dựng, hoàn thiện Đạo luật gốc như nhời đảng thì đã không có những động thái phản cảm phi chính trị của các vị chóp bu chế độ như vừa rồi. Khiến những bất kỳ ai quan tâm tới thời cuộc, có nhận thức trung bình như tôi cũng lờ mờ nhận ra, cơ hội có được bản Hiến pháp (thực sự của dân, do dân, vì dân) lại một lần nữa bị nhỡ tàu. Bởi căn bệnh ”tứ chứng nan y” của chế độ đã kháng thuốc. Chỉ tới khi con bệnh ”tắc tử” hẳn. May ra cái ”bếp lò” ướt sũng của các vị có tật nói trước quên sau mới có thể bén lửa được.


Để kết cho entry này, tôi xin dẫn lời của Thánh Khổng, khi trả lời Qúi Khương Tử hỏi về chính trị. Khổng Tử đã theo đúng từ nguyên và bảo rằng: “Chính giả, chính dã, Tử suất dĩ chính, thục cảm bất chính?“ (Chính trị là làm cho ngay thẳng. Ngài lấy sự ngay thẳng mà sai khiến người thì còn ai dám không ngay thẳng? – Theo: Luận ngữ, Nhan Uyên 7).


…………………………………………..


* Ở Hy Lạp cổ đại, Polis là một thị trấn độc lập và có đủ quyền như một quốc gia ngày nay và trong ngôn ngữ Hy Lạp, politicos (số ít) hay  politica (số nhiều) là những từ dính dáng đến quốc gia. Do gốc chữ này mà các từ điển Tây Phương ngày nay thường định nghiã  politics hay politique là chính trị là “ khoa học hoặc nghệ thuật về việc điều khiển quốc gia“.


** Bùi Văn Bồng: “CĂN BỆNH“ NÓI TRƯỚC QUÊN SAU ?


http://bvbong.blogspot.de/2013/02/can-benh-noi-truoc-quen-sau.html?showComment=1361982587830


*** Theo BBC Tiếng Việt – 


**** Theo: cpv.org.vn - http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Tieu-diem/2013/20381/Quan-doi-khong-the-va-khong-nen-trung-lap-Lich-su.aspx



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 04, 2013 20:17

Con người, con thú và trí thức Việt

GS Trần Quốc Vượng


gs-tranquocvuong-02Nước Việt Nam ta hiện là một quốc gia kém phát triển về mọi mặt, vừa lạc hậu, vừa lạc điệu với một thế giới nhìn chung đã và đang phát triển rất nhanh, đặc biệt từ nửa sau thế kỷ XX.


Tạm bỏ qua một bên mọi sự “giải thích”, nào đổ tội cho phong kiến đế quốc, thực dân, bành trướng, thiên tai, địch họa, chiến tranh, cách mạng; nào viện dẫn sai lầm chủ quan của những người cầm nắm vận mệnh quốc gia mấy chục năm qua, v.v…  tình trạng ấy là không bình thường, gây nên một bức xúc tâm lý, một nỗi đau thân thể, một nhức nhối thân xác và tâm linh, buộc KẺ SĨ và NGƯỜI DÂN, vừa gian khổ kiếm sống, vừa suy nghĩ đêm ngày, tìm cách khắc phục và vượt qua tình trạng tủi nhục này…


Có ĐỘC LẬP rồi chăng, nhưng hoạ LỆ THUỘC vẫn luôn luôn mai phục, cả về mô hình chính trị và sự phát triển kinh tế…


Có THỐNG NHẤT rồi chăng, nhưng mầm CHIA RẼ mọc rễ sâu xa, nào Bắc / Nam, nào Cộng sản / không Cộng sản…


Điều chắc chắn, là NHÂN DÂN chưa có HẠNH PHÚC, TỰ DO thực sự.


Với biết bao hệ lụy của một cuộc chiến kéo dài, buộc ràng tới 3 thế hệ người Việt Nam (và rất nhiều quốc gia liên đới), lạ một điều (mà sao lại là lạ nhỉ ?), là từ “người thua” đến “kẻ thắng”, giờ đây, ai ai cũng mang một mặc cảm hoành đoạt (complexe de frustration), nói nôm na mà MẤT MÁT.


Trước hết là NGƯỜI DÂN THƯỜNG.


Người ra đi hàng triệu, bỏ xác ngoài biển khơi hàng ngàn, vạn, biết bao em gái ta, chị ta, cả mẹ ta nữa… bị kẻ hải tặc khốn kiếp dày vò làm nhục!


Chưa nói đến của cải, ai còn sống thì đều cảm thấy mất quê hương!


Người ở lại, hàng chục triệu nông dân bỗng dưng cảm thấy mất đất, không có quyền tự do hành xử trên “mảnh đất ông bà”, trong khuôn viên do chính tay mình tạo dựng; hàng triệu công nhân mất việc, thất nghiệp hay bị kém sử dụng (sous-emploi), sống ngất ngư, lây lất qua ngày…


Trí thức, thì tản mác, bị lãng phí thảm hại, trừ một số rất ít kẻ xu thời (đời nào chẳng có?), người nào cũng cảm thấy mất tự do tư tưởng và sáng tạo.


Một tình trạng như thế, chỉ có lợi cho lũ gian manh. Một cuộc “đổi đời” kỳ cục như thế, mà nếu cứ nhất định muốn gọi nó, muốn gọi đó, là “cách mạng”, thì là một cuộc cách mạng đã mất phương hướng. Phương hướng là cái tiêu ngữ trên mỗi đầu trang giấy, từ sau Tháng Tám 1945: ĐỘC LẬP – TỰ DO – HẠNH PHÚC.


Cho nên phải nghĩ lại, phải bình tâm mà nghĩ lại, nói theo thời thượng từ giữa thập kỷ 80, là phải ĐỔI MỚI TƯ DUY.


Tư duy là công việc của mỗi CON NGƯỜI, vì về bản chất, con người là một sinh vật có tư duy, có ý thức và vì có tư duy, có ý thức mà được / phải có quyền tự do lựa chọn mô hình hành động, cho chính mình (tự do cá nhân), cho chính cộng đồng mình (nhà mình, làng mình, nước mình…) và phải / được chịu trách nhiệm về chính sự lựa chọn đó.


Tôi rất thân và rất quí Nguyễn Huy Thiệp, hẳn thế, nhưng chính vì thế mà tôi không thể nào đồng ý với anh khi anh trả lời phỏng vấn báo Libération là “Tôi đã sống như một con thú“. Con thú làm sao mà biết viết, biết in “Tướng về hưu”, “Phẩm tiết”…?


Lẽ tất nhiên là tôi hiểu cái “ý tại ngôn ngoại” của anh: Cái mặt bằng kinh tế xã hội của một Việt Nam hiện nay trên đó “anh phải sống”, sự ràng buộc của “cơ chế”? v.v…


Tôi nhớ lại, ngày 12/01/1983, trong buổi họp kỷ niệm 40 năm ra đời “Đề cương Văn hoá Việt Nam”, ông Trường Chinh (tác giả chính của cái “Đề cương” đó) đã nói với các “nhà khoa học xã hội” Việt Nam: “Nếu không có một điều kiện tối thiểu về vật chất để sinh sống thì con người có thể trở thành con thú! ”


Điều đó chẳng có gì mới lạ, vì bằng kinh nghiệm nghiệm sinh, nhiều nhà trí thức chúng tôi đã nghĩ và nói thế từ lâu. Điều mới và lạ, là cho đến tận lúc ấy, một vị lãnh đạo cao cấp của đảng Cộng sản Việt Nam mới nói ra như thế!


Mà con người, nhất là người trí thức Việt Nam, đâu chỉ đói rét vì miếng cơm manh áo? Đói tự do tư tưởng cũng có thể trở thành con thú!


Vì con thú, như con trâu, con bò, dù có no cỏ thì cũng chỉ biết theo đuôi! Theo đuôi con đầu đàn!


Bao năm qua, có biết bao con người Việt Nam chỉ biết theo đuổi kẻ cầm quyền, hoặc khốn khổ thay, là chỉ được theo đuôi người lãnh đạo và lại được “khen” là “có ý thức tổ chức, kỷ luật” và vì vậy được vào Đảng, được “đề bạt” làm kẻ “cầm quyền” bậc sơ trung cấp, để, nói cho cùng, cũng chỉ thành kẻ “chấp hành”, “thừa hành”, nhưng có được chút “quyền”: Dối trên và nịnh trên, lừa dưới và nạt dưới!


Tôi nhớ lại, khoảng mười năm trước đây, một người học trò và là bạn trẻ của tôi, trước khi đi Nga làm luận án Phó tiến sĩ sử học, trong buổi “tiệc bia” tiễn biệt thầy trò, bè bạn, đã ngỏ với tôi lời “khuyên” tâm sự: – Nếu như thày mà cũng “đầu hàng cơ chế” nữa là bọn em mất nhờ đấy!


Anh ấy ở Nga 4 năm, về nước với bằng xanh phó tiến sĩ, thẻ đỏ đảng viên và, gia nhập “cơ chế”, trở thành “người lãnh đạo” của tôi hôm nay! Tôi chẳng buồn mà cũng chẳng vui. Tôi chọn lựa cho mình một hướng đi: Gia nhập “Câu lạc bộ những người thích đùa”. Tôi thường nói đùa như người Hà Nội vẫn thường đùa, anh ấy:- Cậu là đảng viên nhưng mà tốt!,


Câu nói đùa, mà “nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào” và hơn nữa, với câu nói ấy, có thể bị “quy chụp” là “phản động”.


Tôi có một anh bạn, phải nói là rất thân, học với nhau từ thuở “hàn vi”, lại cũng làm việc dưới một mái trường Đại học trên ba chục năm trường, cùng “leo thang” rất chậm, từ “tập sự trợ lý” đến full professor, chair-department. Anh là con “quan lớn”, em của “nguỵ lớn” nhưng “có đức có tài”, được chọn làm “hàng mẫu không bán – kiểu như ông Bùi Tín vừa làm ồn ào giới truyền thông một dạo, nhưng khác ông ta là cho đến nay anh không gửi “kiến nghị” kiến nghiếc gì, nói năng với TRÊN, với DUỚI bao giờ cũng “chừng mực”, chẳng “theo đuôi” mà cũng chẳng là “dissident” của chế độ.


Anh thường bảo tôi: Thì về cơ bản cũng nghĩ như cậu thôi. Nhưng cậu thông cảm, mỗi người một tính một nết, một hoàn cảnh. Cậu “thành phần tốt”, ăn nói táo tợn thì quá lắm người ta chỉ bảo cậu là “bất mãn cá nhân” thôi. Tớ “thành phần xấu”, ăn nói bằng 1/10 cậu thôi cũng đủ bị “quy” là “phản ứng giai cấp” rồi!


O.K.! Anh cứ sống kiểu anh, tôi cứ sống kiểu tôi. Chỉ có mỗi một điều thôi, là vì vậy và vì nhiều lý do sâu xa khác nữa, nên nước ta chỉ có những nhà trí thức (intellectuals) chứ không có giới trí thức (intelligentsia).


Vậy thua thiệt thì Dân ráng chịu!


Bi kịch, nỗi bất hạnh của trí thức Việt Nam, của nước Việt Nam là ở đó…


Rút từ Nỗi ám ảnh của quá khứ- Blog cây sậy/ HDTG



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 04, 2013 18:51

Nguyễn Quang Lập's Blog

Nguyễn Quang Lập
Nguyễn Quang Lập isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Nguyễn Quang Lập's blog with rss.