Nguyễn Ngọc Tư's Blog, page 8

March 4, 2014

Xứ Cây

Qua sông là tới. Xứ cây.
Tháng Hai, vài thứ cây bên đường vào mùa lẫm liệt. Chôm chôm chín như thắp lửa suốt cành. Gòn đang ra trái, chỉ trái và trái, trụi trơ lá hoa. Mấy cây còng già trăm năm tuổi trước trường dòng vắt nhựa nuôi thêm mùa bông nữa. Và bàng đỏ loang trên từng tầng lá, thanh thản như người già biết trước thời khắc lìa đời, chậm rãi thay áo lụa điều chờ cơn gió nào tới đón đi.
Xứ cây, những ngôi nhà không còn cố chen nhau khoe mặt như ở bên kia sông, giờ tụi mình đang ở thế giới khác, nhà nào cũng ẩn hiện nấp ló giữa vườn. Nhiều ngôi nhà cận lộ quá, cố xoay sở một giàn bông giấy, bụi lài dây, để giấu mình được chút nào hay chút ấy. Sạp che bên đường bán kẹo bánh cho học trò, cũng trồng bụi bông dừa cạn. Hai bên đường không cây thì cũng hoa, biển hiệu mua bán toàn bán mua giống cây ăn trái, hoa kiểng, xơ dừa, phân rơm. Khách lỡ đường ăn chôm chôm, vú sữa, uống nước dừa trừ cơm, nghe nói cứ ăn vầy hoài không da mặt đẹp thì lòng đẹp, chay tịnh mà. Bạn ngồi đuôi xe đùa cũng có khi người xứ cây toàn ăn hoa cỏ, đi suốt từ xế tới giờ không thấy quán thịt cầy, sạp thịt heo nào. Nhìn đâu cũng hoa và cây, những vườn dừa kiêu hãnh khuấy mây.
Cả trong câu chuyện bạn bè xứ này, quanh quanh lại về cây cỏ. Hoa trà ông bứng cho tôi bữa đó, đã trổ bông đợt đầu tiên. Độ rày cây bưởi da xanh bên nhà bà già đổ bịnh, tự dưng quéo ngọn, xót ruột quá. Hai công vườn sắp tới không biết trồng gì thay cho giống mận An Phước, trái bán được giá nhưng phải phun dày thuốc sâu, không tốt cho sức khỏe tụi nhỏ. Đám vú sữa hôm trước em tới đang trổ bông oằn nhánh, giờ thương lái đã vô hái sạch rồi sao, thời gian trời ơi nó là thứ chi mà chớp mắt đã xa.
Rượu của bữa nhậu xứ cây, không ngâm hoa mai thì ngâm ổi, dây mỏ quạ, rau đắng đất. Cũng nấu từ lúa đồng lúa bãi, nhưng trong hơi men ngấm mùi hoa trái. Chút ngọt nào bả lả vương ở họng, làm dịu đằm cái nóng rực của rượu cay. Bạn kể rượu ngâm cao sơn dương, rắn hổ mang bành, tai gấu cũng nhiều, nhưng thường là trong nhà quan với nhà giàu. “Không phải mình nghèo, nhưng rượu đó uống riết sợ tanh lòng. Mắt con bìm bịp đỏ au ngó mình từ trong hủ rượu, mà mình vỗ đùi khen ngon, thì có gì đó không phải lắm”, bạn nói.  Nhắc mới nhớ, họ còn ngâm những con khỉ con, tay chân nguyên lông lá, ngồi thu lu trong hủ, mắt mở trừng rưng rức, như hỏi trời bao lâu nữa mới thành người, để ngất ngư say với thứ rượu ngâm xác con vật khác. Chuyện tới đây cuộc nhậu chuyển sang buồn, không biết tại con khỉ ngâm hay vì cái tin nhắn của bạn phương Bắc vừa đổ vào điện thoại “ê thím, vác ba lô đi chùa Hương nhậu thịt rừng chơi”. Ngay lúc ấy rất muốn khoe mình đang ở xứ cây, ở đây có ông bạn già mấy tháng nay cứ ngẩn ngơ tiếc mớ bưởi ổi trồng ngoài sân bị đốn bỏ cho nhà nước mở đường. Mảnh sân biến mất, phố ngoạm vào gần tới hàng ba, nhưng không nghe tiếc đất, chỉ thương cây vừa ra ba mùa trái. Con người biết cúi xuống thương xót một cái cây, thì chắc là không lòng dạ nào làm chuyện ác, tụi mình nghĩ. Một kiểu nghĩ hơi cảm tính, bằng chứng là cảnh sát ở xứ cây cũng làm hoài không hết chuyện. Nhưng có thứ mát lành để tưới cho hy vọng, cũng hay.
Chuyến về xe nặng quà, lỉnh kỉnh trái này kẹo nọ còn có hai cây chuối kiểng. Đi xứ cây mà không mang cây về, cũng tiếc. Dọc đường hóng chuyện, nghe kể mấy anh làm chương trình Thực hành sản xuất nông nghiệp tốt kêu trời vì ở xứ cây khó kiếm một khu đất không vướng mồ mả bà con chôn rải rác trong vườn. Phong tục tập quán chưa vội bàn, nhưng biết đâu người cũng muốn gửi nắm xương tàn tan vào đất, để nuôi cây.

Lúc qua sông, tụi mình biết chắc vài ba bữa nữa, thể nào bạn xứ cây cũng gọi, để hỏi hai cây chuối sao rồi, sống nổi không. Những cuộc gọi từ giờ không thuần nói chuyện văn chương, nỗi buồn và cái chết, sẽ có thêm cái bông chuối đầu tiên vừa bung cánh đầu tiên.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 04, 2014 20:58

February 3, 2014

Một chương (hay là Chương Một)

Mật ánh sáng

Bà nội nhỏ là đào hát.
Lần đầu tiên gặp nhau trong tiệm nước bên đình, ông nội không cách nào bứt mắt khỏi người lạ. Hai chân rút lên ghế, má tì vào đầu gối, chậm rãi gặm móng tay, da cổ xanh và  nhợt nhạt của một người thiếu ngủ lâu ngày. Tiệm nhỏ, khói thuốc thơm quầng quã không tan, phủ lên điệu bộ lười nhác của bà nội nhỏ ít nhiều ma quái. Đàn bà ở Nhơn Thành chẳng ai có cái dáng vẻ vậy, họ tất tả như đã sẵn từ lúc hãy còn là bào thai mẹ đeo lúc lĩu ra đồng. 
Sau này khi đón bà nội nhỏ về, suốt ngày bà luôn trễ nãi như mèo. Ông nội mua quế về cho bà gặm thay móng tay, mồ hôi mang theo mùi quế làm người bà  lúc nào cũng se cay. Cả xóm hồi đầu trầm trồ làm sao một con đàn bà sống ở cái xứ đồng bãi này lại có thể dậy lúc mặt trời lên quá đọt dừa, ăn nhỏ nhẻ và suốt ngày lừ đừ lử đử. Tuồng như mặt trời làm cho bà phát bệnh, mỗi ngày qua là một cơn mộng du. Nằm võng ngó mưa hay đứng dưới vòm bông giấy không có nghĩa là bà đang thức. Nhóm bếp một lần cũng không, nói chi cơm cấy cơm cày.
Bà nội nhỏ chỉ thật sự thức dậy lúc đêm buông. Ông nội lấy cái đèn măng sông xuống hớn hở châm dầu, bơm cho khí nén chật bung, rồi bùng cháy thành một thứ ánh sáng trắng dạt trôi bóng tối. Ánh sáng này ông nội mua từ cháu cố của hội đồng Quyền với bảy chục giạ lúa cùng một con trâu cày. Ông vẫn tức mình không kịp đổi hai ngọn măng sông còn lại trong mớ gia sản lụn bại theo khói bàn đèn của gã ghiền thuốc phiện kia, trước khi chúng lưu lạc ở một tiệm cầm đồ nào đó ngoài chợ quận. Nỗi tiếc nuối ấy cựa mình khi ông dắt tay bà nội nhỏ đặt chân đến bến sông, cảm thấy hỗ thẹn vì trăng hai mốt không làm cho ngôi nhà và cái xóm Nhơn Thành bớt đi vẻ nghèo nàn tăm tối. Trong một khoảnh khắc nào đó ông nội đã nghĩ nơi này không xứng với người đàn bà mảnh mai đang đi bên cạnh, mặt và lòng tay lạnh dưới trăng. Nhưng bà nội nhỏ vẫn xăm xăm bước, nói mỏi lưng rồi, thèm nằm quá.
Suốt đường về bà không hề hỏi ông đưa bà đi đâu, ông giàu hay nghèo, có bao nhiêu đất. Vợ chồng bầu gánh ôm tiền dong ghe trốn mất ngay khi chưa vãn tuồng. Thời loạn lạc, rã gánh như cơm bữa, nghệ sỹ là bèo trôi đâu tấp đó. Đào kép chửi um lên rồi thấy cũng chỉ mình nghe, quá giang xuồng xã trưởng về ngủ đỡ trong đồn Chẹt, họ phẩy tay “mai tính”. Bà nội nhỏ bị bỏ lại với mấy anh em hậu đài vô danh. Ông nội lại gần người đàn bà mà ba mươi phút trước là con mẹ chủ chứa nhẫn tâm, nói “xuồng tôi đằng kia”. Ông biết tìm bà ở đâu, đơn giản bởi vì chưa bao giờ rời mắt khỏi bà, kể cả lúc bà ngồi vẽ mặt. Cảnh duy nhất trong tuồng Một kiếp phấn hương mà ông nội quan tâm là cảnh bà chủ chứa có cái cười ngọt rợn, đuôi mắt cũng ngọt rợn khi kéo nữ chính vào căn phòng có tên thầu khoán đang chờ.  Xuất hiện chừng mười lăm phút, nhưng bà kịp làm cho cả rạp tan nát theo thân phận của cô gái quê kia. Những tình tiết còn lại của vở tuồng ông nội đã thuộc lòng, rằng con mẹ chủ chứa sẽ không bao giờ xuất hiện nữa. Đẩy cô gái rơi vào vòng tay khách làng chơi, thì việc của bà đã xong. Buổi coi hát của ông nội giờ chỉ còn cảnh bà để nguyên bộ đồ diêm dúa đứng ở hậu đài nhìn đắm đuối ra sân khấu. Bà soi gương mặt mình vào chậu nước tẩy trang rất lâu, tuồng như còn nấn ná trước khi từ giã vai diễn. Hình ảnh đó làm ông xúc động, như lúc chiều nhìn thấy bà liếm láp củ khoai luộc nguội ngơ, sợ nó đau. Cho tới lúc hạ màn, bà hát theo tuồng, đôi khi có những đoạn thoại bà còn đi trước họ. Một thằng nhỏ đứng nép bên màn kêu, “má, lại đây nhắc tuồng giùm luôn, ngồi đó ca chi một mình”. Tuổi chỉ đáng em bà, nhưng thằng nhỏ biết cách xưng hô sao cho những cô đào hết thời biết thân biết phận. Nhìn thấy gã đàn ông lẽo đẽo đi theo mình, nhưng bà không chút biểu hiện nào vì vẫn còn loay hoay ở trong vở tuồng sắp vãn. 
Lúc đó ông nội chưa tin người đàn bà đó chỉ sống thật sự trước đèn, dù chứng kiến thời khắc sân khấu sáng lên và bà trút bỏ vẻ biếng nhác để cái mầm rạo rực bung nở từ bên trong, biến thành một con người tràn đầy sức sống. Tuồng như cọng tóc cũng nhảy múa. Biết bầu gánh trốn, bà nội nhỏ vẫn tỉnh tươi thu dọn phục trang bạn diễn bỏ tứa trong sân, cho đến khi ngọn đèn cuối cùng của sân khấu tắt ngấm nhấn chìm bà trong thứ bóng tối lờ lợ của trăng già.
Bước xuống ghe của người đàn ông xa lạ, bà nội nhỏ quấn tấm vải viết tên đào kép quảng cáo trước rạp để đỡ ngấm sương. Trên đó không có tên bà, dù chỉ là vài ba chữ nhỏ, dù năm bảy năm trước đây cô Tư Phượng của gánh Mai Hoa Trang còn làm mưa làm gió ở những đêm hội kỳ yên miền Hạ. Giờ bà ngồi mũi ghe của ông nội, đầu lút trong tấm vải phai màu, rời rã như cái đèn cầy sắp cạn đến đáy, tắt queo.
Nhưng ông nội biết cách làm bà cháy lên, với mớ ánh sáng bà được uống, đêm đêm. Tỉnh thức, hít thở, sống động. Chuyện cô vợ nhỏ diễn tuồng dưới đèn măng sông mỗi tối làm tiếng tăm ông nội vang xa, hơn cả hồi ông thừa kế sáu mươi ba công ruộng. Hai cái đèn uống dầu kinh khủng, đó là chưa nói lưới măng sông bên trong – thứ quan trọng nhất của cây đèn – cũng rất đắt tiền. Nhưng từ bà nội nhỏ về, nhà không đêm nào không sáng. Dân cốt cựu ở Nhơn Thành vẫn còn nhớ quãng đó cứ chạng vạng là bà già con nít rủ nhau tới nhà ông nội coi đào Tư Phượng hát cải lương. Hồi đầu bà ca diễn một mình, sau có thêm mấy nhỏ trong xóm thay nhau làm tiểu đồng, tì nữ. Như thiêu thân, chạng vạng là cả xóm lao đến nhà ông nội bởi thứ ánh sáng không thể cưỡng lại nổi của những màn ca diễn xốn xang. “Xóm Nhơn Thành mình chưa bao giờ sáng giống như vậy”, một người già lim dim nhớ.  Cái ánh sáng không phải từ đôi đèn, mà còn từ người đàn bà xa lạ, không quá khứ tấp vào xóm nhỏ này, mỗi đêm thắp lại thân phận của những người đàn bà khác. Họ đổ bóng lên nhau, một Lan vùi chôn xác bướm khô với ảo tưởng có thể quên được tình nhân, một Thoại Khanh lận đận tìm chồng, một Thị Kính ngồi trong chùa ru con thiên hạ, một Thị Minh nấu bữa cơm cuối cùng cho chồng và con trai trước khi nhảy xuống sông trầm mình. Tiếng hát của bà cực mảnh và cong, nhưng an lòng người nghe bởi cảm giác nó dai không có gì có thể bứt đứt. “Hai nấm mồ song song/ để xuân hạ thu đông/ dẫu mưa nắng dãi dầu/ cùng hứng chịu chung đôi”, chỉ mấy câu kiểu vậy thôi mà những chéo khăn, vai áo của đàn bà Nhơn Thành đã thấm bao nhiêu nước mắt.
Lúc đó bà nội đang cất lên cái vó ròng ròng nước.
“Cô Tư Phượng đây từ giờ sống với tôi”, câu nói một khuya của ông nội ngay thềm cửa đã đẩy bà nội ra chòi vó cất chới ngoài sông. Từ chối cái ánh sáng mà vợ nhỏ của chồng tự cháy để ban phát cho người Nhơn Thành, bà nội giữ riêng hai ngọn đèn chong đỏ lói quét cái tóc khói đen ngòm. Một treo đầu vó để dẫn dụ cá tôm (đâu phải chỉ con người mới đam mê ánh sáng), đèn kia bà vặn nhỏ lửa, đặt trong chòi. Khói đèn ám đến đường chỉ thêu uyên ương trên gối. Tháng mười gió trở ngọn, đòng đưa tiếng hát của bà nội nhỏ ra sông, bà nội múc nước xối vào lòng nước, át đi thứ âm thanh vọng từ bờ. Tuyệt không lên nhà vào buổi tối, bà nội khiến kẻ có mặt trong những đêm hát phải sống trong cảm giác bứt rứt bởi đã đứng về phía cô đào tỏa nắng dưới đèn. Họ thấy mình đang phản bội người đàn bà hiền hậu đang cất vó dưới sông kia.
Tàu sắt Mỹ cứ vài ba bữa đi tuần ngang qua vó sông, năm ký tép đất bà nội đổi được lít dầu trắng. Bữa nào bắt được con Sầu Ngư trên chục ký bà đòi năm bảy lít. Lần được thưởng hơn hai chục lít bà đã cất cái vó nặng khủng khiếp, gãy cả bốn gọng, nằm co trong lưới là một xác lính Mỹ say rượu té sông. Mớ dầu đó bà mang lên nhà, nuôi sáng hai ngọn đèn măng sông của ông nội. Ngày vô bếp nấu hai buổi cơm canh, thời gian còn lại trong ngày bà nội cắp nón ra ngoài rẫy. Lỡ vô tình đụng mặt bà nội nhỏ ngoài hè, bà nội chỉ gật đầu cười, hỏi “mạnh giỏi, cô ?” như gặp một người xa xứ lâu về. Không tỏ ra hằn học với người đàn bà riêng của chồng, bà nội cũng chẳng khóc. Nhà có nhiều người khóc lắm rồi, bà nội nói, mỗi khi có ai hỏi đận đó bà có tủi thân không. Hơn một lần ông nội ra chòi vó, nước mắt ràn rụa. Chập tối ông say rượu, tự nguyện làm cái chuông kêu leng keng lúc chàng Điệp gọi người yêu đang lánh đời trong chùa. Bà nội nhỏ tức thời ra bộ cắt đứt dây chuông. Ông tiếp tục leng keng, bà nội nhỏ bỏ tuồng, đi vô buồng một nước. Sáu tháng sau khi rời gánh hát, bà nội nhỏ vẫn diễn cho ra diễn, không phút nào trửng giỡn dưới đèn. Nhưng giống như dân Nhơn Thành bắt đầu coi cô đào là một người hàng xóm, ông nội cũng lẫn lộn người vợ mở nút áo mình lúc nửa đêm với những cô nàng bà nội nhỏ hóa thân.
- Trước sau gì cổ cũng bỏ đi thôi.
Ông nội trệu trạo than cùng bà vợ lớn. Ngồi cạnh ông, bà im lặng, lâu lâu rướn người cất lên một vó đầy sao, bà không kể hai lần thấy người ta khóc khi ghe hát ngang qua kêu ô - pạt - lưa dậy động hai bờ “Tối nay đoàn Sóng Giang hát Kiếp nào có yêu nhau, bớ bà con cô bác !”. Cơn mộng du của cô đào hát tưởng không có gì xuyên thấu, kể cả lửa hôm cháy nhà xuồng, nhưng chỉ tiếng rao mà đâm thủng tới tim.
Cái ngày vắng bóng người thương ông nội đã lường trước, nhưng hôm bà nội nhỏ bỏ đi rồi, ông vẫn buồn sát chiếu. Bà nội bưng cái đèn hột vịt đỏ lòm đi vào gian buồng mà gần hai trăm đêm rồi bà không ghé qua, bưng theo chén cháo trắng với ít tép rang. Ông nội vẫn gác tay trên trán, không thèm mở mắt. Bà nội soi muỗi trên vách mùng, kêu “ăn lấy sức chờ, biết đâu người ta quay về”. Rồi bà lẹt quẹt lê dép ra. Bằng cách nào đó, bà nội đã nuôi ngọn đèn nhỏ của riêng mình bền dai bởi chỉ cần đi quá nhanh, hay thở quá mạnh cũng làm chúng tắt phụt giữa chừng.
Một ngày khô ráo giữa mùa mưa năm sau, tàu đò chạy từ Ngã Bảy về gởi cho ông nội một em bé chừng ba tháng tuổi. Gói trong mớ tã là thơ của bà nội nhỏ, ghi rằng bà chưa kịp đặt cái tên tử tế cho nó, lúc sinh ra tới giờ bà gọi nó là chó con. Nhìn đứa trẻ ngo ngoe giữa đống khăn, một ý nghĩ lạnh tanh xuất hiện trong đầu ông nội, “chắc gì là con mình”. Chỉ bà nội ôm đứa nhỏ vào lòng, cho nó bú bầu sữa căng ướt của mình, tin như đinh đóng cột, nói “mặt mũi thằng nhỏ sáng trưng vầy, sao không phải ?”.

Một buổi tối của hai sáu năm sau, bà nội quyết định nói ra trong hai thằng nhỏ đu đưa trên bầu vú mình khi đó, có một đứa không phải con của ông nội.
1 like ·   •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 03, 2014 17:58

Một chương nào đó

Mật ánh sáng

Bà nội nhỏ là đào hát.
Lần đầu tiên gặp nhau trong tiệm nước bên đình, ông nội không cách nào bứt mắt khỏi người lạ. Hai chân rút lên ghế, má tì vào đầu gối, chậm rãi gặm móng tay, da cổ xanh và  nhợt nhạt của một người thiếu ngủ lâu ngày. Tiệm nhỏ, khói thuốc thơm quầng quã không tan, phủ lên điệu bộ lười nhác của bà nội nhỏ ít nhiều ma quái. Đàn bà ở Nhơn Thành chẳng ai có cái dáng vẻ vậy, họ tất tả như đã sẵn từ lúc hãy còn là bào thai mẹ đeo lúc lĩu ra đồng. 
Sau này khi đón bà nội nhỏ về, suốt ngày bà luôn trễ nãi như mèo. Ông nội mua quế về cho bà gặm thay móng tay, mồ hôi mang theo mùi quế làm người bà  lúc nào cũng se cay. Cả xóm hồi đầu trầm trồ làm sao một con đàn bà sống ở cái xứ đồng bãi này lại có thể dậy lúc mặt trời lên quá đọt dừa, ăn nhỏ nhẻ và suốt ngày lừ đừ lử đử. Tuồng như mặt trời làm cho bà phát bệnh, mỗi ngày qua là một cơn mộng du. Nằm võng ngó mưa hay đứng dưới vòm bông giấy không có nghĩa là bà đang thức. Nhóm bếp một lần cũng không, nói chi cơm cấy cơm cày.
Bà nội nhỏ chỉ thật sự thức dậy lúc đêm buông. Ông nội lấy cái đèn măng sông xuống hớn hở châm dầu, bơm cho khí nén chật bung, rồi bùng cháy thành một thứ ánh sáng trắng dạt trôi bóng tối. Ánh sáng này ông nội mua từ cháu cố của hội đồng Quyền với bảy chục giạ lúa cùng một con trâu cày. Ông vẫn tức mình không kịp đổi hai ngọn măng sông còn lại trong mớ gia sản lụn bại theo khói bàn đèn của gã ghiền thuốc phiện kia, trước khi chúng lưu lạc ở một tiệm cầm đồ nào đó ngoài chợ quận. Nỗi tiếc nuối ấy cựa mình khi ông dắt tay bà nội nhỏ đặt chân đến bến sông, cảm thấy hỗ thẹn vì trăng hai mốt không làm cho ngôi nhà và cái xóm Nhơn Thành bớt đi vẻ nghèo nàn tăm tối. Trong một khoảnh khắc nào đó ông nội đã nghĩ nơi này không xứng với người đàn bà mảnh mai đang đi bên cạnh, mặt và lòng tay lạnh dưới trăng. Nhưng bà nội nhỏ vẫn xăm xăm bước, nói mỏi lưng rồi, thèm nằm quá.
Suốt đường về bà không hề hỏi ông đưa bà đi đâu, ông giàu hay nghèo, có bao nhiêu đất. Vợ chồng bầu gánh ôm tiền dong ghe trốn mất ngay khi chưa vãn tuồng. Thời loạn lạc, rã gánh như cơm bữa, nghệ sỹ là bèo trôi đâu tấp đó. Đào kép chửi um lên rồi thấy cũng chỉ mình nghe, quá giang xuồng xã trưởng về ngủ đỡ trong đồn Chẹt, họ phẩy tay “mai tính”. Bà nội nhỏ bị bỏ lại với mấy anh em hậu đài vô danh. Ông nội lại gần người đàn bà mà ba mươi phút trước là con mẹ chủ chứa nhẫn tâm, nói “xuồng tôi đằng kia”. Ông biết tìm bà ở đâu, đơn giản bởi vì chưa bao giờ rời mắt khỏi bà, kể cả lúc bà ngồi vẽ mặt. Cảnh duy nhất trong tuồng Một kiếp phấn hương mà ông nội quan tâm là cảnh bà chủ chứa có cái cười ngọt rợn, đuôi mắt cũng ngọt rợn khi kéo nữ chính vào căn phòng có tên thầu khoán đang chờ.  Xuất hiện chừng mười lăm phút, nhưng bà kịp làm cho cả rạp tan nát theo thân phận của cô gái quê kia. Những tình tiết còn lại của vở tuồng ông nội đã thuộc lòng, rằng con mẹ chủ chứa sẽ không bao giờ xuất hiện nữa. Đẩy cô gái rơi vào vòng tay khách làng chơi, thì việc của bà đã xong. Buổi coi hát của ông nội giờ chỉ còn cảnh bà để nguyên bộ đồ diêm dúa đứng ở hậu đài nhìn đắm đuối ra sân khấu. Bà soi gương mặt mình vào chậu nước tẩy trang rất lâu, tuồng như còn nấn ná trước khi từ giã vai diễn. Hình ảnh đó làm ông xúc động, như lúc chiều nhìn thấy bà liếm láp củ khoai luộc nguội ngơ, sợ nó đau. Cho tới lúc hạ màn, bà hát theo tuồng, đôi khi có những đoạn thoại bà còn đi trước họ. Một thằng nhỏ đứng nép bên màn kêu, “má, lại đây nhắc tuồng giùm luôn, ngồi đó ca chi một mình”. Tuổi chỉ đáng em bà, nhưng thằng nhỏ biết cách xưng hô sao cho những cô đào hết thời biết thân biết phận. Nhìn thấy gã đàn ông lẽo đẽo đi theo mình, nhưng bà không chút biểu hiện nào vì vẫn còn loay hoay ở trong vở tuồng sắp vãn. 
Lúc đó ông nội chưa tin người đàn bà đó chỉ sống thật sự trước đèn, dù chứng kiến thời khắc sân khấu sáng lên và bà trút bỏ vẻ biếng nhác để cái mầm rạo rực bung nở từ bên trong, biến thành một con người tràn đầy sức sống. Tuồng như cọng tóc cũng nhảy múa. Biết bầu gánh trốn, bà nội nhỏ vẫn tỉnh tươi thu dọn phục trang bạn diễn bỏ tứa trong sân, cho đến khi ngọn đèn cuối cùng của sân khấu tắt ngấm nhấn chìm bà trong thứ bóng tối lờ lợ của trăng già.
Bước xuống ghe của người đàn ông xa lạ, bà nội nhỏ quấn tấm vải viết tên đào kép quảng cáo trước rạp để đỡ ngấm sương. Trên đó không có tên bà, dù chỉ là vài ba chữ nhỏ, dù năm bảy năm trước đây cô Tư Phượng của gánh Mai Hoa Trang còn làm mưa làm gió ở những đêm hội kỳ yên miền Hạ. Giờ bà ngồi mũi ghe của ông nội, đầu lút trong tấm vải phai màu, rời rã như cái đèn cầy sắp cạn đến đáy, tắt queo.
Nhưng ông nội biết cách làm bà cháy lên, với mớ ánh sáng bà được uống, đêm đêm. Tỉnh thức, hít thở, sống động. Chuyện cô vợ nhỏ diễn tuồng dưới đèn măng sông mỗi tối làm tiếng tăm ông nội vang xa, hơn cả hồi ông thừa kế sáu mươi ba công ruộng. Hai cái đèn uống dầu kinh khủng, đó là chưa nói lưới măng sông bên trong – thứ quan trọng nhất của cây đèn – cũng rất đắt tiền. Nhưng từ bà nội nhỏ về, nhà không đêm nào không sáng. Dân cốt cựu ở Nhơn Thành vẫn còn nhớ quãng đó cứ chạng vạng là bà già con nít rủ nhau tới nhà ông nội coi đào Tư Phượng hát cải lương. Hồi đầu bà ca diễn một mình, sau có thêm mấy nhỏ trong xóm thay nhau làm tiểu đồng, tì nữ. Như thiêu thân, chạng vạng là cả xóm lao đến nhà ông nội bởi thứ ánh sáng không thể cưỡng lại nổi của những màn ca diễn xốn xang. “Xóm Nhơn Thành mình chưa bao giờ sáng giống như vậy”, một người già lim dim nhớ.  Cái ánh sáng không phải từ đôi đèn, mà còn từ người đàn bà xa lạ, không quá khứ tấp vào xóm nhỏ này, mỗi đêm thắp lại thân phận của những người đàn bà khác. Họ đổ bóng lên nhau, một Lan vùi chôn xác bướm khô với ảo tưởng có thể quên được tình nhân, một Thoại Khanh lận đận tìm chồng, một Thị Kính ngồi trong chùa ru con thiên hạ, một Thị Minh nấu bữa cơm cuối cùng cho chồng và con trai trước khi nhảy xuống sông trầm mình. Tiếng hát của bà cực mảnh và cong, nhưng an lòng người nghe bởi cảm giác nó dai không có gì có thể bứt đứt. “Hai nấm mồ song song/ để xuân hạ thu đông/ dẫu mưa nắng dãi dầu/ cùng hứng chịu chung đôi”, chỉ mấy câu kiểu vậy thôi mà những chéo khăn, vai áo của đàn bà Nhơn Thành đã thấm bao nhiêu nước mắt.
Lúc đó bà nội đang cất lên cái vó ròng ròng nước.
“Cô Tư Phượng đây từ giờ sống với tôi”, câu nói một khuya của ông nội ngay thềm cửa đã đẩy bà nội ra chòi vó cất chới ngoài sông. Từ chối cái ánh sáng mà vợ nhỏ của chồng tự cháy để ban phát cho người Nhơn Thành, bà nội giữ riêng hai ngọn đèn chong đỏ lói quét cái tóc khói đen ngòm. Một treo đầu vó để dẫn dụ cá tôm (đâu phải chỉ con người mới đam mê ánh sáng), đèn kia bà vặn nhỏ lửa, đặt trong chòi. Khói đèn ám đến đường chỉ thêu uyên ương trên gối. Tháng mười gió trở ngọn, đòng đưa tiếng hát của bà nội nhỏ ra sông, bà nội múc nước xối vào lòng nước, át đi thứ âm thanh vọng từ bờ. Tuyệt không lên nhà vào buổi tối, bà nội khiến kẻ có mặt trong những đêm hát phải sống trong cảm giác bứt rứt bởi đã đứng về phía cô đào tỏa nắng dưới đèn. Họ thấy mình đang phản bội người đàn bà hiền hậu đang cất vó dưới sông kia.
Tàu sắt Mỹ cứ vài ba bữa đi tuần ngang qua vó sông, năm ký tép đất bà nội đổi được lít dầu trắng. Bữa nào bắt được con Sầu Ngư trên chục ký bà đòi năm bảy lít. Lần được thưởng hơn hai chục lít bà đã cất cái vó nặng khủng khiếp, gãy cả bốn gọng, nằm co trong lưới là một xác lính Mỹ say rượu té sông. Mớ dầu đó bà mang lên nhà, nuôi sáng hai ngọn đèn măng sông của ông nội. Ngày vô bếp nấu hai buổi cơm canh, thời gian còn lại trong ngày bà nội cắp nón ra ngoài rẫy. Lỡ vô tình đụng mặt bà nội nhỏ ngoài hè, bà nội chỉ gật đầu cười, hỏi “mạnh giỏi, cô ?” như gặp một người xa xứ lâu về. Không tỏ ra hằn học với người đàn bà riêng của chồng, bà nội cũng chẳng khóc. Nhà có nhiều người khóc lắm rồi, bà nội nói, mỗi khi có ai hỏi đận đó bà có tủi thân không. Hơn một lần ông nội ra chòi vó, nước mắt ràn rụa. Chập tối ông say rượu, tự nguyện làm cái chuông kêu leng keng lúc chàng Điệp gọi người yêu đang lánh đời trong chùa. Bà nội nhỏ tức thời ra bộ cắt đứt dây chuông. Ông tiếp tục leng keng, bà nội nhỏ bỏ tuồng, đi vô buồng một nước. Sáu tháng sau khi rời gánh hát, bà nội nhỏ vẫn diễn cho ra diễn, không phút nào trửng giỡn dưới đèn. Nhưng giống như dân Nhơn Thành bắt đầu coi cô đào là một người hàng xóm, ông nội cũng lẫn lộn người vợ mở nút áo mình lúc nửa đêm với những cô nàng bà nội nhỏ hóa thân.
- Trước sau gì cổ cũng bỏ đi thôi.
Ông nội trệu trạo than cùng bà vợ lớn. Ngồi cạnh ông, bà im lặng, lâu lâu rướn người cất lên một vó đầy sao, bà không kể hai lần thấy người ta khóc khi ghe hát ngang qua kêu ô - pạt - lưa dậy động hai bờ “Tối nay đoàn Sóng Giang hát Kiếp nào có yêu nhau, bớ bà con cô bác !”. Cơn mộng du của cô đào hát tưởng không có gì xuyên thấu, kể cả lửa hôm cháy nhà xuồng, nhưng chỉ tiếng rao mà đâm thủng tới tim.
Cái ngày vắng bóng người thương ông nội đã lường trước, nhưng hôm bà nội nhỏ bỏ đi rồi, ông vẫn buồn sát chiếu. Bà nội bưng cái đèn hột vịt đỏ lòm đi vào gian buồng mà gần hai trăm đêm rồi bà không ghé qua, bưng theo chén cháo trắng với ít tép rang. Ông nội vẫn gác tay trên trán, không thèm mở mắt. Bà nội soi muỗi trên vách mùng, kêu “ăn lấy sức chờ, biết đâu người ta quay về”. Rồi bà lẹt quẹt lê dép ra. Bằng cách nào đó, bà nội đã nuôi ngọn đèn nhỏ của riêng mình bền dai bởi chỉ cần đi quá nhanh, hay thở quá mạnh cũng làm chúng tắt phụt giữa chừng.
Một ngày khô ráo giữa mùa mưa năm sau, tàu đò chạy từ Ngã Bảy về gởi cho ông nội một em bé chừng ba tháng tuổi. Gói trong mớ tã là thơ của bà nội nhỏ, ghi rằng bà chưa kịp đặt cái tên tử tế cho nó, lúc sinh ra tới giờ bà gọi nó là chó con. Nhìn đứa trẻ ngo ngoe giữa đống khăn, một ý nghĩ lạnh tanh xuất hiện trong đầu ông nội, “chắc gì là con mình”. Chỉ bà nội ôm đứa nhỏ vào lòng, cho nó bú bầu sữa căng ướt của mình, tin như đinh đóng cột, nói “mặt mũi thằng nhỏ sáng trưng vầy, sao không phải ?”.

Một buổi tối của hai sáu năm sau, bà nội quyết định nói ra trong hai thằng nhỏ đu đưa trên bầu vú mình khi đó, có một đứa không phải con của ông nội.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 03, 2014 17:58

January 13, 2014

Lưu lạc

Đứa nhỏ về tới nhà lúc giữa trưa. Mặt trời đậu đỉnh trời tráng một làn lửa mỏng lên mớ tóc nhuộm vàng cháy ngọn, nhìn nhức nhối. Gần như không bóng, đứa nhỏ bước qua cái ngạch cửa mà hai mươi tám năm trước nó phóng ra, băng ngang những thanh ray, và tan đi chẳng để lại chút bọt sau khi đoàn tàu mười bốn toa dằng dặc ngang nhà.Không có cái ôm nào, cũng không nước mắt, đứa nhỏ bốn mươi tuổi dòm lom lom gương mặt người cha đỏ lựng vì cơn huyết áp tăng, hỏi “ông là cha tui sao ?”, rồi nhanh nhảu trả lời chính mình bằng một tiếng gọi.- Cha !Tiếng cha gọn lỏn chấm hết cuộc đợi chờ, tìm kiếm. Mắt đảo quanh nhà, đứa nhỏ gần như không suy nghĩ, ngay lập tức chấp nhận ông già bệu bạo lạm dụng thuốc đau khớp, huyết áp lên xuống thất thường này là kẻ hung hăng xách chổi bông cỏ rượt đánh nó vào một hôm xưa. Nhưng những người trong nhà không tìm thấy mối liên kết quen thuộc nào giữa đứa nhỏ thất lạc và con đàn bà dày khự tóc vàng móng tay đen, mỡ bụng phụng phịu sau làn áo tía.Mỗi khi tình cờ nhớ lại ngày đứa nhỏ trở về, cả nhà nghĩ ngay tới cái cầu vồng chang chói giữa không gian nhu nhã từ cái màu rèm cửa cho đến bộ ấm trà, từ tiếng nói tiếng cười cho đến vòi nước chảy. Bắt đầu từ lúc những đoàn tàu không còn chạy ngang qua, đường ray được nắn sang hướng khác, cư dân ở đây trôi trong khoan hòa. Hết sức ý tứ, chị Ba nhắc đến mấy dấu vết trời sinh, và cái sẹo ở mắt cá chân, “cái mụt ruồi trên khóe tai em đó, mỗi lần nhớ nó chị muốn chảy nước mắt”. Đứa nhỏ vạch cổ áo chìa ra, tay kia vịn sẵn cúc quần, nói luôn, giọng không chút hờn, “còn cái nữa trên bẹn, coi hong ?”. Anh Hai sặc nước bước ra đằng trước, ông già lên máu thêm lần nữa.Người có thể nhận dạng dấu vết thầm kín ấy giờ ngồi trên bàn thờ, mặt đượm buồn cho giống một tấm hình của người đã qua đời. Chuyên chăm sóc cho đám con la lủ, bà mẹ hẳn thuộc lòng từng nốt ruồi trên người từng đứa. Ông già ngoài chuyện đánh mấy nhỏ cho ra vẻ ta là cha, phần lớn thời gian ông gò lưng sửa đồng hồ, sao cho thời gian không được trì đọng. Lấy lại từng phần trăm giây cho khách hàng, ông thợ đồng hồ có tiếng nghiêm cẩn trong vùng. Mâm cơm sau mấy chục năm hâm nóng lại, ngó đứa con út ngấu lấy cái phao câu vịt tươm mỡ, ông già bỗng nghĩ trên những con đường nó đi qua, thời giờ ở đó nhanh phải gấp đôi thứ thời gian mà ông đang hít thở. Đứa con trước mặt ông biến dạng đến mức nằm ngoài nỗi nhớ, và trong sự ngờ. Con Diệu đây, nhưng không phải. Hoặc là phải, nhưng có gì đó không đúng lắm. Rốt cuộc là phải hay không, ông già dứt khoát trả lời câu đó bằng cách nhặt những sợi tóc vàng chanh của đứa nhỏ giắt đầy trên lược, sai một đứa tin cậy đi làm cái xét nghiệm huyết thống. Ông dặn “đừng để em bây biết”, sợ đứa nhỏ bị tổn thương, mặc dù không có dấu hiệu nào cho thấy nó dễ tổn thương, kể cả khi khoét đi chút thịt.Hai ngày gặp lại cha, nó săm soi mọi thứ trong nhà, không phải bằng mắt, mà còn ngọ nguậy đôi tay. Thằng cháu nội của anh Hai vừa đầy tháng, đứa nhỏ gặp lần nào cũng tóm lấy da thịt trẻ con, chùm da bọc bi giữa hai đùi mà dục dặc. Người ta nhắc những kỷ niệm hồi nhỏ, nó nói có vụ đó sao, nhớ chi cho mệt. Phủi nhanh đến nỗi kẻ hâm nóng ký ức hơi bẽ bàng. Họ đắng lên lưỡi bụi lên mắt khi thấy nó dễ dàng thừa nhận anh Hai hói nửa đầu, chị Ba đã làm bà ngoại, chị Tư lấy chồng sau - một anh người Lào. Cả khi được đưa đi thăm anh Năm tu trong chùa, nó thản nhiên đòi vô phòng anh nằm chơi cho biết. Cả nhà cảm thấy bị phản bội bởi ý nghĩ, từng ấy ngày xa nhà, nó không nuôi dưỡng nỗi nhớ nào, nên giờ dửng dưng trước đổi thay. Căn phòng kê dọc mấy cái giường như trại lính đã biến mất, những thanh ray nằm sâu dưới ba lớp nhựa đường, mớ vật dụng của đứa nhỏ mà bà mẹ còn giữ lại một bữa thành tro theo đám cháy. Đôi khi đứa nhỏ bâng khuâng, chỉ vì cái còi mụn trên cánh mũi chưa chịu khuất phục. Nó vẫn chang chói đi qua những ngày tiệc tùng. Người quen với gia đình lớp điện thoại lớp tới tận nhà để mừng giọt máu chảy ngược về, ai cũng chung nỗi sợ yêu lầm, “có chắc là con Diệu không đó ?”. Một lần chị Tư đã nghĩ đó chính là đứa em thơ dại của mình, khi nó kêu oai oái một tay nút vào cánh mũi, mặt ngước lên trời, tay kia quờ quạng dò dường đi. Xưa nó hay chảy máu cam chẳng vì lý do gì. Nhưng nó chỉ đi cùng chiều thời gian với chị một khoảnh khắc thôi, vì ngay lập tức nó đã chụp được cây kéo làm bếp, cắt phăng chòm lông mũi. Nhìn điệu bộ hí hửng của nó khi giải tán những sợi phiền, như khi mua được ly đá bào vừa đi vừa húp, chị nghĩ hai mươi mấy năm qua đứa em gái đã đi quá xa. Trong lúc mọi người phân trần chuyện họ không giữ được hiện trạng cái nhà kiêm tiệm sửa đồng hồ bên đường tàu để chờ đợi nó quay lại, chuyện bà mẹ qua đời chôn cất gấp nên chỉ cáo phó trên truyền hình có một đêm, chuyện mấy chục năm qua đi đâu họ cũng dáo dác tìm thì đứa nhỏ chỉ giải thích lý do tìm về cực kỳ đơn giản. Đi ngang thấy nhớ hình như hồi nhỏ có ở đây. Mô tả lại những ngày tháng lưu lạc của mình gói trong một câu năm chữ “thì tấp đâu sống đó”. Hỏi ăn sao, nó nói bậy bạ vậy. Hỏi ngủ sao, nó cười thì nhắm mắt là ngủ thôi. Cả nhà hơi tuyệt vọng như thể cố vớt cái quãng hai mươi hai năm nhưng chúng chảy qua kẻ tay ráo hoảnh. An ủi là nó không nói dối, cái cách nó ăn xong nằm lăn ra ngáy đã chứng minh.  Ngày thứ ba thì bản sao của đứa nhỏ đứng réo má trước cỗng. Nhìn từ sau lưng thì hai má con nó giống hệt, chỉ khác là con có thêm lọn tóc xanh két thả xuống giữa đỉnh đầu. Đứa nhỏ nắm tay con lại trước ông già, nói “ngoại mầy đó”. Nếu nó nói “cục kẹo của mầy đó”, ngữ điệu cũng không khác nhau. Má con chỉ cách nhau mười sáu tuổi. Đứa nhỏ kể hồi có bầu, cứ leo cây me nhảy xuống đất cho máu huyết tuôn ra, mà cái thai lì quá. Lịch sử của cái tên con Lì, hóa ra đơn giản vậy.Buổi xế hai má con nó ngồi mằn tóc nhau, người ta đếm có tới tám cái chân mày rục rịch. Hai vòng nguyệt phía trên bằng dấu mực xăm xanh rờn, bên dưới những chân lông mọc tự nhiên thành vệt nhạt hơn. Con Lì hoan lạc cắn trứng tóc, nói chuyện về một gã đàn ông nào đó, “nó kêu má về, thề không xỉn nữa”. “Đừng có tin. Nó có lần thề nhậu là rắn hổ mổ cái bọc. Thề khôn. Rắn mổ cái bọc ni lông chớ đâu có mổ nó”, đứa nhỏ nói, không quên đệm mấy tiếng chửi thề lem nước miếng. Ông già giả bộ chống gậy đi qua, nghe lóm, không biết “nó” là người tình của má hay con. Sau lưng một đứa trầm trồ “Ổng già thấy ghê hong. Da cóc hết rồi kìa. Cỡ này hay chết bất tử”.Má con đứa nhỏ biến mất sau đêm đó. Ông già dậy sớm, thấy cửa khép từ bên ngoài, liền gõ cửa phòng thằng lớn. Anh Hai thức dậy chạy quanh coi có mất gì không và gọi cho mấy cô em gái ở riêng. Ngay lập tức họ hỏi có mất gì không, sau đó mới lấy xe để tới chứng thực là không mất gì. Sà ngồi với nhau trên bộ trường kỷ còn phảng phất mùi mồ hôi dầu của đứa nhỏ, họ dần nhận ra mất một kẻ từng ngồi đây lim dim thổi những cái bong bóng kẹo cao su vỡ trên môi.Giấy xét nghiệm kết quả giám định huyết thống gởi lại ông già khẳng định chín chín phần trăm đó là con Diệu. Lúc đó đứa nhỏ đã về tới mái nhà che tạm trên lối lên xuống bến đò ngang. Nó thả người nằm thẳng cẳng giang tay lên tấm ván kê chỗ thu tiền đò, kêu về tới đây thiệt là khỏe quá. Giữ nguyên cái điệu bộ no nê đó, nó ngủ queo. Đò đi ra giữa sông, gã chèo đã cởi cái áo khoác dài tay ra, nhờ bà khách già đi ngang đắp giùm lên bụng con đàn bà gã yêu. Đường về hai má con sinh cãi vã, con Lì đã nhảy xuống một trạm xăng xa lạ, không thèm vẫy tay.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 13, 2014 02:51

January 7, 2014

Nhổ quán


Truyện ngắn 
Mười tới lúc gần sáng, như thể đã thức cả đêm chờ. Chị kêu phiền vì tôi đã để chị nắn gối lúc cọ nồi, tối qua. “Nói Mười già cũng chịu, nhưng sức yếu thì sao nhổ quán theo Cao Bồi”. Tôi nghĩ mình thuận theo tự nhiên thôi, đi mãi cũng phải dừng, mòn mỏi. Chuyện Mười với Cao Bồi cũng nên tới hồi kết.
Một mùa gió nào đó tôi để họ ở Bảy Căn. Quán cơm của Mười chỉ có hai gốc cột cặm còng queo đằng trước, mái nhà đổ dốc gác hờ lên cái vách ta luy của cây cầu bắc qua sông. Cái rèm cửa phía tây ngậm một bụng gió, phập phồng như đang đợi. Ba tháng ở đó đúng mùa nước rong. Cứ sáng ra sông Cái Lớn dâng tràn nền thị trấn. Những đám rước dâu xắn quần bì bõm. Bỏ chân ra khỏi giày, ăn chưa xong bữa cơm giày đã trôi cùng đám cá lìm kìm.
Mùa mưa cù lao Mỹ Khánh, người đàn ông của Mười u uất vì thiếu mặt trời. Ghé quán Mười bên hông chợ, Cao Bồi khẩy khẩy mấy hột cơm rồi ngó mưa thở hắt. Cái mũi cao đổ bóng lên một bên mắt tối thẫm, bên còn lại không tia nào không cô quạnh. Cao Bồi than trông nắng để phơi cái phổi đầy hơi nước mà không thấy đâu. Mười cười, “chỉ cần ới một tiếng, mình chạy lại hà hơi là phổi khô ngay”. “Đàn bà gì mà trơ trẽn”, Cao Bồi chì chiết xong, phủi đít ra về.
Cuối năm họ ở Đồng Rừng. Thị trấn cao nguyên bụi đất đỏ như máu. Mưa qua, nhìn nước chảy ròng rã bên lề đường, Mười hình dung nước ấy rất tanh. Quán thuê rẻ, vì chủ nhà thấy coi bộ ế ẩm. Không thưa vắng sao được khi Mười bất cần khách, nhất là họ tới trùng với buổi cơm của Cao Bồi. Tối chong cái đèn dây tóc đỏ lừ chờ ông tới, vài người khách lỡ đường tưởng Mười chờ họ. Một phút sau đó khi đặt chân vào quán, ngó thái độ bực bội của bà chủ quán thì những mơ tưởng tiêu tan. Uể oải lết dép đi, Mười ngán ngẩm nói, chỉ còn cơm cháy thôi. Thậm chí chị còn không kéo ghế cho khách ngồi.
Miễn no bụng là được, cơm nấu lò củi thì cháy hết sảy, hồi nhỏ ăn cháy rưới nước mắm cũng ngon. Những người khách đói meo giả lả, nhưng ấm ức với cái tình cảnh quán thấy khách không chút xúc động. Hớt mớ cơm trắng xốp phía trên qua một bên, Mười vừa cạo cháy vừa trở trứng chiên trên bếp. Đám thực khách không được đón chào bẽ bàng nhận ra nồi canh khổ qua còn bốc khói với mấy con cá trê nướng vàng dầm nước mắm gừng đang bày ở kia không dành cho họ. Cái bàn ăn lịch sự duy nhất trong quán cũng không, chỗ ăn của họ là bên bàn máy may cạnh bếp. Và khi Cao Bồi thõng tay lững thững bước vô, ngồi chễm chệ ở cái bàn nhiều gió và ánh sáng nhất, họ nhận ra ngọn đèn ngoài kia cũng không phải đỏ tóc chờ mình. Những gì ấm áp, thơm tho nhất trong quán thuộc về người đàn ông ấy. Ý thức được điều này rõ như hai cộng hai, Cao Bồi không thèm nhìn họ, cũng chẳng ngó Mười đang cười toe, chỉ lơ đãng ngó những ngón tay mình xòe ra đổ bóng dưới ánh đèn. Đôi bàn tay thuôn muốt như chưa từng chịu dầm trong nước, chưa từng chịu một vết xước nào, chưa từng mang vác nặng.
- Cả chợ chỉ có mấy trái khổ qua chưa mở mắt. Hơi đắng.
Mười vừa dọn cơm vừa day dứt cái vị đắng không phải do mình. Lượn lách trong cái quán lá chật chội, người đàn bà như dòng nước réo rắt chảy tuôn. Dáng không cao, ngày càng đẫy đà, nhưng cơ thể sinh động đến nỗi những sợi tóc bạc trên đường rẽ ngôi, những đốm đồi mồi trổ trên hai má cũng phát sáng.
Mười bảo tôi đừng để chị tự sáng. Lung linh kia được phản chiếu từ ánh sáng của Cao Bồi. Người mà khi vừa xuất hiện, Mười cũng lập tức không còn là bà già trễ nãi. Bắc cái ghế cách mâm cơm chừng một thước, ngồi tém tẻ nhìn Cao Bồi ăn, hết bữa này sang bữa khác, Mười láp giáp ba điều bốn chuyện như thể cho bốn vách vui. Gần sáng mơ cũng sợ, thấy răng rụng từng cái một, trống trơ. Mớ gừng mật ong tối qua đưa cho có chịu ngậm không đó, trời trở gió lại ho thì khổ. Không tự lo được cái thân mà người ta lo lại không thèm.
Cao Bồi lặng lẽ lùa cơm, khói bả lả trên mặt. Bộ điệu bình thản, dửng dưng với cuộc đời chảy xiết đó, tuồng như bão có đi ngang đây cũng tránh chỗ ông, nếu nó không làm vậy thì Mười sẽ bẽ cong cho nó tránh. Bóng tối ngân ngấn ngoài thềm thấp, quán chỉ có tiếng Cao Bồi đằng hắng và một bài hát nửa chừng vẳng đưa sang.
Tôi cố ý viết cảnh này lặp đi lặp lại, trong những cái quán Mười từng lưu lại để bán cơm, kể từ khi Cao Bồi lánh khỏi gia đình, bắt đầu sống - một - mình trong cái xưởng vẽ. Nhưng không một lần nào nghe Mười kêu chán.
Ngay khi tôi chưa kịp đặt tên, chị đã lót tót đi theo tình. Xuống máy bay, chị bước thẳng vào cái quán đầu tiên mà tôi dựng sẵn. Quán cơm tử tế nhất, xoong nồi tươm tất, bàn ăn trải khăn, chỉ cách xưởng vẽ Cao Bồi một vài căn, để ông khỏi sang đường giữa dòng người xe xéo xắt. 
Nhưng cuộc sống tự do mà Cao Bồi tách bầy gầy dựng chỉ được nửa chừng. Mấy đứa con không buông được. Giận chồng, con gái xách gói qua ở ké. Cuối tuần cả bọn kéo tới nấu nướng tiệc tùng, chưa kể điện thoại nheo nhéo suốt ngày ba ăn gì chưa, bỏ quần áo vô máy giặt thì nhấn nút màu xanh, trời sắp mưa coi chừng cửa sổ mở tạt ướt giường.
Một tối Cao Bồi nói mai dời đi cồn Thúc Thắc, ở đó chắc được một mình. Mười kêu trời đất ơi, sao rinh cái quán đi được đây. Ông khủng khỉnh bảo “ai cần theo đâu”. Cái kiểu đàn ông này không bao giờ nói cần ai đó, nhưng vô tình để cho Mười bắt gặp những hộp cơm còng quéo, mớ mì tôm rơi vãi khi ông gặm chúng mà không thèm nấu, hay mớ quần áo dồn đống đầu giường đợi đem phơi mưa cho sạch. Và khi nhìn thấy cái nồi cháy, Mười nghe từ khét đen tiếng kêu thất thanh của người đàn ông không thể sống một mình.
Mười nhổ quán. “Nhiều khi nhẩm đếm chục lần đổi chỗ, thấy thiệt là ly kỳ”, chị thầm thì với tôi những khi gần sáng. Mười chỉ kêu phiền khi một vài chữ nào đó, tôi bóng gió rằng chị mỏi mòn. Đâu có.
Nhổ quán này cặm chỗ khác hóa ra cũng đơn giản, chỉ là trả nhà và tìm một cái nhà khác để dọn vô. Hành lý mang theo vừa đầy túi xách. Một bộ đồ ăn bằng sứ trắng. Mấy bộ quần áo. Mùng mền gói giấc ngủ cho ngon. Nồi niêu gọn đeo, vừa đủ nấu cho hai người. Không còn ai đủ sức biến nơi chốn Cao Bồi ở thành chỗ nghĩ dưỡng cuối tuần.
Thằng con Cao Bồi đôi khi nhớ ông già xa nhà, nhằm lúc ông tắt điện thoại từ bỏ thế giới. Cuộc gọi sang chỗ Mười, thằng con chỉ muốn biết đang ở đâu, ông già vẫn khỏe. Những cuộc gọi ngượng ngập. Nó không biết xưng hô sao với người đàn bà bán cơm cho ông già, kể từ khi ông tách bầy. Nửa đêm về, nó hỏi vợ hay gì chưa, ông già đang ở miệt Thứ, chỗ đó quơ tay được nắm muỗi. Vợ nó khoanh một chấm nhỏ trên bản đồ đã rằn ri vết mực, tự hỏi cái máu mê trôi nổi có di truyền không, và bao lâu nữa chồng mình lại lên đường, ai trong số những người tình của chồng sẽ đi theo bán quán.
Câu hỏi của cô con dâu cũng làm tôi đau đầu. Những câu chuyện như vầy viết chừng nào mới hết. Những người đàn bà không thèm tự sáng, coi người họ yêu là bầu trời, không khí. Ngay cả cái truyện này, Mười cũng cự nự khi thấy dấu hiệu tôi muốn dừng.
Cả những lúc không biết sắp tới đi đâu. Chỉ thấy nơi chốn hiện tại đã đủ lâu, nhen nhóm chút cảm tình với chỗ trọ thuê theo tháng. Người thị trấn quen mặt một gã trung niên tới bữa thọc tay vô túi quần lững thững đi ăn cơm quán, thuộc nết bà chủ quán chỉ chăm chút cho mỗi một khách quen. Đầu đường cuối chợ ai cũng nghi hai người là bồ bịch, dù họ thuê riêng hai nhà, ăn cơm trả tiền sòng phẳng.
Buồn chán, Cao Bồi gắt gỏng, đụng gì cũng chê. Mồng tơi nhớt, rau dền nhám, măng ăn đau mình, cá tanh. Hông Mười dày mỡ đã lâu, giờ ông lấy gang tay ướm đo, lắc đầu ra vẻ coi khinh lắm. “Thất thường chất chồng theo tuổi, ai chịu nổi ?”, Mười cười trong lúc cố nhớ tên một cái chợ ngã ba sông mình đã từng qua lúc theo ngoại trên chiếc ghe thương hồ. Những tháng chín như vầy bông tràm nhuộm vàng mặt sông, trôi trên bóng những bông lau sắp chín. Cá Chay bơi ngửa bụng, theo ăn bông ken chật mặt nước, đến nỗi có lúc ghe không chèo qua được. Vãi một chài không kéo lên nổi. Thả một đứa trẻ xuống nước, bầy cá đưa nó qua sông mà không chìm. Người ta vớt cá làm mắm, lúc giở mắm chỉ đượm mùi bông. Ở đó có cây Sầu Chung năm trăm năm tuổi, nắng cong lại mưa thở dài, lúc bị khoét phần gốc để làm đường cây khóc bảy ngày bảy đêm.
Coi bộ đã đủ ly kỳ, thứ mà Cao Bồi ưa, Mười gợi ý “mai trả nhà, đi tới đó cho biết”. Bụng tiếc gì đâu. Phải ông nói câu ấy Mười sẽ giả bộ giãy, “trời, lại nữa rồi, lần nào cũng vậy, phải nói trước mấy ngày để người ta còn nhổ quán xách theo”.
- Ai kêu theo đâu.
- Không theo nấu cơm thì sống bằng mì tôm với trứng luộc. Nhắm chịu nổi không đó?
- Dư sức. Tôi bỏ nhà để sống một mình mà.
“Biết rồi”, Mười nói, mắt nguýt suýt rách đuôi. “Biết rồi”, là những gì Mười muốn trả lời, nếu phút cuối đời Cao Bồi bỗng nói một lời dịu dàng nào đó. Mỗi lần tạt qua chỗ Cao Bồ ở, nghiêng ngó cái ổ coi có cần dọn dẹp gì không, Mười hay bị cằn nhằn, “Lúc nào cũng để lại mùi mồ hôi, khói bếp. Biết khó chịu với con người mà, sao lảng vảng hoài”. Ông tránh không nhắc tới mùi nước mắt đã quéo lại trên tay áo, mùi của tuổi già những váng da khô chờn vờn vẽ lên không khí gương mặt của chia lìa. Chúng làm ông hẫng đi trong ngực, nhắc nhớ một món nợ thanh tân mà Mười đã vay khi bỏ đi. Ba mươi năm trước, cái thơm ngọt của khóe miệng, dái tai, tóc mai Mười giày vò ông tàn khốc. Giờ người đàn bà ấy lại tiếp tục gieo rắc mùi vị của phai tàn. Cao Bồi hơi tức mình, đã vậy mai mình lại dời đi.
Tôi còn biết phải làm gì. Nhân vật nữ chính của tôi chỉ cười tỉnh rụi bảo, “Biết rồi. Thì dọn”.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 07, 2014 19:02

January 6, 2014

Hài cuối năm ta

Thách cướiTiểu phẩm : Tui

Cả nhà vẫn còn nhớ chuyện Tom Cruise hồi chưa lấy Katie Holmes, vì say mê cái nhan sắc đổ gánh chìm đò của con Lành mà ảnh bí mật sang hỏi nó về làm vợ, nhưng chuyện không thành vì ngoại Tám, tức Tám Lựu Đạn chỉ thủng thẳng nhai trầu nói đúng một câu, “Bây tính đặt tên con là Tèo Rui Sơ hả ? Dẹp !”.
Cái hồi kết này ai cũng nhìn thấy, vì ngoại Tám khó thấu trời, ngăn chặn hết thảy những thứ ngoại lai xâm nhập vô nhà. Con Lành hơi tiếc là anh Tom đẹp nhứt trong cái đám trai ngoại đã nguýt ngang. Bảy thằng con trai kia toàn người Việt, nhưng có thằng lỡ nhai kẹo cao su chóp chép, lỡ mặc cái áo thun nhì nhằng chữ Tây, lỡ nhuộm chòm tóc vàng, lỡ mua mấy chùm nho Mỹ làm quà… Ngoại Tám Lựu Đạn có lý lẽ riêng của mình, tại sao thằng ôn con đó không nhai kẹo dừa cho lành, sao nó hong mặc bà ba cho khỏe, để tóc đen thì có chết ai. Riêng có một anh thợ máy cả nhà rất ưng, sắp xuống mối thì ngoại phát hiện ra anh này hút gió toàn nhạc ngoại, nào là Bến Thượng Hải rồi thì My heart will go on. Khổ thân anh hôn phu hút gió trật bài.
Lụi hụi rồi Lành cũng sắp vào tuổi ế chồng. Vẫn đẹp xiêu cống vẹo cầu nhưng bạn bè trong xóm rủ nhau đi lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc hết trọi, mỗi Lành chờ một chú rễ xịn Việt từ đầu đến đuôi. Nửa đêm nằm thở dài, thấy hai sườn hai đùi hai vành tai đều lạnh. Ngoại nằm bên vách, nghe vậy cũng rầu, nhưng ngoại mà không giữ gìn nề nếp nhà này thì ai giữ ?
Nhờ canh cửa khít rim mà tiếng tăm nhà ngoại Tám vang xa. Hôm đoàn kiểm tra tới xác minh xét tặng danh hiệu “Gia đình văn hóa lịch sử anh hùng thuần Việt” (danh hiệu gì của nhà nước cũng kêu đinh đoong như vầy), họ cũng phục lăn khi mấy chục năm nay nhà ngoại Tám chỉ gội đầu bằng bồ kết với lá chanh, vách không treo lịch vì tụi nó hay in tiếng Anh tiếng Tàu, từ trước ra sau toàn đồ trong nước. Giữ được vậy, ngoài lòng yêu quê xứ còn phải có tinh thần cảnh giác cao. Có bữa ngoại Tám đi hốt thuốc nam, không cẩn thận là rước mảnh báo gói có bài về ông Obama vô nhà rồi. Anh cán bộ trong đoàn kiểm tra hít hà nói ngoại làm rất đúng.
Sau này, phát hiện ra anh  khen lấy lòng ngoại vì si mê Lành. Cùng lúc, có anh Cườn hột soàn cũng tà tà lui tới. Cái chữ Cườn tối nghĩa này là hậu quả lối làm việc hơ hớt của cán bộ hộ tịch, viết sót chữ g nên cũng không thành “hùng mạnh” như chồng cô ca sỹ. Nhưng điều đó cũng không ngăn Cườn trở thành tỷ phú mắm cá linh. Thấy hai anh mặt mũi đều sáng sủa, thông minh, không yếu tố ngoại lai trên người, Lành thầm mừng. Cả hình xăm nhỏ trên gáy anh Cườn cũng mộc mạc : chăn trâu thổi sáo. Kinh nghiệm từ mấy cuộc tình đau thương trước, Lành dò hỏi rõ ràng loại nhạc hai anh thích có phải là Hoa sứ nhà nàng, Chuyện tình Lan và Điệp hay không; món ăn hai anh ưa có phải cá lòng tong kho quẹt và mắm chưng hột vịt hay không; tăm tre mà hai anh hay xỉa có phải là loại to bằng cây cột nhà thương hiệu trong nước hay không. Rốt cuộc, cả hai chàng chuẩn Việt từ đầu tới gót. Chữ gót này theo nghĩa đen, vì gót anh cán bộ đúng là bị nứt từa lưa, nhưng ảnh nói chỉ mài vô gốc cột thôi, nhất định không thoa Kechone (kem chống nẻ) nào hết.
Giờ thì còn mỗi một vấn đề, ấy là chọn người nào ?
Sau nhiều đêm nằm đếm thấy mụ nội mà không ngủ được, ngoại nghĩ ra cách thách cưới cũ mèm. Không đòi cao sang, chỉ cần hôm ăn hỏi chuẩn bị cho mười hai mâm lễ trăm phần trăm đồ nội. Ngoại tự thấy vậy là công bằng, ai như ông vua xưa đưa ra yêu cầu thiên vị làm chi mà mấy ngàn năm rồi Sơn Tinh với Thủy Tinh vẫn đánh nhau tung tóe.
Bánh tự nướng, bột gạo nếp tự xay. Trái cây thì vô mua tận vườn, hái tận nhánh. Vải vóc chọn loại có in ở bìa “Sản xuất ở Việt Nam” dù cứng tay như bao bố. Khay trầu rượu cũng chọn gốm Cổ Chiên. Giờ chót, bên phía Cườn hột xoàn kịp phát hiện ra mấy tấm nhiễu đỏ phủ mâm toàn chữ Tàu, hú hồn hú vía. Hai nhà đàng trai đều chắc mẻm lần này ta sẽ đón được cô dâu hiền hậu, nết na.
Cuộc kén rễ so kè ngang ngửa. Anh cán bộ bày ra mâm nhãn Bạc Liêu thì Cườn hột xoàn cũng có quýt hồng Lai Vung. Chủ khảo là ngoại Tám, da héo lưng còng nhưng có siêu năng lực liếc qua là biết hàng xứ nào. Lành dõi theo nụ cười mãn nguyện nở trên môi ngoại, thầm mừng trong bụng. Đến phần rượu, dù thề thốt là rượu thuê người nấu tại chỗ, nhưng Cườn hột xoàn vẫn không qua nổi ngoại Tám, “men Tàu nghen bây”. Trà vô hộp thiệt sang nhưng chỉ là bã trà phơi khô ướp hương hóa học China bán ở chợ Kim Biên hai ngàn một ống. Anh cán bộ cũng bật ngửa khi bị phát hiện ra đường làm bánh bông lan nhập của Lào, còn vú sữa được phun thuốc làm bóng trái cây xứ Thái.
Đến nước này, Lành chịu không nổi nữa, mếu máo kêu ngoại Tám nương tay. Lành nói gạo nhà mình đang ăn cũng từ lúa giống Tàu, lâu nay con không dám nói vì sợ ngoại thà nhịn đói. Mớ cá hôm bữa mua ở trang trại bác Hai Ốm, cũng là cá nuôi sẵn từ ở bển chở qua đổ vô ao giả bộ cá Việt vậy thôi. “Nói vậy cái cục đất dưới chân mình có chắc là của mình không con ?” ngoại hỏi, trong lúc thấy trời đất quay tròn.
Cuối năm Lành lấy chồng, chú rễ là anh thợ máy năm nào, suốt từ đận đó đến giờ anh vẫn chờ Lành xách giỏ đi chợ ngang qua để hút gió bài “lý thương nhau”. 

(Tuổi Trẻ Hehehe số Tết)
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 06, 2014 05:10

December 19, 2013

Út Đèo, người mơ mộng


Tiểu phẩm : Tư Bờ Lau
Nhà Đèo vẫn còn giữ tấm ảnh trắng đen chụp nó hồi năm tuổi, mũ miện bằng vỏ bưởi, khăn tắm làm hoàng bào, gương mặt kiêu sa y như cô công chúa mà nó đang nhập vai vào. Coi bọn nhỏ chung quanh là quân hầu, có lần nó tiện miệng kêu má, “bây đâu, dọn cơm ăn coi”, bị quất mấy roi tét đít.
Những khi nhìn lại cái ảnh đó, Út Đèo cho rằng tánh mơ mộng của mình phải từ đâu đó trong máu. Mười hai tuổi, ngồi mân mê đám mụn cơm dày trên mặt, nó hình dung lớn lên sẽ thi hoa hậu thế giới (đương nhiên là huê hậu Việt chắc mẻm mang tên Nguyễn Thị Út Đèo rồi), giựt luôn cái giải người đẹp toàn cầu nhờ câu trả lời kinh điển, “cái đẹp cứu rỗi thế giới còn người đẹp cứu rỗi những đại gia”. Út Đèo tưởng tượng cảnh người đẹp Brazil, Venezuela phải khóc ròng vì tiếc nuối, khi nó được người ta gắn cái vương miện lên đầu. Má ngồi chợ bán cá, nhiều khi tức vì con gái để đầu óc ba khơi, biểu Út Đèo “coi kiếng đi con”. Kiếng là thứ thật thà, con Út Đèo trong đó chân chừng sáu tấc, da được đám ghẻ thêu hoa, mặt hình tam giác, một bộ phận không nhỏ răng đã bị sâu, mắt lé. Nó cãi “nhưng mà nhan sắc con làm người ta bối rối”. Cái đó thì phải thừa nhận, ai gặp nó cũng bâng khuâng khi rõ ràng nó dòm lom lom về phía mình nhưng thiệt tình là nó nhìn thằng kế bên.
Lụi hụi cũng tới tuổi cập kê, nồng độ mơ mộng trong Út Đèo cũng đậm lên. Đám trai trong xóm, trong chợ cá vẫn hay đờ đẫn ra trước ánh nhìn dương đông kích tây của con nhỏ, nhưng đều bị nó dẹp qua một bên. Đèo chờ đại gia, hoặc tệ lắm thì cũng là con trai đại gia. Nhiều khi cũng hờn giận má sao không đặt tên nó có chữ Hà, vì theo như các nhà nghiên cứu, gì dính tới Hà, dù là Hà Bá thì tỷ lệ lấy chồng giàu cũng cao hơn là không có. Thím bán mắm mồng gà chuyên gia dội nước lạnh, cười mai mỉa “người ta đại gia, sao lạc tới cái chợ chạy tem hem này mà gặp mày ?”. “Trời”, con Út Đèo phẩy tay, “dễ ợt”. Ví dụ như bữa nọ anh đại gia đi chuyên cơ ngang qua thì hết nhiên liệu, ảnh sẽ đáp máy bay xuống đổ xăng. Trong lúc chờ đợi ảnh đi dạo quanh, ghé vô ngay cái quán bà Ba Mập, đúng lúc nó đang ngồi ăn hàng và nhiều chuyện ở đó. Vào khoảnh khắc nó sẽ ngẩng đầu lên, đưa tia nhìn khiến thiên hạ bối rối ra, anh đại gia sẽ cháy khét lẹt trước cú sét ái tình. Duyên trời định, dù chạy xe Lamborghini Aventador hai mốt tỉ cũng cán đinh bể vỏ như thường.
Kịch bản là vậy, con Út Đèo chờ cho tới năm ba mươi bảy tuổi, tiêu chuẩn hạ xuống còn chú già Đài Loan cà nhắc, nhưng cuộc coi mắt xem hàng nào người ta cũng lắc đầu. Một bữa đợi thằng Lý Chút Tùng lùn chút tí  nhậu xỉn đi ngang, Út Đèo ỏn ẻn ngoắc nói vô đây chơi cái này vui lắm. Bốn tháng sau khi bụng vừa đội áo, Đèo kịp về làm vợ thằng nhỏ bốc vác trong chợ.
Bữa đói bữa no, dù vậy Út Đèo chưa bao giờ nguôi mơ mộng. Nó mua sữa ký cho con uống, và tưởng tới chuyện đưa con vào trường điểm, lớn lên con làm tổng giám đốc của những công ty Vina mỡ màng, béo múp. Năm mươi tuổi, da Út Đèo điểm xuyết thêm vào bông đồi mồi màu nâu cánh gián, hai mắt vẫn ghẻ lạnh nhau sau nội chiến, nó chính thức phải lòng anh Kim Tan trong mấy bộ phim Hàn. Cứ hình dung ảnh ghì ôm mình từ phía sau, trùm áo len của ảnh vào người mình, Út Đèo rung động tới mức không nghe đứa con gái của mình kêu má ơi nhà hết gạo.
Mơ mộng đâu có tốn kém, nên cứ mơ cho hoành tráng. Tơ tưởng phi công Hàn lái máy bay Út Đèo đâu có gì sai, cũng chính đáng như như bà nội trợ mơ trên mâm cơm không món nào có độc, cô giáo mơ không phải bù đầu với trăm loại giáo án, bà già ước có răng để ăn khô mực. Út Đèo có lần chứng minh cho chợ cá thấy đâu phải lúc nào mình cũng ở trên trời, khi thỏ thẻ tâm tình rằng mỗi tối nằm bên ông chồng xỉn quéo, Đèo ước phải chi cái gì trên người chồng dài thêm một chút thì hay. Mấy chị kia cũng ngậm ngùi, ờ thì ít nhất cũng phải bằng trái dưa leo chớ.

Vậy nên  đêm đêm Út Đèo vẫn mơ tưởng về dưa leo củ cải, và nghĩ coi năm mình bảy mươi ba tuổi thì mặc áo tắm nào khi đi biển Vũng Tàu với anh chồng sau mang tên Putin. Út Đèo chỉ có mỗi niềm tuyệt vọng nho nhỏ, là bầy con bảy đứa không ai có khả năng mơ mộng phi thường như mình. Có bữa thằng Năm tay chống cằm ngó mong ra cửa, Út Đèo tưởng con đang mơ làm ca sỹ triệu đô, nhưng câu trả lời của nó bèo bọt hơn mong đợi, “tui chờ cho xe mít chạy ngang đây bị lật để chạy ra giựt mấy trái ăn chơi, hổm rày thèm mít quá trời”.
(Nguyên bản)
1 like ·   •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 19, 2013 15:43

December 9, 2013

Sót lại của tháng 11

Cô Thắm lấy chồng




Cô Thắm lấy
chồng vào cái tuổi bốn mươi hai. Thiệp cưới đến tay trưởng phòng giáo dục, ông
nghĩ chắc đây cũng là một giáo viên trong hàng trăm người dưới quyền quản lý của
mình. Nhờ ai đó nhắc, ông mới nhớ ra cô Thắm chính là nhỏ bạn ngồi cùng bàn
cùng lớp hồi trung học. Ai mà ngờ tới giờ mới lấy chồng.



Cô Thắm dạy
mầm non. Sáng sớm cô đã có mặt ở trường chuẩn bị đón trẻ
1 like ·   •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 09, 2013 00:10

November 12, 2013

Sắp rồi

. Giày đi xéo lại những khoảng cách giữa cha mẹ và đứa con, giữa vợ và chồng, Những mảnh vỡ đắp vá xoay sở kiểu nào vẫn không thể gá lại như chưa từng vỡ. Nỗi mình ên thấp thoáng trong mỗi người ta. Nhiều cuộc bỏ đi và biến mất.
. An ủi là đến cuối, sẽ có bốn chuyện tình :p
. Nó đang trên đường đến, xuống ga ngay sau Tết.
. Sau đây là một ảnh vui :p





"Không lời"
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 12, 2013 19:54

October 21, 2013

Công tới đâu thì bằng ?

Hồi
chị em song sinh bên xóm còn nhỏ, tôi ngắm nghía tụi nó và nghĩ tới công bằng.
Trời cho dung mạo giống hệt nhau, bà mẹ làm cho cái sự giống ấy càng thêm hoàn
hảo. Hai đứa diện cùng kiểu từ tóc cho đến dép giày. Cái bánh bẻ đôi, hai cây
kem cùng màu, ấm đầu sổ mũi một lượt cả hai. Không có cuộc đi chơi công viên
nào mà nhà bên đó không chất lên xe đủ cặp.



Năm
mười lăm tuổi, một trong hai
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 21, 2013 20:35

Nguyễn Ngọc Tư's Blog

Nguyễn Ngọc Tư
Nguyễn Ngọc Tư isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Nguyễn Ngọc Tư's blog with rss.