Nguyễn Ngọc Tư's Blog, page 7
September 15, 2014
Bão lá
giật tung những che đậy tỏ mờnhững vết sẹo kín trên cành không chút ngượng cây trên đường Hoàng Diệu khỏa thân
vàng tuôn ràn rạtúa rời xáo xáctròng trành một đám rước trăngsót đôi tổ sẻ cuối cành
tháng chín thầm đi sau anh chín bước chângió lá mùi mồ hôi anh lạcmưa lá xước anh như đoạn phim nhàulá giữa chúng ta dày thêm vách nữa
bão lá bão lákhúc hoan ca của diệp lục tàn rãtình nhân thổi bụi mắt nhausao ta đau
bão lá bão látừ nhớ câm tươm chồimình nén lá ào vào anh giông bão
nhớ anh nhớ anh nhớ anh
Published on September 15, 2014 01:03
September 6, 2014
Tiễn Phong

hai tay bạn gói má Phong không đầynghĩ da thịt đi trước cho Phong nhẹ bước
nghĩ về ghế trốngcốc rượu khôngđám đông co ro
nghĩ cây nhỏ Phong trồng không biết mọc thẳng hay congđầu gậy mẹ hẫng trong bóng khóihẹn hò chôn vội
nghĩ cỏ vườn vá víu dấu chânnghĩ mưa nắng qua máu lá tan dầncái tên dài hằn lên như sẹo đất
nghĩ mình rồi sang sông không sóngmai kia tin nhắn gửi vô cùnglạ lùng, không nghĩ về Phong

Published on September 06, 2014 20:48
July 26, 2014
Chương hai mươi mốt
Ngày mai ai biết
Có vài tranh cãi nhỏ mỗi khi người ta nhắc lại cái ngày bà cô Ba Tý cất tiếng nói đầu tiên. Nếu ông nội không lãng đi chỗ khác, ông cũng chẳng xác nhận chuyện có hay không người chị đã bú cạn hai bầu sữa vốn dành cho ông, lúc ấy mới tập bò. Bữa đó cuối tháng Ba, nhưng cũng có thể giữa Chạp. Khi đứa con gái năm tuổi đầu chạy ra níu áo và nói sõi như chưa từng câm lặng từ lúc đẻ ra, cố đang quết bánh phồng ăn tết, hoặc đang cúng thanh minh ở mấy cái mả đất sau vườn. Và đứa trẻ chưa từng kêu tiếng má, bỗng rành rọt từng lời “mai con chết, má đừng buồn”.
Riêng câu nói ấy không có dị bản, ngay trong trí nhớ nhá nhem lem luốc. Lạ lùng biết bao một đứa con nít cất lên lời từ giã cuộc sống bằng những tiếng nói đầu tiên trong đời. Làm đổ ly rượu cúng, bà cố nạt, mới mở miệng là nói bậy. Nhưng đứa trẻ nhắc lại lần nữa, lần nữa, cho tới khi người mẹ khóc tru lên. Kéo nó lại chùa Nhỏ, bà lạy tới trán sưng, hai gối không đứng nổi. Sữa chảy khô còng cả thân áo trước, bà quên luôn thằng nhỏ chín tháng tuổi phải uống nước cơm đằng nhà. Hồi đầu thì năn nỉ, sau mệt quá, bà chửi um mụ nội ông trời, tổ cha bồ tát, nỡ nào con nhỏ mới mấy tuổi đầu mà mấy người lại muốn đem đi. Ngỏn ngoẻn ăn hết ba nải chuối xiêm, con nhỏ chui vô gầm ban thờ ngủ một giấc, dậy ăn thêm dĩa khoai luộc của nhà chùa, vẫn kêu đói. Nhìn con ăn cho một ngày mai sẽ không bao giờ tới, bà mẹ khóc khan.
Nhưng con nhỏ Tý vẫn sống tỉnh bơ, dù ngày nào nó cũng từ giã người thân, bằng vẻ thanh thản pha một chút nghiêm trang khi nói ngày mai mình chết. Vẻ mặt mà một đứa con nít không bao giờ có. Nửa đêm bà mẹ thường phải dậy sờ soạng coi con còn thở không, thân thể nó có còn ấm nóng. Thời gian trôi quanh bà cô Tý sánh đặc thành giọt, gần như đếm được khi chúng rơi. Ăn một bữa hai tô, ngủ đẩy giấc tới sáng, chạy chơi đâu bà cũng không quên bảo xóm giềng mai mình chết. Lỡ thật thì sao, biết đâu chút nữa nó ngoẻo củ từ, ý nghĩ đó bảng lảng ngay cả lúc người ta nạt “đừng có xạo”.
Chỉ Ba Tý tin mình sắp rời cõi tạm, khi từ chối phần đất ruộng được cố cắt cho, “Sống chỉ tới mai thôi thì vơ lấy chi cho mệt”. Cái mùng rách chỉ giăng có hai góc rưỡi giữa căn chòi cột cặm cuối vườn, chảo xoong méo mó, bà Tý đôi lúc thuyết phục được người ta tin vào cuộc đi lúc sớm mai. Hôm khâm liệm bà, gom hết tư trang trong nhà mới lưng lửng áo quan. Phải cắt lá chuối chèn cho đầy hòm, người ta nói vui để bà Tý xuống dưới giăng mùng.
“Ngày mai con chết” cũng là lý do bà quắp cứng một anh bên xóm Gò, lúc mới mười lăm tuổi. Nếu ông nội không tránh đi khi nghe nhắc tới người chị gái, chắc gì ông kể chuyện chính mình thấy bà cô Tý lăn lóc với cậu bạn trên bờ ruộng, tưởng chị bị thằng kia cướp áo, tưởng chị đau lắm mới rên ử ừ ư, xót ruột ông chạy đi méc má.
Sau này, gã trai đó hay khoe mình là người đàn ông đầu tiên của Ba Tý. Cười toe, bà nói kệ thằng chả, vui mà. Rốt cuộc, người vui cũng hơn một chục. Bà bắt cặp nhiều đến không nhớ xiết. Hồi đầu, chen giữa nỗi lo mất mùa lo chiến sự, cố còn rền rĩ đứa con gái hư thân, sau chỉ ngồi than, phải chi hồi mới đẻ đừng bôi mật cá trê cho môi nó đỏ. Mà đâu chỉ môi đỏ như cháy, đôi má bà Tý cũng rực lên, tướng mạo tươi giòn. Người như cái ngó sen, đàn ông chỉ muốn cắn ngấu, muốn bẻ làm đôi. Đàn bà thì ngược lại, ghét bứng dấu chân, nhưng có mắng chửi mấy Ba Tý cũng cười :
- Giận chi, mai cũng chết rồi.
Chút bùi ngùi làm nguôi những cơn giận dữ đổ lên đầu con đàn bà phóng túng, cả lúc cô ta na cái bụng chửa lặc lè. Ừ, biết đâu, không tự dưng lăn đùng ra chết thì cũng bom rơi đạn rớt. Thời loạn lạc, xác người vài ba bữa lại trôi cùng lục bình sông Muống, con nít nhìn theo tập thở dài. Chỉ bà cô Tý dửng dưng chiến sự, nhà cháy hay lụt chìm đồng.
Lo bom đạn không biết tới chừng nào, người ta sực nhớ tới lại thấy bà cô Tý chửa, với ai thì bà cũng không chắc. Bên nào bà cũng thương, bữa càn rát quá có người chạy vô nhà, bà giấu trong căn hầm bên dưới bộ vạc, rồi tỉnh rụi vạch áo cho con bú. Đám lính ghé vô, không sục sạo được bởi đôi bầu vú mẩy che mờ con mắt, ông cầm đầu ở lại ử ừ ư với bà một đỗi, ra về trong chơi vơi. Đứa nhỏ bú mẹ đó sau này chọi miểng chai vô đồn bị bắt, Ba Tý lội bộ tìm người cũ xin đón con ra. “Dễ ợt”, bà kể, “tui nói với thằng chả, đứa nhỏ này từng chung bầu sữa với cưng”. Hỏi sao nó nhớ, mười mấy năm rồi mà, thì bà cô cười lúng liếng, “thì có cách nhắc nó nhớ chớ”.
Vào năm bà cô Tý sáu mươi tuổi, một cậu lính kiểng đồn Chẹt cứ lẽo đẽo theo bà để rửa chân cho. Ông nội gầm gừ, chị riết rồi coi không được, thằng nhỏ chỉ đáng tuổi con cháu mình. Mai chị chết rồi, bà cười.
- Giỏi thì chết liền tui coi.
Ông nội nghiến răng, ực ngụm trà cho bớt giận. Lúc day qua thấy bà cô ngoẹo đầu bên cửa, miệng vẫn tươi. Dường như cái hơi thở cuối cùng ra khỏi đôi môi đỏ đó, nó trong veo, chói ngời.
Đám ma bà cô Tý, ông nội bỏ đi. Ông không bao giờ tha thứ cho người chị gái đã chết ngay trước mắt, sau câu nói vô tình của mình. Người ta vẫn kể đám ma vui lắm, vì những người ở lại đều đã được Ba Tý từ giã tử tế. Không ấm ức, không tiếc nuối bởi những điều chưa kịp nói, họ còn vui vì người nằm kia đã sống đã một đời. Chỉ có vụ tranh cãi nhỏ giữa vài ông tình cũ, kẻ nói trên người bà có mười bảy nốt ruồi, ông kia cãi hết thảy là hai mươi ba.
Có vài tranh cãi nhỏ mỗi khi người ta nhắc lại cái ngày bà cô Ba Tý cất tiếng nói đầu tiên. Nếu ông nội không lãng đi chỗ khác, ông cũng chẳng xác nhận chuyện có hay không người chị đã bú cạn hai bầu sữa vốn dành cho ông, lúc ấy mới tập bò. Bữa đó cuối tháng Ba, nhưng cũng có thể giữa Chạp. Khi đứa con gái năm tuổi đầu chạy ra níu áo và nói sõi như chưa từng câm lặng từ lúc đẻ ra, cố đang quết bánh phồng ăn tết, hoặc đang cúng thanh minh ở mấy cái mả đất sau vườn. Và đứa trẻ chưa từng kêu tiếng má, bỗng rành rọt từng lời “mai con chết, má đừng buồn”.
Riêng câu nói ấy không có dị bản, ngay trong trí nhớ nhá nhem lem luốc. Lạ lùng biết bao một đứa con nít cất lên lời từ giã cuộc sống bằng những tiếng nói đầu tiên trong đời. Làm đổ ly rượu cúng, bà cố nạt, mới mở miệng là nói bậy. Nhưng đứa trẻ nhắc lại lần nữa, lần nữa, cho tới khi người mẹ khóc tru lên. Kéo nó lại chùa Nhỏ, bà lạy tới trán sưng, hai gối không đứng nổi. Sữa chảy khô còng cả thân áo trước, bà quên luôn thằng nhỏ chín tháng tuổi phải uống nước cơm đằng nhà. Hồi đầu thì năn nỉ, sau mệt quá, bà chửi um mụ nội ông trời, tổ cha bồ tát, nỡ nào con nhỏ mới mấy tuổi đầu mà mấy người lại muốn đem đi. Ngỏn ngoẻn ăn hết ba nải chuối xiêm, con nhỏ chui vô gầm ban thờ ngủ một giấc, dậy ăn thêm dĩa khoai luộc của nhà chùa, vẫn kêu đói. Nhìn con ăn cho một ngày mai sẽ không bao giờ tới, bà mẹ khóc khan.
Nhưng con nhỏ Tý vẫn sống tỉnh bơ, dù ngày nào nó cũng từ giã người thân, bằng vẻ thanh thản pha một chút nghiêm trang khi nói ngày mai mình chết. Vẻ mặt mà một đứa con nít không bao giờ có. Nửa đêm bà mẹ thường phải dậy sờ soạng coi con còn thở không, thân thể nó có còn ấm nóng. Thời gian trôi quanh bà cô Tý sánh đặc thành giọt, gần như đếm được khi chúng rơi. Ăn một bữa hai tô, ngủ đẩy giấc tới sáng, chạy chơi đâu bà cũng không quên bảo xóm giềng mai mình chết. Lỡ thật thì sao, biết đâu chút nữa nó ngoẻo củ từ, ý nghĩ đó bảng lảng ngay cả lúc người ta nạt “đừng có xạo”.
Chỉ Ba Tý tin mình sắp rời cõi tạm, khi từ chối phần đất ruộng được cố cắt cho, “Sống chỉ tới mai thôi thì vơ lấy chi cho mệt”. Cái mùng rách chỉ giăng có hai góc rưỡi giữa căn chòi cột cặm cuối vườn, chảo xoong méo mó, bà Tý đôi lúc thuyết phục được người ta tin vào cuộc đi lúc sớm mai. Hôm khâm liệm bà, gom hết tư trang trong nhà mới lưng lửng áo quan. Phải cắt lá chuối chèn cho đầy hòm, người ta nói vui để bà Tý xuống dưới giăng mùng.
“Ngày mai con chết” cũng là lý do bà quắp cứng một anh bên xóm Gò, lúc mới mười lăm tuổi. Nếu ông nội không tránh đi khi nghe nhắc tới người chị gái, chắc gì ông kể chuyện chính mình thấy bà cô Tý lăn lóc với cậu bạn trên bờ ruộng, tưởng chị bị thằng kia cướp áo, tưởng chị đau lắm mới rên ử ừ ư, xót ruột ông chạy đi méc má.
Sau này, gã trai đó hay khoe mình là người đàn ông đầu tiên của Ba Tý. Cười toe, bà nói kệ thằng chả, vui mà. Rốt cuộc, người vui cũng hơn một chục. Bà bắt cặp nhiều đến không nhớ xiết. Hồi đầu, chen giữa nỗi lo mất mùa lo chiến sự, cố còn rền rĩ đứa con gái hư thân, sau chỉ ngồi than, phải chi hồi mới đẻ đừng bôi mật cá trê cho môi nó đỏ. Mà đâu chỉ môi đỏ như cháy, đôi má bà Tý cũng rực lên, tướng mạo tươi giòn. Người như cái ngó sen, đàn ông chỉ muốn cắn ngấu, muốn bẻ làm đôi. Đàn bà thì ngược lại, ghét bứng dấu chân, nhưng có mắng chửi mấy Ba Tý cũng cười :
- Giận chi, mai cũng chết rồi.
Chút bùi ngùi làm nguôi những cơn giận dữ đổ lên đầu con đàn bà phóng túng, cả lúc cô ta na cái bụng chửa lặc lè. Ừ, biết đâu, không tự dưng lăn đùng ra chết thì cũng bom rơi đạn rớt. Thời loạn lạc, xác người vài ba bữa lại trôi cùng lục bình sông Muống, con nít nhìn theo tập thở dài. Chỉ bà cô Tý dửng dưng chiến sự, nhà cháy hay lụt chìm đồng.
Lo bom đạn không biết tới chừng nào, người ta sực nhớ tới lại thấy bà cô Tý chửa, với ai thì bà cũng không chắc. Bên nào bà cũng thương, bữa càn rát quá có người chạy vô nhà, bà giấu trong căn hầm bên dưới bộ vạc, rồi tỉnh rụi vạch áo cho con bú. Đám lính ghé vô, không sục sạo được bởi đôi bầu vú mẩy che mờ con mắt, ông cầm đầu ở lại ử ừ ư với bà một đỗi, ra về trong chơi vơi. Đứa nhỏ bú mẹ đó sau này chọi miểng chai vô đồn bị bắt, Ba Tý lội bộ tìm người cũ xin đón con ra. “Dễ ợt”, bà kể, “tui nói với thằng chả, đứa nhỏ này từng chung bầu sữa với cưng”. Hỏi sao nó nhớ, mười mấy năm rồi mà, thì bà cô cười lúng liếng, “thì có cách nhắc nó nhớ chớ”.
Vào năm bà cô Tý sáu mươi tuổi, một cậu lính kiểng đồn Chẹt cứ lẽo đẽo theo bà để rửa chân cho. Ông nội gầm gừ, chị riết rồi coi không được, thằng nhỏ chỉ đáng tuổi con cháu mình. Mai chị chết rồi, bà cười.
- Giỏi thì chết liền tui coi.
Ông nội nghiến răng, ực ngụm trà cho bớt giận. Lúc day qua thấy bà cô ngoẹo đầu bên cửa, miệng vẫn tươi. Dường như cái hơi thở cuối cùng ra khỏi đôi môi đỏ đó, nó trong veo, chói ngời.
Đám ma bà cô Tý, ông nội bỏ đi. Ông không bao giờ tha thứ cho người chị gái đã chết ngay trước mắt, sau câu nói vô tình của mình. Người ta vẫn kể đám ma vui lắm, vì những người ở lại đều đã được Ba Tý từ giã tử tế. Không ấm ức, không tiếc nuối bởi những điều chưa kịp nói, họ còn vui vì người nằm kia đã sống đã một đời. Chỉ có vụ tranh cãi nhỏ giữa vài ông tình cũ, kẻ nói trên người bà có mười bảy nốt ruồi, ông kia cãi hết thảy là hai mươi ba.
Published on July 26, 2014 19:17
July 11, 2014
Mấy cụm khói rời
Sáng nào xóm hẻm cũng ướt. Nước triều từ ngoài sông tràn vào con lộ nhỏ, nước nhiểu tong tong trên những bộ quần áo phơi rợp dãy rào xiêu, nước giặt rửa từ trong nhà hắt ra đầy váng xà bông, rau cải úng. Nước mắt nước mũi trẻ con đòi tiền quà bánh, bên cạnh mấy bà mẹ im lìm ngồi hong mớ tóc vừa gội xong. Những làn da tối màu làm thành một khối im sẫm trong con hẻm thấp tối.
Không biết biến động nào khiến người ta bứng nguyên cái xóm Khmer từ miệt Bảy Núi về trồng trong lòng thành phố, cùng với ngôi chùa. Dân quen gọi hẻm Khờ Me. Lần nào qua đó cũng nghĩ gần năm mươi năm rồi mà họ vẫn như rớt như rời. Không phải vì tóc xoăn và mắt to, viền mi đậm, làn da sẫm không lẫn vào sắc tộc khác, mà sự bơ vơ cứ hiện lên trong cả đời sống, ánh nhìn, cách ngồi. Dòng chảy đô thị chẳng làm cho họ thôi sống trễ nãi trong những căn nhà xập xệ, và chẳng ai biết họ nghĩ gì qua ánh mắt không đậu vào đâu.
Điểm nhìn cuối chắc là rất xa, nơi có cánh đồng với những chòm cây thốt nốt, bầy bò ốm cùng với những bãi cỏ úa mùa khô. Là tôi hình dung vậy. Trong dáng đứng ngồi bất động, họ lang thang qua hội đua bò nơi đôi vợ chồng (khi hãy còn ở tuổi mười lăm, mười bảy) đã lẻn đi chơi lần đầu cùng nhau. Núi đá vôi thấp mà người đàn ông đã từng lần theo đường mòn gài bẫy thú. Buổi lễ cúng trăng giữa sân chùa trong tiếng nhạc ngũ âm. Những đứa trẻ trèo nhánh cây sầu đâu vừa gõ hơpâm vừa hát ngêu ngao. Ở miền ký ức, không khí lễ hội chưa cạn đến đáy lại đầy, mỗi năm có đến vài ba cái tết. Nhưng biết đâu họ không nghĩ gì hết, quá khứ thì xa xôi, tương lai cũng chẳng có gì để nghĩ về.
Không đất trồng trọt chăn thả, buổi cà phê của đàn ông xóm hẻm thường dài, có khi cả ngày, nếu không có ai gọi đi phụ hồ, bốc vác vật liệu, chở nước đá. Ngày bên ly cà phê khét mùi bắp rang và chai rượu đế, cũng vì vậy mà rất dài. Nhà lụp xụp cất tràn ra lộ hẻm, tuyệt không có cây thốt nốt nào. Buổi sáng bóng chùa cố che phủ cái ngã ba, nơi mọi người tụ tập, chỉ được một vài giờ thì bóng hụt. Họ lại trơ trụi dưới mặt trời. Cái nghèo không có cỏ cây, rát mặt.
Những bước chân trần khất thực của ba lục trẻ nhón trên mặt lộ chỗ khô chỗ ướt. Lục Cả nhìn theo, kêu lúc rày tụi nhỏ cũng ít chịu vô chùa tu tập. Đứa thì đi làm mướn, lượm ve chai, nhiều đứa mới mở mắt là lêu lổng chơi rong. Chùa đâm ra vắng, tết Chol Chnam Thmay kỳ rồi sân chùa không còn ai múa Lâm Thôn. Trên vách phòng lục treo cái ảnh chụp một tăng đoàn bưng y bát đi trên cánh đồng xanh rì, xa xa là rặng cây thốt nốt, và mặt trời đang lặn. Phong cảnh u tịch mà không thấy con người trong đó cô đơn như bóng áo vàng vừa đi ra khỏi dãy nhà lụp xụp, đoạn đường phía trước các lục toàn là cỗng với rào cao. Những cư dân mới tới không phải tín đồ Phật giáo tiểu thừa nên thờ ơ ngồi giũa móng tay khi y bát đi qua.
Lục Cả than, dân Khmer xóm hẻm đã bán nhà quá nữa, giờ còn một nhúm sống co cụm gần chùa, như bầy người đi lạc. Hỏi những người bỏ xóm đi đâu, lục nói có nhà dọn vào hẻm sâu hơn, xa tới mức chùa không với tới, nhưng cũng có người về. Chữ “về” của lục làm nguội nắng. Về, dựng hàng rào xương cá bọc lấy căn nhà lá tạm bợ, nuôi mấy con bò, lấy nước thốt nốt nấu đường, chờ cơn lũ chìm đồng tháng tám để bắt cá giăng câu, và chờ những mưa biên giới triền miên làm xanh cỏ núi. Cảnh nghe có vẻ buồn, nhưng họ không trơ trụi như ở nơi chỉ cách Ủy ban thành phố non một trăm mét. Cái nghèo mà có ngọn rau trái ớt mọc bên hè, thì không đến nỗi tuyệt vọng.
Những người ở lại vẫn ơ thờ chờ ngày qua. Cái dáng ngồi bất động của người đàn bà Khmer cũng giống hệt với người đàn bà Êđê, Bana bất động trước căn nhà lợp thiếc bên những nẻo đường Tây Nguyên mù bụi. Bị bóc đi khỏi núi rừng bởi một dự án thủy điện ất ơ nào đó, buôn làng bị dồn vào khu tái định cư, mà người làm chính sách cứ hí hửng khoe cuộc đổi chác ấy vậy đã công bằng rồi. Nhà cũ đổi nhà mới, đèn dầu đổi đèn điện, huề. Rốt cuộc thì làm gì còn bầu trời nào khác cho con chim đã bị lấy đi bầu trời ?
Không biết biến động nào khiến người ta bứng nguyên cái xóm Khmer từ miệt Bảy Núi về trồng trong lòng thành phố, cùng với ngôi chùa. Dân quen gọi hẻm Khờ Me. Lần nào qua đó cũng nghĩ gần năm mươi năm rồi mà họ vẫn như rớt như rời. Không phải vì tóc xoăn và mắt to, viền mi đậm, làn da sẫm không lẫn vào sắc tộc khác, mà sự bơ vơ cứ hiện lên trong cả đời sống, ánh nhìn, cách ngồi. Dòng chảy đô thị chẳng làm cho họ thôi sống trễ nãi trong những căn nhà xập xệ, và chẳng ai biết họ nghĩ gì qua ánh mắt không đậu vào đâu.
Điểm nhìn cuối chắc là rất xa, nơi có cánh đồng với những chòm cây thốt nốt, bầy bò ốm cùng với những bãi cỏ úa mùa khô. Là tôi hình dung vậy. Trong dáng đứng ngồi bất động, họ lang thang qua hội đua bò nơi đôi vợ chồng (khi hãy còn ở tuổi mười lăm, mười bảy) đã lẻn đi chơi lần đầu cùng nhau. Núi đá vôi thấp mà người đàn ông đã từng lần theo đường mòn gài bẫy thú. Buổi lễ cúng trăng giữa sân chùa trong tiếng nhạc ngũ âm. Những đứa trẻ trèo nhánh cây sầu đâu vừa gõ hơpâm vừa hát ngêu ngao. Ở miền ký ức, không khí lễ hội chưa cạn đến đáy lại đầy, mỗi năm có đến vài ba cái tết. Nhưng biết đâu họ không nghĩ gì hết, quá khứ thì xa xôi, tương lai cũng chẳng có gì để nghĩ về.
Không đất trồng trọt chăn thả, buổi cà phê của đàn ông xóm hẻm thường dài, có khi cả ngày, nếu không có ai gọi đi phụ hồ, bốc vác vật liệu, chở nước đá. Ngày bên ly cà phê khét mùi bắp rang và chai rượu đế, cũng vì vậy mà rất dài. Nhà lụp xụp cất tràn ra lộ hẻm, tuyệt không có cây thốt nốt nào. Buổi sáng bóng chùa cố che phủ cái ngã ba, nơi mọi người tụ tập, chỉ được một vài giờ thì bóng hụt. Họ lại trơ trụi dưới mặt trời. Cái nghèo không có cỏ cây, rát mặt.
Những bước chân trần khất thực của ba lục trẻ nhón trên mặt lộ chỗ khô chỗ ướt. Lục Cả nhìn theo, kêu lúc rày tụi nhỏ cũng ít chịu vô chùa tu tập. Đứa thì đi làm mướn, lượm ve chai, nhiều đứa mới mở mắt là lêu lổng chơi rong. Chùa đâm ra vắng, tết Chol Chnam Thmay kỳ rồi sân chùa không còn ai múa Lâm Thôn. Trên vách phòng lục treo cái ảnh chụp một tăng đoàn bưng y bát đi trên cánh đồng xanh rì, xa xa là rặng cây thốt nốt, và mặt trời đang lặn. Phong cảnh u tịch mà không thấy con người trong đó cô đơn như bóng áo vàng vừa đi ra khỏi dãy nhà lụp xụp, đoạn đường phía trước các lục toàn là cỗng với rào cao. Những cư dân mới tới không phải tín đồ Phật giáo tiểu thừa nên thờ ơ ngồi giũa móng tay khi y bát đi qua.
Lục Cả than, dân Khmer xóm hẻm đã bán nhà quá nữa, giờ còn một nhúm sống co cụm gần chùa, như bầy người đi lạc. Hỏi những người bỏ xóm đi đâu, lục nói có nhà dọn vào hẻm sâu hơn, xa tới mức chùa không với tới, nhưng cũng có người về. Chữ “về” của lục làm nguội nắng. Về, dựng hàng rào xương cá bọc lấy căn nhà lá tạm bợ, nuôi mấy con bò, lấy nước thốt nốt nấu đường, chờ cơn lũ chìm đồng tháng tám để bắt cá giăng câu, và chờ những mưa biên giới triền miên làm xanh cỏ núi. Cảnh nghe có vẻ buồn, nhưng họ không trơ trụi như ở nơi chỉ cách Ủy ban thành phố non một trăm mét. Cái nghèo mà có ngọn rau trái ớt mọc bên hè, thì không đến nỗi tuyệt vọng.
Những người ở lại vẫn ơ thờ chờ ngày qua. Cái dáng ngồi bất động của người đàn bà Khmer cũng giống hệt với người đàn bà Êđê, Bana bất động trước căn nhà lợp thiếc bên những nẻo đường Tây Nguyên mù bụi. Bị bóc đi khỏi núi rừng bởi một dự án thủy điện ất ơ nào đó, buôn làng bị dồn vào khu tái định cư, mà người làm chính sách cứ hí hửng khoe cuộc đổi chác ấy vậy đã công bằng rồi. Nhà cũ đổi nhà mới, đèn dầu đổi đèn điện, huề. Rốt cuộc thì làm gì còn bầu trời nào khác cho con chim đã bị lấy đi bầu trời ?
Published on July 11, 2014 01:42
July 5, 2014
Bây giờ đã hết tháng Giêng
Bên xóm có bạn tập viết kịch bản phim.
Bạn hay qua nhà mình vò đầu bứt tóc vì không biết để nữ phụ hại nữ chính bằng cách nào, “phải kiếm thứ gì ác ác”. Suốt ba chục tập phim mà bạn định viết, chúng dằng dặc âm mưu hung hiểm mà biên kịch nhất định phải bày ra cho cô gái vượt qua chạm bờ hạnh phúc. Giống như tên phim, bạn miêu tả nhân vật cưng của mình y hệt bông giấy, mỏng manh càng nắng hạn càng rực rỡ, càng khắc nghiệt càng bền dai. Khổ cái, bạn không thông thạo những chi tiết, mánh khóe mà người dùng hại người, kinh điển kiểu bà dì ghẻ biểu Tấm trèo cây để cưa gốc cho té chết trong cổ tích. Mấy âm mưu mà bạn có thể nghĩ ra loanh quanh chỉ thả nhện lên giường, giăng dây giữa đường cho vấp té, trộn thuốc xổ vô ly chè, pha nước mắm vô dầu gội đầu thì không được đen tối nhức nhối lắm.
Mình không chối là thấy vui vui trong lúc bạn rầu. Vui như đứng trước vào một ao nước trong veo thấu đáy. Hay là đọc báo đi, mình xúi, ngày nào mà chẳng đăng vài vụ ác. Bạn ứ hự, giờ báo đưa toàn những tin gọn gàng rởn gáy. Mượn rượu chém con dâu bằng dao bầu. Giết người yêu cũ trong nhà nghỉ. Cãi nhau trong tiệc cưới, chú rễ đốt cô dâu. Phim của bạn thì để nhân vật túm tóc nhau bạn còn thấy đau. Bạn muốn cả nhân vật phản diện trong phim cũng có chất người, vừa đáng thương vừa đáng giận. Cái ác do nông nổi, lầm lẫn, còn có đường quay về.
Thôi thì coi phim nhiều vô, mình lại xúi, coi người ta tạo xung đột, thắt mở kiểu gì. Giữa tuần sau bạn khoe xong rồi, ân oán trong phim đã có dân giang hồ lo. Người đẹp phản diện chỉ cần rút điện thoại ra, nói “a lô, xử nó đi”, cùng với đuôi mắt rợn, gương mặt nanh ác, cái nhếch miệng hung hiểm. Cách giải quyết đó ở phim truyền hình xứ mình nhiều lắm. Sau cuộc gọi ngắn ngủn sẽ có vụ đụng xe, đốt nhà, hay bắt cóc. Chắc chắn nữ chính sẽ thoát hiểm trong đường tơ kẽ tóc cho tới tập cuối cùng.
Buổi này phim và đời khó thấy vết tích những hẻm hóc tăm tối lắt léo trong tâm hồn người. Bóng tối chừng như không thèm len lỏi, gió tối chừng như không thổi từng cơn, thấy ào ra là thành lũ thành bão. Cái ác chừng như sốt ruột, cũng ra tay nhanh như trở bánh phồng. Đi pháp đình hóng chuyện thường nghe ba chữ “ai mà ngờ…” vang bốn bức tường, nằm lềnh khênh trên nền gạch sờn mòn. Người ta không thấy dấu hiệu nào bất ổn, đáng ngại trước khi cô gái mặt mũi hiền queo kia, ông già cù lần nọ đứng trước vành móng ngựa.
Buổi này kiên nhẫn đâu mà nói phải quấy, ông chú ở quê ra than vậy. Cuối chiều vừa nhỏ nhẹ nhắc hàng xóm đừng đổ rác qua rào, tối lại họ trút thuốc rầy xuống ao nhà ông cho cá lật bụng chết trắng. Giờ vác đơn đi kiện, nhưng cầm xấp giấy tờ ông già thấy pháp luật xa quá chừng. Cái ao cá nhà hàng xóm thì gần, chỉ cần nửa đêm chui qua rào, đổ vài chai thuốc xuống là xong. Công bằng. Gọn lẹ.
Buổi này đến ăn miếng trả miếng cũng sốt ruột. Chuyện xưa kể có kẻ hàng chục năm nằm gai nếm mật để từng bước một đợi cơ hội rửa hận, thấy khó tin. Tối ngồi quán ốc nghe bàn bên rôm rả vụ án trộm dê nào đó xử hoài không xong, một anh chửi tục nói xách dao phay xử cho rồi, đỡ tốn thời gian tiền bạc. Nghe giọng mình ngờ là không phải do hơi bia. Bây giờ đã hết tháng Giêng, mùa người ta cướp lộc đền chùa đã lắng. Nhưng cơn sốt ruột vẫn còn dai dẳng. Người trong giới giải trí không lộ hàng thì cũng khỏa thân chụp ảnh bên nai, cho mau nổi tiếng.
Bây giờ đã hết tháng Giêng, kịch bản bạn viết cũng sắp xong, kết phim theo hướng gieo giang hồ sẽ gặp giang hồ. Tụi phản diện rốt cuộc sẽ bị mấy đại ca trở dao kề cổ. Phim cũng không bị chê là phi lý, vì giang hồ ngoài đời có mặt khắp nơi. Đòi nợ, đâm chém thuê, bảo kê thì quá thường, các đại ca còn có thể giải phóng mặt bằng, giải quyết tranh chấp đất đai, thừa kế.
Vốn sống thế giới ngầm thì bạn không lo, trong xóm có vài thằng nhỏ xăm trổ khắp mình, phì phèo thuốc lá tập tành làm dân anh chị. Thiếu gì tư liệu hay.
Published on July 05, 2014 20:22
April 21, 2014
Xứ sương
Tản văn
Em kể hôm cưới sương mù cũng nhiều như chiều nay, đón dâu từ bãi sông lên đến nhà trai, đoàn người ướt rượt. Cả xóm coi đám cưới em là cổ tích, Lọ Lem không cha - cư dân trôi nổi của bãi sông - lấy chồng phố cổ. Nói tới đó, em ngó xuống cánh tay bó bột của mình. Đoạn xương ống gãy lìa bởi cú đánh thô bạo của người mà một ngày sương giăng năm trước là chàng rể xùng xình trong bộ com lê.
Quán nước em tem hem bên nhà chờ xe buýt, khách ái ngại ngó cánh tay nặng trịch treo trước cổ người đàn bà mười chín tuổi. Trẻ như vừa mở mắt đã thành đàn bà. Ốm và xanh như vừa chui trong ống tre ra. Ba ngày trước, em bắt đầu dọn quán với cánh tay còn lành lặn, một ngày ngồi không cũng bị nhà chồng nhiếc móc là ăn bám. “Quen nhau hơn tháng là cưới luôn, ai cũng bảo chồng trông có vẻ hiền từ…”, em kể, tráng cốc qua nước sôi bằng một tay. Khách chờ xe, hớp ngụm trà chát đặc, nói ba khơi, “chắc tại yêu đương trong mùa sương mờ mịt, nên nhìn không rõ”.
Xứ này nửa cuối thu, vắt sang đến giữa xuân, là mùa sương. Giữa ngày đi xe máy phải bật đèn pha, cách nhau tầm tay với nhìn không rõ mặt. Ra đường nghe mi mắt nặng, cảm giác rất rõ sương đang tụ thành nước gai gai trên da. Quê khách hai mùa nắng mưa ráo hoảnh, nét nào ra nét ấy, nên gặp bữa đất trời một màu trắng đục huyền ảo như vầy mừng thấy ông thấy cha, hít hà kêu thiệt là lãng mạn. Giá của cuộc đi bộ phơi sương là cả tuần ho, hít thở sâu nghe đâu đó trong buồng phổi kêu lép xép.
Bữa suýt va vào xe chở gà, ba chữ “muốn chết à” vẳng ra trong bức màn sương nghe đỡ sắc nhọn hơn lúc trời nắng oi. Lúc ấy nghĩ cái cay nghiệt, khốc liệt của cuộc đời bị tù mù này làm cho bớt chói. Người ta buộc đi chậm, thôi hớt hãi. Người ta buộc đắn đo, ai biết được đằng trước có gì, khi tầm nhìn chỉ đo được bằng vài ba bước chân. Anh chồng đứng cạnh mình đây, biết đâu tay kia nắm lấy cô gái khác. Những thương xá bình thường đèn đóm hắt rực rỡ ra đường, giờ cũng thành nhợt nhạt. Mấy cao ốc kiêu căng bị sương ngậm mất ngọn, cũng rụt rè như dãy nhà cổ thấp bé bên kia hồ. Có điều gì đó gần như là sự công bằng vào một ngày sương giăng, khi những lấp lánh đánh mất quyền lực. Chỗ nào cũng lơ mơ chỉ một sắc trắng đục. Màu cái bông vừa mới trổ với bông gần tàn cũng không khác mấy nhau. Cái thứ ảo giác lừa mị nhưng dễ chịu, dù biết rồi nắng lên đâu vô đó hết, khoảng cách vẫn là khoảng cách.
Khách đến thành phố này lần đầu tiên gặp nắng tháng Bảy, ngay lập tức tự định nghĩa lại mùa hè. Nó không phải là những cơn mưa dầm phương Nam với gió và chân trời cũng ướt. Tháng Bảy ở đây bức bối và oi đến mức cứ muốn đứng dưới vòi nước cả ngày. Lạ là mỗi khi nhớ về lần đầu xa nhà vật vạ trong mùa hè xứ lạ, khách cảm giác như có một màn sương mờ. Chị bạn làm thơ cùng phòng nói chị sinh con đầu lòng năm mười sáu tuổi không biết là thiệt hay chơi ? Anh biên kịch tuồng chèo kể vừa trong trại tù ra, cả nhà tan nát, vợ bỏ rơi con để đi theo tay thẩm phán, sao mà lâm ly y như sân khấu vậy ? Và lời tỏ tình đó với đây, như thể chỉ là tiếng gió. Ra về là tăm tích biệt mù.
Không phải lúc nào thành phố cũng mù sương. Nhưng những lần khách lui tới nơi này, từng cái cười hồ hởi, từng cái bắt tay vồn vã, từng câu thăm hỏi đon đả, khách đều có cảm giác mung lung. Như mọi thứ đều không thực. Như thấy vài chính khách ghé tay nâng chiếc quan tài vị tướng, mà biết lòng dạ họ mỗi người một hướng. Như chiều sương tháng Ba, ở cái thành phố khách lui tới hoài mà vẫn lạ, lúc ngồi ngay vỉa hè cứ chờn chợn nghĩ kế bên mình là mép vực, biết đâu.
Em nhờ khách buộc lại giùm mớ tóc, chuyện nhỏ nhưng không thể làm bằng răng, như cách em bóc tách thỏi kẹo đậu phộng. Rót thêm cốc trà, em nói mai không dọn hàng quán ra đây. Tổ dân phố báo mai có bộ trưởng nào đó vi hành xe buýt, tuyệt không để cảnh bán buôn nhếch nhác. Vi hành cách chi mà dân biết tuốt trước cả tuần, bác xe ôm ngồi gần đó rên lên. Kiểu này thì mai nắng có soi thủng lớp mù sương, ông bộ trưởng cũng sẽ thấy mọi thứ trong tầm nhìn mình đều lung liêng, mơ ảo.
Chuyến xe buýt số mười bảy cua qua ngã ba, em rối rít hối khách chuẩn bị đi. Xe qua cầu mới sực nhớ để quên cái túi. Quyết định quay lại trước khi đi xa hơn, bước chân xuống đường, ngó theo cái ống xả xe xô dạt một lỏm sương, sực nghĩ, mình đang quay lại tìm một thứ chắc gì còn.
Trời tối nhanh, chung quanh sương đẫm rợp. Gần nơi khách đứng có hai đứa nhỏ đang thè lưỡi ra, không biết đo xem lưỡi ai dài hay cố nếm vị của sương mù.
Published on April 21, 2014 20:04
April 20, 2014
Đi bộ tối


ngọn đèn tắt lịm cuối đườngđôi lần sáng lên khi bước chân qua
dưới mỗi gót giày lá vỡven đường đống lửa tàn một mình
muỗi kêu chói chang đường vắnghương ngọc lan mê man vườn hoang
một tàng cây tối giữa sân trường tối một sao hôm một tiếng chảo xoong rơi
lau sậy mỗi năm mỗi bạc đầunhững người quen mặt chưa từng chào nhau
có đứa trẻ tưởng mẹ về nhao ra cỗng
mình tưởng mình đi trên sông

(ảnh chụp những con đường trong xóm mình)
Published on April 20, 2014 00:37
April 12, 2014
Nhà xuồng

“Má bây cưng chiếc xuồng còn hơn cưng tao”, gã nói với đám con khi nghe vợ réo dưới bến kêu tỉnh rượu thì đốn lá để lợp lại nhà xuồng. Bữa trước trời giông, gió lốc giỡ gọn cái nóc, giờ chỉ trơ trụi bộ khung. “Lần nào đi đám giỗ cũng xỉn tới mấy bữa sau”, vợ vói giọng lên cằn nhằn, “hổm rày chiếc xuồng phơi nắng, bắt xót”. Gã chồng cười hề hề nói thấy chưa, rõ ràng bả mê xuồng hơn mê chồng, rồi úp cái nón lá lên đầu, liêu xiêu đi xuống bến, tổ cha cái thứ rượu xóm Dừa, làm người ta say dai quá.

Tụi nhỏ cũng từng nghe mẹ chúng rên lên ba mày cưng xuồng hơn vợ. Đó là bữa giữa cái nắng trưa chảy mỡ, gã hè hụi trét chai, lấp dầu trong, bịt miếng nhôm cho mũi xuồng khỏi xây xước nếu lỡ va vào bến nước, chân cầu. Một chiếc xuồng be mười kèm(*), với gia đình đông miệng ăn thường xanh mặt qua mùa giáp hạt, nó đáng giá cả gia tài. Mùa khô, chiếc xuồng theo hai vợ chồng ngược xuôi kinh Đứng kinh Ngang mua rau trái đem ra chợ xã bán lại, rồi chở rơm chở củi, nhận đưa đón gần chục đứa học trò trong xóm tới trường. Mùa mưa, đường xóm bùn nhão chia cắt mỗi nóc nhà là một ốc đảo, chiếc xuồng trở thành thứ duy nhất kết nối với thế giới, là đôi chân của con người ở cái xứ sông rạch bủa vây. Không có xuồng là chịu chết.

Người quê cưng xuồng y hệt dân chợ cưng xe. Vì cưng nên làm nhà cho xuồng. Nghèo thì xách dao đi dài xóm cũng xin được mấy cây cột cặm, nhặt nhạnh vài tấm thiếc cũ hay đốn mấy bẹ dừa che cho chiếc xuồng đỡ nắng mưa. Người khá giả hơn, xuồng được cái nhà vách phên cửa nẻo tử tế. Đất quê mênh mông, tranh thủ cất nhà xuồng cho rộng để chất vài cự củi, chục bó lá dừa khô dành nhen lửa, mấy ổ gà, hoặc treo cái võng nằm chơi. Bên chiếc xuồng nằm thảnh thơi sau ngày dầm dãi còn có cha ngồi vá lưới chài, đẽo cán búa; mẹ bó chổi rơm, nướng bánh bông lan, kháp rượu. Những đứa trẻ quê nghịch ngợm nào cũng nhớ mình từng rúc vào nhà xuồng trốn đòn, rồi giật mình thức dậy thấy mình vừa ngủ quên trên đống trấu. Chiêm bao thơ ấu luôn phảng phất mùi củi khô, mùi hũ giấm nuôi, mùi những trái khế chín cây rụng tá lả ngoài hè.

Xuôi về miệt biển, ở khoảng nghỉ ngơi ngắn giữa hai chuyến đi, chiếc xuồng chui vào giữa ngôi nhà sàn cao cẳng là xong. Cũng có nhà đâm chái hơi dài, khoảng dư ra đủ cho xuồng đậu. Làm thêm cái ròng rọc, tối về quay tay treo xuồng khỏi mặt nước, “của bền tại người”.

Một đời người mấy xác xuồng, phải bấm đốt ngón tay mới nhớ. Cũng không nhớ bao lần lợp lại mái, thay cột cho nhà xuồng, không đếm nổi bao giấc ngủ từng đong đưa ở đó. Chiếc xuồng mà gã đàn ông từng so bì vợ cưng nó hơn mình, một bữa đã bị bán đi để lo tiền viện phí sau vụ ngộ độc rượu. Đi qua nhà xuồng trống không, gã thấy ân hận vô phương, thấy thương vợ mình vừa nãy bấm ngón chân trên đất sình đội rau đi chợ…
(bài in Nhà đẹp)
Published on April 12, 2014 21:27
March 7, 2014
Phi (ra) lộ

(Đây chỉ là thịt da, bìa sách hãy còn một lớp vải màu hồng bên ngoài :p)
Một tập hợp những em váy ngắn, có em váy rất ngắn :p
Hơn một nửa Đảo là những truyện ngắn dưới 2000 chữ, như là một cách thể nghiệm viết nén chặt, còn gọi là "chém nhanh" hay "ra đòn gọn", thím Tư hy vọng bà con kịp thấy đau trước khi chảy máu :p
Là tô đậm nỗi cô đơn của con người bằng nhiều vết mực khác nhau, giày đi xéo lại thủng đến 15 lớp giấy :p. Chung mái nhà, chung giường, chung tiếng rên :p chung chai thuốc xức ghẻ :p nhưng mỗi người là một hòn đảo, một mảnh bom.
Là tiếng thét câm của những con người không được nhìn thấy, nghe thấy.
Ngày 16/3, Đảo có mặt ở Sài Gòn, sau đó những em váy ngắn mặt buồn này sẽ tung tăng trên toàn quốc.
Thím Tư chúc bà con cô bác khi đó đang có sáu chục ngàn trong túi ! :p (với từng ấy tiền thì vẫn thừa vài ngàn uống trà đá :p)
Published on March 07, 2014 20:21
Sổ tay đi đường (2)
Mường tượng ở đó có đôi ba em bé đang chơi chọi lon trên khoảng sân còn lún phún lúa rày, một bà già ngồi trở mớ chuối ép phơi vừa héo mặt. Vài người đàn ông đốt rơm nướng trui cá lóc cạnh mé kinh. Vườn rất xanh, lúp xúp cỏ chân vườn bên hàng rào thấp. Nhưng biết đâu, ở đó chỉ có một xóm nhỏ bỏ hoang vì đất đai khô hạn, và người đàn bà điên dại vẩn vơ nhai tóc bên bụi trâm bầu.
Nỗi tò mò ngọ nguậy mỗi khi tụi mình đi ngang qua mấy con đường mòn nhỏ chạy mút tì tè về đâu đó. Gầy gò gối đầu vào đường cái, không mời gọi, cũng không có vẻ gì trốn tránh, lộ xóm có thể trải đá xô bồ hay kê bằng tấm bê tông vừa vặn cho một xe máy, hoặc chỉ là đường đất dưới những tàng cây. Đường thẳng băng nhỏ dần như sợi chỉ ở cuối tầm mắt, hay nhiều khúc quanh cùi chỏ. Đường vắng tanh hay có một bầy trẻ con vừa tan học chấp chới khăn quàng. Quang cảnh chỗ vầy chỗ khác, nhưng những ngã đường quê có một điểm giống hệt nhau là không đưa ra lời hứa hẹn chắc chắn nào. Nếu quốc lộ, tỉnh lộ hay những con đường liên huyện đầy ổ voi ổ chó thường xởi lởi với khách bộ hành bằng bảng chỉ hướng đi, cột cây số “Trảng Gió – 53km”, “Mỹ Lạc – 36km”, thì ngõ xóm nẻo quê mù mịt. Không đi, sẽ chẳng thể biết chính xác những gì đang chờ đợi tụi mình. Dùng chữ ‘chờ đợi” có khi sai, mọi thứ mà con đường mòn mang theo cùng, chúng vẫn thanh thản tồn tại dưới vòm trời, không quan tâm tụi mình có ngang qua hay không.
Khi những điểm đến gây thất vọng với ngôi chùa ngập trong tiền lẻ và hàng quán bán thịt thú rừng, bãi biển đầy rác, núi non trơ trụi không có bóng cây, tụi mình dành nhiều thời gian hơn cho dọc đường, cho con lộ quê chẳng bao giờ thề thốt kiểu ta đây mang “nét đẹp tiềm ẩn” hay “vẻ đẹp bất tận”. Có khi phẩy tay, ờ thì chắc cũng như mấy ngã xóm mình đã từng đi cho biết, cũng vườn ruộng nằm chèo queo dưới nắng trưa, cũng cây cầu ván tạm bợ bắc qua mương rạch, cũng những bóng người ẩn nhẩn ngồi hoặc đứng trước nhà. Những người mà lần nào ngang qua tụi mình cũng thương họ đã sống một đời buồn tẻ (trong lúc đó họ thì nghĩ “con nhà ai mà giữa trưa chạy khơi phơi nắng, tội nghiệp chưa”). Nhưng tụi mình biết rằng đường xóm này không bao giờ y hệt đường xóm khác, chưa đi hết thì chưa thể nói ta đã biết rồi. Có thể con đường lên đến giữa đồng thì cụt, nhưng biết đâu nó tắt đến một cái chợ ngã ba sông, nơi mà chút nữa đây tụi mình sẽ đến bằng đường vòng.
Những làng mạc ôm đường mòn nhỏ trong lòng, bằng cách nào đó chúng không bao giờ lặp lại. Mấy quán nước cất bên chân cầu tưởng hao hao nhưng những người đàn bà ở đó trải lòng những câu chuyện khác. Chị Út ở Ba Xuyên mới đi tù về, tội chém em chồng vì giành đất, giờ chị cất cái quán để ngày ngày nhìn con mình đi học ngang qua. “Đám nhỏ nói tụi con ghê má quá”, chị kể, giọng bình thản, mắt không váng một chút nước nào, chúng khô rồi hay đã lặn sâu. Chị chủ quán Mỹ Hòa thì đang nấu nồi cháo gà lúc tụi mình ghé qua uống ly chanh đá, “ông chồng cũ chiều nay đưa vợ ổng về thăm, dù gì thì cũng đãi đằng cho tử tế”. Đôi lúc dừng lại hỏi đường lại mở ra nhiều thân phận “Ờ cứ đi ngã này là ra tới bờ sông Cái, đừng có ghé uống nước nghen, xóm đó toàn dân cùi hủi”.
Một ngã đường hiu hắt chẳng báo tin sẽ ngang qua một đám cúng đình. Xóm vắng vì bà con đã kéo lại đằng đình nấu nướng, nhậu nhẹt và ca hát, làm nên một lễ hội thật sự. Hôm đi đường đất Châu Thành thì có cơn mưa bất ngờ, vài người dân tốt bụng bấm chân lội bùn lầy hơn cây số gánh chiếc xe ra lộ xi măng. Bữa xuyên đồng Xuân Hiệp, giữa chừng gặp đàn trâu hàng trăm con đủng đỉnh lội qua kinh. Những bất ngờ khó đỡ dọc đường làm câu hỏi “có gì lạ phía đường mòn kia ?” không bao giờ nguội.
Biết không bao giờ đi hết những ngõ xóm đường quê chằng chịt trên đất nước này, tụi mình mở ra miền tưởng. Một bữa nào đó gió Nam thông ngọn, lần theo tiếng trống nửa xa nửa gần, tụi mình sẽ tạt vào con lộ nhỏ. Giữa khung cảnh quen quen như đã gặp hồi nào, tụi mình gặp một cái rạp treo cờ rũ. Mình nằm kia, bất động giữa nhà, nải chuối im lìm trên bụng. Con trai mình đang thoa môi son cho mẹ, lần cuối cùng. Ai đó lên tiếng, nói “bà già này lặn lội cả một đời, giờ chịu nghỉ ngơi rồi”.
Cảnh ấy trong hình dung, không vui không buồn nhưng tràn trề yên tĩnh.
Nỗi tò mò ngọ nguậy mỗi khi tụi mình đi ngang qua mấy con đường mòn nhỏ chạy mút tì tè về đâu đó. Gầy gò gối đầu vào đường cái, không mời gọi, cũng không có vẻ gì trốn tránh, lộ xóm có thể trải đá xô bồ hay kê bằng tấm bê tông vừa vặn cho một xe máy, hoặc chỉ là đường đất dưới những tàng cây. Đường thẳng băng nhỏ dần như sợi chỉ ở cuối tầm mắt, hay nhiều khúc quanh cùi chỏ. Đường vắng tanh hay có một bầy trẻ con vừa tan học chấp chới khăn quàng. Quang cảnh chỗ vầy chỗ khác, nhưng những ngã đường quê có một điểm giống hệt nhau là không đưa ra lời hứa hẹn chắc chắn nào. Nếu quốc lộ, tỉnh lộ hay những con đường liên huyện đầy ổ voi ổ chó thường xởi lởi với khách bộ hành bằng bảng chỉ hướng đi, cột cây số “Trảng Gió – 53km”, “Mỹ Lạc – 36km”, thì ngõ xóm nẻo quê mù mịt. Không đi, sẽ chẳng thể biết chính xác những gì đang chờ đợi tụi mình. Dùng chữ ‘chờ đợi” có khi sai, mọi thứ mà con đường mòn mang theo cùng, chúng vẫn thanh thản tồn tại dưới vòm trời, không quan tâm tụi mình có ngang qua hay không.
Khi những điểm đến gây thất vọng với ngôi chùa ngập trong tiền lẻ và hàng quán bán thịt thú rừng, bãi biển đầy rác, núi non trơ trụi không có bóng cây, tụi mình dành nhiều thời gian hơn cho dọc đường, cho con lộ quê chẳng bao giờ thề thốt kiểu ta đây mang “nét đẹp tiềm ẩn” hay “vẻ đẹp bất tận”. Có khi phẩy tay, ờ thì chắc cũng như mấy ngã xóm mình đã từng đi cho biết, cũng vườn ruộng nằm chèo queo dưới nắng trưa, cũng cây cầu ván tạm bợ bắc qua mương rạch, cũng những bóng người ẩn nhẩn ngồi hoặc đứng trước nhà. Những người mà lần nào ngang qua tụi mình cũng thương họ đã sống một đời buồn tẻ (trong lúc đó họ thì nghĩ “con nhà ai mà giữa trưa chạy khơi phơi nắng, tội nghiệp chưa”). Nhưng tụi mình biết rằng đường xóm này không bao giờ y hệt đường xóm khác, chưa đi hết thì chưa thể nói ta đã biết rồi. Có thể con đường lên đến giữa đồng thì cụt, nhưng biết đâu nó tắt đến một cái chợ ngã ba sông, nơi mà chút nữa đây tụi mình sẽ đến bằng đường vòng.
Những làng mạc ôm đường mòn nhỏ trong lòng, bằng cách nào đó chúng không bao giờ lặp lại. Mấy quán nước cất bên chân cầu tưởng hao hao nhưng những người đàn bà ở đó trải lòng những câu chuyện khác. Chị Út ở Ba Xuyên mới đi tù về, tội chém em chồng vì giành đất, giờ chị cất cái quán để ngày ngày nhìn con mình đi học ngang qua. “Đám nhỏ nói tụi con ghê má quá”, chị kể, giọng bình thản, mắt không váng một chút nước nào, chúng khô rồi hay đã lặn sâu. Chị chủ quán Mỹ Hòa thì đang nấu nồi cháo gà lúc tụi mình ghé qua uống ly chanh đá, “ông chồng cũ chiều nay đưa vợ ổng về thăm, dù gì thì cũng đãi đằng cho tử tế”. Đôi lúc dừng lại hỏi đường lại mở ra nhiều thân phận “Ờ cứ đi ngã này là ra tới bờ sông Cái, đừng có ghé uống nước nghen, xóm đó toàn dân cùi hủi”.
Một ngã đường hiu hắt chẳng báo tin sẽ ngang qua một đám cúng đình. Xóm vắng vì bà con đã kéo lại đằng đình nấu nướng, nhậu nhẹt và ca hát, làm nên một lễ hội thật sự. Hôm đi đường đất Châu Thành thì có cơn mưa bất ngờ, vài người dân tốt bụng bấm chân lội bùn lầy hơn cây số gánh chiếc xe ra lộ xi măng. Bữa xuyên đồng Xuân Hiệp, giữa chừng gặp đàn trâu hàng trăm con đủng đỉnh lội qua kinh. Những bất ngờ khó đỡ dọc đường làm câu hỏi “có gì lạ phía đường mòn kia ?” không bao giờ nguội.
Biết không bao giờ đi hết những ngõ xóm đường quê chằng chịt trên đất nước này, tụi mình mở ra miền tưởng. Một bữa nào đó gió Nam thông ngọn, lần theo tiếng trống nửa xa nửa gần, tụi mình sẽ tạt vào con lộ nhỏ. Giữa khung cảnh quen quen như đã gặp hồi nào, tụi mình gặp một cái rạp treo cờ rũ. Mình nằm kia, bất động giữa nhà, nải chuối im lìm trên bụng. Con trai mình đang thoa môi son cho mẹ, lần cuối cùng. Ai đó lên tiếng, nói “bà già này lặn lội cả một đời, giờ chịu nghỉ ngơi rồi”.
Cảnh ấy trong hình dung, không vui không buồn nhưng tràn trề yên tĩnh.
Published on March 07, 2014 19:52
Nguyễn Ngọc Tư's Blog
- Nguyễn Ngọc Tư's profile
- 880 followers
Nguyễn Ngọc Tư isn't a Goodreads Author
(yet),
but they
do have a blog,
so here are some recent posts imported from
their feed.
