Nguyễn Ngọc Tư's Blog, page 6
March 1, 2015
Ngày sách đi hoang (cập nhật)
Cuối cùng, sau khi xem ngày giờ ở 176 thầy bói nhà phong thủy nhà ngoại cảm, NXB Trẻ đã cho Đong tấm lòng lên kệ sách trong toàn quốc.
Năm ngoái, tức là hồi tui 38 tuổi, lúc ấy hãy còn thơ ngây nên tưởng sách sẽ ra trước tết, để hòng dụ dỗ bạn đọc xài cho hết tiền thưởng. Nhưng giờ tiền ấy hóa ra bia bọt hết, quý bạn đọc vui lòng đong ống heo, để mà đón tấm lòng em nó về đong.
Các bạn ở Sài Gòn cần chữ ký thì đợi đến chiều tối ngày 9/3, ở hội sách của tiki tổ chức (Cập nhật : 19h ngày 9/3 tại Nhà triển lãm 92, Lê Thánh Tôn, Quận 1), tui có ngồi đó chơi :p. Các bạn ở Cần Thơ hãy chờ đến hội sách, khoảng gần cuối tháng 3, tui cũng có tới mua sắm một buổi (ngày giờ sẽ hẹn sau)
Khoe lại cái bìa để bạn đọc khỏi quên :p
Ps : Một cuốn sách nữa vừa được tái bản, dành cho bà con nào chưa mua :p
Năm ngoái, tức là hồi tui 38 tuổi, lúc ấy hãy còn thơ ngây nên tưởng sách sẽ ra trước tết, để hòng dụ dỗ bạn đọc xài cho hết tiền thưởng. Nhưng giờ tiền ấy hóa ra bia bọt hết, quý bạn đọc vui lòng đong ống heo, để mà đón tấm lòng em nó về đong.
Các bạn ở Sài Gòn cần chữ ký thì đợi đến chiều tối ngày 9/3, ở hội sách của tiki tổ chức (Cập nhật : 19h ngày 9/3 tại Nhà triển lãm 92, Lê Thánh Tôn, Quận 1), tui có ngồi đó chơi :p. Các bạn ở Cần Thơ hãy chờ đến hội sách, khoảng gần cuối tháng 3, tui cũng có tới mua sắm một buổi (ngày giờ sẽ hẹn sau)
Khoe lại cái bìa để bạn đọc khỏi quên :p

Ps : Một cuốn sách nữa vừa được tái bản, dành cho bà con nào chưa mua :p

Published on March 01, 2015 19:32
Ngày sách đi hoang
Cuối cùng, sau khi xem ngày giờ ở 176 thầy bói nhà phong thủy nhà ngoại cảm, NXB Trẻ đã cho Đong tấm lòng lên kệ sách trong toàn quốc.
Năm ngoái, tức là hồi tui 38 tuổi, lúc ấy hãy còn thơ ngây nên tưởng sách sẽ ra trước tết, để hòng dụ dỗ bạn đọc xài cho hết tiền thưởng. Nhưng giờ tiền ấy hóa ra bia bọt hết, quý bạn đọc vui lòng đong ống heo, để mà đón tấm lòng em nó về đong.
Các bạn ở Sài Gòn cần chữ ký thì đợi đến chiều tối ngày 9/3, ở hội sách của tiki tổ chức (chi tiết xin tham khảo website của tiki hén), tui có ngồi đó chơi :p. Các bạn ở Cần Thơ hãy chờ đến hội sách, khoảng gần cuối tháng 3, tui cũng có tới mua sắm một buổi (ngày giờ sẽ hẹn sau)
Khoe lại cái bìa để bạn đọc khỏi quên :p
Ps : Một cuốn sách nữa vừa được tái bản, dành cho bà con nào chưa mua :p
Năm ngoái, tức là hồi tui 38 tuổi, lúc ấy hãy còn thơ ngây nên tưởng sách sẽ ra trước tết, để hòng dụ dỗ bạn đọc xài cho hết tiền thưởng. Nhưng giờ tiền ấy hóa ra bia bọt hết, quý bạn đọc vui lòng đong ống heo, để mà đón tấm lòng em nó về đong.
Các bạn ở Sài Gòn cần chữ ký thì đợi đến chiều tối ngày 9/3, ở hội sách của tiki tổ chức (chi tiết xin tham khảo website của tiki hén), tui có ngồi đó chơi :p. Các bạn ở Cần Thơ hãy chờ đến hội sách, khoảng gần cuối tháng 3, tui cũng có tới mua sắm một buổi (ngày giờ sẽ hẹn sau)
Khoe lại cái bìa để bạn đọc khỏi quên :p

Ps : Một cuốn sách nữa vừa được tái bản, dành cho bà con nào chưa mua :p

Published on March 01, 2015 19:32
February 9, 2015
Ra sách ăn tết
Bạn không biết làm gì xử lý cho xong đống tiền thưởng Tết, bạn bối rối không biết sắm chi để túi nhẹ đi, bạn hoang mang vì ăn bánh mứt, trái cây sợ ngộ độc, uống bia sợ bụng bự, uống rượu sợ men Tàu, ăn cá khô sợ dính chưởng thuốc trừ sâu, mua quần áo sợ có sinh vật Lọa, hãy mua hoa và sách :p

Sau khi cân nhắc đong ruột đong não đong máu cam, thì Đong tấm lòng giựt được cái vé ra khơi.
Cũng ba năm rồi tui mới in lại tản văn, kể từ Yêu người ngóng núi. Sách dày 150 trang (hoặc ít hơn chút xíu), có chục cái minh họa “made in tự tui” theo phong cách n&n (tùy bạn đọc mà nó có thể là ngộ ngĩnh, ngây ngô, ngờ ngệch, ngô nghê, ngớ ngẩn). Sau cái hồi vẽ thủ công trong trường tiểu học, xon xen với vẽ trứng gà cùng với bạn An mẫu giáo, giờ tui mới làm nên một thứ tạm gọi là hình.
Đong tấm lòng vẫn còn thơm mùi mực đang nằm trên kệ của các nhà sách trên toàn quốc đợi bạn đọc yêu quý rinh về.
(Tui sẽ cập nhật ngày sách lên kệ sau )
Published on February 09, 2015 20:37
February 4, 2015
Kiểu nào cũng nhứt
Tiểu phẩm của Tư Bờ Lau
Mấy rày Ba Khía buồn suốt từ tóc tới gót chân, buồn đặc tới mức vẽ ra được dạng hình, hít vào sặc thở ra ho. Bên xóm họ ăn mừng tưng bừng đón nhận bằng chứng nhận vườn có con mương dài nhứt, tiếng đờn ca ong óng vọng qua làm Ba Khía thêm tan nát. Kỷ lục duy nhất mà gia đình Ba Khía nhận cũng đã hai năm, vừa rồi danh hiệu nhà đông con nhứt xóm cũng bị người bên sông lấy mất, khi đứa trẻ thứ mười ba của họ ra đời.
Mà, nhà không có chứng nhận kỷ lục gì thì sao có thể ngẩng mặt lên nhìn thiên hạ. Cổ nhân cũng dạy, làm người trong trời đất phải có kỷ lục gì với núi sông. Đến chùa là chốn vô vi cũng đua nhau tượng phật lớn nhứt, cột chùa chạm nhiều hình rồng nhứt, mái chùa cong nhứt, chỗ tụng niệm mát nhứt. Người ta sinh ra có bàn chân bảy ngón, hay mọc đuôi thì nhẹ lo, kiểu nào cũng được biên vô sách kỷ lục có nhiều ngón nhứt hay đuôi dài nhứt. Nhà Ba Khía không được trời thương, tụi nhỏ ra đời chân tay vừa đủ, muốn kiếm được ngôi số một vợ Khía phải phấn đấu bằng sạch trứng, vậy mà giữ danh hiệu chỉ được một năm.
Bằng chứng nhận bị tháo bỏ rồi, vách nhà trống nổi gai ốc. Ba Khía nghĩ đủ đường, lập đủ kế. Con Hai Mén thấy tía rầu rĩ quá cũng thương, nói thôi để tui lấy bừa một ông già Đài Loan què hết ba chân, biết đâu được công nhận hiếu thảo nhứt xóm. Rõ ràng là hy sinh thân gái để gởi tiền cho tía má, chớ mong gì hổn hển với ông già hút gió hong kêu. Nhưng mới trù tính thì gái trong xóm rủ nhau đi lấy chồng ngoại làm con hiếu thảo cả bầy. Thua me gỡ bài cào, Ba Khía bắt con Đèo nuôi tóc, với hy vọng chừng mười năm thì tóc dài phết đất, đi nhận cái bằng kỷ lục gia treo trong nhà cho đỡ lạnh. Nhưng một bữa con nhỏ bị đánh ghen, vợ thằng bồ xởn rụi mái tóc sắp chấm gót. Những người đứng coi vụ ẩu đả chồng mày chồng tao một phen hú vía khi chí trên tóc Đèo bay vèo vèo như vãi gạo. Mà tụi chí thì cứ gặp đâu xâu đó, làm nên một cuộc lây lan cục bộ, dầu gội trị chí chợ xã cháy hàng.
Ba Khía tự hỏi kiếp trước mình ăn ở sao mà giờ ông trời chơi ác. Kế hoạch lập kỷ lục kiếm mảnh bằng làm thuốc cứ gặp trắc trở khó đỡ. Biểu thằng Út Mười không được tắm để lấy danh hiệu ở dơ thì nó suốt ngày ở ngoài mưa. Cho con Út Chót hai tuổi rưỡi đi thi hát “Thiên tài Việt” mong lấy kỷ lục ca sỹ nhỏ tuổi nhất thì phát hiện ra nó quá già so với đám trẻ tham gia. Có đứa còn chưa biết nói, lủm củm bò ra và ca “ngóe ngoe ngoeeeeeee”. Thằng cha Em Xi giới thiệu đó là bài hát “Nước mắt cho tình đầu”, thiệt vô lý hết sức. Ba Khía uất vợ không thể đẻ thêm để bồng đứa nhỏ ba tháng tuổi đi thi, chắc mẻm về nhứt.
Nhưng có va vấp trên đấu trường kỷ lục gia, mới biết trời cao đất rộng. Vợ Khía nghĩ chị đã là người chịu đòn chồng giỏi chẳng thua ai, đâu hay xóm dưới có bà vợ giỏi hơn, bị ông xã xiên đũa than nóng qua lòng tay mà tuyệt không than thở gì. Ba Khía cũng tưởng anh sẽ giật giải người uống rượu mạnh nhứt huyện, lúc ra đấu với Năm Lít chỉ biết tay trắng ra về. Đối thủ, chỉ với cái tên thôi nói hết trình độ rồi, Ba Khía chừng hai lít tám đế Gò Đen đã nằm dài ra ngáy.
Cả nhà trông vô thằng Còi với tài lặn lâu, mà suốt cả chục năm mò cua bắt ốc nó đã có bề dày kinh nghiệm. Màn biểu diễn vừa rồi thất bại, chỉ vì đối thủ của nó xỉn quá nằm dưới đáy sông đến năm giờ đồng hồ mới trồi lên. Ba Khía vác đơn đi kiện nhưng tòa bảo Trung tâm kỷ lục xóm Ó đâu có viết câu “lặn lâu, với điều kiện vẫn còn sống”, vậy nên họ không sai khi trao bằng chứng nhận cho thằng cha ngỏm củ từ. Đành phải đợi người ta sửa quy chế, nhưng trong cái quãng thời gian dằng dặc đó biết đâu lại có những kiện tướng lặn mới xuất hiện, trong cái thế giới lủ khủ dân bắt ốc mò cua.
Mỗi ngày Ba Khía mỗi già, khát vọng về nhứt vẫn đậm đặc nồng nặc, ti vi vẫn không thôi phát những tin kỷ lục vừa mới bị phá, xã có dây đu qua sông dài nhứt, huyện có nhiều chợ xây để bỏ hoang nhứt, tỉnh có nhà hát dột nhứt, trường có nhiều trò học lớp năm mà hong biết chữ nhứt. Những kỷ lục xướng lên như mũi kim đâm vào trái tim hom hem của Ba Khía.
Và ý tưởng táo bạo đã được nảy ra trong khổ đau.
“Phải làm sân đậu trực thăng. Má tụi nhỏ nhắm coi, xóm mình mai kia không chèo xuồng nữa, đi chợ bằng trực thăng hết, mà chung quanh nhà họ chỉ có ao mương sình bùn, sân đâu mà đậu. Mình được miếng đất rộng, đủ đậu chục chiếc trực thăng. Sẵn đó, sắp nhỏ sẽ làm dịch vụ cho mấy chiếc trực thăng, như bán dây buộc, dán kiếng cho đỡ trầy, rửa trực thăng, bơm vá bánh lăn”. Ba Khía bàn với vợ, trong một bữa căng cao su hứng nước dột từ trên mái lá xuống bàn thờ. Vợ lấy tay áo vá chằng đụp lau mồ hôi, hổn hển hỏi biết lấy tiền đâu. Thì vay, mượn, Ba Khía nói chắc nịch, lấy lại vốn mấy hồi. Chắc chắn sẽ lấy được danh hiệu “sân đậu trực thăng đầu tiên và rộng nhứt xóm”.
Miệng nói tay làm luôn, Ba Khía phát hoang đám lúa đang trổ đòng đòng quanh nhà, trong lúc vợ đi vay nóng vay lạnh nợ ngắn nợ dài. Ai đi qua cũng nghĩ Ba Khía bồi đất lên sân chắc để trồng đậu trồng cà. “Giỡn hoài, sân đậu trực thăng đó cha nội”, Ba Khía cố nén lòng để khỏi nói ra.
Sợ hàng xóm cạnh tranh, nhưng không khỏi. Khi cái sân tráng xi măng chừng phân nửa thì phải bỏ ngang vì hết tiền, mà miếng vàng bịt răng cuối cùng cũng đã cạy bán. Mấy đứa nhỏ lỡ miệng, lộ chuyện Ba Khía làm sân đậu trực thăng, bên xóm bắt đầu rục rịch làm y cái sân của anh. Nhưng họ lấp luôn đám ruộng, nói về rộng thì bãi đậu của Ba Khía không có cửa so đo.
Trong tuyệt vọng, nhìn mấy nhỏ lùa bò ra ăn cỏ ở sân đáp trực thăng xây nham nhở, Ba Khía hình dung cái ngày tận của mình chắc lạnh vô biên độ, vì về đất mà không có chứng nhận kỷ lục nào cặp nách đem theo. Một buổi trưa trời mưa lưa thưa, Ba Khía bất ngờ nhận được giấy mời đi nhận kỷ lục Thiếu nợ nhiều nhất xóm.
Thiệt là trong rủi có may. Biết rằng danh hiệu này khó giữ được lâu, nhưng vui được chút nào hay chút ấy, đâu phải ai cũng may phước có cái kỷ lục cất trong nhà.
Mấy rày Ba Khía buồn suốt từ tóc tới gót chân, buồn đặc tới mức vẽ ra được dạng hình, hít vào sặc thở ra ho. Bên xóm họ ăn mừng tưng bừng đón nhận bằng chứng nhận vườn có con mương dài nhứt, tiếng đờn ca ong óng vọng qua làm Ba Khía thêm tan nát. Kỷ lục duy nhất mà gia đình Ba Khía nhận cũng đã hai năm, vừa rồi danh hiệu nhà đông con nhứt xóm cũng bị người bên sông lấy mất, khi đứa trẻ thứ mười ba của họ ra đời.
Mà, nhà không có chứng nhận kỷ lục gì thì sao có thể ngẩng mặt lên nhìn thiên hạ. Cổ nhân cũng dạy, làm người trong trời đất phải có kỷ lục gì với núi sông. Đến chùa là chốn vô vi cũng đua nhau tượng phật lớn nhứt, cột chùa chạm nhiều hình rồng nhứt, mái chùa cong nhứt, chỗ tụng niệm mát nhứt. Người ta sinh ra có bàn chân bảy ngón, hay mọc đuôi thì nhẹ lo, kiểu nào cũng được biên vô sách kỷ lục có nhiều ngón nhứt hay đuôi dài nhứt. Nhà Ba Khía không được trời thương, tụi nhỏ ra đời chân tay vừa đủ, muốn kiếm được ngôi số một vợ Khía phải phấn đấu bằng sạch trứng, vậy mà giữ danh hiệu chỉ được một năm.
Bằng chứng nhận bị tháo bỏ rồi, vách nhà trống nổi gai ốc. Ba Khía nghĩ đủ đường, lập đủ kế. Con Hai Mén thấy tía rầu rĩ quá cũng thương, nói thôi để tui lấy bừa một ông già Đài Loan què hết ba chân, biết đâu được công nhận hiếu thảo nhứt xóm. Rõ ràng là hy sinh thân gái để gởi tiền cho tía má, chớ mong gì hổn hển với ông già hút gió hong kêu. Nhưng mới trù tính thì gái trong xóm rủ nhau đi lấy chồng ngoại làm con hiếu thảo cả bầy. Thua me gỡ bài cào, Ba Khía bắt con Đèo nuôi tóc, với hy vọng chừng mười năm thì tóc dài phết đất, đi nhận cái bằng kỷ lục gia treo trong nhà cho đỡ lạnh. Nhưng một bữa con nhỏ bị đánh ghen, vợ thằng bồ xởn rụi mái tóc sắp chấm gót. Những người đứng coi vụ ẩu đả chồng mày chồng tao một phen hú vía khi chí trên tóc Đèo bay vèo vèo như vãi gạo. Mà tụi chí thì cứ gặp đâu xâu đó, làm nên một cuộc lây lan cục bộ, dầu gội trị chí chợ xã cháy hàng.
Ba Khía tự hỏi kiếp trước mình ăn ở sao mà giờ ông trời chơi ác. Kế hoạch lập kỷ lục kiếm mảnh bằng làm thuốc cứ gặp trắc trở khó đỡ. Biểu thằng Út Mười không được tắm để lấy danh hiệu ở dơ thì nó suốt ngày ở ngoài mưa. Cho con Út Chót hai tuổi rưỡi đi thi hát “Thiên tài Việt” mong lấy kỷ lục ca sỹ nhỏ tuổi nhất thì phát hiện ra nó quá già so với đám trẻ tham gia. Có đứa còn chưa biết nói, lủm củm bò ra và ca “ngóe ngoe ngoeeeeeee”. Thằng cha Em Xi giới thiệu đó là bài hát “Nước mắt cho tình đầu”, thiệt vô lý hết sức. Ba Khía uất vợ không thể đẻ thêm để bồng đứa nhỏ ba tháng tuổi đi thi, chắc mẻm về nhứt.
Nhưng có va vấp trên đấu trường kỷ lục gia, mới biết trời cao đất rộng. Vợ Khía nghĩ chị đã là người chịu đòn chồng giỏi chẳng thua ai, đâu hay xóm dưới có bà vợ giỏi hơn, bị ông xã xiên đũa than nóng qua lòng tay mà tuyệt không than thở gì. Ba Khía cũng tưởng anh sẽ giật giải người uống rượu mạnh nhứt huyện, lúc ra đấu với Năm Lít chỉ biết tay trắng ra về. Đối thủ, chỉ với cái tên thôi nói hết trình độ rồi, Ba Khía chừng hai lít tám đế Gò Đen đã nằm dài ra ngáy.
Cả nhà trông vô thằng Còi với tài lặn lâu, mà suốt cả chục năm mò cua bắt ốc nó đã có bề dày kinh nghiệm. Màn biểu diễn vừa rồi thất bại, chỉ vì đối thủ của nó xỉn quá nằm dưới đáy sông đến năm giờ đồng hồ mới trồi lên. Ba Khía vác đơn đi kiện nhưng tòa bảo Trung tâm kỷ lục xóm Ó đâu có viết câu “lặn lâu, với điều kiện vẫn còn sống”, vậy nên họ không sai khi trao bằng chứng nhận cho thằng cha ngỏm củ từ. Đành phải đợi người ta sửa quy chế, nhưng trong cái quãng thời gian dằng dặc đó biết đâu lại có những kiện tướng lặn mới xuất hiện, trong cái thế giới lủ khủ dân bắt ốc mò cua.
Mỗi ngày Ba Khía mỗi già, khát vọng về nhứt vẫn đậm đặc nồng nặc, ti vi vẫn không thôi phát những tin kỷ lục vừa mới bị phá, xã có dây đu qua sông dài nhứt, huyện có nhiều chợ xây để bỏ hoang nhứt, tỉnh có nhà hát dột nhứt, trường có nhiều trò học lớp năm mà hong biết chữ nhứt. Những kỷ lục xướng lên như mũi kim đâm vào trái tim hom hem của Ba Khía.
Và ý tưởng táo bạo đã được nảy ra trong khổ đau.
“Phải làm sân đậu trực thăng. Má tụi nhỏ nhắm coi, xóm mình mai kia không chèo xuồng nữa, đi chợ bằng trực thăng hết, mà chung quanh nhà họ chỉ có ao mương sình bùn, sân đâu mà đậu. Mình được miếng đất rộng, đủ đậu chục chiếc trực thăng. Sẵn đó, sắp nhỏ sẽ làm dịch vụ cho mấy chiếc trực thăng, như bán dây buộc, dán kiếng cho đỡ trầy, rửa trực thăng, bơm vá bánh lăn”. Ba Khía bàn với vợ, trong một bữa căng cao su hứng nước dột từ trên mái lá xuống bàn thờ. Vợ lấy tay áo vá chằng đụp lau mồ hôi, hổn hển hỏi biết lấy tiền đâu. Thì vay, mượn, Ba Khía nói chắc nịch, lấy lại vốn mấy hồi. Chắc chắn sẽ lấy được danh hiệu “sân đậu trực thăng đầu tiên và rộng nhứt xóm”.
Miệng nói tay làm luôn, Ba Khía phát hoang đám lúa đang trổ đòng đòng quanh nhà, trong lúc vợ đi vay nóng vay lạnh nợ ngắn nợ dài. Ai đi qua cũng nghĩ Ba Khía bồi đất lên sân chắc để trồng đậu trồng cà. “Giỡn hoài, sân đậu trực thăng đó cha nội”, Ba Khía cố nén lòng để khỏi nói ra.
Sợ hàng xóm cạnh tranh, nhưng không khỏi. Khi cái sân tráng xi măng chừng phân nửa thì phải bỏ ngang vì hết tiền, mà miếng vàng bịt răng cuối cùng cũng đã cạy bán. Mấy đứa nhỏ lỡ miệng, lộ chuyện Ba Khía làm sân đậu trực thăng, bên xóm bắt đầu rục rịch làm y cái sân của anh. Nhưng họ lấp luôn đám ruộng, nói về rộng thì bãi đậu của Ba Khía không có cửa so đo.
Trong tuyệt vọng, nhìn mấy nhỏ lùa bò ra ăn cỏ ở sân đáp trực thăng xây nham nhở, Ba Khía hình dung cái ngày tận của mình chắc lạnh vô biên độ, vì về đất mà không có chứng nhận kỷ lục nào cặp nách đem theo. Một buổi trưa trời mưa lưa thưa, Ba Khía bất ngờ nhận được giấy mời đi nhận kỷ lục Thiếu nợ nhiều nhất xóm.
Thiệt là trong rủi có may. Biết rằng danh hiệu này khó giữ được lâu, nhưng vui được chút nào hay chút ấy, đâu phải ai cũng may phước có cái kỷ lục cất trong nhà.
Published on February 04, 2015 21:37
January 29, 2015
Truyện lẻ
Đi thật xa mới đến nhà bạn cũ
Ở khoảnh khắc chốt cài bên trong căn nhà lích kích mở, Vĩnh nghe tiếng kêu của chính mình, trời ơi rốt cuộc cũng đến nơi, và Miền đang ở phía sau cánh cửa dần hé.
Không nhớ rõ mặt mũi người đàn bà sắp hiện ra kia, trước ngày mười bảy tháng ba năm ngoái, đời Vĩnh còn không có góc nào cho cái tên Miền. Một xế trưa có thằng người lem luốc quảy giỏ trờ tới chỗ Vĩnh ngồi đón khách, hỏi đường tới ga tàu lửa. Nghe bảo đến ngã tư quẹo trái đi chút nữa đụng ngã năm quẹo phải, thay vì nói cảm ơn, thằng người kêu trời đất ơi, đúng mầy là thằng Vĩnh cuội rồi, tao Tèo Anh đây, nhớ tao chớ ? Không chấm không phẩy, những kỷ niệm dắt dây về xóm trọ những thằng nhỏ sinh viên đọ cúc cu coi của ai dài nhất những cái đũng quần cứng đờ như được hồ những buổi chen bẹp ruột mua rẻ mì tôm hết hạn dùng. Hổn hển, thằng người nói nửa chừng thì kêu chết tao, sắp trễ tàu. Ờ mà con Miền nó sinh con cho mày, biết chưa ?
Vĩnh không biết. Không muốn biết. Những ngày sau đó nó thà rằng mình không biết luôn. Ước sao thằng bạn lam lũ kia đừng hiện ra, không sẵn miệng cho hay Vĩnh có đứa con rơi, rồi lẩn mất trong biển người. Chín vía chưa kịp về, Vĩnh phải dọt xe theo và chặn được bạn cũ ở cổng ga, nhưng cũng chỉ kịp hỏi “Ê vụ sinh con là giỡn hay chơi, mậy?” và còi tàu băm vằm câu trả lời, nhỏ Miền dạy ở trường mẫu giáo Anh Đào, tao gặp nó năm ngoái.
“Sao tao với Miền lại có con được ?”, Vĩnh hét vào đám người trên sân ga hớt hãi. Không ai trả lời.Chuyện gì mà vô lý vậy, mình với cô ta có bồ bịch gì đâu. Ngay cả yêu thương thắm thiết cho đi không tiếc thứ gì, thông thuộc từng nốt ruồi từng sẹo kín thì cũng đắn đo chuyện có con khi chưa cưới hỏi. Một cô gái sinh con và chấp nhận là mẹ đơn thân đâu gọn hơ như đi chợ mua bó rau. Vĩnh nghĩ vậy, cố nhớ Miền là con nhỏ tóc chấm lưng ai nói gì chọc gì cũng chỉ cười, hay cô gái hay ra sàn nước tắm mưa lộ thân hình chắc lẳn, hay cô mới dọn đến sau lúc nào cũng có mấy cái lô cuốn lủng lẳng trên đầu.
Một mình Vĩnh trở về những buổi nhậu trong xóm trọ khi đứa nào đó xách con gà ở dưới quê lên, những cọ quẹt khi bọn trai gái đều say lử, và rạo rực không thể kiềm giữ. Mớ chung đụng mà khi nhớ lại không thể tách bạch ra mình ái a ái à với cô nào trong dịp nào trong bọn con gái dọn tới xóm trọ rồi đi, người mới đến lại lấp vào căn phòng trống. Chỉ là lơ đãng đi ngang qua đời nhau, da diết gì đâu mà giữ lại luôn một giọt máu, khó tin.
Chắc không phải con mình, nếu phải thì cô ta đã tìm tới để ăn vạ, bắt cưới. Vĩnh tự thuyết phục mình, những lúc ngồi như cục đá nghĩ tới đứa con rơi, theo như lời thằng bạn. Mà con cái thì Vĩnh thiếu chi. Vợ mang bầu đứa thứ ba, và cái bụng chang bang kia đã đẩy Vĩnh ra đường bắt khách chạy xe ôm, tranh thủ kiếm thêm chút tiền sau tan ca ở xưởng giấy. Chuyện có thêm đứa con nữa làm nó sợ.Lúc lăn những cuộn giấy dầu chất vào kho, khi ngồi trên xe chờ khách khuya, giữa mê lộ ý nghĩ vừa trần trụi vừa tục tĩu về lương tháng này và tấm lưng trần lộ ra sau chiếc áo khoét sâu của cô gái ngang qua, giữa tiền sữa cho con và người đàn ông phè phỡn đẩy cửa tiệm gội đầu trưng đầy mỹ nữ bên kia đường, trong đầu Vĩnh thỉnh thoảng lại rẽ qua một người đàn bà, đứa bé, dãy nhà tập thể có cái rào trồng bông xác pháo, bên hông trường mầm non.
Vĩnh đảo ngang chỗ đó bảy lần mới vịn được cơn mưa rào để ghé qua chỗ người bảo vệ. Mời ông già điếu thuốc, Vĩnh nói có cô bạn cũ tên Miền trước dạy ở đây. Ông già rít một hơi thuốc dài, phun khói ra bằng mũi, “nhà cổ ở cuối dãy”. “Đứa nhỏ chắc lớn rồi ?”, Vĩnh hỏi, ngay lập tức ân hận vì sâu thẳm trong lòng nó đâu muốn xác nhận chuyện đó. Hơi nước nặng trĩu làm khói thuốc không thể tan nhanh, cứ quầng quã trên gương mặt ông già, “trời nuôi thằng nhỏ mạnh cùi cụi”.
Con trai. Đứa nhỏ (có thể) con mình là bé trai. Vĩnh cố lắc đầu phủi tóc ngoáy tai để giũ ra cho bằng hết sạch ý nghĩ mình có đứa con trai phải đến bảy tuổi rồi. Nhưng ý nghĩ như bông gòn, càng xua đuổi càng nhơ nhởn, lúc đậu lúc bay, xé không đứt bứt không rời.
Chở vợ đi sinh, Vĩnh cũng nghĩ tới một đêm tối mịt đẫm nước sau giông mưa như vầy, có người đã một mình xách cái giỏ đựng tã trẻ nít đi tới nhà thương. Chậm rãi đi dọc hành lang phòng bệnh, đôi lúc cô ta phải vịn vách để chịu đựng cơn gò của đứa trẻ sắp ra đời. Hình dung đó làm Vĩnh giận dữ, rẽ nhầm đường. Vợ nén đau, cười nói chồng hồn vía bỏ theo chân dài nào.
- Khùng ! Vĩnh nạt.
Lần đầu tiên áp vào thịt da nhau, vợ nhéo hông Vĩnh, hỏi nửa chơi nửa giỡn rằng đã ôm bao nhiêu gái rồi, Vĩnh cũng nạt khùng, rồi lấp môi vợ bằng môi mình, lấy cái khác lấp đầy cái khác. Như để ém tận đáy cái thời trai trẻ đã rong rêu trong thất vọng. Vĩnh sợ phải kiểm đếm lại những gì thuộc về quãng trước cái biến cố tiệm giày của gia đình bị lửa nuốt mất, lúc Vĩnh thi cuối năm ba. Lửa liếm cái lưỡi bỏng rẫy lên mái nhà trước khi nghiến ngấu bằng sạch và bỏ lại tàn tro khánh tận. Người anh trụ cột tối ấy uống say không kịp chạy ra. Vĩnh thôi học, bỏ trường.
Không ai cho hay Vĩnh bỏ quên giọt máu, lúc dọn đồ rời xóm trọ. Có thể cô ta từng ám chỉ xa xôi, hỏi những câu kiểu như anh có thích con nít không, và Vĩnh vô tư bảo “chỉ nghe thôi đã ớn”. Cô đành câm lặng áp tay lên bụng đứng ngó theo Vĩnh đi mỗi lúc một xa, như phim.
Vĩnh vẫn thường quay kính chiếu hậu vào gương mặt khách, những khi chở phụ nữ trạc tuổi mình, tự hỏi “phải Miền không ?”. Vài lần bị khách bắt quả tang, trừng mắt, “ê, không chơi ngó lén nghen bồ”. Những lần tiệm kiếng quen kêu giao hàng, Vĩnh hay hình dung Miền chạy xe phía sau, người vào tấm kiếng đang dựng dọc lưng nó. Miền từng đến rất gần, nhưng vì những ngăn cách vô tình, hay bởi bắt gặp cái nhìn hờ hững của Vĩnh nên cô lặng lẽ rút lui.
Đứa nhỏ có phải con tôi ? Câu hỏi đó Vĩnh cứ miết thành rãnh trong đầu, lúc kéo sụp cái nón che bớt mặt khi ngang qua trường mẫu giáo. Hàng rào giấu sau nó một thế giới mịt mùng, chưa lần nào Vĩnh thấy trẻ con chạy chơi, không thấy quần áo nhỏ nhắn treo sào phơi, cũng không nghe những bài hát trẻ con vẳng ra từ máy hát. Dãy nhà im ắng lạ lùng, như không người. Đứa bé chỉ tồn tại trên môi của thằng bạn cũ đến số điện thoại cũng không có và ông bảo vệ già lẩn thẩn xua những bà mẹ đến sớm dán mặt vào rào chờ đến giờ đón con “không lo ở nhà quét dọn, lại đứng đây phơi nắng”.
Thằng nhỏ giống ai, ta ? Có lần lỡ để xổng một tia tò mò, Vĩnh phải dập tắt nó bằng cách bẻ ý nghĩ qua bữa nhậu ở quán Gầm Cầu, chút nữa mua cho bé út cái trống lắc, giờ này chắc vợ đã nấu cơm. Làm sao nêm chật những khoảng trống rợn trong đầu.
Chỉ cần bước qua cái cỗng rào xiêu, gõ cửa căn phòng cuối dãy, và đống dây ngờ trói Vĩnh sẽ được tháo bỏ, nhưng nó sớm nản lòng khi hình dung cái gật đầu sẽ sàng. Vĩnh sợ phải chia đời mình trước và sau cái gật đầu, như từng chia quãng trước và sau vụ cháy, mà tàn tro mặn xót Vĩnh còn dọn dẹp đến tận bây giờ. Miền gật, có thể Vĩnh sẽ không bao giờ tìm lại cái trật tự mà thằng đàn ông ba mươi bốn tuổi đã vật vã xếp đặt sao cho vừa vặn với vài công việc tầm thường, với cô vợ và ba đứa con, món tiền điện nước cuối tháng và học phí cho tụi nhỏ.
Cũng không thể phẩy tay coi như mơ. Chẳng cơn mơ nào lại sáng rỡ đến vậy. Màu nắng quạu xế trưa khi thằng bạn kéo tay áo lau mồ hôi, cái nhát gừng lơ đãng của ông bảo vệ già dưới cơn mưa nhỏ, hàng rào oằn hoa xác pháo đỏ cam. Tất cả đều gây nên sự rúng động mỗi khi Vĩnh nghĩ về. Làm gì có chiêm bao bức bối đến nỗi Vĩnh phải lên tiếng bênh một gã bỏ rơi cô bồ nhí báo tin anh ơi bụng em vừa mọc một trái tim. Vợ phì cười, “Người ta chửi thằng trong phim mà, chạm cọng dây nào sao lại lên tiếng”.
Vợ lúc nào cũng cười, lấy phải anh chồng không giàu có, sớm con cái nhóc nheo, nhưng chuyện đó chẳng làm cô thôi thắp lửa trên môi. Nhưng nụ cười đó sẽ tắt xèo đi như lửa mắc mưa, khi Vĩnh nuốt nước bọt nói em à, chuyện là hồi trước anh có quen sơ một con nhỏ, nó không nói không rằng đẻ con cho anh, vậy đó.
Lúc bước vào vuông sân khu tập thể, Vĩnh không biết vì bọt bia bốc lên đầu, vì hôm qua con gái méc bạn réo tên ba ra chửi, mà nó không thể đáp trả xứng đáng vì thằng kia không có ba. Vì những giấc mơ mà Vĩnh không sao nhớ nổi, nhưng vợ kể anh đã khóc thút thít rất tội. Hay bởi vừa nãy ngang qua dãy rào xác pháo, Vĩnh nhìn thấy một chiếc xe ba bánh của con nít nằm vắt trên miệng thùng rác, bánh xe trước long ra, rớt rời. Chiếc xe như một chiến binh hết thời, nằm buồn với những vết thương được băng bó tạm bợ bằng dây dù, sợi vải.
Đẩy cái cỗng rào hờ hững có cũng như không, Vĩnh như mộng du, không biết vừa rồi là mở ra hay khép lại. Thấy hơi xây xẩm, đi mãi gần hai năm mới đặt chân lên cái thềm nhà này.
Và cánh cửa ở căn phòng cuối dãy mở vừa đủ cho vệt sáng ngã dài trên cái đầu nhấp nhô lô cuốn. Người đàn bà không chút ngạc nhiên nào trong ánh mắt, giọng bình thản như mới vừa gặp Vĩnh hôm qua :
- Vĩnh tới rồi ha. Vô chơi, anh !
Ở khoảnh khắc chốt cài bên trong căn nhà lích kích mở, Vĩnh nghe tiếng kêu của chính mình, trời ơi rốt cuộc cũng đến nơi, và Miền đang ở phía sau cánh cửa dần hé.
Không nhớ rõ mặt mũi người đàn bà sắp hiện ra kia, trước ngày mười bảy tháng ba năm ngoái, đời Vĩnh còn không có góc nào cho cái tên Miền. Một xế trưa có thằng người lem luốc quảy giỏ trờ tới chỗ Vĩnh ngồi đón khách, hỏi đường tới ga tàu lửa. Nghe bảo đến ngã tư quẹo trái đi chút nữa đụng ngã năm quẹo phải, thay vì nói cảm ơn, thằng người kêu trời đất ơi, đúng mầy là thằng Vĩnh cuội rồi, tao Tèo Anh đây, nhớ tao chớ ? Không chấm không phẩy, những kỷ niệm dắt dây về xóm trọ những thằng nhỏ sinh viên đọ cúc cu coi của ai dài nhất những cái đũng quần cứng đờ như được hồ những buổi chen bẹp ruột mua rẻ mì tôm hết hạn dùng. Hổn hển, thằng người nói nửa chừng thì kêu chết tao, sắp trễ tàu. Ờ mà con Miền nó sinh con cho mày, biết chưa ?
Vĩnh không biết. Không muốn biết. Những ngày sau đó nó thà rằng mình không biết luôn. Ước sao thằng bạn lam lũ kia đừng hiện ra, không sẵn miệng cho hay Vĩnh có đứa con rơi, rồi lẩn mất trong biển người. Chín vía chưa kịp về, Vĩnh phải dọt xe theo và chặn được bạn cũ ở cổng ga, nhưng cũng chỉ kịp hỏi “Ê vụ sinh con là giỡn hay chơi, mậy?” và còi tàu băm vằm câu trả lời, nhỏ Miền dạy ở trường mẫu giáo Anh Đào, tao gặp nó năm ngoái.
“Sao tao với Miền lại có con được ?”, Vĩnh hét vào đám người trên sân ga hớt hãi. Không ai trả lời.Chuyện gì mà vô lý vậy, mình với cô ta có bồ bịch gì đâu. Ngay cả yêu thương thắm thiết cho đi không tiếc thứ gì, thông thuộc từng nốt ruồi từng sẹo kín thì cũng đắn đo chuyện có con khi chưa cưới hỏi. Một cô gái sinh con và chấp nhận là mẹ đơn thân đâu gọn hơ như đi chợ mua bó rau. Vĩnh nghĩ vậy, cố nhớ Miền là con nhỏ tóc chấm lưng ai nói gì chọc gì cũng chỉ cười, hay cô gái hay ra sàn nước tắm mưa lộ thân hình chắc lẳn, hay cô mới dọn đến sau lúc nào cũng có mấy cái lô cuốn lủng lẳng trên đầu.
Một mình Vĩnh trở về những buổi nhậu trong xóm trọ khi đứa nào đó xách con gà ở dưới quê lên, những cọ quẹt khi bọn trai gái đều say lử, và rạo rực không thể kiềm giữ. Mớ chung đụng mà khi nhớ lại không thể tách bạch ra mình ái a ái à với cô nào trong dịp nào trong bọn con gái dọn tới xóm trọ rồi đi, người mới đến lại lấp vào căn phòng trống. Chỉ là lơ đãng đi ngang qua đời nhau, da diết gì đâu mà giữ lại luôn một giọt máu, khó tin.
Chắc không phải con mình, nếu phải thì cô ta đã tìm tới để ăn vạ, bắt cưới. Vĩnh tự thuyết phục mình, những lúc ngồi như cục đá nghĩ tới đứa con rơi, theo như lời thằng bạn. Mà con cái thì Vĩnh thiếu chi. Vợ mang bầu đứa thứ ba, và cái bụng chang bang kia đã đẩy Vĩnh ra đường bắt khách chạy xe ôm, tranh thủ kiếm thêm chút tiền sau tan ca ở xưởng giấy. Chuyện có thêm đứa con nữa làm nó sợ.Lúc lăn những cuộn giấy dầu chất vào kho, khi ngồi trên xe chờ khách khuya, giữa mê lộ ý nghĩ vừa trần trụi vừa tục tĩu về lương tháng này và tấm lưng trần lộ ra sau chiếc áo khoét sâu của cô gái ngang qua, giữa tiền sữa cho con và người đàn ông phè phỡn đẩy cửa tiệm gội đầu trưng đầy mỹ nữ bên kia đường, trong đầu Vĩnh thỉnh thoảng lại rẽ qua một người đàn bà, đứa bé, dãy nhà tập thể có cái rào trồng bông xác pháo, bên hông trường mầm non.
Vĩnh đảo ngang chỗ đó bảy lần mới vịn được cơn mưa rào để ghé qua chỗ người bảo vệ. Mời ông già điếu thuốc, Vĩnh nói có cô bạn cũ tên Miền trước dạy ở đây. Ông già rít một hơi thuốc dài, phun khói ra bằng mũi, “nhà cổ ở cuối dãy”. “Đứa nhỏ chắc lớn rồi ?”, Vĩnh hỏi, ngay lập tức ân hận vì sâu thẳm trong lòng nó đâu muốn xác nhận chuyện đó. Hơi nước nặng trĩu làm khói thuốc không thể tan nhanh, cứ quầng quã trên gương mặt ông già, “trời nuôi thằng nhỏ mạnh cùi cụi”.
Con trai. Đứa nhỏ (có thể) con mình là bé trai. Vĩnh cố lắc đầu phủi tóc ngoáy tai để giũ ra cho bằng hết sạch ý nghĩ mình có đứa con trai phải đến bảy tuổi rồi. Nhưng ý nghĩ như bông gòn, càng xua đuổi càng nhơ nhởn, lúc đậu lúc bay, xé không đứt bứt không rời.
Chở vợ đi sinh, Vĩnh cũng nghĩ tới một đêm tối mịt đẫm nước sau giông mưa như vầy, có người đã một mình xách cái giỏ đựng tã trẻ nít đi tới nhà thương. Chậm rãi đi dọc hành lang phòng bệnh, đôi lúc cô ta phải vịn vách để chịu đựng cơn gò của đứa trẻ sắp ra đời. Hình dung đó làm Vĩnh giận dữ, rẽ nhầm đường. Vợ nén đau, cười nói chồng hồn vía bỏ theo chân dài nào.
- Khùng ! Vĩnh nạt.
Lần đầu tiên áp vào thịt da nhau, vợ nhéo hông Vĩnh, hỏi nửa chơi nửa giỡn rằng đã ôm bao nhiêu gái rồi, Vĩnh cũng nạt khùng, rồi lấp môi vợ bằng môi mình, lấy cái khác lấp đầy cái khác. Như để ém tận đáy cái thời trai trẻ đã rong rêu trong thất vọng. Vĩnh sợ phải kiểm đếm lại những gì thuộc về quãng trước cái biến cố tiệm giày của gia đình bị lửa nuốt mất, lúc Vĩnh thi cuối năm ba. Lửa liếm cái lưỡi bỏng rẫy lên mái nhà trước khi nghiến ngấu bằng sạch và bỏ lại tàn tro khánh tận. Người anh trụ cột tối ấy uống say không kịp chạy ra. Vĩnh thôi học, bỏ trường.
Không ai cho hay Vĩnh bỏ quên giọt máu, lúc dọn đồ rời xóm trọ. Có thể cô ta từng ám chỉ xa xôi, hỏi những câu kiểu như anh có thích con nít không, và Vĩnh vô tư bảo “chỉ nghe thôi đã ớn”. Cô đành câm lặng áp tay lên bụng đứng ngó theo Vĩnh đi mỗi lúc một xa, như phim.
Vĩnh vẫn thường quay kính chiếu hậu vào gương mặt khách, những khi chở phụ nữ trạc tuổi mình, tự hỏi “phải Miền không ?”. Vài lần bị khách bắt quả tang, trừng mắt, “ê, không chơi ngó lén nghen bồ”. Những lần tiệm kiếng quen kêu giao hàng, Vĩnh hay hình dung Miền chạy xe phía sau, người vào tấm kiếng đang dựng dọc lưng nó. Miền từng đến rất gần, nhưng vì những ngăn cách vô tình, hay bởi bắt gặp cái nhìn hờ hững của Vĩnh nên cô lặng lẽ rút lui.
Đứa nhỏ có phải con tôi ? Câu hỏi đó Vĩnh cứ miết thành rãnh trong đầu, lúc kéo sụp cái nón che bớt mặt khi ngang qua trường mẫu giáo. Hàng rào giấu sau nó một thế giới mịt mùng, chưa lần nào Vĩnh thấy trẻ con chạy chơi, không thấy quần áo nhỏ nhắn treo sào phơi, cũng không nghe những bài hát trẻ con vẳng ra từ máy hát. Dãy nhà im ắng lạ lùng, như không người. Đứa bé chỉ tồn tại trên môi của thằng bạn cũ đến số điện thoại cũng không có và ông bảo vệ già lẩn thẩn xua những bà mẹ đến sớm dán mặt vào rào chờ đến giờ đón con “không lo ở nhà quét dọn, lại đứng đây phơi nắng”.
Thằng nhỏ giống ai, ta ? Có lần lỡ để xổng một tia tò mò, Vĩnh phải dập tắt nó bằng cách bẻ ý nghĩ qua bữa nhậu ở quán Gầm Cầu, chút nữa mua cho bé út cái trống lắc, giờ này chắc vợ đã nấu cơm. Làm sao nêm chật những khoảng trống rợn trong đầu.
Chỉ cần bước qua cái cỗng rào xiêu, gõ cửa căn phòng cuối dãy, và đống dây ngờ trói Vĩnh sẽ được tháo bỏ, nhưng nó sớm nản lòng khi hình dung cái gật đầu sẽ sàng. Vĩnh sợ phải chia đời mình trước và sau cái gật đầu, như từng chia quãng trước và sau vụ cháy, mà tàn tro mặn xót Vĩnh còn dọn dẹp đến tận bây giờ. Miền gật, có thể Vĩnh sẽ không bao giờ tìm lại cái trật tự mà thằng đàn ông ba mươi bốn tuổi đã vật vã xếp đặt sao cho vừa vặn với vài công việc tầm thường, với cô vợ và ba đứa con, món tiền điện nước cuối tháng và học phí cho tụi nhỏ.
Cũng không thể phẩy tay coi như mơ. Chẳng cơn mơ nào lại sáng rỡ đến vậy. Màu nắng quạu xế trưa khi thằng bạn kéo tay áo lau mồ hôi, cái nhát gừng lơ đãng của ông bảo vệ già dưới cơn mưa nhỏ, hàng rào oằn hoa xác pháo đỏ cam. Tất cả đều gây nên sự rúng động mỗi khi Vĩnh nghĩ về. Làm gì có chiêm bao bức bối đến nỗi Vĩnh phải lên tiếng bênh một gã bỏ rơi cô bồ nhí báo tin anh ơi bụng em vừa mọc một trái tim. Vợ phì cười, “Người ta chửi thằng trong phim mà, chạm cọng dây nào sao lại lên tiếng”.
Vợ lúc nào cũng cười, lấy phải anh chồng không giàu có, sớm con cái nhóc nheo, nhưng chuyện đó chẳng làm cô thôi thắp lửa trên môi. Nhưng nụ cười đó sẽ tắt xèo đi như lửa mắc mưa, khi Vĩnh nuốt nước bọt nói em à, chuyện là hồi trước anh có quen sơ một con nhỏ, nó không nói không rằng đẻ con cho anh, vậy đó.
Lúc bước vào vuông sân khu tập thể, Vĩnh không biết vì bọt bia bốc lên đầu, vì hôm qua con gái méc bạn réo tên ba ra chửi, mà nó không thể đáp trả xứng đáng vì thằng kia không có ba. Vì những giấc mơ mà Vĩnh không sao nhớ nổi, nhưng vợ kể anh đã khóc thút thít rất tội. Hay bởi vừa nãy ngang qua dãy rào xác pháo, Vĩnh nhìn thấy một chiếc xe ba bánh của con nít nằm vắt trên miệng thùng rác, bánh xe trước long ra, rớt rời. Chiếc xe như một chiến binh hết thời, nằm buồn với những vết thương được băng bó tạm bợ bằng dây dù, sợi vải.
Đẩy cái cỗng rào hờ hững có cũng như không, Vĩnh như mộng du, không biết vừa rồi là mở ra hay khép lại. Thấy hơi xây xẩm, đi mãi gần hai năm mới đặt chân lên cái thềm nhà này.
Và cánh cửa ở căn phòng cuối dãy mở vừa đủ cho vệt sáng ngã dài trên cái đầu nhấp nhô lô cuốn. Người đàn bà không chút ngạc nhiên nào trong ánh mắt, giọng bình thản như mới vừa gặp Vĩnh hôm qua :
- Vĩnh tới rồi ha. Vô chơi, anh !
Published on January 29, 2015 20:28
January 23, 2015
Mương rộng hào sâu
Mương rộng hào sâuTản văn : Nguyễn Ngọc Tư
Hồi đầu cũng không ai nghĩ tới chuyện làm một ranh giới giữa hai nhà.
Con mương được đào chỉ vì lúc lập vườn, người ta cần đất để lên liếp, đắp bờ, trồng mấy thứ cây ăn trái lâu năm. Mùa gặt, lần xuồng theo đường nước ấy chở lúa từ ngoài ruộng sau về sân phơi cũng tiện. Vậy là giữa hai khu vườn hai nóc gia có một con mương rộng chừng hai, ba thước tây, chạy dài đến hết đất.
Những thứ cây mọc hai bên bờ mương không quan tâm đó là biên giới, tầng lá đan vào nhau. Gốc ổi sẻ vườn kia vẫn vô tư rụng trái chín vườn này. Rau muống, cần nước mọc chen nhau, nhà nào muốn ăn nấy hái. Bầy gà cứ bay qua bay lại, bạ đâu đẻ đó, gốc chuối đống rơm, không quan tâm chuyện trứng nằm vườn nào mới phải. Giàn bầu, mướp vắt dây qua mương, trái phía đâu cũng thơm phức nồi canh nấu với tép đất. Đoạn giữa mương bắc cây tre hay thân so đũa cho tiện qua lại sẻ chia vài viên chè trôi nước, mượn ít tỏi tiêu những ngày chưa thể đi chợ xa, mà khỏi phải vòng ra lộ cái. Vườn dày cỏ tới cỡ nào, cũng có con đường mòn mà người hai nhà thường đi tắt để qua lại với nhau.
Và đám con nít cũng tự do như ong và chim, không coi con mương là thứ ngăn trở, bất tiện. Mùa khô, mương cạn lòng, không cần cầu tre, tụi nhỏ chỉ phóng vèo đã qua vườn khác. Lúc bà mẹ kêu ới đứa trẻ vẫn còn lăn lóc đất láng giềng, nhưng nó lên tiếng dạ thì đặt chân bờ liếp nhà mình. Vậy là tránh được tội “suốt ngày xách đít đi chơi bên xóm”. Thằng nhỏ nhà này cũng hay oằn nhánh bình bát cho con bé nhà kia hái trái chín đem dầm đường.
Gần tết nước giựt lộ nửa vách mương, mùa đìa. Tụi nhỏ hai nhà rủ rê nhau đắp chặn từng đoạn mương bắt cá. Lựa mấy con lóc, trê vàng lớn nhất đốt lửa nướng trui cùng ăn bên bờ mương, mớ cá còn lại chia đều cho hai căn bếp, bữa cơm cũng phải rủng rỉnh đến tận một tuần. Lá rụng vào mương cứ mỗi năm mỗi dày, hai nhà thay phiên đào một vài lớp bùn nhão bồi lên gốc dừa. Thứ đất tan chảy vào đâu, cây oằn nhánh sai trái ở đó.
Những con mương ranh cứ nằm thanh thản giữa bao nhiêu khu vườn miền Hạ, với cá trong lòng và bèo trên mặt nước, với tiếng trái rụng sau cú chao mình của lũ chim đêm, với những cuộc lại qua của con người bất chấp đôi bờ xa hơn một tầm tay với. Mương luôn bị vượt qua một cách dễ dàng, bằng cách người quăng kẻ bắt lấy những món bánh nhà quê thơm thảo, hay cú đu nhánh cây để búng mình sang bờ gọn bân của trẻ con. Gặp buổi cùng làm cỏ vườn, cuộc trò chuyện của người hai nhà không vì mương nước lạnh mà thôi giòn giã. Nhất là khoảng tháng tư cuối hạn khi lòng mương cạn tới đáy, cây mọc hoang dại hai bờ đã được đốn làm củi chụm, mương chỉ là một hõm đất trũng đến gà con cũng có thể băng qua.
Lúc ấy ai mà biết được đến một ngày, cũng những đứa trẻ ngày xưa, ai có gậy cầm gậy ai có dao cầm dao, máu vằn tia lên mắt, đứng hai bên bờ lăm le xông vào nhau chỉ vì cái ranh đất đổ bằng tê tông không thẳng. Xê dịch một tấc, nghĩa là được/ mất một tấc vàng. Ông bà mình xưa giờ nói đâu trúng phóc đó, đâu có giỡn chơi.
Tên người không đổi, vẫn là Tư Chèo Bẻo, Sáu Đực, Út Lớn, nhưng thời gian và cuộc mưu sinh đã sắm cho đám trẻ xưa những gương mặt vằn vện, gai góc. Con mương ranh lâu rồi không còn ai đào đất bồi liếp, giờ cạn chỉ săm sắp nước vào mùa mưa. Mọi thứ phơi ra hết, nhưng khó mà tả được cái rộng, sâu của làn nước lạnh lẽo trong tâm tính con người.
Con mương ranh mà người hai nhà từng cùng tắm táp sau buổi làm đồng về, giờ họ cùng tắm hằn thù hung hiểm.
Hồi đầu cũng không ai nghĩ tới chuyện làm một ranh giới giữa hai nhà.
Con mương được đào chỉ vì lúc lập vườn, người ta cần đất để lên liếp, đắp bờ, trồng mấy thứ cây ăn trái lâu năm. Mùa gặt, lần xuồng theo đường nước ấy chở lúa từ ngoài ruộng sau về sân phơi cũng tiện. Vậy là giữa hai khu vườn hai nóc gia có một con mương rộng chừng hai, ba thước tây, chạy dài đến hết đất.
Những thứ cây mọc hai bên bờ mương không quan tâm đó là biên giới, tầng lá đan vào nhau. Gốc ổi sẻ vườn kia vẫn vô tư rụng trái chín vườn này. Rau muống, cần nước mọc chen nhau, nhà nào muốn ăn nấy hái. Bầy gà cứ bay qua bay lại, bạ đâu đẻ đó, gốc chuối đống rơm, không quan tâm chuyện trứng nằm vườn nào mới phải. Giàn bầu, mướp vắt dây qua mương, trái phía đâu cũng thơm phức nồi canh nấu với tép đất. Đoạn giữa mương bắc cây tre hay thân so đũa cho tiện qua lại sẻ chia vài viên chè trôi nước, mượn ít tỏi tiêu những ngày chưa thể đi chợ xa, mà khỏi phải vòng ra lộ cái. Vườn dày cỏ tới cỡ nào, cũng có con đường mòn mà người hai nhà thường đi tắt để qua lại với nhau.
Và đám con nít cũng tự do như ong và chim, không coi con mương là thứ ngăn trở, bất tiện. Mùa khô, mương cạn lòng, không cần cầu tre, tụi nhỏ chỉ phóng vèo đã qua vườn khác. Lúc bà mẹ kêu ới đứa trẻ vẫn còn lăn lóc đất láng giềng, nhưng nó lên tiếng dạ thì đặt chân bờ liếp nhà mình. Vậy là tránh được tội “suốt ngày xách đít đi chơi bên xóm”. Thằng nhỏ nhà này cũng hay oằn nhánh bình bát cho con bé nhà kia hái trái chín đem dầm đường.
Gần tết nước giựt lộ nửa vách mương, mùa đìa. Tụi nhỏ hai nhà rủ rê nhau đắp chặn từng đoạn mương bắt cá. Lựa mấy con lóc, trê vàng lớn nhất đốt lửa nướng trui cùng ăn bên bờ mương, mớ cá còn lại chia đều cho hai căn bếp, bữa cơm cũng phải rủng rỉnh đến tận một tuần. Lá rụng vào mương cứ mỗi năm mỗi dày, hai nhà thay phiên đào một vài lớp bùn nhão bồi lên gốc dừa. Thứ đất tan chảy vào đâu, cây oằn nhánh sai trái ở đó.
Những con mương ranh cứ nằm thanh thản giữa bao nhiêu khu vườn miền Hạ, với cá trong lòng và bèo trên mặt nước, với tiếng trái rụng sau cú chao mình của lũ chim đêm, với những cuộc lại qua của con người bất chấp đôi bờ xa hơn một tầm tay với. Mương luôn bị vượt qua một cách dễ dàng, bằng cách người quăng kẻ bắt lấy những món bánh nhà quê thơm thảo, hay cú đu nhánh cây để búng mình sang bờ gọn bân của trẻ con. Gặp buổi cùng làm cỏ vườn, cuộc trò chuyện của người hai nhà không vì mương nước lạnh mà thôi giòn giã. Nhất là khoảng tháng tư cuối hạn khi lòng mương cạn tới đáy, cây mọc hoang dại hai bờ đã được đốn làm củi chụm, mương chỉ là một hõm đất trũng đến gà con cũng có thể băng qua.
Lúc ấy ai mà biết được đến một ngày, cũng những đứa trẻ ngày xưa, ai có gậy cầm gậy ai có dao cầm dao, máu vằn tia lên mắt, đứng hai bên bờ lăm le xông vào nhau chỉ vì cái ranh đất đổ bằng tê tông không thẳng. Xê dịch một tấc, nghĩa là được/ mất một tấc vàng. Ông bà mình xưa giờ nói đâu trúng phóc đó, đâu có giỡn chơi.
Tên người không đổi, vẫn là Tư Chèo Bẻo, Sáu Đực, Út Lớn, nhưng thời gian và cuộc mưu sinh đã sắm cho đám trẻ xưa những gương mặt vằn vện, gai góc. Con mương ranh lâu rồi không còn ai đào đất bồi liếp, giờ cạn chỉ săm sắp nước vào mùa mưa. Mọi thứ phơi ra hết, nhưng khó mà tả được cái rộng, sâu của làn nước lạnh lẽo trong tâm tính con người.
Con mương ranh mà người hai nhà từng cùng tắm táp sau buổi làm đồng về, giờ họ cùng tắm hằn thù hung hiểm.
Published on January 23, 2015 17:59
January 18, 2015
Chăn vịt trên đất Pháp


Sách vừa ra ở Pháp. Bà con ở Pháp có thể mua về tặng cho...hàng xóm :p. Tạm lánh vào những cánh đồng vào giai đoạn dầu sôi lửa bỏng này vậy :p
Published on January 18, 2015 19:25
December 7, 2014
Chương 63 :p
Nhí quay lại Nhơn Thành, người trong xóm ra trước nhà chờ đón. Mẹ Nhí đi cùng con cả một đoạn đường dài, không biết trên máy bay có khóc, nhưng đến đầu xóm mặt giăng một màn nước mắt, chân bước hụt bước hao. Ai cũng kêu mau quá, đám gả Nhí như mới đây thôi, bữa đó nó còn giòn rụm nói cười, hát “60 năm cuộc đời”, giờ thành tro nguội bụi lạnh.
Nhí lấy chồng đúng đợt mưa dầm tháng Bảy, truyền hình nói ngoài biển có hai cơn áp thấp nhiệt đới đang rượt đuổi nhau. Người trong xóm rũ nước mưa lúc bước qua cỗng vòng nguyệt, càm ràm riết rồi cưới gả cũng không chờ nắng cho vui.
Nhưng chờ gió chướng lùa nắng về lại Nhơn Thành thì cũng phải vài ba tháng nữa. Chú rễ chỉ được ở lại tròn tháng. Ba mươi ngày cho tất cả những chuyện từ coi mắt cho đến lễ cưới, từ dòm coi chân Nhí có cong không cho đến da có bị chàm hay nấm mốc không. Làm lễ chào hai họ xong chú rễ sẽ bay ngay về nước không kịp thở.
Đi Sài Gòn bữa trước, vài tối sau Nhí dắt chồng tương lai về, sửa soạn đám cưới trong lúc đợi làm giấy tờ hôn thú. Tên chồng mỗi chữ Hi-ếc trên cái thiếp mời viết đổ tháu hệt cua bò trong giỏ. Ai nhận thiệp cũng kêu ui trời mau quá, con nhỏ mới đây còn bưng thau đi dài xóm mượn gạo mà giờ đã lấy chồng rồi. Trong lằn rãnh nhớ của người Nhơn Thành chỉ có Nhí kéo tép rong, Nhí vớt bèo, Nhí chạy quắn trước ngọn roi cha mẹ nó, Nhí xin nước mắm thì kèo thêm tóp mỡ. Không có Nhí cô dâu.
Mát trời Nhí kéo Hi-ếc ra đứng trước rào, chờ hàng xóm ngang qua níu lại khoe chồng sắp cưới. Thợ cơ khí, con một, cha mẹ chết hết rồi Nhí khỏi phải làm dâu. Nhà bên đó rộng lắm, có sân vườn. “Coi mặt già chát vậy chớ chưa lấy vợ lần nào”, bằng cái giọng như hiểu biết sâu sắc người mình sắp cưới, Nhí quả quyết “thằng chả không điên”.
Trên giấy tờ ghi vậy, rõ ràng. Nhưng người ta vẫn thấy con đường Nhí sắp nắm tay thằng Hi-ếc đi cứ lẫn trong những giồng khói đốt đồng mù đặc. Lơ mơ một bầy con gái xếp hàng, đeo số cho người ta coi mắt. Chú rễ gật đầu chọn cô Hai Mươi Sáu lấy làm vợ mà không biết nết na con nhỏ sao, bếp nhà nó có sạch, cơm nó nấu có ngon. Sau này chồng Nhí nói thích nó cao nhứt đám, bù cho anh chưa đầy thước sáu, hy vọng sinh con cao ráo. Mẹ Nhí hỏi chàng rễ bao nhiêu tuổi, nghe xong gật gù “vậy là con lớn hơn mẹ hai tuổi”.
Nhí thường kéo bạn bên xóm lại, ngồi đưa chuyện trên rễ cây hoàng thổ mọc gồ bên mé sông, lâu lâu sực nhớ ngó chồng đang tha thẩn cách đó mấy bước chân, Nhí kêu “Hi-ếc ! Bà cố nội cha mày !”. Mắt anh kia sáng lên bởi thứ tiếng ngôn ngữ bí hiểm như phù thủy yểm bùa của một dân tộc xa lạ. Tưởng Nhí nói yêu mình, miệng anh nhếch cười hệt cỏ mọc trên ruộng nẻ. “Thằng chả mà cười hết cỡ thì mặt dúm như đít dừa khô”, chồng sát một bên mà giọng Nhí vẫn giòn rụm không chút dè chừng, “Thấy ghê. Đã vậy mà còn gãy hết mấy cái răng. Nhưng tắt đèn, tưởng tượng đang ôm Lương Triều Vỹ thì cũng xong thôi”.
Tưởng tượng thì Nhí quá giỏi.
Không chút đất nhét móng tay, nhà gá hờ ven đám lá mé sông, cha mẹ lay lắt gặt mướn làm cỏ thuê, chị em Nhí vẫn có cách đi qua mùa thơ dại khô cằn. Củ chuối luộc hóa bánh mì kẹp thịt quay, áo vá thành áo đầm, vạc tre là giường nệm, chỉ cần rắc chút xíu bột ảo tưởng lên. Giàu tưởng tượng, con Nhí nghèo rã chẳng bao giờ tỏ ra mặc cảm, tủi thân. Mặt nó vẫn ngời mỗi khi qua hàng xóm xin tương tàu về kho quẹt, ai mà đoán nổi nó nghĩ tới gà xé phay hay vịt rang gừng. Vách nhà thưa lọt gió, không ngăn cản được Nhí tưởng đang ngủ nhà lầu.
Chỉ hôm cưới, đầu đội bông đứng trước cỗng vòng nguyệt chụp ảnh, dưới những bó chớp giãy ngùng ngoằng như bị bóp cổ của tháng Ngâu, không biết Nhí tưởng tượng gì mà xụ mặt. Mụ nội mày Hi-ếc, nó gượng nói với chồng khi ông thợ ảnh kêu hai đứa kém tươi.
Đàn bà Nhơn Thành vẫn thường nói cụt lủn vậy, và nhận lại từ chồng một cú đạp vào bụng, hoặc cái tát cháy má, bị nắm đầu vặt tóc như nhổ mạ. Chỉ chồng Nhí là hí hửng cười khoái chí, mỗi khi vợ buông lời hờn giận cuộc đời. Không biết tiếng nhau hay ở chỗ đó.
Nên lời yêu vẫn vang trong ngôi nhà nhỏ xóm núi Pusan, nơi Nhí – đàn – bà sống trong hai năm rưỡi. Những buổi tối anh chồng tài tử xi nê nồng rượu gạo trở về, đôi lúc dịu dàng nựng nó bằng mấy cú thoi. Quê chồng mà Nhí gửi về qua những cuộc gọi, không phân biệt được đâu là thực đâu là tưởng. Làng đầy hoa và bướm bay, bữa tối thơm phức thịt nướng, ăn xong nó ngồi giũa móng tay ngó anh chồng đang rửa chén kêu “nhẹ tay thôi, bà cố nội mẹ mày, Hi-ếc”. Chồng cười toe kêu cưng nói nữa đi. Hi-ếc, mồ tổ cha mày.
Thiên đường được dệt lại qua đôi môi mẹ Nhí vừa xăm đỏ màu như cháy, trong tiếng vòng vàng xủng xẻng cổ tay bà, và tiếng mấy anh giao tủ lạnh, ti vi ghé dọc đường hỏi thăm nhà Nhí, tiếng mấy đứa em nó mở dàn máy ca rền cuối xóm làm Nhơn Thành rạo rực. Tụi con gái trong xóm rủ nhau đi tìm những anh Hi-ếc khác.
Ngay cả Nhí, người ra đi đầu tiên đã trở về, trong giỏ mẹ. Bà vẫn băn khoăn con nhỏ bốn mươi bảy ký, giờ sao chỉ còn vài nắm, không biết người ta có đốt sót mẩu nào không. Giây phút bị chồng nắm tóc dìm đầu vào bồn tắm đầy nước cho đến lúc thôi sủi tăm, Nhí có nghĩ mình đang lặn vào sông Muống như hồi nhỏ đua với bạn coi ai nhịn thở lâu, hay ngắm san hô vịnh Nha Trang, không ai biết.
Nghe cảnh sát kể lúc còng tay Hi-ếc, anh ngọng ngịu xổ những lời (tưởng đâu) yêu thương học lóm tiếng nước vợ. Tổ cha mày, Nhí. Tao say quá nên lỡ tay thôi. Tao xin lỗi Nhí ơi, mụ nội mày.
P/s : Nhân dịp chẳng có dịp gì để nhân dịp, mình sẽ tặng 10 cuốn Sông có chữ ký, cho 10 bạn nào để lại tên và địa chỉ chính xác (để có thể nhận sách qua đường bưu điện)
Nhí lấy chồng đúng đợt mưa dầm tháng Bảy, truyền hình nói ngoài biển có hai cơn áp thấp nhiệt đới đang rượt đuổi nhau. Người trong xóm rũ nước mưa lúc bước qua cỗng vòng nguyệt, càm ràm riết rồi cưới gả cũng không chờ nắng cho vui.
Nhưng chờ gió chướng lùa nắng về lại Nhơn Thành thì cũng phải vài ba tháng nữa. Chú rễ chỉ được ở lại tròn tháng. Ba mươi ngày cho tất cả những chuyện từ coi mắt cho đến lễ cưới, từ dòm coi chân Nhí có cong không cho đến da có bị chàm hay nấm mốc không. Làm lễ chào hai họ xong chú rễ sẽ bay ngay về nước không kịp thở.
Đi Sài Gòn bữa trước, vài tối sau Nhí dắt chồng tương lai về, sửa soạn đám cưới trong lúc đợi làm giấy tờ hôn thú. Tên chồng mỗi chữ Hi-ếc trên cái thiếp mời viết đổ tháu hệt cua bò trong giỏ. Ai nhận thiệp cũng kêu ui trời mau quá, con nhỏ mới đây còn bưng thau đi dài xóm mượn gạo mà giờ đã lấy chồng rồi. Trong lằn rãnh nhớ của người Nhơn Thành chỉ có Nhí kéo tép rong, Nhí vớt bèo, Nhí chạy quắn trước ngọn roi cha mẹ nó, Nhí xin nước mắm thì kèo thêm tóp mỡ. Không có Nhí cô dâu.
Mát trời Nhí kéo Hi-ếc ra đứng trước rào, chờ hàng xóm ngang qua níu lại khoe chồng sắp cưới. Thợ cơ khí, con một, cha mẹ chết hết rồi Nhí khỏi phải làm dâu. Nhà bên đó rộng lắm, có sân vườn. “Coi mặt già chát vậy chớ chưa lấy vợ lần nào”, bằng cái giọng như hiểu biết sâu sắc người mình sắp cưới, Nhí quả quyết “thằng chả không điên”.
Trên giấy tờ ghi vậy, rõ ràng. Nhưng người ta vẫn thấy con đường Nhí sắp nắm tay thằng Hi-ếc đi cứ lẫn trong những giồng khói đốt đồng mù đặc. Lơ mơ một bầy con gái xếp hàng, đeo số cho người ta coi mắt. Chú rễ gật đầu chọn cô Hai Mươi Sáu lấy làm vợ mà không biết nết na con nhỏ sao, bếp nhà nó có sạch, cơm nó nấu có ngon. Sau này chồng Nhí nói thích nó cao nhứt đám, bù cho anh chưa đầy thước sáu, hy vọng sinh con cao ráo. Mẹ Nhí hỏi chàng rễ bao nhiêu tuổi, nghe xong gật gù “vậy là con lớn hơn mẹ hai tuổi”.
Nhí thường kéo bạn bên xóm lại, ngồi đưa chuyện trên rễ cây hoàng thổ mọc gồ bên mé sông, lâu lâu sực nhớ ngó chồng đang tha thẩn cách đó mấy bước chân, Nhí kêu “Hi-ếc ! Bà cố nội cha mày !”. Mắt anh kia sáng lên bởi thứ tiếng ngôn ngữ bí hiểm như phù thủy yểm bùa của một dân tộc xa lạ. Tưởng Nhí nói yêu mình, miệng anh nhếch cười hệt cỏ mọc trên ruộng nẻ. “Thằng chả mà cười hết cỡ thì mặt dúm như đít dừa khô”, chồng sát một bên mà giọng Nhí vẫn giòn rụm không chút dè chừng, “Thấy ghê. Đã vậy mà còn gãy hết mấy cái răng. Nhưng tắt đèn, tưởng tượng đang ôm Lương Triều Vỹ thì cũng xong thôi”.
Tưởng tượng thì Nhí quá giỏi.
Không chút đất nhét móng tay, nhà gá hờ ven đám lá mé sông, cha mẹ lay lắt gặt mướn làm cỏ thuê, chị em Nhí vẫn có cách đi qua mùa thơ dại khô cằn. Củ chuối luộc hóa bánh mì kẹp thịt quay, áo vá thành áo đầm, vạc tre là giường nệm, chỉ cần rắc chút xíu bột ảo tưởng lên. Giàu tưởng tượng, con Nhí nghèo rã chẳng bao giờ tỏ ra mặc cảm, tủi thân. Mặt nó vẫn ngời mỗi khi qua hàng xóm xin tương tàu về kho quẹt, ai mà đoán nổi nó nghĩ tới gà xé phay hay vịt rang gừng. Vách nhà thưa lọt gió, không ngăn cản được Nhí tưởng đang ngủ nhà lầu.
Chỉ hôm cưới, đầu đội bông đứng trước cỗng vòng nguyệt chụp ảnh, dưới những bó chớp giãy ngùng ngoằng như bị bóp cổ của tháng Ngâu, không biết Nhí tưởng tượng gì mà xụ mặt. Mụ nội mày Hi-ếc, nó gượng nói với chồng khi ông thợ ảnh kêu hai đứa kém tươi.
Đàn bà Nhơn Thành vẫn thường nói cụt lủn vậy, và nhận lại từ chồng một cú đạp vào bụng, hoặc cái tát cháy má, bị nắm đầu vặt tóc như nhổ mạ. Chỉ chồng Nhí là hí hửng cười khoái chí, mỗi khi vợ buông lời hờn giận cuộc đời. Không biết tiếng nhau hay ở chỗ đó.
Nên lời yêu vẫn vang trong ngôi nhà nhỏ xóm núi Pusan, nơi Nhí – đàn – bà sống trong hai năm rưỡi. Những buổi tối anh chồng tài tử xi nê nồng rượu gạo trở về, đôi lúc dịu dàng nựng nó bằng mấy cú thoi. Quê chồng mà Nhí gửi về qua những cuộc gọi, không phân biệt được đâu là thực đâu là tưởng. Làng đầy hoa và bướm bay, bữa tối thơm phức thịt nướng, ăn xong nó ngồi giũa móng tay ngó anh chồng đang rửa chén kêu “nhẹ tay thôi, bà cố nội mẹ mày, Hi-ếc”. Chồng cười toe kêu cưng nói nữa đi. Hi-ếc, mồ tổ cha mày.
Thiên đường được dệt lại qua đôi môi mẹ Nhí vừa xăm đỏ màu như cháy, trong tiếng vòng vàng xủng xẻng cổ tay bà, và tiếng mấy anh giao tủ lạnh, ti vi ghé dọc đường hỏi thăm nhà Nhí, tiếng mấy đứa em nó mở dàn máy ca rền cuối xóm làm Nhơn Thành rạo rực. Tụi con gái trong xóm rủ nhau đi tìm những anh Hi-ếc khác.
Ngay cả Nhí, người ra đi đầu tiên đã trở về, trong giỏ mẹ. Bà vẫn băn khoăn con nhỏ bốn mươi bảy ký, giờ sao chỉ còn vài nắm, không biết người ta có đốt sót mẩu nào không. Giây phút bị chồng nắm tóc dìm đầu vào bồn tắm đầy nước cho đến lúc thôi sủi tăm, Nhí có nghĩ mình đang lặn vào sông Muống như hồi nhỏ đua với bạn coi ai nhịn thở lâu, hay ngắm san hô vịnh Nha Trang, không ai biết.
Nghe cảnh sát kể lúc còng tay Hi-ếc, anh ngọng ngịu xổ những lời (tưởng đâu) yêu thương học lóm tiếng nước vợ. Tổ cha mày, Nhí. Tao say quá nên lỡ tay thôi. Tao xin lỗi Nhí ơi, mụ nội mày.
P/s : Nhân dịp chẳng có dịp gì để nhân dịp, mình sẽ tặng 10 cuốn Sông có chữ ký, cho 10 bạn nào để lại tên và địa chỉ chính xác (để có thể nhận sách qua đường bưu điện)
Published on December 07, 2014 19:43
September 28, 2014
Lại một chương
Một buổi tối của tuổi mười lăm, cô Chín Tím được tìm thấy dưới chân cầu Tân Thạnh. Rách mướp, nhưng tay cô nắm chặt tới mức người ta chỉ có thể mở ra từng ngón một. Giữa lòng tay xanh lạnh, là một cái nút áo.
Tròn, màu trắng đục gợn nâu, vật chứng duy nhất cô Tím tóm được kẻ thủ ác đã chuyền qua tay từng người trong xóm, với hy vọng ai đó từng nhìn thấy nó hoặc anh em còn lại của nó. Cái nút có thể bị bứt ra từ áo trắng học trò, áo xám của anh đò dọc, áo kẻ của ông thầy giáo, áo chim cò của mấy thằng người hay ôm gà nòi đi cáp độ.
Nhưng chỉ có vậy, của bất cứ ai, bằng nhựa, lợn cợn trắng nâu, chỗ đính chỉ vô áo bị gãy, cái nút không nói gì không kể gì thêm. Người có thể kể thì lơ tơ mơ mỗi chuyện mình bị bịt miệng từ phía sau bởi một cánh tay cứng đanh, sau đó ngất luôn không biết chi trời đất.
Thiêm thiếp trên chiếc giường trạm xá, đôi lần tỉnh dậy cô Tím lại dập đầu vào tường, người ta phải nhồi thêm thuốc ngủ cho cô lịm đi. Ai tới thăm bà nội thắc thỏm mỗi câu “thiệt là quân ác nhơn, không lấy gì đắp cho con nhỏ”, như thể chuyện con gái bà phơi lạnh quan trọng hơn hết thảy chuyện khác.
- Khóc chừng nửa năm thì tôi nín. Anh cũng biết đó, nước mắt đâu mà khóc hoài.
Làm ra vẻ dửng dưng, cô Tím kết câu chuyện của mình, để giải thích cho anh con trai hiểu sao qua tuổi ba mươi mà cô chưa chồng, sao cổ cô đeo sợi dây chuyền bạc xỏ qua một cái nút áo. Cuộc coi mắt sẽ kết thúc ở đó, nhưng có khi kết thúc ngay lúc người con trai ghé cái quán đầu xóm để hỏi nhà Chín Tím. Phải Tím Nút Áo thì qua doi kia là tới. Vụ nút áo là sao hả ? Vầy, hồi con nhỏ mười lăm tuổi…
Chắc phải bỏ xứ đi con Tím mới mong kiếm được tấm chồng, bà nội hay rên rỉ vậy. Nhưng cô phải ở lại, hy vọng tìm được kẻ hại mình. Gã phải là người trong xóm mới thuộc lòng những chiều thứ sáu, cô Tím về nghỉ cuối tuần, xe lam chạy từ chợ về tới đầu xóm thì trời đã nhập nhoạng. Phải là người trong xóm mới đánh ngất cô để khỏi bị nhận mặt. Trong tay chỉ có cái nút áo câm, không đủ làm ra công lý của người, nhưng cô tin luật trời, thằng bất lương đó phải có khi lơ là mặc lại cái áo có hàng nút tật nguyền, hoặc sẽ biến sắc khi nhìn thấy dấu vết tội ác lủng lẳng trên cổ cô.
Suốt nửa năm dành cho việc khóc, cô Tím trốn ở trong nhà, thế giới của cô chỉ từ cửa giữa ra sau bếp. Nếu không phải nấu cơm giặt giũ cô sẽ săm soi nút áo, như nuốt trộng bằng mắt, ghi khắc, đóng đinh nó vào lòng mình. Một bữa cô Tím hỉ mũi cái rột, lấy cùi tay lau nước mắt, nói với chị dâu, mai đi coi cúng đình.
Chín Tím bắt đầu lảng vảng những chỗ đông người. Hay đi bộ ngoài đường, gặp người đàn ông nào cũng nhìn nghiến ngấu. Chẳng quan tâm mặt mũi vuông hay tròn, chân ngắn hay cong, chỉ nghĩ coi mặt họ có biến sắc không, áo có đứt nút không. Kẻ bất lương đang núp sau mặt nạ của anh Bảy dượng Ba, những người đàn ông sớm xỉn chiều say, hay chính ông ấp trưởng có ánh nhìn lén lút, không chừng. Cô tin mình sẽ nhận ra gã bằng thứ linh cảm được chuốt nhọn trong từng ấy tháng ngày. Mùi mồ hôi tay, hơi thở dày như tát lửa vào gáy cô, và tiếng tim gã lồng lên trong ngực. Chắc chắn mình sẽ bắt được quân bất nhân đó, cô Tím nghĩ vậy.
Bà nội tự dưng lo, “coi chừng gánh nút áo còng lưng”. Quãng đó bên sông có anh thợ máy nhờ mối mai qua hỏi cưới. Cô Tím cũng hơi xiêu lòng, nghĩ hôm cưới sẽ mời đông, biết đâu oan gia của mình cũng tới. Bữa Thợ Máy xách cặp vịt qua nhà xuống mối, nhìn thấy nút áo trên cổ cô Chín, anh chết lịm. Anh bảo từ đẻ ra đã sợ nút áo rồi, nên mặc toàn áo thun tròng cổ, cũng không biết sao lại sợ, chắc kiếp trước bị một vốc nút chèn ngang họng chết oan. Cứ thấy nút áo Thợ Máy sẽ không thở nổi, mà Tím thì lúc nào cũng treo tòng teng trước ngực, cưới nhau sao giờ.
Chỉ cần gói cái nút giấu đáy tủ hay quăng phứt ra vườn, là tháng Giêng sang năm có pháo rước dâu, bà nội rên rẫm. Chín Tím đóng cửa buồng nói vọng ra, “vậy khác gì bỏ qua cho nó”. Chủ nhân của nút áo giờ biết đâu đang nằm tréo nguẩy cho vợ nhổ tóc bạc, hay thảnh thơi lắc võng ca vọng cổ, biết đâu ngồi coi đá cá lia thia. Hình dung đó làm cô Tím thấy mình bốc khói. Phải có ai đó trả giá cho cái cảm giác buốt ruột, buồn ói mỗi khi bước qua cầu Tân Thạnh, cho những ánh mắt thương hại dính vào người, cho tuổi hai mươi héo rượi.
- Tôi mà đi theo anh rồi thì tụi vô lương đó sẽ thảnh thơi đã đời, vậy đâu được.
Sau câu nói đó, thêm một người đàn ông ra về khi vừa mới ngồi ấm chỗ bàn trà nhà nội. Anh này không ghê nút áo, chỉ ở hơi xa. Cô Tím không ngại lấy chồng cách nhà mười ba cây số, cảnh lạ người lạ, cọ bụng chồng sẽ làm mối thù mòn mỏi. Nút áo còn cô còn nhớ mình từng tơ tướp bên cỏ chân cầu. Nhưng cái sự vắng mặt của cô sẽ làm nó thoát nơm nớp ám ảnh, vậy thì ông trời làm gì có mắt. Chín Tím chọn làm gai, không làm đàn bà nữa.
Một bữa bà nội lén cắt sợi dây chuyền lúc con gái ngủ trưa, bà nội quăng cả dây và nút áo xuống ao bông súng. Ai ngờ chỉ chút xíu vầy mà nặng, bà nội nghĩ vậy khi nhìn những vòng sóng dần lặng, nước khỏa dấu vết của cái nút áo vừa chìm xuống. “Bỏ đi. Sống đi. Sống như thiên hạ vậy”, bà trệu trạo bảo khi Chín Tím dậy quờ quạng cái cổ trống không. “Họ đâu có nằm phơi bụng dưới chân cầu”, cô cãi, chậm rãi ra ngoài ao bông súng không phải để nhìn bông súng. Bà nội mướn người bơm đất lấp ao, cảm thấy hành động ấy quá chừng vô vọng. cô Tím vẫn nhìn thấy bên dưới cỏ, dưới rễ cây mít, dưới từng lớp đất nâu nhão nhoét, có cái nút áo.
Nọc con rắn hổ đất chạy từ cổ chân lên tim cô Tím vào năm cô bốn mươi hai tuổi. Nhưng người ta cảm giác cô chết lâu rồi, đã lâu linh hồn chôn cùng cái nút áo.
Tròn, bằng nhựa cứng, trắng gợn nâu.
Tròn, màu trắng đục gợn nâu, vật chứng duy nhất cô Tím tóm được kẻ thủ ác đã chuyền qua tay từng người trong xóm, với hy vọng ai đó từng nhìn thấy nó hoặc anh em còn lại của nó. Cái nút có thể bị bứt ra từ áo trắng học trò, áo xám của anh đò dọc, áo kẻ của ông thầy giáo, áo chim cò của mấy thằng người hay ôm gà nòi đi cáp độ.
Nhưng chỉ có vậy, của bất cứ ai, bằng nhựa, lợn cợn trắng nâu, chỗ đính chỉ vô áo bị gãy, cái nút không nói gì không kể gì thêm. Người có thể kể thì lơ tơ mơ mỗi chuyện mình bị bịt miệng từ phía sau bởi một cánh tay cứng đanh, sau đó ngất luôn không biết chi trời đất.
Thiêm thiếp trên chiếc giường trạm xá, đôi lần tỉnh dậy cô Tím lại dập đầu vào tường, người ta phải nhồi thêm thuốc ngủ cho cô lịm đi. Ai tới thăm bà nội thắc thỏm mỗi câu “thiệt là quân ác nhơn, không lấy gì đắp cho con nhỏ”, như thể chuyện con gái bà phơi lạnh quan trọng hơn hết thảy chuyện khác.
- Khóc chừng nửa năm thì tôi nín. Anh cũng biết đó, nước mắt đâu mà khóc hoài.
Làm ra vẻ dửng dưng, cô Tím kết câu chuyện của mình, để giải thích cho anh con trai hiểu sao qua tuổi ba mươi mà cô chưa chồng, sao cổ cô đeo sợi dây chuyền bạc xỏ qua một cái nút áo. Cuộc coi mắt sẽ kết thúc ở đó, nhưng có khi kết thúc ngay lúc người con trai ghé cái quán đầu xóm để hỏi nhà Chín Tím. Phải Tím Nút Áo thì qua doi kia là tới. Vụ nút áo là sao hả ? Vầy, hồi con nhỏ mười lăm tuổi…
Chắc phải bỏ xứ đi con Tím mới mong kiếm được tấm chồng, bà nội hay rên rỉ vậy. Nhưng cô phải ở lại, hy vọng tìm được kẻ hại mình. Gã phải là người trong xóm mới thuộc lòng những chiều thứ sáu, cô Tím về nghỉ cuối tuần, xe lam chạy từ chợ về tới đầu xóm thì trời đã nhập nhoạng. Phải là người trong xóm mới đánh ngất cô để khỏi bị nhận mặt. Trong tay chỉ có cái nút áo câm, không đủ làm ra công lý của người, nhưng cô tin luật trời, thằng bất lương đó phải có khi lơ là mặc lại cái áo có hàng nút tật nguyền, hoặc sẽ biến sắc khi nhìn thấy dấu vết tội ác lủng lẳng trên cổ cô.
Suốt nửa năm dành cho việc khóc, cô Tím trốn ở trong nhà, thế giới của cô chỉ từ cửa giữa ra sau bếp. Nếu không phải nấu cơm giặt giũ cô sẽ săm soi nút áo, như nuốt trộng bằng mắt, ghi khắc, đóng đinh nó vào lòng mình. Một bữa cô Tím hỉ mũi cái rột, lấy cùi tay lau nước mắt, nói với chị dâu, mai đi coi cúng đình.
Chín Tím bắt đầu lảng vảng những chỗ đông người. Hay đi bộ ngoài đường, gặp người đàn ông nào cũng nhìn nghiến ngấu. Chẳng quan tâm mặt mũi vuông hay tròn, chân ngắn hay cong, chỉ nghĩ coi mặt họ có biến sắc không, áo có đứt nút không. Kẻ bất lương đang núp sau mặt nạ của anh Bảy dượng Ba, những người đàn ông sớm xỉn chiều say, hay chính ông ấp trưởng có ánh nhìn lén lút, không chừng. Cô tin mình sẽ nhận ra gã bằng thứ linh cảm được chuốt nhọn trong từng ấy tháng ngày. Mùi mồ hôi tay, hơi thở dày như tát lửa vào gáy cô, và tiếng tim gã lồng lên trong ngực. Chắc chắn mình sẽ bắt được quân bất nhân đó, cô Tím nghĩ vậy.
Bà nội tự dưng lo, “coi chừng gánh nút áo còng lưng”. Quãng đó bên sông có anh thợ máy nhờ mối mai qua hỏi cưới. Cô Tím cũng hơi xiêu lòng, nghĩ hôm cưới sẽ mời đông, biết đâu oan gia của mình cũng tới. Bữa Thợ Máy xách cặp vịt qua nhà xuống mối, nhìn thấy nút áo trên cổ cô Chín, anh chết lịm. Anh bảo từ đẻ ra đã sợ nút áo rồi, nên mặc toàn áo thun tròng cổ, cũng không biết sao lại sợ, chắc kiếp trước bị một vốc nút chèn ngang họng chết oan. Cứ thấy nút áo Thợ Máy sẽ không thở nổi, mà Tím thì lúc nào cũng treo tòng teng trước ngực, cưới nhau sao giờ.
Chỉ cần gói cái nút giấu đáy tủ hay quăng phứt ra vườn, là tháng Giêng sang năm có pháo rước dâu, bà nội rên rẫm. Chín Tím đóng cửa buồng nói vọng ra, “vậy khác gì bỏ qua cho nó”. Chủ nhân của nút áo giờ biết đâu đang nằm tréo nguẩy cho vợ nhổ tóc bạc, hay thảnh thơi lắc võng ca vọng cổ, biết đâu ngồi coi đá cá lia thia. Hình dung đó làm cô Tím thấy mình bốc khói. Phải có ai đó trả giá cho cái cảm giác buốt ruột, buồn ói mỗi khi bước qua cầu Tân Thạnh, cho những ánh mắt thương hại dính vào người, cho tuổi hai mươi héo rượi.
- Tôi mà đi theo anh rồi thì tụi vô lương đó sẽ thảnh thơi đã đời, vậy đâu được.
Sau câu nói đó, thêm một người đàn ông ra về khi vừa mới ngồi ấm chỗ bàn trà nhà nội. Anh này không ghê nút áo, chỉ ở hơi xa. Cô Tím không ngại lấy chồng cách nhà mười ba cây số, cảnh lạ người lạ, cọ bụng chồng sẽ làm mối thù mòn mỏi. Nút áo còn cô còn nhớ mình từng tơ tướp bên cỏ chân cầu. Nhưng cái sự vắng mặt của cô sẽ làm nó thoát nơm nớp ám ảnh, vậy thì ông trời làm gì có mắt. Chín Tím chọn làm gai, không làm đàn bà nữa.
Một bữa bà nội lén cắt sợi dây chuyền lúc con gái ngủ trưa, bà nội quăng cả dây và nút áo xuống ao bông súng. Ai ngờ chỉ chút xíu vầy mà nặng, bà nội nghĩ vậy khi nhìn những vòng sóng dần lặng, nước khỏa dấu vết của cái nút áo vừa chìm xuống. “Bỏ đi. Sống đi. Sống như thiên hạ vậy”, bà trệu trạo bảo khi Chín Tím dậy quờ quạng cái cổ trống không. “Họ đâu có nằm phơi bụng dưới chân cầu”, cô cãi, chậm rãi ra ngoài ao bông súng không phải để nhìn bông súng. Bà nội mướn người bơm đất lấp ao, cảm thấy hành động ấy quá chừng vô vọng. cô Tím vẫn nhìn thấy bên dưới cỏ, dưới rễ cây mít, dưới từng lớp đất nâu nhão nhoét, có cái nút áo.
Nọc con rắn hổ đất chạy từ cổ chân lên tim cô Tím vào năm cô bốn mươi hai tuổi. Nhưng người ta cảm giác cô chết lâu rồi, đã lâu linh hồn chôn cùng cái nút áo.
Tròn, bằng nhựa cứng, trắng gợn nâu.
Published on September 28, 2014 22:10
September 27, 2014
Màu nước mắt
Không có gì giống nhau, cả màu tóc và màu mắt. Da Vàng chân ngắn mũi bè, lấy chồng từ năm hai hai tuổi, nhân dịp trốn đi chơi, buổi chiều xứ lạ ngồi nhớ bầy con chừng này chắc vừa tan học. Da Trắng mũi hếch, mặt nhiều tàn nhang, lông tay bạc óng ánh dưới nắng, có anh bồ Thụy Sỹ chơi trumpet trong một ban nhạc jazz. Và cô không bao giờ cưới hay sinh con, dành thời gian của đời mình đi lang thang làm mấy dự án phi chính phủ kiểu như trợ giúp phụ nữ và trẻ em bị buôn bán.Gặp nhau ở chỗ nghỉ lưng chừng núi, Da Vàng đi xuống, bạn trắng thì lên, thổn thức hỏi còn bao xa thì tới ngôi đền. Một cơn mưa nhỏ giữ cả hai lại phiến đá thêu rêu trước miếu thổ thần. Thời gian chật, nhưng cũng đủ bật ra những tò mò, về hôn nhân và tự do. Ngó đời nhau thấy ngộ. Cuộc chuyện trò có khi phải dùng tay và nhánh cây vẽ lên rêu đá những hình thù để phụ họa, mấy lúc phải tạm dừng vì Da Vàng có điện thoại. Người nhà hỏi đổi gas thì đổi ở cửa hàng nào, áo ấm của thằng nhỏ thì để ở đâu. Mới đi mấy hôm thôi mà ở nhà đã trở mùa.Những lúc đó cô bạn tóc đỏ cứ bật nguồn điện thoại nhìn vô đó tần ngần. Trên ảnh nền có một anh tóc xõa dài tay ôm cây kèn nhìn lãng tử.Da Vàng khoe hình con, tranh thủ câu giờ để suy nghĩ câu hỏi bất ngờ của bạn, “sao cứ phải lấy chồng ?”. Chưa bao giờ tự hỏi mình điều gì giống vậy, cô ậm ừ thì mà là, thấy người ta vậy thì mình cũng vậy, yêu và cưới cũng tự nhiên như ăn và thở. Nếu không có trách nhiệm và ràng rịt những mớ dây nhợ không nhìn thấy bằng mắt thường, sống chỉ bằng vui thôi thì khó. Vì đời vui được mấy đâu, con người ta thò đầu ra đã khóc rồi, những đứa không khóc còn bị đánh cho khóc. Lấy thí dụ như đi chơi vậy, cuộc đi này đáng giá gấp mười chuyến đi của những người nhàn hạ khác, vì bà mẹ trẻ phải thu xếp một tuần hoặc nửa tháng trước, đứa nhỏ nhất nên gửi về nội hay ngoại, con gái học cấp hai nhờ ai đưa đón.Những thứ này không giống câu trả lời, Da Vàng hoang mang nghĩ, may mà bạn không bắt bẻ, bạn mãi nhìn tụi nhỏ trong hình cười khoe răng sún. Hoặc Da Trắng đủ tinh tế và bao dung không dồn bạn vào đường cùng.Cô chẳng vướng bận gia đình, nên cô thoải mái đi xa, qua xứ cát nóng kinh người, qua rừng mưa nhiệt đới. Thế giới của cô là những bé gái Ấn mười tuổi đã bị bán vào nhà chứa, những bé gái Somalia buộc phải phục vụ tình dục cho phiến quân, những chuyến xuyên rừng theo chân bọn buôn người qua biên giới. Không ngày nào giống ngày nào, cuộc sống của cô đầy kịch tính.Bạn chỉ kể chuyện người, không tả cảnh, mà Da Vàng biết đôi mắt xanh kia đã ghi lấy bao nhiêu thứ lạ lùng, cây baobab bị khoét thân làm đường ba làn xe chạy, chợ trời ngợp ruồi ở Bangladesh, những nhà thổ trong khu ổ chuột Bombay. Buổi sáng trước khi ra phi trường bay từ Âu sang Á, Da Trắng ngồi giũa móng tay, ái ai ái à chia tay với anh bồ trên bộ sofa lụa, rồi thủng thẳng sửa lại tóc ra cửa vẫy xe. Những chuyến đi nhẹ nhõm. Đâu có phải chạy vắt giò quét nhà, nấu cơm, phơi đồ trước khi ra đường, như Da Vàng.Đời ta như quyển sách vừa mỏng vừa tẻ nhạt, Da Vàng nghĩ vậy, trong lúc tìm một vài chuyện nào đó mô tả cuộc sống của mình. Một con đàn bà tha thẩn trong khoảng sân nhiều hoa và chim sẻ, vừa ngó chừng con gái đang tuổi dậy thì tính tình thoắt nắng thoắt mưa, vừa lo thằng út sổ mũi, ho. Chắt mót một năm được vài chuyến đi chơi. Thích nhất là ngồi một mình ở nơi xa lạ, ăn món lạ, nghe người ta nói bằng thứ thổ ngữ địa phương cũng lạ. Vui nhất lúc đi gom quần áo cũ, sách cũ đem cho trẻ con ngoài đảo. Bình yên nhất khi nằm coi truyền hình cùng tụi nhỏ, dõi theo chuyện tình ông chủ và cô bảo mẫu đang đến hồi kết ở tập một trăm.Bằng cách nào đó, một ngày đã đi qua mà không để lại dư vị. Chỉ khi quần áo con ngắn, thì mới nhìn thấy dấu chân của thời gian. Da Trắng tỏ ra không hiểu nổi, cái cuộc sống ấy không phải quá chật chội và tù túng sao?Rảnh đâu nghĩ tới chuyện không nghĩ chật thì không chật, Vàng cười.Chuyện chưa xong mưa đã hết, từ chỗ của họ ngồi, nắng bắt đầu phết mật lên cây. Lúc chào nhau Da Vàng nói chúc bạn hạnh phúc với anh Trumpet. Tự dưng cô bạn mắt xanh sụt sịt, “Bốn ngày rồi anh ta không gọi”. À thì ra là nhớ, nên cứ cầm điện thoại tần ngần, cứ như chờ đợi.Rốt cuộc thì cũng có một thứ giống nhau: màu nước mắt. Mấy lúc Da Vàng đau đầu mà chồng vẫn bỏ đi nhậu, nước mắt cô cũng y chang Trắng, giống cả vị mặn.Một người lên, một người xuống núi. Ý nghĩ cả hai còn để lại ở lưng chừng.
Published on September 27, 2014 20:54
Nguyễn Ngọc Tư's Blog
- Nguyễn Ngọc Tư's profile
- 880 followers
Nguyễn Ngọc Tư isn't a Goodreads Author
(yet),
but they
do have a blog,
so here are some recent posts imported from
their feed.
