Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 40

July 14, 2020

Thư gởi bạn (14.7.2020)

 


Thư gởi bạn (14.7.2020)


Chuyện của Nghĩ Từ Trái Tim


 



 


Cảm ơn bạn đã muốn biết thêm chi tiết về cuốn Nghĩ Từ Trái Tim viết về Tâm Kinh Bát Nhã của mình, do Nhà xuất bản Tổng hợp TP in lần đầu 2003, sau khi đọc bài Huỳnh Ngọc Chiến trên Giác Ngộ Online 2009 đã gởi mình để post lại. Như mình đã có lần nói, mình chỉ học Phật lõm bõm, thấp thoáng thôi như đã “giải trình” trong TÔI HỌC PHẬT (Tệp tuyển do Nguyễn Hiền Đức thực hiện, thuvienhoasen 2019). Lúc trẻ thì mình cũng đọc Krishnamurti, Suzuki… đọc cả Lão Trang, Khổng Mạnh như bao bạn bè cùng lứa. Đọc cho biết. Nhưng có lẽ mình có chút duyên với Phật nên hồi 4,5 tuổi đã được Cha mẹ, cậu dì cõng đi Chùa Cú ở Phan Thiết, nơi có “Linh Sơn Trường Thọ tự”, vì nhà bà Ngoại mình ở gần ngay dưới chân núi.  Nhỏ xíu, chỉ còn nhớ khi tới Đá Bàn, thì nghỉ chân, giở mo cơm ra ăn và nhìn cá bơi lội, lên chùa thì nước lạnh ngắt…


Năm 1997, sau một trận bệnh thập tử nhất sanh, những ngày nằm viện sau mổ cấp cứu vì tai biến mạch máu não, có người bạn (Bs Ngọc Ánh) cho mình mượn cuốn sách mỏng viết về Tâm Kinh (Trái tim hiểu biết của thầy Nhất Hạnh) mình mới có dịp nghiền ngẫm sâu và tìm kiếm thêm nhiều tài liệu khác nữa để tham khảo và nhất là đi vào thực hành nhằm tự chữa bệnh cho mình, bởi thuốc men không lợi ích gì nhiều trong trường hợp bệnh lý này.


Có lẽ nhờ không phải “đọc cho biết” như xưa nữa mà đọc để “tự chữa bệnh” cho mình nên có gì đó như sáng dần ra. Sau 3 năm nghiền ngẫm, thực hành… Rồi nghĩ. Hay là nên ghi lại kẽo quên. Vậy là viết. Viết ào ào, như “mây trôi gió cuốn”, say mê, quên hết mọi thứ xung quanh, hơn 6 tháng thì xong (12/2000 đến 7/2001). Thở một hơi.  Nhưng vẫn chưa dám nói năng chi. Gởi bản thảo viết tay đến vài ba người bạn Phật tử thuần thành nhờ đọc. Rồi tiếp tục nghiền ngẫm, thực hành thêm. Sau cùng, gởi đến Ni sư Trí Hải nhờ “thẩm định”. Ni sư nói hôm đó ở Hốc Môn bị cúp điện, phải đốt đèn cầy đọc suốt đêm thứ “chữ bác sĩ” nguệch ngoặc của mình, nhưng sáng sớm hôm sau đã phone khen ngợi, và khuyến khích “nên in ra đi vì sẽ có lợi ích cho nhiều người”, Sư nói vậy. Mình nghe lời, năm 2003 mang đến Nxb Tổng hợp, Giám đốc là ông Trần Đình Việt nói sách “tôn giáo” khó in lắm. Rồi nể mình, anh chịu đọc qua. Nói được. Thôi để tôi in thử chừng ngàn cuốn cho anh. Ai dè… sách bán chạy quá, anh in tiếp, in tiếp… tái bản dài dài. (Đến nay đã tái bản chính thức lần thứ 14). Lúc đó, Trang mạng Khuông Việt của thầy Thiện Niệm ở Pháp gởi thư xin đưa lên net. Xin cứ tùy nghi. Thầy Thanh Tuệ, An Tiêm cũng viết meo xin in ở Pháp, nhưng rồi sau đó thầy mất, chưa kịp thực hiện. Nhiều nơi làm Audiobook, ra đĩa… Xin cứ tự nhiên. Năm 2013 thấy có Radio SBS ở Úc đọc trong một chương trình nào đó, sau đó có gởi về mình một đĩa như để … xin phép tác giả. Xin cứ tùy hỷ. Một người bạn bên nửa vòng trái đất nói đọc xong, phải lái xe đi hơn hai giờ để mang đến cho người bạn khác đọc. Có người xin ấn tống. Xin cứ tùy nghi…


Vậy đó. Câu chuyện của Nghĩ Từ Trái Tim.


Xin gởi thêm bạn vài ba bài dưới đây, một của GS Trần Văn Khê khi  nằm bệnh viện Chợ Rẫy để chữa bệnh (2003), có thì giờ đọc Nghĩ Từ Trái Tim (do chị Lý Thị Lý- vợ nhà báo Trần Trọng Thức- ghi âm); một của nhà thơ Nguyễn Thánh Ngã đăng trên Tạp chí Văn hóa Phật giáo (2006) , và một của “NA blog” (2009) mà tới giờ này mình vẫn không biết là ai. Thôi, cho phép chia sẻ nơi đây cùng bè bạn bè thân thiết.


Đa tạ tất cả.


Thân mến,


Đỗ Hồng Ngọc.


(Về thu xếp lại)


 


Con đường đi tới Tâm Kinh của tôi (*)


GS Trần Văn Khê


 


(…) Con đường đi tới Tâm kinh của tôi vòng vo như vậy, mãi cho tới khi gặp bà Karfung tôi mới hiểu rõ hơn. Bà Karfung là một thầy thúôc châm cứu, dạy khí công của tôi. Suốt một năm rưỡi bà chỉ chuyên tâm cắt nghĩa Tâm kinh bằng tiếng Pháp..


Bà Karfung đọc và giảng từng câu cũng như Đỗ Hồng Ngọc đã đề cập trong cuốn sách của mình. Bà Karfung cho rằng không dịch ra mà để nguyên chữ Phạn, chỉ đọc ra âm thanh thôi. Âm thanh đó nhắc nhở con người phải hành, phải đi tìm chân lý, bến giác. Đến chữ “Yết đế” trong câu Yết đế, Yết đế, Bala yết đế, Bala tăng yết đế, bồ đề, tát bà ha!, bà dịch là avant, encore en avant, toujours en avant et plus loin en avant (đi tới, đi tới, còn đi tới nữa và luôn luôn đi xa tới hơn nữa) để tới đáo bĩ ngạn, tới Paramita.


Lần này về Việt Nam được đọc cuốn sách Nghĩ từ trái tim của Đỗ Hồng Ngọc, những điều tôi biết về Tâm kinh từ bà Karfung đều được Đỗ Hồng Ngọc nói rõ ràng bằng tiếng Việt, văn phong chẳng những giản dị mà còn dí dỏm, kèm thêm những thí dụ trong cuộc đời, lâu lâu lại chêm vàì câu Kiều, thơ của Xuân Diệu hay lời ca của Trịnh Công Sơn. Càng đọc tôi càng thấy thấm thía và có phần gần gũi. Tôi đọc mà vô cùng thú vị, qua đó cho thấy hiểu biết của tác giả rất sâu sắc. Có những điều tôi hoàn toàn đồng ý với tác giả. Mọi người cho rằng trong Tâm kinh, đức Phật phủ định tất cả những gì mình đã dạy. Nhưng Đỗ Hồng Ngọc lại nghĩ ngài không phủ định mà chỉ khẳng định lại những điều mình đã dạy một cách rõ ràng hơn. Điều đó đúng quá, Đức Phật nói lần lần cho người ta hiểu.


Đỗ Hồng Ngọc là một bác sĩ, làm như phải có khoa học thì mới tìm được những chi tiết trong Tâm kinh. Người bác sĩ này có cả tâm hồn hướng về con người nên đã viết cho trẻ con, cho những người già, người sản phụ, tìm hiểu căn bệnh để trừ bệnh, để giúp cho người ta bớt bệnh bớt khổ. Tâm tư đó là tâm từ đi tới bi. Người bác sĩ đó có được một tinh thần phóng khoáng, một tâm từ, còn là một nhà văn dí dỏm, một nhà thơ mộc mạc dễ thương nên hiểu được Tâm kinh như thế. Phải trải qua một trận đau, một lần bị giải phẫu, khi đó cả một cơ thể mình chuyển động thay đổi, tâm tư thay đổi thì tự tìm lấy cách để trị bệnh cho mình. Trong khi học trị bệnh tức là đã hành. Tâm kinh không chỉ đọc hiểu không thôi mà phải hành. Đỗ Hồng Ngọc nhờ tổng hợp được những yếu tố đó mà viết ra được quyển Nghĩ từ trái tim như thế này thì tôi cho đây là một tuyệt tác, nắm được tinh hoa của đạo Phật giảng ra một cách dễ hiểu, dễ dàng để cho người ta tìm thấy được mỗi chuyện làm ở trong đời….


(*)Tựa của ĐHN.


bài do chị Lê Thị Lý ghi âm (trích 2003)


 


Đức Phật và lời dạy của cha tôi


Nguyễn Thánh Ngã


Tôi không nhớ rõ tôi đến với Đức Phật như thế nào, nhưng cái thời khắc nhỏ nhất mà Phật đến với tôi, thì tôi không thể nào quên được! Đó là dấu ấn suốt đời, kiếp kiếp.

Khoảng năm lên 7,8 tuổi, tôi rất thích bắt những chú kiến bỏ vào hộp diêm. Lúc thì chơi đùa với chúng, lúc thì lại giết đi. Một hôm cha tôi thấy vậy nói: “Con không nên giết hại sinh vật, dù chúng có bé nhỏ tới đâu, vì chúng cũng muốn có được niềm vui như con vậy!”. Rồi cha đem những chú kiến còn lại thả cho chúng bò đi, miệng lầm rầm những điều không rõ. Ánh mắt cha thương tôi một cách lạ thường. Tôi đã nhận ra (dù còn là khờ dại) trong ánh mắt ấy, hình ảnh Đức Phật soi chiếu tâm tôi. Ngài đã đến với tôi bằng lời của cha tôi. Ngài đã tọa nhập vào tôi bằng ánh mắt của cha tôi. Sau này tôi mới vỡ lẽ như thế. Còn lúc đấy, một cách tự nhiên, thật thơ ngây, Đức Phật đến!

Ngài ngồi đó, giữa hoang địa tâm trí tôi. Cha mẹ tôi tất bật chạy lo cơm áo. Tôi lớn theo từng manh áo của mẹ. Nhưng hàng ngày mẹ luôn nhắc tôi “làm lành lánh dữ”. Hàng ngày cha nhắc niệm Phật. Đức Phật của tôi vẫn còn xa tôi nhiều lắm. Cả những lúc bíu áo mẹ đi chùa, tôi vẫn không hề biết lời Phật dạy có sức mạnh tiềm ẩn trong tôi đến vậy. Tôi học cách lượm một mảnh chai giữa đường, học cách bắt một cọng cỏ qua dòng nước cho bầy kiến bò qua… Tôi làm tất cả những điều ấy mà vẫn chưa hiểu gì nhiều. Nhưng chắc chắn những “điều không có gì” đó lại thay đổi cuộc đời tôi. Hướng dẫn tôi gội rửa tâm của mình.

Gội rửa tức là làm sáng bóng một hình tượng. Nhưng vì quá mê tín, tôi xem Đức Phật của tôi như Thượng đế, tôi buộc ngài ban phát cho tôi những điều tôi cầu xin. Xin được tôi đem lòng tham. Không được tôi đem lòng nghi hoặc. Tôi chạy theo ảo ảnh của cuộc truy tìm. Tôi đem kiến thức nhà trường để đọc kinh Bát Nhã. Đức Phật trong tôi ngày một mù mịt. Tôi nghĩ rằng những quyển sách triết sẽ cứu vãn tôi. Tôi đem Khổng Khâu, Socrate, Sartre, Nietzsche… để lấn át Đức Phật của tôi. Và rồi chỉ còn là ngọn đèn leo lắt trong tâm tôi giữa những ngọn gió lớn!

Ngông nghênh với một cái đầu đầy thiền triết của “Vô môn quan”, của hiện sinh…, tôi đâm ra coi thường tất cả. Tất cả cuộc đời đều là phi lý, buồn nôn… Tôi đảo điên. Tôi mộng ảo. Tôi bế tắc. Dĩ nhiên là tôi có quyền cho phép mình độc đoán, khát vọng không tưởng, và thể hiện cả những thói ích kỷ nhỏ nhen, thù ngịch. Tôi sử dụng trình độ của mình để coi rẻ, phân ly. Tôi thoả thích chạy theo rượu chè. Cuộc đời với tôi là những sự lẩn quẩn. Tôi trở nên một người trống rỗng. Cách đây 4,5 năm gì đó, báo Giác Ngộ gởi tặng tôi quyển Tâm Kinh (Kinh Trái Tim). Sách quý nhưng đọc… chỉ là để đọc! Sau đó, tôi đem tặng cho một người bạn. Tặng xong tôi lại nhận được một quyển khác. Tôi đọc và tiếp tục mê tín trở lại! Trầm trọng hơn. Một hôm lang thang ở tiệm sách, cầm trên tay quyển sách “Nghĩ từ trái tim” của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc mà tôi thấy mình có một Đức Phật thật bình dị, thật đơn giản, thậm chí thật hồn nhiên nữa! Câu thơ của ông mà tôi thuộc lòng từ lâu đã ám ảnh tôi: “Sóng/ quằn quại thét gào/ Không nhớ mình/ là nước!”. Tôi đọc và vỡ lẽ từng chữ, từng câu. Bằng cách viết làm thất vọng nhiều thứ bằng cấp, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã giúp tôi vượt qua mê tín mà lâu nay tôi ngỡ là chánh tín. Đây là lời cảm ơn của tôi đối với người bác sĩ mà tôi chưa từng quen biết. Trong tôi thức dậy một tình yêu mới, rất hồn nhiên thơ ngây. Tôi cố gắng quét sạch mọi thành kiến, xa rời mọi triết luận. Và tôi đã có một Đức Phật cho riêng mình. Đức Phật từ thời cha tôi dạy và Đức Phật trong chữ nghĩa của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc nhập làm một: thật hồn nhiên, thật giản dị, nhưng rọi chiếu tâm tôi. Đức Phật của tôi luôn nhắc tôi: “Đừng tin ta khi con chưa hiểu ta!”.


 (Tạp chí Văn hóa Phật giáo, 15.8.2006)


 


Blog của NA, 2009


“…Trước giờ mình là một đứa vô thần. Hồi còn bé, mình không thích Phật giáo, không hiểu lý do vì răng. Nếu không kể những gì được học ở trường Đại học thì cuốn Nghĩ từ trái tim của Đỗ Hồng Ngọc là cuốn đầu tiên về Phật giáo mình đọc được. Lúc đầu mình không biết là ông viết về Tâm kinh Bát Nhã, tìm đọc chỉ vì thích Đỗ Hồng Ngọc.Đây là cuốn mình đọc đi đọc lại nhiều nhất, tới bảy tám lần. Cũng là cuốn mình mua nhiều nhất, mua cho và mua tặng, cũng khoảng bảy tám lần.


Cứ mỗi lần thấy trong lòng có chi đó không vui là mình lại lấy cuốn Nghĩ từ trái tim ra đọc. Điểm đặc biệt ở chỗ, mỗi lần đọc là lại thấy một điều chi đó mới mẻ, hoặc ngẫm ra được một cái chi đó thú vị để áp dụng vào cuộc sống hằng ngày. Chỉ cần cầm cuốn đó lên đọc vài hàng là đã thấy trong người nhẹ nhàng thư thới. Thấy những vọng động trong mình lắng xuống. Thấy mọi tranh chấp hay bon chen ngoài kia không đáng để cho mình phải lao tâm khổ tứ nữa.


Mình biết có một số người không thích Đỗ Hồng Ngọc tự nhiên chuyển sang viết về Phật giáo, mình chưa đủ trình độ để đánh giá là Đỗ Hồng Ngọc viết như thế nào so với những người khác cùng viết về lĩnh vực ni. Nhưng Nghĩ từ trái tim đã có một công lao rất to lớn đó là thay đổi cái nhìn của mình với Phật giáo. Điều mình thấy quý và thích Đỗ Hồng Ngọc là cách viết và cách chia sẻ của ông trong Nghĩ từ trái tim rất gần gũi, đơn giản, và dung dị. Chính vì rứa mà những cái rất khó hiểu và trừu tượng như Tâm Kinh Bát Nhã trở nên dễ hiểu, dễ đi vào lòng người và dễ thấm”….


(www.dohongngoc.com)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 14, 2020 03:24

July 12, 2020

Huỳnh Ngọc Chiến: Tản mạn cùng “Nghĩ từ trái tim”

 


Ghi chú: Sau buổi “Ra mắt bỏ túi” Để Làm Gì ở NXb Tổng Hợp Tp.HCM, bạn Huỳnh Ngọc Chiến đã gởi đến tôi bài viết này của anh đã đăng trên Giác Ngộ Online 2009.


Trân trọng cảm ơn HNC và xin được chia sẻ cùng bạn bè thân thiết.


ĐHN


 


Tản mạn cùng “Nghĩ từ trái tim”


Huỳnh Ngọc Chiến


 


Thật khó lòng tưởng  tượng khối năng  lượng khổng lồ được  giải phóng từ hai quả bom nguyên tử kinh người tại Hiroshima và Nagasaki lại bắt nguồn từ công thức vật lý chỉ có vỏn vẹn năm ký tự E=mc2. Cũng thế, thật khó lòng tưởng tượng toàn bộ khối kinh sách đồ sộ trong hệ tư tưởng Bát nhã Phật giáo, nói về trí huệ siêu việt thượng thừa thù thắng làm kinh động tất cả tam thiên đại thiên thế giới, lại bắt nguồn và được khoáng diễn từ một chữ KHÔNG, rồi lại được cô đọng trong bài Tâm kinh chỉ vỏn vẹn có 260 chữ. Đủ thấy bản thân mỗi chữ trong Tâm kinh đều hàm ẩn một dạng năng lượng khổng lồ E=mc2 như thế nào rồi! Diệu dụng của chữ KHÔNG thật vô bờ bến.


“Sắc bất dị Không, Không bất dị sắc; sắc tức thị Không, Không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị. Xá-Lợi-Tử! Thị chư pháp Không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố Không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh diệc, vô vô-minh-tận, nãi chí vô lão-tử, diệc vô lão-tử-tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc”.


Toàn bộ thế giới vật lý và tâm lý với lục căn, lục trần, lục thức, cho đến thuyết Tứ diệu đế và Thập nhị nhân duyên nền tảng của Phật giáo đều bị quét sạch trong cơn lốc phủ định toàn triệt của hai chữ BẤT và VÔ. Bởi vậy, không ngạc nhiên gì khi chư Phật không ngớt khuyến cáo thính chúng đừng sợ hãi khi nghe thuyết giảng kinh Bát Nhã. Không kinh hãi sao được khi mà mọi chỗ an tâm lập mệnh, mọi sở trú của con người đều bị phủ định vì “Tứ đại giai không, ngũ uẩn phi hữu” và con người dễ có cảm giác như bị rơi tõm vào cõi hư không mù mịt giữa cõi Ta bà?


Thế nhưng, phủ định toàn triệt là thể cách vi diệu để đưa đến sự khẳng định toàn triệt trong cảnh giới tự do tuyệt đối. Tuy Chân Không mà lại là Diệu Hữu. Có lẽ để hậu thế dễ tiếp cận hơn với tư tưởng KHÔNG, nên toàn bộ kho tàng kinh sách Bát Nha khổng lồ, đặc biệt là 600 cuốn Đại Bát Nhã, đã được cô đọng trong bản Tâm kinh. Chung quanh Tâm kinh vẫn luôn là những huyền thoại với những năng lực siêu nhiên cùng với bước chân hành hương của nhà chiêm bái vĩ đại Huyền Trang, hiểu theo nghĩa nó là “đại thần chú, đại minh chú, vô thượng chú, vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư”. Tâm kinh vẫn mãi mãi là một huyền án đối với những ai quan tâm đến Phật học và luôn chờ những lời chú sớ. Trong tác phẩm “Thiếu Thất lục môn”, mà theo tương truyền là của Tổ Bồ Đề Đạt Ma, có chú giải về bản Tâm kinh này, với cửa thứ nhất là “Tâm kinh tụng”. Muốn vào được động Thiếu Thất phải lọt qua cửa ải Tâm kinh. Song bản chú giải “Tâm kinh tụng” theo kiểu bình tụng trong “Thiếu Thất lục môn” cũng khó hiểu như nguyên bản cần được chú giải bởi vì chư Tổ giải minh Tâm kinh từ cảnh giới giải thoát bất khả tư nghì của mình, khiến những độc giả sơ cơ như chúng ta khó lòng tiếp cận. Đó là cách đem ẩn ngữ trùm thêm lên ẩn ngữ, khiến cho nó càng “huyền chi hựu huyền”, nên xưa nay nhiều Phật tử thường chỉ học thuộc lòng suông Tâm kinh với thái độ “kính nhi viễn chi ”. Nói đúng ra là chư Tổ không muốn phu diễn (vulgariser) nội dung Tâm kinh bằng ngôn ngữ quy ước trong thế giới khái niệm. Các ngài không chú giải Tâm kinh mà chỉ ghi lại kinh nghiệm thực chứng của mình từ Tâm kinh bằng những lời bình tụng, cũng như người xưa thích “chú giải” một bài thơ bằng cách làm một bài thơ khác! Đây là thể cách thường thấy trong lịch sử văn hóa phương Đông, đặc biệt là ở Trung Quốc.


Chỉ khi nào đạt đến cảnh giới của chư Tổ, chúng ta mới  mong chia sẻ kinh nghiệm của các ngài qua các lời bình tụng đó, vì trong thực tế lắm khi do sự bất toàn của ngôn ngữ quy ước, lời bình chú dễ vướng vào vấn nạn “démystifier pour mieux mystifier” , theo Dominique Duvivier,  nghĩa là muốn giải thích rõ ràng một sự việc thì ta lại càng làm cho nó trở nên khó hiểu. Theo cách nói của ngôn ngữ Thiền tông, đó là “Tuyết thượng gia sương” (Trên tuyết lạnh lại đổ thêm sương).


Trong giới Thiền tông, dường như chỉ có Thiền sư Động Sơn Lương Giới, khai tổ tông Tào Động, mới đặt ra nghi vấn về nội dung Tâm kinhNgữ lục Thiền tông ghi lại rằng thuở nhỏ, sư theo thầy tụng Tâm kinh đến câu “vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý ”, sư chợt lấy tay sờ lên mặt mà hỏi thầy:


– Con có đầy đủ mắt, tai, mũi, lưỡi, cớ sao trong kinh nói là không?


Vị bổn sư lấy làm kinh ngạc, bảo:


– Ta chẳng phải thầy của ngươi.


Và giới thiệu sư đến núi Ngũ Tiết làm lễ xuất gia với Thiền sư Linh Mặc.


Câu hỏi của Thiền sư Lương Giới là cách trì tụng Tâm kinh đúng nghĩa, vì sư không muốn nắm bắt huyền nghĩa Tâm kinh bằng khái niệm. Hôm nay, có một người không xuất thân từ chốn thiền môn, quanh năm không hề rau dưa kinh kệ, mà lại “dám” theo chân chư Tổ để khám phá thêm những ẩn ngữ của Tâm kinh. Đó là bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc với tác phẩm “Nghĩ từ trái tim” qua lời tự bạch:


“Tác giả viết cuốn này là để tự chữa bệnh cho mình và cũng giúp cho vài bạn bè trang lứa, đồng bệnh tương lân. Cái nhìn về Tâm kinh trong Nghĩ từ trái tim là cái nhìn của một người thầy thuốc, một bác sĩ, có thể rất khác với những người khác và mong được chia sẻ” (Lời cuối sách).


Có lẽ nhờ vậy mà người đọc dễ dàng bị cuốn hút bởi những suy nghĩ nhẹ nhàng không nặng về học thuật. Tâm kinh, qua cái nhìn của một thầy thuốc với những kinh nghiệm hành trì thực sự, bỗng nhiên trở nên nhẹ nhàng dễ hiểu. Nó hòa nhập và mang hơi thở bình dị của cuộc sống đời thường một cách thật dễ dàng. Theo lời tâm sự trong sách, tác giả đã “ngộ” ra Tâm kinh sau một cơn đau thập tử nhất sinh. Do thân bệnh mà thấy được tâm bệnh. Nhờ chữa bệnh của thân mà chữa luôn được bệnh của tâm. Quả là một cơ duyên hy hữu để thể nghiệm được cảnh giới “Tuyệt hậu tái tô” trong cõi “Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan phùng”. Tôi cảm nhận được rất rõ điều này khi đã một lần tìm về cõi Sinh từ cõi Tử. Lúc đó, chỉ có những gì giúp ta một mình đối diện với cái chết bằng tinh thần vô úy mới thực sự có ý nghĩa, ngoài ra ta sẽ thấy tất cả mọi thứ trên đời đều vô nghĩa và phù phiếm. Tâm kinh có lẽ là một hành trang cần có cho chúng ta trên đường về cõi Chết, một khi ta cảm nhận được rằng “vô lão-tử diệc vô lão-tử-tận”. Tôi tin rằng tác giả “Nghĩ từ trái tim” phải có những kinh nghiệm nhất định khi trì tụng Tâm kinh mới có thể viết được những trang sách bình dị mà sâu sắc đó.


Tâm kinh ở đây là một loại” chân kinh” cần phải được rèn luyện, thực tập, thực hành, thực chứng… chớ không lý thuyết suông, không để học hỏi tụng niệm thuộc lòng…” (tr.19).


Mọi thứ văn chương biên khảo với tất cả các ngôn ngữ quy ước đều phù phiếm và bất lực, một khi nó không dựa trên kinh nghiệm thực. Huống gì là lời bình giải cho bản Tâm kinh. Lúc đó kiến thức sẽ nhường bước cho kinh nghiệm và sự hành trì. Tôi ghi nhận điều này qua bài viết “Ngã ba ngôn ngữ”, và biết bài viết của chính mình vẫn chứa quá nhiều yếu tố bất toàn về ngôn ngữ, nên đã có lần nói với anh: “Có lẽ mọi ngôn ngữ quy ước đều bế tắc. Có khi viết nghiêm túc một cách cà rỡn như Bùi Giáng hoặc viết nhẹ nhàng như anh mà lại hóa hay”. Nghĩa là cứ viết bằng sự cảm nhận những điều tưởng chừng huyền mật từ hơi thở bình dị của cuộc sống đời thường. Tác giả Đỗ Hồng Ngọc phần nào đã làm được điều này, theo cách của riêng anh.


Đọc Tâm kinh, “hành thâm Bát nhã” suy cho cùng cũng chỉ là cách học tập để an trú trong cõi đời bằng một thể cách khác. Cực lạc cũng là đây mà A-tỳ-địa-ngục cũng chính là đây. Thử hỏi trong đời có gì xấu xí bằng hình ảnh ngọ ngoạy của con sâu, và có gì đẹp bằng hình ảnh phất phới bay của con bướm màu sặc sỡ? Nhưng hai con chỉ là một từ trong bản chất. Đó là điều huyền mật nhất giữa trần gian. Sinh tử hòa nhập với Niết bàn, tội lỗi trộn lẫn với thanh cao, giác ngộ ẩn tàng trong vô minh, bóng tối chan hòa cùng ánh sáng, tất cả đều chỉ là một. Đáo bỉ ngạn là vượt qua sông để đến với bờ bến bên kia. Bên kia là Bồ đề, là giác ngộ. Nhưng đến bờ bến bên kia là để trở lại bên này, và:


“… làm cách nào thực hiện được Tâm kinh trong đời sống hàng ngày của một người bình thường, giúp họ thay đổi thái độ, có cái nhìn mới mẻ về cuộc sống, về cõi người, về vũ trụ và nhờ đó thấy cuộc sống đẹp hơn, quý giá hơn, sống có trách nhiệm hơn với thiên nhiên, với đời, với người, với bản thân…; làm việc hiệu quả và năng suất cao hơn, góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn, nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi thành viên… (tr.34-35)”.


Cuốn “Nghĩ từ trái tim” được tái bản đến lần thứ tám, một điều cực kỳ hiếm hoi đối với một cuốn sách dạng biên khảo, khi mà cái học thực dụng thô thiển đã biến sự đơn bạc về tình cảm, sự hời hợt trong tư duy trở thành một nét đặc trưng đau xót trong xã hội hiện nay. Nhưng khi đọc xong thì tôi hiểu. Văn chương thực chưa chắc đã hay, nhưng văn chương muốn hay thì phải thực. Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc không suy nghĩ từ khối óc mà “nghĩ từ trái tim”. Tất cả những gì anh viết đều là những điều cảm nhận từ kinh nghiệm hành trì của bản thân, cũng như từ những suy tư bình dị và chân thành của trái tim. Mà những gì phát xuất từ trái tim chân thực đều dễ dàng đi vào tận trong sâu thẳm lòng người.


Huỳnh Ngọc Chiến


(Giac Ngo Online 4.2009)


 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 12, 2020 00:57

July 8, 2020

Thư gởi bạn (5.7.2020)

 


Thư gởi bạn (5.7.2020)


“Ra mắt” ĐỂ LÀM GÌ để làm gì?


Mình không có ý định “Ra Mắt” cuốn ĐỂ LÀM GÌ để làm gì, vì vốn nó chỉ là một Tạp tuyển những bài viết ngắn ưng ý như một kỷ niệm trong buổi “về thu xếp lại” này thôi, nhưng truyền thống của các Nhà xuất bản nói chung cũng hay: Ra mắt là dip để “giao lưu” giữa tác giả và người đọc, và quan trọng không kém là để quảng bá, giới thiệu tác phẩm mới đến bạn đọc, nếu không, sách “ế” cũng nguy, nhất là trong thời Cô-Vi này. Sách mình xưa này không đến nổi ế, tuy chưa “best seller” như cuốn Gió heo may đã về dạo nọ, nhưng các nhà xuất bản đều gọi là loại “long seller” mà!


Sau cùng mình chọn làm buổi “gọi là ra mắt” nho nhỏ, kín đáo một chút, riêng tư một chút, thân mật, gần gũi ở ngay trong Nhà xuất bản thay vì làm “hoành tráng” ở Đường Sách đông đúc nhộn nhịp.


Chỉ khoảng 40-50 bạn tham dự, cũng ngộ là thấy có lớp trẻ cũng khá đông. Mình gởi bạn vài hình ảnh và mấy lời phát biểu của các “trưởng lão” được một bạn ghi lại vậy nhe.


MC Xuân Huy dặn bác Ngọc phải ngồi hàng dưới kia, chờ con giới thiệu xong sẽ lên “giao lưu” nhé. Mình nói không. Ở đây ai cũng quen biết nhau cả mà. Không cần phải bày đặt, hình thức làm chi!


Chủ nhật 5.7.2020
tại Nhà xuất bản Tổng hợp Tp.HCM


 


 


 


 


 


 


 


 



Nguyễn Lệ Uyên đến sớm nhất, Hoàng Kim Oanh ôm theo một bó hoa cúc vàng, Nguyên Cẩn, Ngô Tiến Nhân, Nhật Chiêu rồi Huỳnh Ngọc Chiến, Trần Đình Sơn, Hoàng Anh, Trần Quang Hiếu, Hồng Vân… và khá đông các bạn trẻ.


Hoàng Kim Oanh, tiến sĩ văn chương, nói về lối viết… “văn nói” của ĐHN


 


Nhà văn Nhật Chiêu nói đọc ĐHN có lúc thì cười tủm tỉm có lúc thì cười ha hả…


 


Nhà nghiên cứu Phật học, Huỳnh Ngọc Chiến (tác giả “Lai rai chén rượu giang hồ” ngày trước, nay đang viết “Lai rai câu kệ Lăng Già”) phát biểu về cách viết của Đỗ Hồng Ngọc trong lãnh vực nghiên cứu Phật học.


 


 


 


 


 


 


 


 


 


Ngô Tiến Nhân: “Không làm gì mà làm tất cả. Làm tất cả mà cũng không làm gì”… Nguyên Cẩn (áo xanh): ĐHN viết như bông lơn mà càng đọc càng thấm…


 


 


 


 


Hoàng Anh nhắc lại chuyện xưa, với cuốn “Viết cho các bà mẹ…” của ĐHN và về cậu con trai nay đã là một vị bác sĩ.


 


 


 


 


 


 


 


 


… và Trần Đình Sơn, Nhà NC Phật học…


 


Bất ngờ có một cô bé, tự giới thiệu mình tên là Đỗ Hồng Ngọc Uyên, quê Quảng Nam, xin chụp với bác Ngọc tấm hình để gởi về cho Cha ( Cha cô là người đã đặt tên cho cô), vì ông là độc giả của ĐHN từ lâu…


 


 


 


Rồi ký tên cho bè bạn thân quen…


 


 


 


 


 


 


 



 


 


 


Nguyễn Tư Tường Minh, thay mặt NXB gởi một bó hoa đẹp.


 


 


 


 


 


 


 


Dưới đây là một vài phát biểu:


Nhà văn Nguyên Cẩn


Anh Ngọc với tôi là bậc thầy về y học , đàn anh về Phật pháp và văn chương . Lối viết của anh đáng học hỏi : viết nhẹ nhàng tưởng chừng không có gì như bông lơn nhưng càng đọc càng thấm. Về cuốn Để Làm Gì , tôi mới cầm sáng nay nên chỉ đọc phớt qua phần đầu anh viết về An lạc. Qua đó anh phân biệt rõ hạnh phúc (happiness) không phải là an lạc (well- being) ví như cô hoa hậu đăng quang hôm trước , hôm sau đã bị vây quanh với bao âu lo hay như một người trúng Vietlott phải đối phó phiền muộn từ những người thân ngay sau đó.  An lạc là một phẩm tính đến từ tâm tĩnh tại và quan trọng là phải có tuệ giác mới lĩnh hội được. Cũng rất tình cờ tôi lật những trang cuối sách thấy bài viết về Ngọn lửa, từ ngọn lửa của Phật mà có người hỏi nếu có nhiều người chia lửa, liệu có hao hụt đi không? Nhưng câu trả lời đã rõ : càng nhiều người thì ánh sáng càng lan toả chứ chẳng hề hao hụt. Tác giả liên tưởng tới ông thầy: nếu chỉ truyền trao kiến thức một cách lạnh lùng trong thời buổi Google có thể trả lời mọi thứ thì có nhất thiết phải có thầy không? Ông thầy theo DHN là người truyền lửa , phải thổi niềm đam mê tri thức hay sự yêu thích nghiên cứu cho học trò, thậm chí sự dấn thân vào đời trong tâm thế tích cực cũng đến từ người thầy, nếu không làm được thì vai trò người thầy hết sức mờ nhạt. Phải chăng ông thầy bs DHN cũng đã từng là người truyền lửa cho bao thế hệ bác sĩ. Tôi cũng là một thầy giáo nên rất thấu hiểu điều này. Đấy là những điều tâm đắc tôi cảm nhận khi cầm sách đọc thoáng qua sáng nay. Chắc là còn bao điều lý thú nữa dang chờ người đọc khám phá nơi cuốn sách hấp dẫn trên 400 trang này .


 


Nhà văn Nhật Chiêu:


Để làm gì nghĩa là chẳng làm gì theo quan điểm vô vi như hình bìa, một chữ “Không” khép lại. Cái hay của DHN là viết có vẻ không nghiêm túc mà vẫn chuyển tải điều cần chuyển tải. Đọc anh lúc thì tôi cười tủm tỉm, lúc thì cười ha hả! Ai đọc Sến Già Nam cũng thích…! Nói một cách nào đó ĐHN trở về tâm thức trẻ thơ mà trong triết học đó là trạng thái trở về sau khi người ta ngao du trong bể kiến thức rồi cuối cùng tìm về như một đứa trẻ nhìn cuộc đời và ĐHN đạt được cảnh giới đó . Khi nói ĐHN viết ko nghiêm túc cũng nằm trong ý đó, viết giản dị nhất có thể mà vẫn khiến người ta hiểu và cảm điều mình cần nói, ko cần khoa trương , triết luận chi nhiều. Người viết nào cũng mong như thế


 


Ngô Tiến Nhân:


Đỗ Hồng Ngọc là ai, khó mà định danh. Là bác sĩ, nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu Phật học?… Theo tôi, anh là một thi sĩ. Có chất thơ trong văn anh, trong các bài viết tản mạn, trong các ký họa của anh. Lãng đãng nhưng chăm sóc rất kỹ, trau chuốt nhưng không làm dáng, lững thững, cà rỡn mà sâu sắc. Anh có cái hồn nhiên ngay cả trong học Phật, đạt một tâm thái vô vi, tự tại của một người… vô sự! Không làm gì mà làm tất cả. Làm tất cả mà cũng không làm gì. Để Làm Gì là vậy.


 


Thân mến,


Hẹn thư sau,


Đỗ Hồng Ngọc


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 08, 2020 03:11

July 6, 2020

vnexpress: ĐHN với “Để Làm Gì”

 


https://vnexpress.net/do-hong-ngoc-ra...


Đỗ Hồng Ngọc ra sách ‘Để làm gì’

Quỳnh Quyên


Trong quyển “Để làm gì”, tác giả Đỗ Hồng Ngọc nói về hành trình tìm kiếm bình an nhờ “thân tâm nhất như”.



Tạp bút Để làm gì dày hơn 400 trang gồm các bài viết về kỷ niệm với bạn văn, bạn thơ cùng các câu chuyện tản mạn trong cuộc sống của Đỗ Hồng Ngọc.


 





(Video trên vnexpress.net)
Bác sĩ, nhà văn, nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc nói về ý nghĩa tựa đề “Để làm gì”. Video: Quỳnh Quyên.




 


Trong buổi giao lưu ngày 5/7 tại NXB Tổng hợp TP HCM, tác giả cho biết viết sách để lan tỏa an lạc – bình an trong tâm hồn. Theo ông: “An lạc phải cả thân và tâm. Thân tâm nhất như, tâm có an thì thân mới lạc. Tâm có lạc thì thân mới an. Tìm đến an lạc là tìm đến sự kết nối của thể chất khỏe mạnh và tâm hồn thư thái”. Trong sách có chuyện quen thuộc như Một hôm gặp lại – cảm thức của tác giả về truyện Hoàng tử bé (Antoine de Saint-Exupéry) với hình con voi trong chiếc mũ hay Tôi học Phật kể ông “có chút duyên với Phật, nhưng đến với Phật rất trễ”.


Tên sách Để làm gì xuất phát từ câu nói của nhà văn Pháp – André Maurois: “Khi nào trong đầu mình nảy ra cái ý ‘Để làm gì’, lúc đó mình đã già thiệt rồi”. Từ cái ý về “nghệ thuật già” này, Đỗ Hồng Ngọc thú nhận lâu nay ông biết mình già, nhưng vẫn đang nghĩ là “già giả”. Cái già đối với ông là cái mặt nạ, còn bên trong vẫn là một đứa trẻ hừng hực lửa yêu thương. Tác giả còn lấy cảm hứng từ bài hát Để gió cuốn đi của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng. Để làm gì em biết không. Để gió cuốn đi, để gió cuốn đi”.


Ông có giọng văn không lẫn đi đâu được: lững thững, tinh nghịch, dí dỏm. Theo nhà nghiên cứu văn học – nhà thơ Nhật Chiêu, sách mang lại niềm vui mới đúng là sách. Nhật Chiêu cho biết ông “cười quá trời quá đất” khi đọc các câu chuyện hài hước, gấp sách lại, ông thấy như “đứa trẻ rong chơi ngày nào đã trở lại hồn ta”. Khi chạm tuổi “gió heo may đã về”, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chế tác các viên thuốc tinh thần bằng các câu chuyện hóm hỉnh. Người đọc lân la, đọc đi đọc lại vì cảm thấy thoải mái, dễ chịu với giọng văn không giáo điều.


 




Để làm gì được NXB Tổng hợp TP HCM phát hành. Ảnh: NXB Tổng hợp.






“Để làm gì” được NXB Tổng hợp TP HCM phát hành. Ảnh: NXB Tổng hợp.



Theo tác giả Nguyên Cẩn: “Đỗ Hồng Ngọc viết văn nhẹ nhàng, tưởng không là gì nhưng càng đọc, càng sâu sắc”. Bác sĩ viết văn từ cảm nhận, trải nghiệm cá nhân và lấy chất liệu từ cuộc sống. Do đó, độc giả có thể bắt gặp chính mình trong các câu chuyện và tìm thấy sự đồng cảm.


 


Đỗ Hồng Ngọc (bút hiệu Đỗ Nghê), sinh năm 1940. Trước khi làm bác sĩ chuyên khoa nhi, Đỗ Hồng Ngọc đã là thi sĩ với các bài thơ cộng tác trên báo. Các tác phẩm của ông khai thác đa dạng đề tài. Tập thơ tiêu biểu: Tình Người (1967), Thư cho bé sơ sinh & những bài thơ khác (2010). Tạp văn, tạp bút như Gió heo may đã về (1997), Về thu xếp lại (2019). Ông viết về y học phổ cập trong Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò (1972)…


Quỳnh Quyên

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 06, 2020 21:47

July 3, 2020

PNO: Biển rì rầm kể chuyện

 


Biển rì rầm kể chuyện

LỤC DIỆP




PNO – Một cuốn sách không nặng nề suy niệm, tiếc nuối mà ngược lại, rất tươi mới, hóm hỉnh. Một tinh thần “rất trẻ” và tràn đầy năng lượng sống.


“Rồi một hôm, trong buổi “về thu xếp lại”, tôi gom góp một số bài tùy duyên, tùy hứng, tùy nghi, tùy hỷ…bấy lâu mình ưa thích làm thành một “tạp tuyển” ở tuổi 80 này, như một món quà lưu niệm dành riêng đọc vui một mình, rồi biết đâu cũng có người đồng điệu…” – bác sĩ – nhà văn Đỗ Hồng Ngọc bộc bạch như vậy, khi in cuốn Để làm gì (tạp bút, Nhà xuất bản Tổng hợp TP.HCM vừa ấn hành).












Tôi đọc sách ông viết trên những chuyến xe dài, những trang viết ngắn dễ đọc, dễ cảm; đa dạng đề tài, nhiều cảm xúc. Cảm giác đọc Để làm gì như cách người ta thưởng thức một tách trà, nhẩn nha, ngẫm ngợi; lúc miên man cảm xúc lúc lại bật cười, thú vị. Đó là một cuộc đối thoại vô ngôn cùng tác giả, cùng chạm đến những tâm tư, ký ức của người viết theo cách lặng lẽ cảm nhận và sẻ chia. Những năm về sau, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc theo học Phật pháp, nên chữ của ông cũng tỏa ra năng lượng an lạc, tích cực.


Có những lúc xe ngang qua mưa, tôi giở đến những bài tác giả viết dành cho những người bạn văn chương, xúc động với một cuộc đời “cô đơn uy nghi” của nhà văn Võ Hồng; ấm áp trong tình cảm chan hòa giữa những người bạn thơ: Võ Phiến, Nguyễn Như Mây, Từ Thế Mộng… Đây có lẽ là cuốn tạp bút viết cảm thơ nhiều nhất mà tôi từng đọc.



[image error]Cái sự “tùy duyên” mà bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc nói được thể hiện qua cả những ký ức thơ, phát hiện tình cờ hoặc những tập thơ được bạn bè gửi tặng ông. Trong mạch nguồn thơ len lỏi chảy suốt tập sách nhỏ này, thấy rõ nhất hai chữ “chân tình” mà tác giả dành cho bạn bè thơ văn khắp chốn. Đó là những bài viết: Làm mới thơ, Chiều nước lên, Một cốt cách ở đời, Lắm nỗi không đành, Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi

Có những mẩu chuyện tưởng chừng rất nhỏ nhưng xâu chuỗi lại là những “gói ghém tinh thần”, truyền tải những điều lớn lao hơn về những nhận diện và hạnh ngộ. Một người già cầm bút, viết trong tâm thế tùy duyên và an lạc, nên cuốn sách nhỏ có ký ức về quê biển Phan Thiết, có những chuyến đi xa xôi cả trong và ngoài nước, những chia sẻ về nghề với người…


Vậy nhưng cuốn sách ấy không nặng nề suy niệm, tiếc nuối mà ngược lại, rất tươi mới, hóm hỉnh. Một tinh thần “rất trẻ” và tràn đầy năng lượng sống. Bởi thế mà trong nhiều chuyến đi tình cờ, ông đã gặp được những độc giả lâu nay vẫn gối đầu giường sách Đỗ Hồng Ngọc. Họ chia sẻ rằng nhờ đọc những quyển sách ông viết mà học hỏi được nhiều điều hay, tinh thần suy nghĩ tích cực hơn. Thậm chí, nhờ sách ông mà những người già biết cảm thông với tuổi già của nhau hơn.


Để làm gì như lời biển rì rầm kể chuyện, hết đợt sóng này đến lớp sóng khác. Những mẩu chuyện xếp lên nhau tạo thành một mảng dày kiến thức, trải nghiệm, tâm cảm, kỷ niệm… từ một đời người kể từ bãi biển Phan Thiết, đỉnh Tà Cú, Lagi quê nhà tác giả đến Huế, Hội An, Đà Lạt, sông nước miền Tây, Melbourne (Úc), mùa thu vàng ở Boston (Mỹ), những cuộc hành hương trên đất Phật Ấn Độ… Xen lẫn vào đó là những mẩu hài hước về chuyện Ếch kêu, Sáng mắt chưa, Bò sao lại điên, Sến già nam, Chơn mạng đế vương…


Tản văn của Đỗ Hồng Ngọc thật lành, thật nhã. Sáng, trưa, chiều tối với “trà Tào-Khê, cơm Hương-Tích, thuyền Bát-Nhã, trăng Lăng-Già…”.


“Và thấy hình như có mình trong đó, nhận ra mình cần chậm lại, để nghe trái tim lên tiếng, để cảm nhận những chuyển biến dù nhỏ nhất xung quanh mình, trong bản thân mình” – tâm sự của bạn đọc trẻ như một thay lời dành cho Để làm gì. Một cuốn sách truyền tải được năng lượng tích cực, nhận được sự đồng cảm, trân trọng của bạn đọc – đó đã là thành công lớn của người viết.


Lục Diệp


(Nguồn: Phụ Nữ Online- PNO Tp.HCM 3.7.2020)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 03, 2020 02:25

June 30, 2020

June 29, 2020

Văn hóa Phật giáo: TÔI HỌC PHẬT

 


TÔI HỌC PHẬT

(Tạp chí Văn hóa Phật giáo số 347 ngày 01.7.2020)


Ghi chú: Bạn tôi, anh Trần Tuấn Mẫn, Tạp chí Văn hóa Phật giáo cho biết anh đã thôi việc ở Tòa soạn kể từ ngày 1.7.2020 vì tuổi đã cao. Tôi gởi anh bài này như một kỷ niệm riêng. Bài đã in trên Tạp chí VHPG số 347 ngày 1.7.2020. Xin chia sẻ cùng các bạn.


ĐHN


 


TÔI HỌC PHẬT


Đỗ Hồng Ngọc


Càng có tuổi, hình như tôi càng nhận ra có cái gì đó ở ngoài ý chí mình, can thiệp vào mình tùy hứng khiến mình đôi lúc không khỏi chưng hửng, ngỡ ngàng, thầm nghĩ “duyên” chăng? Nhưng duyên là gì không biết. “Nghiệp” chăng? Nhưng nghiệp là gì cũng không biết. Thôi thì, cứ để nó trôi chảy, tự nhiên, bởi nó có vẻ chẳng cần đến ta, chẳng phải là ta, chẳng phải của ta…


Vào tuổi tám mươi, tôi nghĩ đã đến lúc “về thu xếp lại”, đã đến lúc “nhìn lại mình…” như người bạn nhạc sĩ họ Trịnh kia đã nói. Về thu xếp lại, bởi “chút nắng vàng giờ đây cũng vội”, vì rất nhanh thôi, các tế bào thân xác kia đã có vẻ rã rượi, ù lì, và cũng rất nhanh thôi các tế bào thần kinh nọ cũng mịt mờ, mỏi mệt, nhớ trước quên sau… Đầu năm 2019, tôi gom góp in cuốn Về thu xếp lại như một cột mốc, một hẹn hò, rồi cuối năm tiếp tục gom góp in thêm cuốn Biết ơn mình như một nhắc nhở… Bên cạnh đó, cũng đã tạm một bản thảo Đi để Học, Ghi chép lang thang… chủ yếu là một dịp để “nhìn lại mình”… và gần đây nhất là tập Tạp bút Để Làm Gì không phải để hỏi cũng chẳng phải để thở than chi! Tôi cũng mong gom góp, tập hợp một số bài viết, sách, biên chép bấy nay trong lúc lõm bõm học Phật, thấp thoáng lời kinh, làm thành một tập tuyển học Phật để ngẫm ngợi khi cần. Muốn thì muốn vậy, nhưng lực bất tòng tâm!


Duyên may lại đến.


Cách đây mấy năm, một buổi chiều, nhận được 4 cuốn bản thảo “Tuyển tập Đỗ Hồng Ngọc” dày hơn ngàn trang A4 của một người không quen biết gởi tặng. Giật mình. Ai vậy cà? Thấy có kẹp mảnh giấy nhỏ, ghi số điện thoại tên Nguyễn Hiền Đức. Bèn phone thăm hỏi mới biết đó là một bạn đọc quý mến mình, đã “dõi theo” hành trình viết lách của mình từ lâu, nay tỉ mẩn ghi chép lại cả một tuyển tập đồ sộ gởi tặng và nói còn sẽ gởi tiếp mấy tập nữa! Lúc đầu tưởng anh gom góp từ trên mạng, nhưng không, anh cho biết đã gò lưng đánh máy từ những trang sách mà anh ưa thích! Thời buổi này. Lạ thiệt.


Rồi hẹn gặp, mới biết Nguyễn Hiền Đức (thường gọi anh 5 Hiền), trước 1975 từng có thời là Thư ký Tòa soạn của tạp chí Tư Tưởng của Đại học Vạn Hạnh, thư ký riêng của HT Thích Minh Châu… Anh tốt nghiệp Báo chí và Xã hội học, rồi cao học Sử ở Đại học Vạn Hạnh. Đó là một người gầy gò, trông khắc khổ, nghiêm túc, nhưng rất nhiệt tâm và nói chung… dễ thương.


Gần đây, một người bạn bên kia nửa vòng trái đất cho hay tình cờ thấy có Tuyển tập Đỗ Hồng Ngọc “Thấp Thoáng Lời Kinh” trên Thư Viện Hoa Sen online.  Nghĩ chắc… Nguyễn Hiền Đức đây rồi! Và đúng vậy.


Nguyễn Hiền Đức tâm sự: Tôi bắt đầu “gõ” và “gõ”, mải mê “gõ” cuốn “TUYỂN TẬP ĐỖ HỒNG NGỌC –  THẤP THOÁNG LỜI KINH” này từ năm 2010 và kết thúc năm 2018. Tôi rất thích từ “Thấp thoáng” vì nó thể hiện rất rõ, rất đúng cái chất “thấp thoáng”, “lõm bõm” của tôi khi học Phật.


Ngay trong bước đầu “tập tễnh học Phật” tôi đã chọn cách học hợp với sở thích của mình. Đó là chọn bài, chọn sách rồi… rị mọ. cặm cụi, kiên trì “gõ” vào máy. Cách làm này giúp tôi đọc chậm, đọc kỹ từng đoạn, từng trang, từng bài, rồi chú tâm sửa lỗi. Tôi đọc ít nhất 5 lần cho mỗi trang với lòng thanh thản, thư thái. Tôi không “ép” mình phải ghi, phải nhớ một điều gì cứ để nó trôi chảy như một dòng sông…



 


* * *


Tôi có chút “duyên” với Phật, nhưng đến với Phật rất trễ. Lại đến một mình.  Sanh ở Phan Thiết mấy ngày thì tôi được về nhà Ngoại ở làng Phong Điền, Hiệp Nghĩa, dưới chân núi Tà Cú, nơi có Linh Sơn Trường Thọ Tự. Nhỏ xíu, tôi đã được theo cha mẹ, các cậu, dì, lên chơi Chùa núi. Khi là sinh viên ở Saigon, tôi cũng đọc Bát Nhã, đọc Suzuki, Krishnamurti… nhưng đọc chỉ để mà đọc. Đến năm tuổi gần 60, sau một cơn bệnh thập tử nhất sinh, tôi thấy mọi sự khác hẳn đi. Tôi đọc Tâm Kinh thấy không khó nữa. Như vỡ ra. Và với Tâm Kinh, tôi thấy chỉ cần học một chữ thôi. Chữ Không. Từ đó mà vô trụ, vô trí, vô đắc… Từ đó mà gaté, gaté, paragaté… Nó như giúp tôi trả lời câu hỏi cho chính mình, Why, tại sao? Tôi vẫn thường tự đặt ra cho mình những câu hỏi “tại sao” như vậy. Rồi lại hỏi bằng cách nào đây (How?) để mà “hành thâm Bát nhã”? Câu trả lời nằm ở Kim Cang. Ở Kim Cang tôi học Vô ngã (nhân vô ngã, pháp vô ngã), và Thiền định. Dĩ nhiên không thể không học những bước cơ bản: Tứ diệu đế, Bát chánh đạo, Thập nhị nhân duyên… Không có chánh định thì làm sao có chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ… Con đường từ thể nghiệm, thực nghiệm đến ứng dụng trong đời sống hàng ngày. Ở Pháp Hoa, học vô tướng, thực tướng, gặp Như Lai Đa Bảo của mình như luôn tủm tỉm cười chọc quê mình! Cái học y khoa, tâm lý học, xã hội học cũng đã giúp tôi thấy rõ hơn vai trò thầy thuốc, tham vấn viên của bậc Y vương qua hình tượng các vị Bồ tát Thường Bất Khinh, Dược Vương, Quán Thế Âm… với tôn trọng (respect), chân thành (guenuine), thấu cảm (empathy) để không chỉ học hiểu lời kinh mà còn vận dụng vào nghề nghiệp…  Ở Duy-ma-cật, học Bất nhị. Kinh mở ra một cách tiếp cận mới, sinh động, cho dòng chảy mênh mang rộng khắp.


Chắc chắn Phật không muốn chỉ có các đệ tử ngồi thiền định dưới gốc cây, tới giờ đi khất thực và đợi ngày nhập Niết bàn. Phật cần có những vị Bồ-tát đem đạo vào đời, tự giác giác tha. Thế nhưng, các vị Bồ-tát đầu tròn áo vuông cũng khó mà “thõng tay vào chợ” giữa thời đại bát nháo này. Vì thế mà cần Duy-ma-cật. Một thế hệ cư sĩ tại gia, nhằm thực hiện lý tưởng của Phổ Hiền Bồ-tát…!



Rồi từ những điều học hỏi, nghiền ngẫm, thể nghiệm… bấy nay mà tôi mạnh dạn sẻ chia với “Thấp thoáng lời Kinh”,  “Thoảng hương Sen”, “Thiền và Sức khỏe”, “Nếp sống An lạc”… như một ứng dụng Phật pháp vào đời sống.


Khi được hỏi “kinh nghiệm” về học Phật, tôi nghĩ trước hết, cần nắm được các thuật ngữ, sau đó là hiểu được các ẩn dụ, ẩn nghĩa, hàm chứa trong lời Kinh và quan trọng nhất là thực hành, ứng dụng vào đời sống, ở đây và bây giờ…


Những năm sau này, tôi có dịp cùng học với nhóm bạn về Lăng Nghiêm, Viên Giác, Lăng Già… Con đường học Phật thênh thang như cánh rừng kia mà ta mới tiếp cận vài hạt bụi rơi từ nắm lá Simsapa dạo nọ.


Tôi lại gặp duyên may trong lúc một mình lõm bõm học Phật như vậy khi gắn bó với Tạp chí Văn hóa Phật giáo. Tôi còn nhớ buổi họp đầu tiên để thực hiện tạp chi Văn Hóa Phật Giáo có sự hiện diện của quý thầy cùng với các vị cư sĩ tôi hằng mến mộ như Cao Huy Thuần, Trần Tuấn Mẫn, Trần Đình Sơn, Nguyên Cẩn… Anh Cao Huy Thuần sau đó nói riêng với tôi: Này, tôi “thách” anh Đỗ Hồng Ngọc viết được mỗi tháng một bài cho Văn hóa Phật giáo đó. Thế là tôi gắn với Văn hóa Phật giáo từ thuở ban đầu đó đến nay đã gần 15 năm!  Thực ra tôi viết Văn Hóa Phật Giáo là để học.


Nhớ những bài viết đầu tiên gởi Văn Hóa Phật Giáo tôi băn khoăn nên để mục này là “Lõm bõm học Phật” hay “Thấp thoáng Lời Kinh”, bởi biết mình chỉ học lõm bõm, thấp thoáng, chẳng chính quy hiện đại gì cả. Trần Tuấn Mẫn kêu “Lõm bõm” thiếu nghiêm túc. Chọn “Thấp thoáng Lời Kinh” nhé.  Chẳng ngờ độc giả “chịu” cách viết “bên lề” như vậy. Thường khi bài đăng xong tôi hỏi Trần Tuấn Mẫn thế nào, có bị “rầy la, sỉ vả” gì không? Mẫn bảo viết tiếp đi, nhanh lên, được khen lắm đó. Đó là một lời khuyến khích động viên qúy báu, giúp mình tự tin hơn. Tôi viết từ những cảm nhận riêng với một văn phong đời thường về Tâm Kinh Bát nhã, về Kim Cang, Pháp Hoa, Duy-ma-cật… Tôi biết ở Ban Biên tập có những bậc tôn túc, những cao nhân và nhất là độc giả Phật tử khắp nơi đều là những vị thầy của mình, sẽ là “bộ lọc” cho những bài viết của mình, có gì sai họ sẽ chỉ dẫn. Thật vậy, thỉnh thoảng Trần Tuấn Mẫn giúp tôi chỉnh  một chữ, thỉnh thoảng anh Lê Văn Lợi từ Huế khen một câu hoặc nhắc cho một ý…  Khi tôi viết mục “Thoảng hương sen”, là những suy gẫm, những cảm nhận tích lũy trong nhiều năm tháng học Phật của mình, Văn Hóa Phật Giáo đã sửa thành “Hương Sen” mà bỏ đi chữ “Thoảng”. Tôi hiểu. Với tôi, viết cho Văn hóa Phật giáo là một cách học Phật tốt nhất.


Khi tôi xuất bản cuốn Thấp thoáng Lời Kinh thì Trần Tuấn Mẫn viết trên Văn hóa Phật giáo, số 163, ngày 15-10-2012:


Đọc xong tác phẩm Thấp thoáng lời kinh của Đỗ Hồng Ngọc. Im lặng, thanh thản, hoan hỷ như vừa trải qua một cuộc du lịch kỳ thú đến những vùng đất xa xôi, kỳ ảo, để rồi sau đó tâm trí như loãng đi, mơ hồ, lung linh, băn khoăn trong niềm vui thú vị vẫn còn đó, quanh quất lâu dài. Gập sách lại, tôi bỗng thấy thấp thoáng lời sách, từ ngữ, câu văn từ bài này chuyển sang bài nọ, chữ nghĩa nhẹ nhàng đổi chỗ nhau, nhưng vẫn rất tự nhiên, rất trật tự và rất đẹp. Phải chăng tác giả cũng thấy thấp thoáng chứ không nghe văng vẳng lời kinh vì không trực tiếp nghe được kim thanh của Đức Phật. Anh chỉ tự nghiên cứu kinh điển, tự cảm nghiệm và những dòng kinh chợt đến chợt đi trong tâm tưởng. Có lẽ anh dùng từ thấp thoáng cũng là do sự khiêm tốn, muốn bảo rằng những gì anh viết ra không phải là từ sự nghiên cứu mang tính kinh viện mà chủ yếu là do cảm nhận, do sự suy nghĩ và trải nghiệm cá nhân. Tôi vui vì nghĩ như thế, vì nghĩ mình thông cảm được với anh và được anh truyền cho niềm cảm hứng và mấy phần kiến thức Phật học (…).


Các bài viết ở đây, theo lời tác giả, là “những loay hoay, bứt rứt”, “những cảm nghiệm riêng tư, rất chủ quan của người thầy thuốc, bấy lâu nay tìm kiếm, thử nghiệm trên mình rồi mới dám mà sẻ chia cùng bạn bè tương lân”. Những lời tâm sự ấy là chân thật, là tình nghĩa và những gì anh viết ra thì chân xác trong chừng mức có sự chấp nhận của những người đã học Phật, đã tu Phật hay từng chiêm nghiệm về cuộc đời. Anh nhận định sâu sắc về các đề tài nói trên, nhưng vốn là một bác sĩ nhiều kinh nghiệm chữa trị thân và tâm, có khi anh tế nhị và có đôi chút dí dỏm nên chuyển ý sang bình diện cụ thể, thiết thực, gợi ý chúng ta về sự suy nghĩ, về thái độ tích cực trong cuộc sống hằng ngày nên cố ý chuyển ý nghĩa của vài lời kinh như là một thể cách khế cơ (…).


Nhẹ nhàng mà thâm sâu, dí dỏm mà chân thật là tính chất của Đỗ Hồng Ngọc. Thật hay và thật vui khi anh bàn về Hơi thở ra vào, Bồ-tát Di lặc, Du hý ta-bà, Luân hồi sanh tử v.v…


Đọc Thấp thoáng lời kinh của Đỗ Hồng Ngọc, tôi bỗng cảm thấy mình chỉ thấp thoáng lời anh và loay hoay, bứt rứt về cái kiến thức Phật học của mình. Những đoạn kinh tôi đã thuộc lòng bỗng trở nên “thấp thoáng”…


Với tôi, Trần Tuấn Mẫn vừa là bạn, mà cũng là thầy, từ thuở Vô Môn Quan, đến Bàng Ẩn, rồi Lăng Già… và nhất là Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo suốt 15 năm qua.


 


Đỗ Hồng Ngọc


(Saigon 6.2020)


 


 


 


 


 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 29, 2020 23:15

June 28, 2020

N.Q.Chơn đọc “Để làm gì” của Đỗ Hồng Ngọc

 



“Để làm gì” của Đỗ Hồng Ngọc

Nguyễn Quang Chơn (Đà Nẵng)





Tập sách của anh Đỗ Hồng Ngọc gởi bằng bưu điện, đến với mình vào đúng trưa mồng năm tháng năm âm lịch, ngày giỗ ông Khuất Nguyên. Sách được anh bọc cẩn thận trong một bao gương sạch, đẹp, với “người gởi”, “người nhận” rõ ràng, trang trọng.

Tập sách này đã được thấy, đã được nghe, trên trang nhà dohongngoc.com của anh rồi. Mình đã từng tìm trong hiệu sách mà không thấy. Giờ nhận quà từ tác giả qua bưu điện, thấy cuốn sách đẹp hơn, giá trị hơn và…nặng ký hơn!…

Đó là cuốn “Để làm gì” của anh mới in tháng 5/2020. “Để làm gì” không hỏi, chấm, làm người ta dễ đặt câu hỏi: ông đặt tựa như vậy để làm gì?

“Để làm gì” thì thường ở thể nghi vấn, còn được dùng ở thể khẳng định nữa. Nên phải đi kèm với dấu hỏi hoặc dấu than. Còn ở đây không có dấu gì, dạng “trung tính”, thì phải xem trong đó ông ấy viết gì!…

Đọc lời mở. Đã thấy sơ sơ ý của tác giả. Lật trang kế tiếp, đã thấy bài quen quen. Tiếp tục cũng quen quen. Vậy ra anh chọn lọc những bài ký, bài tản mạn…đã in rải rác đâu đó trên nhiều ấn bản để làm thành một selection kỷ niệm tuổi 80, cái tuổi mà anh hay nói với tôi là “già tới nóc”. Bộ già tới nóc là hết già rồi sao? Già thêm một tí nữa thì sẽ lọt qua cái nóc, rớt cái bịch không chừng. Có lẽ bởi thấy mình tới nóc. Nên anh dừng…già lại, giở mấy cuốn sách cũ ra xem. Hứng, nên chọn. Vui, nên gom lại một tập. Rồi anh lại nghĩ. Mình viết nhiều, in nhiều, nhiều thể loại. Từ thơ, văn, đến nghiên cứu, khảo luận, và nhất là Phật pháp. Rồi anh hỏi. Mình viết nhiều vậy “để làm gì?” Biết đâu có ai đó đọc xong rồi tặc lưỡi, viết mấy cái này chi, chẳng “để làm gì!” Hoặc, một người lững thững, “để làm gì….”…

Nên chi, thôi thì tập hợp lại mấy bài viết hồi hườm hườm, hồi già già, hồi già tới nóc, mà chỉ là những tản mạn, những ký. Dạng văn này thì nó không làm nhọc lòng ai, người đọc không nghĩ ngợi chi nhiều, không đi sâu vô một cái gì, nó vui vui, nó chẳng làm gì…., và, vì vậy, anh lấy một cái tựa “Để làm gì” để dành cho độc giả ghi tiếp thêm, sau khi đã đọc. Người thắc mắc thì thêm dấu hỏi (?). Người không ưa thì thêm dấu than (!). Và người trầm tư hơn thì thêm ba chấm (…)…

Nhưng tuyệt vời nhất là ông hoạ sĩ Mai Quế Vũ, ông trình bày cái bìa với một nét cọ mực xạ hình tròn phóng túng ôm cái tựa “Để làm gì” của tác giả. Cái vòng tròn mang “tánh không” đó là đủ bao trùm cả dấu hỏi, dấu than, dấu chấm, dấu gì gì đó nữa hết rồi. Bởi dấu nào cũng rứa, cũng là không! Cái ánh sáng màu trắng tinh khôi không sắc màu kia chẳng phải đã mang đủ trong nó cả đỏ xanh vàng lục lam chàm tím…đó ư?

Nên chăng, “để làm gì” của ĐHN đã có đủ các dấu trong đó rồi. Đọc đi, rồi nghĩ gì thì nghĩ, để làm gì cũng được!…

Nguyễn Quang Chơn
Tối thứ bảy, 27/6/20

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 28, 2020 00:50

June 27, 2020

Ngãnh Tam Tân (LaGi)

 


Thư gởi bạn,


Ngãnh Tam Tân (LaGi)


 


Bài viết Du Ký La Gi rất thú vị của nhà văn Nguyễn Lệ Uyên khiến có bạn hỏi thêm mình về địa danh “Ngãnh” khá lạ lùng ở vùng này.


Xưa, từ Lagi quê nội của mình về quê ngoại ở Phong Điền, Hiệp Nghĩa chỉ cách chừng 15-16km, nhưng toàn phải đi đường biển, ngang qua Nước Nhỉ (giếng Nguồn Chung) rồi đến Ngãnh Tam Tân (nay là Tân Hải), vượt thêm đoạn đường dốc, rừng rậm… đến Cầu Cui, cầu Quan qua sông Đợt mới về đến ngoại, gần chân núi Tà Cú. Vùng này thời đó còn có cọp lộng hành, ra bắt người ăn thịt.


Làng chài Tam Tân ngay sát Ngãnh khá trù phú, là quê của cậu Nguyễn Ngu Í, nơi này ngày nay còn ngôi mộ của ông và gia đình.


Lúc nhỏ, đi qua Ngãnh mình sợ lắm. Rừng mênh mông, âm u, có một hồ nước đen ngòm chảy tràn ra biển, có khi rộng đến vài chục mét, sâu đến bụng (cậu bé là mình). Nghe Má kể lúc đám cưới Má, phải cưỡi ngựa để đi qua dòng nước ở Ngãnh, có lẽ do mặc đồ cưới không thể lội nước, chớ bình thường bà vẫn gánh cau trầu đi bộ dọc biển xuống tận chợ Lagi bán, do vây mà gặp Ba mình. Bà thì giỏi, tảo tần, lo buôn bán, làm ăn, trong khi ông thì… công tử ở Chợ, chơi violon, đóng kịch, thỉnh thoảng còn mời bạn bè là ca sĩ ở Saigon ra Lagi hát hò! Chuyện sẽ kể sau khi có dịp.


Từ “Ngãnh” không thấy có trong Tự điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội 1988. Chỉ có “Ngoảnh”…


Phan Chính, tác giả địa phương chí viết nhiều sách báo về văn hóa, địa danh của vùng đất cực Nam trung bộ là Hàm Tân, Lagi (tỉnh Bình Tuy…) này, tuy có nhiều tài liệu phong phú nhưng cũng khá lúng túng. Trong bài Nghĩ về địa danh Ngảnh Tam Tân đăng trên báo Bình Thuận, anh viết:


BT- Đó là một đoạn bờ biển có cảnh quan đẹp. Cách xa bờ khoảng 50m nổi lên một cụm đá lô nhô như đang khỏa mình với những làn sóng êm ả không ngớt dội vào. Ngảnh Tam Tân thuộc xã Tân Tiến cách trung tâm thị xã La Gi khoảng 12 km. Đây cũng là địa danh nổi tiếng gắn liền với khu di tích Dinh Thầy Thím huyền thoại và nay đã trở thành điểm đến hấp dẫn cho khách du lịch tâm linh kết hợp nghỉ dưỡng.


Không những với khách xa đến mà kể cả người địa phương vẫn đặt ra những câu hỏi về địa danh Ngảnh Tam Tân? Với người dân bản địa thì đã trở thành quen thuộc nhưng khi gợi lại mới thấy thật sự bồi hồi tưởng chừng đang trở về với vùng đất “địa linh” của người xưa thuở còn hoang sơ. Từ “ngảnh” ở đây là chỉ về một địa hình thiên nhiên rất đặc trưng. Nhưng với ngữ âm thường gặp khi nói về địa hình dọc dài vùng biển từ miền Bắc vào Nam chưa ở đâu có từ “ngảnh”. Địa hình ghềnh, gành, mỏm, mỏ, mũi… là phần đất có đá từ bờ nhô ra sông, biển thì có nhưng “ngảnh” thì lại không… (Phan Chính).


May thay, mình tìm thấy từ Ngãnh (dấu ngã) trong Tự điển Việt Nam của Lê Văn Đức-Lê Ngọc Trụ 1970 tại Saigon (Nxb Khai Trí):


 



—  https://ia800603.us.archive.org/26/items/viet-nam-tu-dien-khai-tri-1970/viet-nam-tu-dien-khai-tri-1970.pdf


Viêt Nam Tự Điển Khai Trí- 1970, trang 1013


Ngãnh: Phần đất đột ngột nhô ra biển, không lớn không dài, thường có những gộp đá.


***


Lần này đi với Thân Trọng Minh, Lê Ký Thương, Kim Quy, Nguyễn Lệ Uyên về quê nhà LaGi, Tam Tân (nay là Tân Hải), mình tìm thăm nhà bà con cũ ở Tam Tân, gần như không còn ai, hỏi những người cao tuổi… thì đều đã qua đời. Nhà Bà Năm, Má cậu Năm Chi, có cái giếng nước ngọt nổi tiếng cả vùng, nay con cháu đã bán đất, lấp giếng…


Tam Tân, một vùng chài lưới đầy những rặng dừa xanh mát bỗng chốc… bê tông hóa gần hết. Không buồn sao được! May rồi cũng gặp được vài người trẻ, thế hệ thứ hai thứ ba gì đó… hỏi ra chỉ ngậm ngùi như… Từ Thức bơ vơ. Mới 70-80 năm chớ có xa xôi chi lắm đâu!


Xin gởi vài tấm hình bạn coi thôi vậy nhé.


Internet
Ngãnh Lagi, Bình Thuận


 


nhớ Má (Nghê Thị Như và cậu Nguyễn Ngu Í, tức Ngê Bá Lí, Tân Fong Hiệb, theo cách viết của ông)


 


 


 


Dòng nước đổ ra biển ở Ngãnh giờ cũng mênh mông! Nay đã là khu chợ cá biển, ghe thuyền về tấp nập, cách Dinh Thầy Thím chỉ vài cây số. (Ảnh ĐHN 21.6.2020)


 


Ngãnh Tam Tân LaGi. Hòn Bà xa xa… (ảnh ĐHN, 21.6.2020)


 


Do Hong Ngoc ngồi “thiền” trên gộp đá Ngãnh (ảnh NLU)


Nhóm bạn đến Ngãnh Tam Tân (6.2020).


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


Hẹn thư sau,


Thân mến.


Đỗ Hồng Ngọc


(Saigon 28.6.2020)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 27, 2020 20:46

June 26, 2020

Nguyễn Lệ Uyên: La-Gi Du Ký

 


LA-GI DU KÝ


Nguyễn Lệ Uyên


 


Khi không hai ông “bạn trẻ” đốc tờ gọi, một ông lúc chiều tối, ông nọ lúc giữa trưa, cách nhau chừng 10 tiếng, hỏi “có muốn rong chơi không?”. Dĩ nhiên nhận lời ngay, nhưng bụng dạ thì cứ sôi rồn rột. Vì các chàng đều là dân “bảnh tỏn” trong khi mình lại là tay kiết xác mà ham vui!


Tôi cũng biết tỏng từ lâu, hai ông đốc tờ cộng với ông họa sĩ thì chưa chắc “chân cứng đá mềm” bằng phía trái không thuận của anh chàng nông dân xứ xương rồng trong chuyện leo trèo chạy nhảy; cho nên có giang hồ cùng trời cuối đất thế nào cũng chấp cả “cơm sôi” với “nhớ nhà”.


Xe đón ở ngả tư Hàng Xanh. Dòm vào đã thấy có hai trợ lý, một cho ông bác sĩ, một cho họa sĩ. Kể ra như vậy là khá an toàn.


Nơi đến là nơi tôi đã từng đến, đã bỏ lại trong phút chốc nhà cao tầng chen chúc, xe cộ nối đuôi, ồn ào, khói bụi xập xình… Giờ thì đang băng qua những con đường quanh co; lúc thì chìm lút vào giữa rừng cây thưa, khi lòi ra giữa cánh đồng vắng có đàn cừu, vài con cò trắng bên cạnh đàn bò thong thả gặm cỏ. Yên bình đến lạ.


Xe qua chân núi Chứa Chan, rẽ vào Hàm Tân và dừng ở La Gi, quê hương của Đỗ Hồng Ngọc, đúng 10 giờ sáng, uống cà phê sát bờ sông Dinh, bên đập Đá Dựng.  Anh giới thiệu con đập này được TT Ngô Đình Diệm cho xây dựng vào năm 1960 (tỉnh Bình Tuy) để dẫn nước tưới cho cánh đồng phía trên. Thuở nhỏ, anh và bạn bè thường cởi truồng đứng trên thân đập lao xuống, ngoi ngót giữa trưa nắng. Đập không rộng, không có dáng hùng vĩ như Đồng Cam, nhưng hai bờ cây rừng chen khít, tầng lá xanh che kín, thỉnh thoảng nhô lên mái ngói đỏ, những cây phượng vỹ chói rực bên bờ tây, gần hơn chút, ngày xưa là chùa một cột đứng thoi loi bên mé sông (đã sụp đổ lâu rồi). Giá như không có phiên bản này, tôi nghĩ, dòng sông Dinh sẽ thơ mộng hơn, hoang dã như nó đã từng trước đó. Cũng may, chủ nhân quán này còn biết tôn trọng thiên nhiên, cứ để những cây rừng đứng chung với bàn ghế trong sân: những cây duối, cây bàng lẻ, thao lao và dây leo quấn quanh.


 


Tù trái: MTriet, Do Hong Ngoc, Nguyen Le Uyen, Le Ky Thuong, Kim Quy, Than Trong Minh (Lagi, Đập Đá Dựng 20.6.2020) 


 


La Gi rộng, nhưng không sầm uất, như một cô gái quê đội nón lá, mặc áo mới, chân đi guốc lên phố chợ. Vẻ mộc mạc, chơn chất vẫn còn ở những con đường quanh co, còn biết nhớ đến các bậc danh nhân để đặt tên đường. Tôi thực sự xúc động khi vòng qua đường Trương Vĩnh Ký, uốn lượn, vòng vèo như đang đi trong đường làng… Mấy nơi được như chốn này?


Xe đi tiếp xuống Ngãnh Tam Tân nay còn có tên Mỏm Đá Chim thuộc xã Tân Hải, chừng 12 cây số. Hai bên đường là vườn cây thanh long héo rũ, gãy đổ. Tôi hiểu thân phận của các “ông vua” hơi hám du lịch biển dẫn đến “tra tấn” thiên nhiên là chuyện thường tình ở xứ sở sặc mùi kim tiền, thiếu vắng niềm ân ái hòa đồng với đất trời.Và, tôi hiểu vì sao, khi kể chuyện Hàm Thuận, Hàm Tân, La Gi từng là nơi bò rừng, mển, cọp, beo… quần tụ dưới tầng cây cao thấp đã bị xóa sạch vết chân, anh Ngọc kể với giọng ngậm ngùi. Đâu chỉ riêng quê anh vắng tiếng gầm cọp beo, mất hút những tiếng “tác, tác” của mển, cheo, tiếng gà rừng gáy trưa… cả đất nước này, cả thế giới đều lâm vào thảm trạng não nề đó.


12 giờ trưa tới Dốc Trâu, những động cát trắng phau, cao ngút nối dài tới gần Ngãnh. Đứng dưới phải hất mặt lên mới đụng ngọn. Vẻ hoang sơ của nó đang bị tô vẽ bộ mặt mới. Những cọc bê tông cắm xuống, hàng rào lưới quây nhốt gà vịt, vài nhà cao tầng chen ngang… Nhìn ngang, ngó dọc, Thân Trọng Minh kêu lên, Dốc Trâu đẹp quá, có khi còn đẹp hơn Dốc Lết! Không rõ, nếu Huyền Chiêu Khuất Đẩu mà nghe “phát ngôn” này có dậy lòng tự ái hay không?


 


Dốc Trâu. Bãi biển đầy thuyền thúng. Xa xa là Hòn Bà, Lagi


 


Bữa trưa đúng phong vị biển, bởi nơi quán tiếp với biển với những thuyền thúng câu mực, thả lưới bắt cua ghẹ đang thả mình trên bãi sau một đêm dài lên đênh trên ngọn sóng. Nếu như các cụ Tản Đà, Vũ Bằng có sống lại và ngồi đây, lúc này, hẳn cũng không thể lắc đầu, bởi sự chọn lựa món ăn từ một người sành ăn như anh Minh thì không ai chê nổi. Trước đó mấy phút, các vệ binh của Long hải Diêm vương còn vươn vòi, ngo ngoe càng, giương vây bơi lội quanh hồ nhỏ, giờ đã đổi màu nằm im trên dĩa: mực luộc, tôm hấp, cua biển rang me, cháo cá mú… khiến tôi có cảm giác như chiếc bàn ăn sắp bị lún sâu xuống nền cát vài phân!


 


Mùi gió biển, mùi tôm cua, sóng biển vỗ rì rào, chân trần chạm trên nền cát ướt và những chàng thanh niên U 80 như đang ở một thế giới khu biệt với cái ồn ào “dzô, dzô…” rất kém vệ sinh trong thành phố.


Trong bữa ăn đầu tiên (của chuyến “đi bụi”), chỉ quan sát lần đầu, tôi đã khám phá ra điều thú vị: Trời sinh ra cha con Thân Trọng Minh và Triết là một cặp đôi hoàn hảo, là hai người bạn nâng đỡ và chia sẻ cùng nhau. Không có hai người thì món ăn kém hương vị, ly rượu mất chất ngọt ngào, khói thuốc không còn những vòng trắng mơ mòng khiến sóng biển thôi vỗ vào bờ và nước biển cũng nhạt đôi phần?


Nhưng với chàng họa sĩ Cóc thì ngược lại. Chừng mực như một vị chân tu. Ăn nói nhẹ nhàng, bước chân rón rén… Vì vậy tôi mới rõ vì sao anh bị “cà lăm” với mối tình đầu và mãi mãi cà lăm với những mối tình không tên tuổi, khiến anh trút hết tinh lực vào những đường nét, màu sắc trên những bức tranh của anh lúc nào cũng mang phong thái của tuổi dậy thì, khiến chị Kim Quy phải lòng, khiến những bức tranh anh tặng (Bến đỗ), tôi luôn treo ngược lên vách: doi đất hay thuyền câu giữa dòng sông, hai bờ cây cong xuống điệu đà xanh mướt tôi lật chổng lên cho mặt trời thành mặt trăng ngâm mình giữa dòng nước lạnh băng của Lý Bạch?


Riêng ông bác sĩ, nhà thơ, du sỹ, thiền sỹ, cư sỹ… thì phong thái đời và đạo trộn lại làm một. Từ cái ăn, cái ngủ chí cách đi đứng nói cười…tôi có cảm giác thiệtgiỡn nơi anh chính là giỡnthiệt. Anh thở mà không thở, ăn như không ăn mà ăn! Đáo bỉ ngạn rồi chăng? Đêm ngủ cùng phòng, anh cho ếch kêu vang dậy, lúc ồm ộp, khi nỉ non ai oán như mùa chúng động dục, đến nỗi tôi phải vác chăn ra hành lang nằm, phải thêm vài ba ly rượu để ngủ vùi. Nhưng khi ngâm mình dưới nước biển, tôi mới “ngộ” ra: ếch kêu là ếch không kêu. Những tối tiếp theo, tôi đánh một giấc dài không mộng mị chiêm bao. Anh xem, tôi cũng mon men tới chỗ “đạo khả đạo phi thường đạo” rồi đó chăng?


Đỗ Hồng Ngọc (Ngãnh Tam Tân, Mõm Đá Chim 21.6.2020, ảnh NLU)


 


Đây là lần thứ hai tôi đến Ngãnh, mỏm Đá Chim, Tân Hải – La Gi. Nhưng nếu có lần thứ ba, thứ tư… tôi vẫn. Bởi đây là vùng biển còn hoang sơ, chưa bị nền văn- minh-công-nghiệp-không-khói tra tấn.


 


 


Bãi nông, cát trắng phau, dấu chân người và rác thải vẫn còn mắc cỡ. Bến cá thu nhỏ một góc rất sạch sẽ. Người dân thì hiền và chơn chất như thời cọp beo đông hơn người xứ này. Rổi bờ chào mời các loại hải sản nhưng không chèn ép, thách giá… khác xa với cái táp nham của biển Vũng Tàu, Nha Trang, Đà Nẵng, Quy Nhơn… Nhưng liệu nó còn trụ vững tới bao lâu khi mà nước biển mát lạnh giữa mùa hè, sóng lăn tăn không ồn ào dữ dội. Không ai đoán được. Vì những cọc bê tông đang thọc sâu xuống nền đất, rải rác quanh đây. Thôi thì cứ theo phép thắng lợi tinh thần giỡn là thiệt, ếch kêu là ếch không kêu, tha hồ ngâm mình vẫy vùng một góc hẹp ở biển, hít thở khí trời trong veo chót Mỏm Chim, vùi trong nắng và gió ở Ngãnh phủi gọn mọi triền phược đeo bám quanh người.


 


Nhóm bạn “giang hồ vặt”
20.6.2020


 


 


Khu mộ Nguien Ngu I


 


 


 


 


 


 


 


Tôi nghĩ cụ Nguiễn Ngu Í đã chọn mảnh đất tuyệt đẹp này làm nơi an nghỉ cuối đời là hoàn toàn đúng đắn. Lắm người ao ước mà biết có được chăng?


Hôm sau, anh Đỗ Hồng Ngọc lại hướng dẫn ra Phan Thiết theo con đường sát biển để ngắm nhìn nước biển trong xanh, trời xanh mây trắng, nhìn bãi Đá Nhảy từng hòn chồng lên nhau, làm tôi nhớ mấy câu thơ của Nguyễn Đức Sơn:


Trên biển vắng bánh xe đời lóc cóc


Anh thật tình mát mẻ giữa hư vô”


(Dặn dò một mai, NĐS)


Bãi Đá Nhảy (Kê Gà, ảnh NLU)


 


Đây là vùng Mũi Kê Gà nổi tiếng với Hải đăng trên trăm năm. Cuối bãi Đá Nhảy có thể nhìn thấy Mũi Né xa xa, định vị được lầu Ông Hoàng. Trước khi ăn món cơm gà đặc sản Phan Thiết, anh đưa chúng tôi đi thăm Thanh Minh Tự, xem cây me trên 200 tuổi giữa trưa nắng chan chan. Ngôi chùa nhỏ, ngói tường, rường, cột kèo xiên trính từ xa xưa còn sót lại lẻ loi, lạc lõng giữa những căn biệt thự, nhà, phố sầm uất, thênh thang…Không quên ghé thưởng thức món chè Mộng Cầm thiệt ngon.


 


Thanh MInh Tự, Phan Thiết


Đoạn trở lại Mỏm Đá Chim, không theo đường cũ mà vòng qua núi Tà Cú, tôi mới chợt nhớ quê hương của Đỗ Hồng Ngọc còn có một ông nhà văn Nguyễn Hiệp, nhà dưới chân Tà Cú, với truyện Dưa huyết đọc rất ấn tượng, rồi lại lai rai nhớ ra xứ Phan Thiết Bình Thuận có rất nhiều người tài hoa, lớp trước lớp sau kể không hết: Hoài Khanh, Từ Thế Mộng, Nguyễn Bắc Sơn, Cái Trọng Ty, Phạm Văn Nhàn, Nguyễn Hiệp, Nguyễn Như Mây, Đồng Chuông Tử, Hồ Việt Khuê, Liên Tâm… Hèn chi mà mọi người dân già trẻ gái trai đều biết đến anh, nhớ đến ông BS ra tay chữa bệnh cho em bé không cần thuốc (em bé nay đã là thiếu nữ 20 tuổi). Tình cờ đọc được tạp bút của Bạch Vân Nhi trên giai phẩm Hoa Biển (tháng 4-2020 chi hội VHNT La Gi), có đoạn ngắn nhưng vô cùng trang trọng: “Mình cũng luôn tự hào rằng quê mình có những người giỏi giang như bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc… nhớ Lê Quý  Đôn viết trong Vân Đài Loại Ngữ: Người ơ vùng biển thì giàu trí tuệ, người ở vùng núi thì giàu nhân nghĩa…”.


Ôi chào, đọc tới đoạn này tôi sướng rơn, thơm lây vì được là bạn là em của ông giỏi giang, sướng ngất trời mây trắng bay!


Ba ngày ở biển La Gi chỉ để đầm mình trong nước mặn, hít thở khí trời; có những nơi biết rồi không đến (Dinh Thầy Thím, chùa Phật Quang…), có nơi chỉ ngang qua nhìn (bến cá sông Dinh, tượng Phật nằm trên Tà Cú), rồi quay về chốn bụi bặm phù sinh.


Thiền viện Viên Chiếu


Nhưng còn cố níu kéo, thanh tẩy bợn cặn sần sùi, sân si, … trong người, bèn kéo nhau viếng Thiền viện Viên Chiếu, diện kiến các sư nữ Như Đức, Viên Thể… các bậc chân tu theo đúng nghĩa, ăn trái cây, hưởng lộc Phật và đứng trước cây rơm vừa vi vu đất trời mang mang vừa nhớ lại tuổi ấu thơ chăn bò, gánh rơm, đốt đồng, nướng khoai nhổ trộm… Quá 70, một chút trẻ con may mắn còn sót lại.


Nếu có ai lỡ miệng hỏi, có muốn đi nữa không? Đi. Chỉ trong một sát na trả lời. Đi. Để được ngồi giữa rừng cây vên vên ở Bưng Riềng, đi để được ăn bánh xèo nức tiếng Tân Hải mà không ăn, để được cầm miếng chả lụi quấn vào bánh tráng rau thơm, ăn chè Mộng Cầm, gối đầu lên cát nghe biển thì thào bên tai như người tình hát ru thời trai trẻ…


 


(NgLu)


 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 26, 2020 01:47

Đỗ Hồng Ngọc's Blog

Đỗ Hồng Ngọc
Đỗ Hồng Ngọc isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Đỗ Hồng Ngọc's blog with rss.