Lê Đỗ Quỳnh Hương's Blog, page 7
March 14, 2024
CÂY CẦU THỨ 05 TỪ SÁCH NHÂN SỐ HỌC
Đang trong chuyến công tác tại hành trình AN Canada, tụi mình được cập nhật một tin vui be bé, mà vô cùng thấy thương, thấy ấm áp như thế này, nên quyết định lên đây, chia sẻ cùng với cả nhà mình Đó chính là ngày 16/03 sắp tới đây, cây cầu Tường Nguyên 506 ở Cù Lao Dung (Sóc Trăng) chính thức được khánh thành, đi vào hoạt động, nối liền hai bên bờ sông để thuận tiện hơn cho việc di chuyển qua lại giữa hai bến bờ. Cây cầu này, là sự góp duyên đóng góp một phần từ số tiền nhuận bút của cuốn sách Nhân số học, đợt mới nhất vào đầu năm 2024 này.
Tính đến nay đã có 05 cây cầu mang tên Nhân số học được đưa vào hoạt động, 02 cây cầu được sửa chữa, đem lại vô vàn niềm vui, nối dài vô vàn lối đi cho những bà con tại những vùng xa xôi khó khăn đó. Cảm thấy thật rõ nét, những cây cầu được xây nên từ nhuận bút sách Nhân số học – theo nghĩa sát nhất, đã, đang và sẽ tiếp tục nối dài những cung đường, xoay chuyển đời sống của biết bao người dân nơi đây. Thì tự nhiên xúc động nhiều hơn, khi nghiệm ra rằng, có một sự tương đồng lớn lao, khi bản thân Nhân số học – với tầng nghĩa sâu hơn, cũng đang có tác động như những ‘cây cầu’ vô hình, mở đường và xoay chuyển cuộc đời của biết bao nhiêu con người hữu duyên biết đến và tin tưởng vào sự hướng dẫn sâu sắc mà Nhân số học mang đến. Tất cả đều hướng con người ta đến một cuộc sống tốt hơn, hanh thông hơn, tích cực hơn, an vui hơn.
Tự nhiên ngẫm ra rằng, có lẽ Nhân số học có duyên với tính chất ‘Bắc cầu’. Cho nên mình nguyện ước rằng, chừng nào vẫn còn người ủng hộ sách Nhân số học, chừng nào sách Nhân số học vẫn có thể mang lại những nguồn nhuận bút, thì chúng mình sẽ tiếp tục dùng những nguồn nhuận bút sắp tới để xây thêm những cây cầu mới. Và hy vọng rằng, sẽ có thêm thật nhiều cây cầu mang tên Nhân số học được đánh số lên đến 6, 10,…, thậm chí là 100…, hoặc hơn thế nữa!
Thương lắm!
(14.03.2024, QH & MayQ Team)
Bài viết CÂY CẦU THỨ 05 TỪ SÁCH NHÂN SỐ HỌC đã xuất hiện đầu tiên vào ngày QUYNH HUONG LE DO | OFFICIAL WEBSITE.
March 10, 2024
AN NHẬT BẢN – TUYẾN 2 – BÀI 4: CỘI ĐÀO 2.300 NĂM VÀ SỨC SỐNG THẦN KỲ NHỜ VÀO KINH PHÁP HOA
[Ký sự hành trình chuyến khảo sát AN trên đất Nhật Bản – Tuyến 2: Tokyo – Fuji – Kamakura – Yamataka]
Một trong những thu hoạch ngoài mong đợi của chuyến khảo sát Nhật của tụi mình năm ngoái chính là một cội đào đặc biệt, có tuổi thọ trên 2.300 năm tuổi, tên là Yamataka Jindai Zakura. Còn nhớ, mục đích của chuyến đi khảo sát của tụi mình chính là để tìm hiểu về quê hương xứ sở và những nơi Ngài Nhật Liên Thánh Nhân – Nichiren Shonin từng có những gắn bó đặc biệt. Ngài Nhật Liên Thánh Nhân là một hành giả theo Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, và bằng thiền định, Ngài nhìn vào ánh mặt trời và trông thấy trong mặt trời hôm ấy một đoá liên hoa thanh tao nở rộ. Khoảnh khắc ấy, Ngài đắc ngộ. Hiệu của Ngài – Nhật Liên – cũng đã thể hiện điều đó. Và pháp môn mà Ngài lập ra, chuyên nhất tâm niệm đề kinh “Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh” (Namu Myoho Renge Kyo) được mang tên Nhật Liên Tông.
Nhật Liên Tông phát triển vô cùng rực rỡ tại Nhật Bản, đồng phát triển rộng khắp ra nhiều nước trên thế giới. Các đệ tử theo phái Nhật Liên Tông đồng đi theo tôn chỉ mà Sư Tổ Nhật Liên Thánh Nhân đã đưa ra: Hoà bình và tình yêu thương cho toàn thể nhân loại. Vì thế, không ngạc nhiên, khi trong ngần ấy thế kỷ, Nhật Liên Tông đã làm được nhiều điều tốt đẹp cho đất nước Nhật Bản nói riêng và thế giới nói chung. Trong đó có một loạt những ngôi Tháp Hoà Bình thế giới (World Peace Stupa) mà nhà MayQ có dịp đưa mọi người đến viếng và đảnh lễ tại Vườn Lâm Tì Ni trong chuyến Tứ Động Tâm Ấn Độ – Nepal vừa rồi hay Pokhara trong chuyến Tịnh Nepal tháng 4 sắp tới. Hay từ trước đó hàng mấy trăm năm, là sự thành lập những trường đại học lớn, đào tạo ra nhiều anh tài cho nước Nhật và thế giới, trong đó, trường đại học Rissau từng là nơi đào tạo bậc tỉến sĩ cho Thầy Thích Trí Quảng, hiện là Đệ Tứ Pháp Chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam của chúng ta.
Từ những bài pháp giảng của Thầy Thích Trí Quảng, tụi mình khởi tâm muốn được tìm đến với Ngài Nhật Liên Thánh Nhân, và duyên đưa tụi mình tìm đến được với ngôi chùa Bổn Môn của phái Nhật Liên Tông, được đặt tại nơi chôn nhau cắt rốn của Ngài, đồng thời cũng là nơi còn lưu lại phần tro cốt của Ngài sau cuộc đời đúng 60 năm bôn ba hoằng pháp nhiều nơi trên nước Nhật. Ngôi chùa nằm ở ngoại ô Tokyo, chúng mình có mô tả chi tiết trong bài viết đầu tiên của loạt ký sự hành trình lần này. Những tưởng như vậy đã là quá đẹp cho một cuộc tìm kiếm theo dấu chân một trong những vị đại sư mang tầm ảnh hưởng lớn đến Phật giáo Nhật Bản. Không ngờ dọc dài trên đường đi, một ngày, anh hướng dẫn viên đưa tụi mình đi khảo sát đã kể cho tụi mình nghe chuyện anh lên mạng tìm kiếm thêm những nơi có những cội đào độc đáo để đưa khách đến viếng mùa hoa đào, lại vừa tìm ra được một vùng đào cổ khá xa xôi khỏi Tokyo, nên không nằm trong địa điểm của những tour ngắm hoa đào trong du lịch phổ thông. Nơi này lại vô cùng được biết đến bởi người dân địa phương, bởi hàng loạt những cội đào hàng mấy trăm năm tuổi, tán xoè rộng trải dài trên một vạt đất mênh mang bên trước một ngôi cổ tự. Và tìm hiểu thêm chút nữa, anh hoan hỉ phát hiện ra, ‘ông tổ’ của những cội đào sum suê ấy chính là một ‘cụ’ lão đào, có tuổi đời cho đến nay phải hơn 2.300 tuổi!
Câu chuyện làm cho tụi mình sửng sốt, bởi vì một cây đào làm sao có thể sống đến ngần ấy năm? Anh hướng dẫn viên nói, đúng rồi, vào năm ‘cụ’ được khoảng 1.300 tuổi thì cụ chết tự nhiên, kiểu ‘chết già’. Và đó là thời kỳ Ngài Nhật Liên Thánh Nhân đang hoằng pháp tại ngôi chùa ấy. Ngài ngồi dưới cội đào đã chết lão, trì Kinh Pháp Hoa trong vòng 21 ngày thì cội đào hồi sinh! Và cho đến hôm nay, Ngài Nhật Liên đã nhập diệt trên dưới một ngàn năm, còn cội lão đào vẫn còn ở đó. Tuị mình liền nói anh hướng dẫn đưa tụi mình đến đó, tụi mình muốn ngắm ‘cụ lão đào’, lại càng muốn đến được ngôi chùa xa xôi mà ngày đó, Ngài Nhật Liên đã từng có thời gian hoằng pháp tại đó, và hơn thế nữa, đã từng ngồi trì Kinh Pháp Hoa 21 ngày để vực dậy sự sống cho cội lão đào!
Đường đi đến tỉnh Yamataka không tiện để di chuyển bằng tàu điện giống như những địa điểm khảo sát khác. Điều đó cũng không làm cản trở tâm huyết muốn tìm đến một nơi thật đậm đà gắn bó với dấu ấn của Ngài Nhật Liên, và hơn thế nữa, một nơi thật khuất, không phải dấu chân quen thuộc của những khách du lịch phổ thông. Một nơi mà tụi mình tin là chúng mình sẽ có thể ở đó mà tu tập một buổi ròng, để thực sự như được ‘cắm nguồn’ về với nguồn mạch của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa từng chảy qua một thưở, trên đất Nhật. Thuê một chiếc ô tô riêng (ở Nhật, tiền thuê ô tô riêng khá đắt đỏ so với các phương tiện di chuyển công cộng vốn quá tiện và dễ dàng), chúng mình một đường thẳng tiến, đến với Takegawa-cho, thành phố Hokusha, tỉnh Yamanashi.
Thời điểm chúng mình đi khảo sát là tầm giữa tháng Sáu, chớm hè. Ra khỏi những trục đường quen thuộc, dần đến khu vực này, trong những thoáng chốc, đồng ruộng xanh mát, cây cối sum suê dọc hai bên đường làm mình thấy giống ở miền Tây chúng mình ở Việt Nam hết sức. Đi tầm mấy tiếng đồng hồ, xe rẽ vào một con đường làng. Lại giống tương tự những con đường làng nhỏ nhắn, thanh bình ở các tỉnh thành phía Bắc Việt Nam, để dẫn vào những ngôi đền hay chùa cổ kính. Quả thật, đi được thêm một đoạn thì anh hướng dẫn báo, tới rồi.
Tụi mình khá hồi hộp bước đi dọc theo con đường nhỏ rợp bóng cây. Đây hẳn là những cây ‘đào cháu, đào chắt’ của ‘Cụ Lão Đào’ trong truyền thuyết đây rồi. Những cây đào này tuổi cũng hàng mấy trăm, thân to mấy người ôm không hết, còn tán cây thì ôi…, đẹp lả lướt luôn! Mùa này đã qua mùa hoa đào, trái đã tựu chi chít trên những cành lá xanh mướt. Đây là loại đào không ăn trái được, tuy nhiên, dàn cây đào mướt xanh này vẫn tạo cho người đến thăm một cảm giác hân hoan, cảm động khó tả, kiểu được vô tình ngắm mỹ nhân, cho dù các nàng có đang ăn vận sơ sài, cũng không đang vào lúc trang điểm tô vẽ lộng lẫy nhất, vẫn làm lòng người lâng lâng. Mình biết, ống kính hữu hạn của máy ảnh của chúng mình khó thể nào bắt được trọn vẹn nét mỹ miều toả rộng của hàng chục tán đào rộ nét xuân thì như vậy, nên đành chụp vào mắt của mình, cố gắng ghi nhớ lại càng nhiều càng tốt nét đẹp vừa kiêu hãnh vừa thanh tao này. Mình nghĩ, vườn đào này mà vào vụ nở rộ thì chắc đẹp phải biết. Anh hướng dẫn bảo, thầy trụ trì ở chùa quen anh có bảo, cứ vào mùa đào rộ, sẽ có một lễ hội địa phương ở đây, và khu vực này rợp bóng người trong suốt cả tuần lễ. Và người đến thưởng hoa đào chủ yếu là người địa phương, vì vậy, nét thưởng đào của họ cũng khá nhẹ nhàng, thanh tú, không phải kiểu hơi vội vã hấp tấp đến chụp hình check in rồi đi như kiểu khách du lịch từ muôn phương.
Chúng mình nghe, cũng có chút ước mong được có mặt ngay tại khoảnh khắc đào đào khai hoa rộ nhất. Tuy vậy, cũng đủ thức thời để nhận ra, một là các loại hoa đào nở rất… theo duyên, tuỳ thuộc nhiều vào thời tiết cụ thể, mà chỉ đến gần sát ngày đào nở, người ta mới có thể tạm chắc chắn đào sẽ nở ngày nào. Vì vậy, đúng là chỉ có người dân địa phương mới có thể chắc chắn đón được cảnh đào khai rộ mà đến thưởng thức kịp thời, chứ những khách du lịch phương xa như kiểu chúng mình, lịch tour lên trước tầm vài tháng, thì chỉ có nước… hên xui. Hai nữa, lý do này cũng quan trọng không kém, là chúng mình đến đây để thưởng ngoạn không gian chùa và mong được tu tập một ngày tại đây. Vì vậy, khi và mùa đào nở rộ, người người chật như nêm, không gian không đủ yên tĩnh và riêng tư để chúng mình có những thời tĩnh tâm, đọc Kinh Pháp Hoa, niệm đề kinh “Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh” và đi kinh hành như chúng mình mong ước. Vì vậy, dũng cảm chọn luôn… ngày 17/4, theo lịch thường năm là mùa… vừa qua khỏi vụ hoa đào. Mùa ấy khách du lịch phổ thông cũng đã vãn bớt, thời tiết vẫn còn se se mát để chúng ta thưởng thức đuợc không khí và cảnh sắc của nước Nhật lúc giao mùa; mà nếu đủ may mắn, biết đâu sẽ còn lại một số nụ đào chậm chạp đang nở nốt đợt cuối cùng thì sao. Và quan trọng hơn, chúng mình sẽ đi tầm mười ngày trước ‘đợt cao điểm’ lễ 30/4, thì lại có thể yên tĩnh hơn đợt đi ngay lễ rồi. Chọn được thời điểm 17-21/4/2024 cho hành trình này, tụi mình nhẹ nhõm cả người. Chỉ vỏn vẹn năm ngày cho một hành trình đủ đầy đặn, đủ ấm cúng, đủ chạm và xúc động, coi như cũng mừng bước đầu rồi.
Bước thẳng vào trong, bên phải ngôi chánh điện chính là Cụ Đào già. ‘Cụ’ đương nhiên không thể quá tươi tắn sum suê như các con cháu của cụ ở bên đường ngoài vào. Tuy nhiên, so với số tuổi 2.300 năm, Cụ xem ra vẫn còn khá phong độ. Với tên gọi chính thức là Yamataka Jindai Zakura, Jindai Zakura là cây anh đào được cho là một trong những cây anh đào lâu đời nhất ở Nhật Bản. Theo dữ liệu chúng mình tìm hiểu được trên Internet, cây lão đào này cao khoảng 13,6m, với các nhánh kéo dài 27,0m theo hướng Đông Tây và 30,6m theo hướng Bắc Nam.
Truyền thuyết kể rằng một vị anh hùng trong thần thoại Nhật Bản, Ngài Yamato Takeru, đã trồng cây này. Sau đó, vào thời kỳ Kamakura (Kiếm Thương), Ngài Nichiren – Nhật Liên đã cầu nguyện cho cây phục hồi. Để rồi, trải qua hàng trăm năm sau, cùng với thăng trầm của thời gian, đã có đến vài thập kỷ, tán cây đã bị thu hẹp, người ta xác nhận rằng chiều cao và độ dày của cây đã giảm từ đầu đến giữa những năm 1900. Cũng đã có lúc cây gặp nguy cơ lớn, một phần thân cây bị khô héo trong một thời gian dài. Năm 1948, người ta nói rằng cây sẽ chết trong vòng ba năm tới, và trên thực tế, vào năm 1951, có một số cành dày của cây đã bị chết. Hơn thế nữa, cơn bão xảy ra vào năm 1959 đã đặt cây vào tình thế vô cùng nguy kịch. Sau đó, cây trở thành đối tượng được bảo vệ, và người ta xác nhận rằng nó đã bắt đầu phục hồi vào đầu những năm 2000 nhờ những nỗ lực tích cực để bảo tồn cây. Vàđiều cảm động là, cũng tương tự như những loại cây sống lâu năm thuộc hàng kỷ lục, hạt giống của Cụ Lão Đào Jindai Zakura cũng đã được gửi đến Trạm vũ trụ quốc tế “Kibo”, và sau khi trở về, đã có haivcây hoa anh đào đã mọc lên. Sự phát triển của các vị Jindai Zakura con hiện đang thu hút sự chú ý như một loại hoa anh đào ngoài không gian, đang rất được mong đợi.
Mình và em Phong trầm ngâm đứng khá lâu bên ngoài hàng rào bảo vệ Cụ Lão Đào Jindai Zakura. Một cảm giác xúc động đến lạ lùng dâng ngập tràn cả hai chị em, khiến trong một lúc, chúng mình không nói nên lời. Cái cảm giác tương tự cái hồi chúng mình được đến hang động sâu ở Ajanta ở Ấn Độ, nơi mà cách đây gần 2.000 năm Ngài Trần Huyền Trang – Tam Tạng Pháp sư nổi tiếng của đời Đường Trung Hoa cổ đại đã từng đến viếng và đã có những mô tả trong quyển Đại Đường Tây Vực Ký… Còn hôm ấy, là cảm giác, phải chăng chính nơi này, vào thế kỷ thứ 12-13, Ngài Nhật Liên Thánh Nhân từng toạ dưới cội cây này, dùng những lực từ bi cùng lực độ bất khả tư nghì của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa mà làm cho cội đào sống dậy… Cội đào sống dậy là chuyện cảm động đã đành, nhưng câu chuyện lại thêm một lần nữa cho chúng mình một số cảm nhận về lực ‘không thể nghĩ bàn’ mà chữ Diệu trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa có thể mang tới cho những ai có đủ niềm tin và căn lành. Cảm tưởng này khiến chúng mình có chút rưng rưng.
Ngôi chùa thanh tĩnh và giản dị, rất gần với một ‘ngôi chùa để tập trung tu tập’ như đại đa số những ngôi chùa ở Việt Nam, không phải dạng ‘chùa thắng cảnh’ để đến viếng hay thuần chiêm bái. Tôn tượng Ngài Nhật Liên uy nghi giữa sân, cùng rải rác những câu trích về những lời dạy vàng ngọc của Ngài để lại cho chư đệ tử, và mình hiểu được, vì sao những người theo phái Nhật Liên Tông lại yêu chuộng hoà bình và tình yêu thương bác ái đến vậy. Vì, tận cách đây gần mười thế kỷ, những lời dạy của Ngài Nhật Liên, trước sau vẫn tập trung khơi dậy, và xây dựng sự hoà ái giữa con người với con người…
Tụi mình ngỏ ý muốn xin được lưu lại đây để tu tập một ngày ròng, kiểu format đại cộng hưởng đã rất quen thuộc với các chuyến đi trong nước. Phía đối tác chúng mình làm việc với các vị sư trẻ trong chùa, và kết quả thật mỹ mãn. Từ Phú Sĩ, chúng mình sẽ đi xe thẳng về đây, để trải qua một ngày tu tập dưới tán những cây đào, như ý chúng mình mong muốn. Sẽ có những thời lạy đề kinh Pháp Hoa, thời trì đọc Bổn Môn Pháp Hoa, thời kinh hành, thời tĩnh tâm quanh cội Lão Đào… Chúng mình tin, những ai đủ duyên tham gia cùng chúng mình trong chuyến hành trình AN trên đất Nhật, tuyến thứ hai này sẽ cảm nhận được những lợi lành mà ngày huân tu cùng nhau tại ngôi chùa cổ có cội Lão Đào Jindai Zakura mang đến.
Ngày khởi hành cũng đã đang đến gần hơn. Cùng với những sự háo hức nhất định cho một chuyến hành trình với nhiều thú vị, chúng mình cũng mang theo ước mong được gặp lại Cụ Lão Đào thân thương này, và hơn thế nữa, được cùng với hàng chục người tu tập, kết nối với nhau trong từ trường thân thương của Cụ Đào. Chúng mình tạm chia sẻ với nhà mình một số bức ảnh chúng mình chụp được ngày chúng mình đến khảo sát, và tin rằng, khi chuyến đi thật sự diễn ra, những hình ảnh chúng ta cùng nhau sẽ càng trở nên sống động, rực rỡ hơn nữa.
Thương lắm.
Ký sự hành trình chuyến khảo sát AN trên đất Nhật Bản – Tuyến 2: Tokyo – Fuji – Kamakura – Yamataka.
(09.03.2024 – QH & MayQ Team)
#NhatBan #Japan
#ANtrendatNhat #ANinJapan
#MayQ #MayQGo
Bài viết AN NHẬT BẢN – TUYẾN 2 – BÀI 4: CỘI ĐÀO 2.300 NĂM VÀ SỨC SỐNG THẦN KỲ NHỜ VÀO KINH PHÁP HOA đã xuất hiện đầu tiên vào ngày QUYNH HUONG LE DO | OFFICIAL WEBSITE.
March 5, 2024
ĐẠI CỘNG HƯỞNG ẤN ĐỘ – NEPAL: BAO NHIÊU LẦN TRỞ VỀ, BẤY NHIÊU LẦN THƯƠNG
Không hiểu sao bữa giờ, chuyến hành trình lần thứ 11 trở về Đất Phật của MayQ Go khép lại đã gần tròn được một tuần, vậy mà đến hôm nay, mình mới đủ lắng lại để viết những dòng này, lưu lại thêm một hành trình đẹp nữa cùng mọi người. Cho đến khi gõ những dòng đầu tiên của bài ký sự, mình bồi hồi khi phát hiện ra, đúng thời điểm này của 6 năm về trước, duyên đã dẫn mình được mời có mặt trong chuyến bay thẳng đến vùng đất Bodh Gaya của Ấn Độ, để rồi, thật nhiều duyên lành đã mở ra sau chuyến đi vỏn vẹn ba ngày đó. Mà đến bây giờ, có lẽ, Ấn Độ đã trở thành một vùng đất quen, một vùng đất thương, một nơi chốn an lành mà chúng mình vẫn hay thường gọi bằng cái tên thân thương, là “Nhà’.
May mắn trong đời, là có những vùng đất mà ta chỉ cần thấy nhớ, lại có cơ hội để trở về. Vẫn là nơi chốn thương quen, nhưng mỗi lần trở về, chúng mình lại được đồng hành với những con người khác nhau, và mỗi thời điểm, sẽ cho chúng mình những trải nghiệm và cảm xúc thật mới. Bao nhiêu lần trở về, là bấy nhiêu lần thương, trọn vẹn từng khoảnh khắc!
Những ngày đầu năm 2024, tụi mình hữu duyên biết đến bài hát “Hạnh phúc trong ta” (Sáng tác: Hồng Dũng) với những lời hát thật hay, thật chạm, và thật phù hợp với những chuyến đi, những hoạt động của nhà MayQ. Và thế là, trong hành trình Đại cộng hưởng tại Ấn Độ – Nepal này, đan xen trong những thời cộng hưởng, tụi mình mở cho cả đoàn có cơ hội được lắng lòng, nhắm mắt nghe từng giai điệu của bài hát, và sau đó, cùng nhau tập hát vang những lời hát thật ý nghĩa:
“Hạnh phúc là gì, là hiện tại và nơi đây
Hạnh phúc là ngồi lặng nhìn mây trắng bay
Là được tắm trên dòng sông, là được ngắm ánh hoàng hôn
Là tự do như cánh diều căng gió…
Hạnh phúc là gì, thật gần chẳng xa xôi
Hạnh phúc là nụ cười rạng ngời trên khóe môi
Là những bước chân an nhiên, là những hơi thở bình yên
Là lặng im nghe tim mình lên tiếng…”
Hóa ra, hạnh phúc đơn giản đến thế thôi, trong từng bước đi, từng hơi thở, từng sự ngắm nhìn, vậy đó mà trong đời, ta có được bao nhiêu lần lắng lại, để lắng nghe mình, để “lặng im nghe tim mình lên tiếng…”.
Khi hiểu được, hạnh phúc là những điều nhỏ bé, giản đơn như thế, cả đoàn đã hòa mình thật trọn vẹn trong suốt sáu ngày bên nhau, cùng nhau đi qua rất nhiều thời cộng hưởng lợi lạc trong mỗi điểm đến; cùng tìm hiểu và động tâm theo mỗi hành trình gắn với cuộc đời của Đức Phật; cùng vui cười, xúc động trong những thời sẻ chia dọc dài hành trình di chuyển trên xe; cùng có nhau trong rất nhiều những khoảnh khắc đẹp đẽ của đất trời, từ sớm mai mờ sương trắng xóa đến tối khuya khi trăng sáng rực một góc trời,…
Để rồi, sau sáu ngày bên nhau, nhìn lại, thấy lòng mình thật đủ đầy, tim được lấp vào bởi biết bao sự xúc động, nhớ thương trong từng gương mặt, từng nụ cười, từng cái ôm, cái nắm tay xiết bao thương gần.

Ấn Độ – Nepal lần này, chào đón đoàn chúng mình trong rất nhiều những trải nghiệm mới mẻ đầu tiên. Là những nơi chốn cũ, thương quen đến từng cành cây, ngọn cỏ, vậy đó, mà mỗi lần đến, đều gieo cho chúng mình những trải nghiệm và những nhớ thương, theo những cách khác nhau.
Đây là lần đầu tiên cả đoàn có một buổi chiều thong dong ở Vườn Nai Sarnath trọn vẹn thời cộng hưởng với thời đọc Khấn nguyện trợ duyên, lạy 54 lạy sám hối và khai tâm kết hợp với niệm hồng danh Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, được đi nhiễu ba vòng quanh Tháp Chuyển Pháp Luân khi ánh hoàng hôn dần buông, điều mà các đoàn của chúng mình trước đây không phải đoàn nào cũng đủ duyên để thực hiện.
Là một sáng ngập nắng, cả đoàn quây quần ngồi bên nhau dưới chân tháp Hòa Bình (World Peace Stupa), được nghe giới thiệu căn bản về Kinh Diệu Pháp Liên Hoa và lần đầu tiên, cùng nhau hát vang lời bài hát “Hạnh phúc trong ta” dưới trời xanh, mây trắng, nắng vàng. Khoảnh khắc ấy, chúng mình cảm nhận thật rõ, bình yên nằm ngay trong tâm ta, chứ ở đâu! Bình yên đến từ giây phút ta hiểu chỉ cần ta luôn nguyện nghĩ lành, nói những điều lành và luôn có những hành động lành…, rồi thì bình yên sẽ luôn đến với ta, dẫu bao nghịch cảnh.
Là những xúc động khi lần đầu tiên, cả năm xe toàn đoàn được cùng nhau vào làm Lễ Dâng Y ngay tại Tháp Đại Niết Bàn. Từng bước chân chậm rãi tiến vào nơi kim thân của Đức Phật trong tư thế nhập diệt, cùng những lời niệm Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật từ ngoài cổng vào. Lòng vừa xúc động, vừa kính phục, vừa nhớ thương những lời dạy của Đức Thế Tôn:
“Vạn pháp đều vô thường, có sanh sẽ có diệt. Cố gắng lên! Hãy tinh tấn nỗ lực theo Chánh Đạo mà đi! Hãy giữ chánh niệm để giải thoát khỏi ác pháp và sanh tử luân hồi.”
Những ánh bình minh đầu ngày ôm trọn lấy chúng mình. Bình minh nơi Đức Phật nhập niết bàn, sáng soi trong từng bước chúng mình đi. Phải chăng, bình minh Phật pháp cũng đang nở rộ, và khởi lên những hạt bồ đề tâm, trong lòng chúng mình?
NHỮNG CƠN MƯA XUÂN, ‘MƯA LỘC’ SAU CÁC THỜI CỘNG HƯỞNGẤn Độ mùa tháng hai không tặng cho cả đoàn lần này những thời mặt trời rực rỡ xuất sắc, nhưng đan xen trong những điều tưởng chừng như bất như ý đó, lại âm thầm che chở cho chúng mình trọn vẹn cùng nhau đi qua các thời cộng hưởng: ở sông Hằng, và trên đỉnh núi thiêng Linh Thứu.
Ở sông Hằng, là một sáng chúng mình dậy thật sớm, cùng nhau lên tàu đi dọc bờ sông, cùng ngắm nhìn hoạt động vào sớm mai. Những tiếng xôn xao ngày mới đã bắt đầu, những lò thiêu vẫn sáng lửa, cho chúng mình thêm thấu rõ sự vô thường, nhỏ bé, sinh-tử của kiếp người. Ban mai trong lành, trong khoảnh khắc giao nhau giữa đêm và ngày, giữa tối và sáng, trong lòng dòng sông linh thiêng êm ả trôi, mình không thấu hết được, lòng mỗi người đang có những nghĩ suy gì. Là an nhiên, là trống vắng, là nhẹ tênh, hay vẫn còn vấn vương một vài điều chưa thể giải quyết… Nhưng mình tin, những nguyện lành, mà mỗi người đặt trong những cánh hoa đăng, gửi nương dọc theo bờ sông Hằng linh thiêng, rồi một ngày nào đó sẽ viên thành, theo cách mỗi người ước mong.
Qua đến bến bờ bên kia, từng bước chân chạm lên bờ cát trắng, lạnh mát. Cùng ngồi bên nhau, cùng đọc một thời Chú Vãng Sanh, niệm hồng danh Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam mô A Di Đà Phật để hồi hướng cho những người, những sinh linh đã khuất tại cuộc đất này. Và trong bầu không khí thanh lành của sáng mai, chúng mình đã cùng nhau có một thời thiền tĩnh tâm hít thở đầu ngày. Những hơi thở đều đặn, chậm và sâu, buông bỏ mọi tạp niệm, chỉ để lại lòng mình những cảm giác bình an và nhẹ nhõm nhất. Để rồi, khi thời Ho’Oponopono khép lại, trời bắt đầu đổ những giọt mưa. Vừa vặn làm sao, khi thời cộng hưởng vừa hoàn mãn, mưa mới rơi. Không được ngắm nhìn ánh bình minh rực rỡ nơi bờ cát sông Hằng, cũng không có tấm hình chụp tập thể cùng nhau tại nơi này, nhưng lòng của mọi người đều rất hoan hỉ. Vui vẻ đón nhận những giọt mưa xuân, ‘mưa lộc’, mọi người lên tàu quay trở lại bờ bên kia.
Mưa đến rồi đi, nhẹ nhàng không đủ làm ướt áo. Tàu đi, mưa tạnh. Những đàn hải âu chao liệng rợp quanh những mạn tàu, khiến mọi người ai cũng vô cùng thích thú. Thong dong trên tàu, ngắm nhìn những cánh hải âu tự do sải cánh trên nền trời, khung cảnh này mới đẹp và bình yên làm sao. Chào ngày mới ở sông Hằng, và chào bình minh ngày mới, trong lòng người!
Lần này, bình minh ở đỉnh núi Linh Thứu cũng tặng cho chúng mình một cơn mưa, ngay sau khi thời cộng hưởng cùng nhau vừa khép lại. Như bao lần đến đây, sáng hôm ấy, đoàn chúng mình đã dậy thật sớm để di chuyển lên đỉnh núi. An nhiên, tĩnh tại giữa mênh mông đất trời. Trăng 16 m lịch tròn vành, thoắt ẩn, thoắt hiện sau những đám mây. Thấy thương nhất là khi trời vẫn còn nhá nhem tối, cả đoàn cùng nhau chắp tay, thành tâm đảnh lễ, giây phút đó, mặt trăng từ từ nhô ra, sáng soi cả vùng trời, tựa như đang soi chiếu thẳng vào trong thân tâm của chúng mình.
Tại ngọn núi thiêng Linh Thứu, nơi mà cách đây hơn 2.600 năm, Đức Phật đã có một khoảng thời gian giảng về bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa, ngày hôm ấy, chúng mình đã đủ duyên ngồi lại cùng nhau, cùng đọc những lời kinh trong cuốn Bổn môn Pháp Hoa (Soạn dịch: Hòa thượng Thích Trí Quảng), thấm đẫm sâu sắc từng lời dạy của Đức Phật. Trong 30 phút thời kinh diễn ra, đã có những hạt mưa xuân lất phất rơi, như những hạt ngọc mà đất trời trao tặng cho chúng mình. Ánh trăng 16 cũng thoắt ẩn, thoắt hiện, nhô ra, ẩn vào, ba lần rồi mới biến mất. Trăng sáng rồi khuất, mưa nhẹ đến rồi tan, đêm rồi lại ngày, như nhắc chúng mình rằng, trong cuộc sống này chẳng có gì là mãi mãi. Vạn vật vẫn không ngừng xoay, niềm vui hay khổ đau cũng sẽ đến rồi đi trong gang tấc, quan trọng là chính bản thân mỗi người, phải nuôi dưỡng tâm mình, làm sao đón nhận mọi vui buồn đến đi trong đời một cách vững vàng và tĩnh lặng nhất. Mình tin, những khoảnh khắc và cảm xúc này, sẽ đọng lại thật sâu và thật lâu, trong tim của mỗi người.
THỜI TỔNG KẾT ĐẶC BIỆT, DIỄN RA NGAY TẠI SÂN BAY BODH GAYASáu ngày khép lại, hoàn tất những thủ tục xuất cảnh xong, tụi mình nhận được tin chuyến bay về Việt Nam sẽ bị trì hoãn 1 giờ 30 phút. Trong không gian ấm cúng tại sân bay Bodhgaya, chỉ có mỗi một mình đoàn chúng mình tại đó, ‘thiên thời – địa lợi – nhân hòa’, chúng mình đã ngồi lại bên nhau, có một thời tổng kết thật đặc biệt về chuyến đi, diễn ra ngay tại đất Ấn (điều mà chúng mình vẫn thường làm, ngay trên máy bay lúc trở về).
Sáu ngày không quá dài so với hành trình của một đời người, nhưng đủ dài để cả đoàn đồng hành cùng nhau trong một chuyến hành trình về miền đất Phật trọn vẹn, đủ đầy những cảm xúc. Chúng mình đã cùng nhau đi qua và có các thời cộng hưởng xúc động, đong đầy ngay tại bốn thánh tích gắn liền với cuộc đời của Đức Phật: Vườn Lâm Tỳ Ni (nơi Đức Phật Đản Sanh), Bồ Đề Đạo Tràng (nơi Đức Phật Thành Đạo), Vườn Nai Sarnath (nơi Đức Phật Chuyển Pháp Luân), Tháp Đại Niết Bàn (nơi Đức Phật Nhập Diệt). Bên cạnh đó, chúng mình cũng đã viếng những nơi chốn khác không kém phần thiêng liêng, quan trọng trong cuộc đời hoằng pháp của Đức Phật như: sông Hằng, núi thiêng Linh Thứu, Trúc Lâm Tinh Xá, Tháp Trà Tì,… Chúng mình cũng đã viếng thăm các ngôi chùa Việt Nam tại Ấn Độ: chùa Đại Lộc, Chùa Kiều Đàm Di, Chùa An Việt Nam Phật Quốc Tự. Viếng thăm ngôi chùa Tây Tạng, chùa Phật Lớn,… Mỗi nơi chốn đến, mỗi người chúng mình gặp trong hành trình, đều đọng lại những cảm xúc khác nhau, mà tin rằng, sau sáu ngày, mỗi người đều có những niềm thương, sự kính mến về vùng đất thiêng này.
Khép lại buổi ‘sinh hoạt tổng kết’ đặc biệt này, tất cả các thành viên trong đoàn, nhắm mắt lại, tay trong tay trong thời Ho’Oponopono cuối cùng, mọi hình ảnh, mọi ký ức, mọi kỷ niệm đã có cùng nhau hiện về, đủ đầy như một thước phim tua chậm. Đã có những giọt nước mắt rơi, những cái nắm tay siết chặt, và chúng mình hiểu, được đồng hành và có mặt cùng nhau trong chuyến đi lần này, chính là một loại may mắn và phước lành thật lớn của mỗi người.
——–
Máy bay cất cánh, mỗi người sẽ có những cảm nhận khác nhau về một chuyến hành trình sáu ngày đã qua nơi Đất Phật. Có thể không tránh khỏi những cảm giác mỏi mệt về thân bởi những ngày thức khuya dậy sớm, di chuyển đường dài dằng xóc, nhưng mong rằng, tâm của mỗi người, tim của mỗi người đã được lấp đầy bởi vô vàn những điều xúc động, nhiều yêu thương, trong chuyến hành trình trở ‘Về Nhà’ này. Để rồi sau đó, mỗi người sẽ thêm phần tôn kính Phật, nguyện sống tốt hơn, đẹp hơn, an vui tự tại tỏa từ tâm.
Một lần nữa, lời bài hát “Hạnh phúc trong ta” được cất lên khi máy bay sắp đáp về Việt Nam:
“Hạnh phúc là lựa chọn, nên đừng chọn thương đau
Chọn vươn lên bầu trời, đừng chọn vào hố sâu
Chọn lấp lánh như vì sao, chọn lung linh giữa trời cao
Chọn tỏa hương, bay đi về muôn hướng…
Mỗi sớm tỉnh dậy, thêm một ngày để yêu thương
Để mầm xanh hy vọng được gieo khắp bốn phương
Gạt bỏ hết những hờn ghen, gạt bỏ hết những bon chen
Đường tu tâm, cứ đi rồi sẽ đến…
Để nhận ra, hạnh phúc ở trong ta…”
Lời hát quyện trong ánh đèn flash điện thoại lung linh cả một khoang máy bay, lấp lánh, như chính nguyện ước cho tương lai của mỗi người.
Hạnh phúc nào có xa xôi, hạnh phúc ở đây, ngay lúc này, trong tâm, trong tim của mỗi người!
Biết ơn và tạm biệt một chuyến hành trình trở về đất Phật lần thứ 11, bình an và trọn vẹn, đã khép lại!
Thương lắm!
(03.03.2024, QH & MayQ Team)
#Đạicộnghưởng
#ẤnĐộ
#Nepal
#TheodấuchânPhật
#MayQGo
Bài viết ĐẠI CỘNG HƯỞNG ẤN ĐỘ – NEPAL: BAO NHIÊU LẦN TRỞ VỀ, BẤY NHIÊU LẦN THƯƠNG đã xuất hiện đầu tiên vào ngày QUYNH HUONG LE DO | OFFICIAL WEBSITE.
February 8, 2024
SERIES LƯỢNG CẢ BAO DUNG – BÀI 5: SINH NHẪN & PHÁP NHẪN
[Lời QH] Cả nhà mình thương mến, như vậy, ngày cuối cùng của năm cũ, chúng ta cũng tạm thời đi đến bài cuối cùng lảy từ chuỗi bài pháp giảng lớn của Sư Ông Làng Mai theo chủ đề Lượng cả bao dung: Nhẫn Ba La Mật. Qua chuỗi bài này, chúng ta đã được tiếp cận qua hai khái niệm, hai loại Nhẫn, là Nhẫn thế gian và Nhẫn xuất thế gian. Hôm nay chúng ta được Sư Ông giảng về hai cái Nhẫn khác, là Sinh nhẫn và Pháp nhẫn. Mời cả nhà cùng học với chúng mình nhen.
[Bài giảng của Sư Ông]:
SINH NHẪNSinh tức là chúng sinh. Trước hết là loài người, tức là loài làm ta khổ đau nhiều nhất. Các loài khác như loài vi trùng hay là loài cọp beo cũng làm ta khổ, nhưng không làm cho ta cay đắng quằn quại như loài người. Sinh nhẫn tức là nhẫn chúng sinh. Nếu cha mẹ mình làm khổ mình thì cha mẹ mình cũng là chúng sinh, mình phải làm thế nào để có thể ôm được cha mẹ, hiểu được cha mẹ và thương được cha mẹ, đó gọi là sinh nhẫn. Nếu con mình làm khổ mình thì mình phải thực tập như thế nào để con mình hiểu được mình, để trái tim mình lớn lên và ôm được con mình, mình không còn giữ ý muốn từ con mình nữa tại vì con mình cũng là một chúng sinh, đó gọi là sinh nhẫn. Nếu có những con người kia chèn ép, ủy khuất mình và mình đau khổ cùng cực, thì mình phải làm thế nào để trái tim mình lớn lên và ôm được trọn những người đó, thương được những người đó tại vì những người đó cũng là chúng sinh, đó gọi là sinh nhẫn.
Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta cứ để cho sự chèn ép và ủy khuất tiếp tục. Chúng ta phải tìm tất cả các biện pháp để có thể ngăn ngừa không cho họ chèn ép và gây ủy khuất ta nữa. Ta hành động không phải vì hận thù mà vì tình thương, tại vì những người kia cũng đang đau khổ. Họ tuy có thể đứng về một phía rất có ưu thế, nhưng họ cũng đau khổ. Họ không thấy được cái đau khổ của đồng loại và của những con người khác. Vì vậy cho nên trái tim của họ rất cần tình thương và đầu óc của họ rất cần trí tuệ. Và khi ta chấp nhận được họ và ôm được họ rồi, ta sẽ có thể giúp đỡ cho họ có một cái thấy và có một trái tim. Trong khi đó, ta vẫn làm hết sức tất cả những gì ta có thể làm để ngăn chặn không cho họ tiếp tục chuyện chèn ép và gây ủy khuất nữa. Ta hành động nhưng không hành động trên cơ bản căm thù. Ta hành động trên cơ bản tình thương và từ bi. Đó là phương châm của đạo Bụt (Phật).
Một người có hận thù và đau khổ trong lòng thì có thể mù quáng, có thể gây ra những đau khổ không cần thiết. Trong khi đó thì năng lượng cần thiết cho những người hành động hướng về điều tốt đẹp là cái thấy, cái hiểu và cái thương. Cái hiểu và cái thương là hai nguồn năng lượng vô cùng tận, gọi là Đại bi và Đại trí. Mà Đại bi và Đại trí đi với Đại dũng, cho nên các em trong gia đình Phật tử đã học bi, trí và dũng (đại hùng, đại lực, đại từ bi). Chúng ta biết rằng mỗi khi chúng ta có h.ậ.n thù trong trái tim thì chúng ta nhìn không rõ, chúng ta bị mù quáng. Vì mù quáng, chúng ta hành động sai lầm và gây đau khổ rất nhiều. Cho nên thay vì sử dụng chất liệu h.ậ.n thù làm năng lượng thì chúng ta dùng một năng lượng khác, đó là năng lượng của tình thương, năng lượng của hiểu biết. Năng lượng hiểu và thương rất mạnh. Năng lượng đó có thể thay đổi được thế giới, có thể thay đổi được trái tim ta.
PHÁP NHẪNChúng ta đã nói tới Sinh nhẫn, bây giờ chúng ta nói tới Pháp nhẫn. Pháp tức là các pháp. Đại Trí Độ Luận có nói tới hai loại pháp. Trước hết là Tâm pháp và hai là Sắc pháp.
_ ‘Tâm pháp’ là những trạng thái tâm lý của ta như là: buồn, giận, thất vọng, ganh tị, lo lắng, sợ hãi…, tất cả đều thuộc về phạm vi tâm pháp. Làm thế nào để chúng ta có thể ôm được và chuyển hóa những cái đó.
_ ‘Sắc pháp’ như là: bệnh tật, thiên tai, nước lụt, lửa cháy, nóng, lạnh, tai nạn xe hơi… Tất cả những cái đó chúng ta cũng phải làm thế nào để ôm lấy và chịu đựng được chúng.
Chúng ta đã biết rất rõ, chúng ta đã nghe nhiều lần rằng chúng ta chỉ có thể ôm chúng khi nào chúng ta có một trái tim lớn và một nhận thức lớn. Mà muốn có một trái tim lớn và một nhận thức lớn, chúng ta phải thực tập quán chiếu theo tinh thần vô ngã. Vì vậy cho nên, Vô ngã là chiếc chìa khóa độc nhất vô nhị mà Đức Thế Tôn đã trao truyền cho chúng ta. Nó có thể mở toang ra tất cả những giới hạn chật hẹp, của thành kiến, của nghi kỵ và của h.ậ.n thù. Vô thường và Vô ngã là chìa khóa để mở cửa thương yêu.
Và theo tinh thần đạo Bụt (đạo Phật) Đại Thừa, thì Pháp nhẫn là phép thực tập quán chiếu. Quán chiếu để thấy được tự tính vô ngã và không của mọi pháp. Chỉ khi nào chúng ta quán chiếu được tự tánh vô ngã, tương tức và không của vạn pháp thì chúng ta mới giải oan cho chúng ta được.
Tại sao tuệ giác về vô ngã, và tương tức lại giải oan cho ta được? Quý vị đã biết nguyên tắc “Cha ăn mặn, con khát nước”. Có những con người tạo ra những tội ác trầm trọng, nhưng từ là vì những lý do vì sao, chúng ta phải quán chiếu. Chúng ta không quy tội vào cho một người, mà chúng ta thấy được tất cả những nguyên do gần xa chằng chịt đã đưa tới những hiện tượng bức bách, hãm hại hay giày xéo kia. Và khi thấy được chúng sanh, cũng như thấy được các pháp trong sự liên hệ tương tức của chúng, thì tự nhiên trái tim chúng ta mở ra.
Chúng ta có thể chứa đựng và ôm lấy được tất cả những gì đang xảy ra cho chúng ta và chúng ta không còn đau khổ. Cũng như là trong ví dụ của bài giảng trước, người sư chú, trong khi lau dọn nhà vệ sinh có cảm giác rất hoan hỉ và an lạc là tại vì biết rằng mình đang làm việc này cho tất cả tăng thân. Nhờ mình đang làm chuyện này cho nên tăng thân mới có thể đang làm chuyện kia và chuyện nọ. Đó là cái nhìn tương tức, đó là cái nhìn vô ngã. Nếu chúng ta không thực tập quán chiếu vô ngã và tương tức thì cái Nhẫn của chúng ta chưa phải là Nhẫn Ba La Mật. Trong kinh luận, chúng ta thường nghe lặp đi lặp lại ý “chỉ có quán chiếu tự tánh vô sinh của các pháp mới thực sự là Nhẫn Nhục Ba La Mật”. Vô sinh có nghĩa là không sanh không diệt, cũng có nghĩa là tương tức. Mà bất sinh bất diệt, cũng như tương tức, là những đóa hoa nở trên sự quán chiếu vô ngã. Nắm được vô ngã tức là thấy được vô sinh. Vì vậy cho nên kinh luận nói rằng chỉ có quán chiếu vô sinh mới là Nhẫn Nhục Ba La Mật. Chúng ta lại có một danh từ rất nổi tiếng là “Vô sinh pháp nhẫn”. Vô sinh pháp nhẫn tức là cái Nhẫn đạt được do quán chiếu tự tánh vô sinh của các pháp.
Sinh nhẫn tiếng Anh gọi là Patience, nghĩa là chịu đựng được. Nếu sức mình không lớn, nếu trái tim mình không lớn thì làm sao mình chịu đựng. Nếu cha mà không chịu đựng được con là tại vì trái tim cha và sự hiểu biết của cha còn nhỏ. Nếu con mà không chịu đựng được mẹ là tại vì trái tim cũng như cái thấy của con chưa đủ lớn để có thể ôm được mẹ. Khi mình đủ sức để ôm rồi thì mình không còn khổ nữa, mình có thể chịu đựng được. Nếu mình chịu đựng mà thấy không được thoải mái lắm là tại vì mức chịu đựng của mình còn nhỏ, và mình phải thực tập để có thể chịu được mà không khổ thì mới hay. Thí dụ như mình có một đứa học trò cứng đầu, làm và nói những điều không cho mình hạnh phúc thì mình cũng có thể chịu đựng được. Mình nói là phải cho nó thời gian để nó thực tập. Tùy theo chiều sâu của sự quán chiếu mà mình chịu đựng đứa học trò đó dễ hay khó. Hoặc hơi cồng kềnh nếu mình có một sư anh, một sư em hay là một sư chị hơi khó ôm thì mình đừng nói: “Anh ơi, chị ơi, nhỏ lại một chút đi để tôi ôm cho dễ.” Thay vì nói như vậy, thì mình phải làm sao để trái tim mình lớn lên, lớn lên thêm nữa để mình có thể ôm được anh mình, chị mình hoặc em mình. Và tự nhiên, tuy không đòi hỏi ở người kia một sự thay đổi nào cả, mà mình vẫn có hạnh phúc như thường. Cái đó là Nhẫn Ba La Mật.
Đây không phải là chuyện xa vời trên trời dưới đất, mà là chuyện hàng ngày của chúng ta. Chúng ta phải nên tự hỏi và mỗi ngày phải trở về trái tim để hỏi thăm: “Trái tim của ta ơi, hôm nay em có lớn lên chút nào không? Sự quán chiếu của ta có giúp em trưởng thành không?” Vô Sinh Pháp Nhẫn rất mầu nhiệm. Ôm giữ được mà không bị nứt rạn, bao trùm được mà không thấy chật vật.
Và vì vậy, khi dịch về chữ Nhẫn qua tiếng Anh, tôi thường đề nghị dịch thành chữ “Inclusiveness” (mang nghĩa Ôm choàng, bao gồm tất cả) chứ không phải là Patience hay Forbearing (Chịu đựng).
[Từ chuỗi bài pháp giảng của Sư Ông Làng Mai]
[Từ QH & MayQ Team]
Như vậy là chuỗi 5 bài tụi mình trích lược từ chuỗi bài pháp giảng của Sư Ông Làng Mai về LƯỢNG CẢ BAO DUNG: NHẪN BA LA MẬT cũng đã được đăng lên vào ngày cuối cùng của năm cũ Quý Mão. Chúng mình thực sự tin rằng, những ai đủ duyên theo dõi đủ cả năm bài này đều ít nhiều lảy được cho mình những sự tri ngộ quý giá từ những lời giảng dạy của Sư Ông, để, trong những ngày qua, những ngày cuối cùng của năm cũ, chúng ta đã kịp thời ngộ lại những gì đã diễn ra cho mình và những người thân, mà quán chiếu học hỏi, tập thực hành mở dung lượng tâm ngày càng mở rộng, để ôm choàng lấy tất thảy, yêu thương tất thảy. Để rồi, từ sự thực tập để mỗi ngày càng mở rộng dung lượng trái tim rộng lớn hơn, để mỗi ngày đều đặn quán chiếu và thực hành pháp Nhẫn Ba La Mật như được Sư Ông hướng dẫn để đối diện với mọi hoàn cảnh, mọi tình huống, tin rằng chúng ta sẽ cùng nhau bước sang năm mới Giáp Thìn với tất cả sự nhẹ nhàng và an lạc, cả nhà mình nhé.
Gửi niệm lành cho tất cả,
(9/2/2024 (30/Chạp – Quý Mão) – QH & MayQ Team)
#SưÔngLàngMai
#Nhữnglờidạy
#Lượngcảbaodung
#Nhẫnbalamật
#SinhLãoBệnhTử
Bài viết SERIES LƯỢNG CẢ BAO DUNG – BÀI 5: SINH NHẪN & PHÁP NHẪN đã xuất hiện đầu tiên vào ngày QUYNH HUONG LE DO | OFFICIAL WEBSITE.
February 7, 2024
SERIES LƯỢNG CẢ BAO DUNG – BÀI 4: ‘LƯỢNG CẢ BAO DUNG’ TRONG CHẤP NHẬN VÀ CHUYỂN HÓA BẤT Ý, BỆNH NẠN, OAN KHIÊN, ĐAU KHỔ
[Lời QH] Ở bài thứ 3, chúng ta đã hiểu rằng, chỉ có thực hành thật sâu và thật miên mật cái Nhẫn Xuất thế gian mới cho chúng ta một sự an lạc và giải thoát rốt ráo, chứ chúng ta không nên chỉ dừng lại ở Nhẫn theo thế gian – nhẫn mà thấy rằng mình vẫn còn nghiến răng chịu đau, chịu khổ, vì biết chắc rằng cái nhẫn của thế gian thể nào cũng chỉ đến một giới hạn nào đó, mà những bài khảo của cuộc đời rồi sẽ lần lượt đến với ta như để thử thách ta đến cực hạn. Những phương pháp chi tiết của Nhẫn Xuất thế gian sẽ được Sư Ông lần lượt hướng dẫn trong bài thứ 4 này, mà chúng mình xin được trích lược những ý quan trọng nhất từ chuỗi bài dạy của Sư Ông về đề tài lớn ‘Lượng cả bao dung: Nhẫn Ba La Mật’. Chúng ta cùng nhau tiếp tục học nhé.
HIỆU ỨNG ‘MŨI TÊN THỨ HAI’Khi một người bị trúng tên, người đó sẽ cảm thấy đau nhức. Nhưng giá dụ có một mũi tên thứ hai được bắn tới và trúng ngay chỗ mũi tên đầu, thì nạn nhân của hai mũi tên không phải cảm thấy đau nhức gấp hai lần, mà có thể đau nhức gấp trăm lần. Bụt (đức Phật) nói: “Khi có một sự đau nhức trong cơ thể, chúng ta phải thực tập như thế nào để thấy rằng đó chỉ là một đau nhức của cơ thể mà thôi, và ta thấy được tầm vóc chính xác của sự đau nhức đó. Đừng đánh giá nó một cách sai lầm”. Nói như vậy có nghĩa là, khi có một đau nhức ở trong cơ thể, ta phải quán sát cho kỹ để thấy đó chỉ là một sự đau nhức trong cơ thể có giới hạn của nó thôi, và đừng tưởng tượng rằng sự đau nhức đó quá trầm trọng. Tưởng tượng như vậy, ta sẽ lo lắng. Và khi chúng ta hoảng sợ tức là mũi tên thứ hai đã lao tới, đã cắm vào chỗ của mũi tên thứ nhất, và sự đau nhức đó sẽ tăng lên gấp trăm lần. Bụt (đức Phật) dạy, đừng để cho mũi tên thứ hai bay tới. Khi có một khổ đau nào đó, ta phải biết nhận diện tầm quan trọng của nó và đừng cường điệu, đừng tưởng tượng. Mũi tên thứ hai có thể là sự giận dữ hay sự oán hờn. Ta có thể oán trách những người khác, ta có thể oán trời trách đất, là tại sao ta là người phải gánh chịu cái bệnh đó mà không phải là một người khác? Thường thường chúng ta hay nghĩ là những loại bệnh nan y thì người khác bị chứ tại sao mình lại bị. Người khác bị thì ta chấp nhận được, còn ta bị thì đó là vô lý, là không đúng, là bất công, là không thể chấp nhận được.
Cái khuynh hướng suy nghĩ như vậy có mặt trong tất cả mọi người. Các chứng bệnh, những tai nạn xe hơi, nước, lửa, bão tố, v.v.., những cái đó chỉ có thể xảy ra cho ai khác thôi. Điều đó chứng tỏ ta không thấy được rằng ta đang mang trong ta đủ bốn thứ bệnh, cũng như tất cả mọi người khác. Ai cũng có thể bị bệnh và có thể bệnh ấy sẽ bộc phát ra bất cứ lúc nào. Đó là một sự thật đơn giản. Người nào, trẻ hay già, cũng có thể bị bệnh và có thể bị bệnh bất cứ lúc nào. Chúng ta phải học chấp nhận chuyện đó. Đó gọi là chịu. Vì không chấp nhận được nên khi bị bệnh ta mới phản kháng, mới nổi giận, mới oán trời trách đất. Vì không có trí tuệ cho nên ta mới không chấp nhận được cái chuyện là có thân thì có bệnh. Người có trí tuệ và có quán chiếu chấp nhận được sự thật một cách dễ dàng. Người không có trí tuệ và không có quán chiếu thì tiếp tục lồng lộn phản kháng. Và sự đau khổ đó, sự bực bội đó, hoặc sự thất chí đó chính là mũi tên thứ hai.
HỐ THẲM VÀ ĐẤT LIỀNKhi có một nỗi đau nhức hay một chứng bệnh trong cơ thể, ta phải nhận diện nó và học phương cách để chấp nhận nó. Chấp nhận được thì chúng ta bắt đầu khỏe. Đó là điều kiện nền tảng để chúng ta có thể đi tới, ôm lấy nó và chuyển hóa nó. Có nhiều người trong chúng ta nghĩ rằng cái mà họ cần nhất là sức khỏe, sức khỏe toàn hảo. Khi ta cầu nguyện Bụt (đức Phật) hay cầu nguyện Chúa, chúng ta muốn Chúa hoặc Bụt (Phật) sẽ cho ta một sức khỏe toàn hảo. Nhưng đó không phải là một lời cầu nguyện được soi sáng bởi trí tuệ, tại vì, cái gọi là ‘sức khỏe toàn hảo’ ấy không bao giờ có mặt, đó là cái không thể có. Chúng ta phải học sống với cái bệnh của chúng ta, phải làm hòa với cái bệnh của chúng ta, và phải ôm lấy cái bệnh của chúng ta, đó gọi là Nhẫn. Nhẫn là ôm lấy một cách vui vẻ, chấp nhận và chịu đựng. Sở dĩ chúng ta còn sống đây là vì hồi còn bé chúng ta đã bệnh lên bệnh xuống liên miên, hết cơn bệnh này tới cơn bệnh kia. Chính nhờ em bé bệnh lên bệnh xuống như vậy, cơ thể em mới phát sinh ra khả năng chống cự được với những con virus, vi khuẩn, với những loại nấm độc. Nếu em bé không trải qua những cơn bệnh như vậy, thì em bé không khỏe mạnh được như bây giờ chúng ta thấy. Thành ra chúng ta phải học để chấp nhận cái bệnh và phải ôm lấy cái bệnh chúng ta, phải sống an lạc và hòa bình với nó. Bệnh của quý vị, cho dù là bệnh ruột, bệnh tim, bệnh nhức mỏi, bệnh thận hay bệnh tiểu đường cũng vậy, quý vị phải chấp nhận nó và phải ôm lấy nó.
Trong kinh Tương Ưng Bộ S.IV, 207, Bụt (đức Phật) dạy: “Người phàm phu chưa được học pháp của Bụt (Phật pháp) không có khả năng đối phó với cái đau khổ của họ. Trong đại dương có một hố sâu thăm thẳm không có đáy. Hố sâu thăm thẳm không đáy đó tượng trưng cho cái khổ. Cái khổ có thể là không có đáy.”
Trong kinh, Bụt (đức Phật) dạy, cơ thể của chúng ta giống như bầu hư không. Và trong bầu hư không đó có nhiều loại gió thổi tới: gió Đông, Nam, Tây và Bắc… Có những ngọn gió mang theo cát bụi rất nóng, có những ngọn gió mang theo hơi lạnh căm căm, có những ngọn gió làm cho mình nóng điên lên và có những ngọn gió làm cho mình mát mẻ. Cơ thể của mình là không gian, và những cảm thọ khác nhau là những luồng gió thổi trong bầu không gian cơ thể ấy của chúng ta. Bụt (Đức Phật) cũng dạy rằng cơ thể chúng ta giống một quán trọ có đủ thứ người: người dễ thương, người dễ ghét, người giàu, người nghèo… từ tứ phương tới, lưu trú một thời gian rồi đi. Cơ thể của chúng ta cũng là nơi mà mọi loại cảm thọ có thể xảy ra. Trong đại dương mênh mông có một cái hố thẳm không đáy. Đại dương đó là cơ thể chúng ta, là con người chúng ta. Cái hố sâu thăm thẳm đó được tượng trưng cho cái khổ của chúng ta. Kẻ phàm phu, người không biết chánh pháp và không biết tu tập thì rất sợ hãi khổ đau. Đối với họ, khổ đau là hố sâu thăm thẳm, họ không nghĩ rằng họ có thể chịu đựng được. Nhưng người có trí, biết tu tập, biết quán chiếu và biết thực tập nhẫn Ba La Mật, thì sẽ cảm thấy mình đang đứng trên đất liền mà không phải là đang đứng trong đại dương hay đứng trên bờ vực của hố thẳm khổ đau. Vì vậy khi thực tập nhẫn Ba La Mật, chúng ta sẽ có cảm tưởng an toàn là chúng ta đứng trên đất liền chứ không phải đứng trong hố thẳm của đại dương khổ đau. Khi ta thực tập thì trái tim của ta rộng mở, trí giác của ta rộng mở và ta có thể mỉm cười với tất cả mọi nỗi khổ đau. Ta bao trùm được hết.
Nếu ta khổ đau quá, nếu ta không chịu đựng được thì ta sẽ phải muốn tự kết liễu đời mình Vì ta chưa có cái lượng của các bậc Thánh Nhân, của các vị Bồ Tát và của các vị Bụt (Phật), vì trái tim của ta chưa có dung tích lớn như vậy, cho nên ta phải tu tập để cho cái thấy cũng như là trái tim của ta lớn lên. Ta phải làm như Bụt (đức Phật), trái tim ta phải ôm được thái hư, và trí giác ta phải bao trùm đại thiên thế giới.
Nếu chúng ta hắt vào dòng sông mênh mông một chậu nước dơ, thì nước của dòng sông đó vẫn có thể trong, và ta vẫn có thể lấy nước sông uống được như thường, tại vì dòng sông mênh mông quá, nó dung chứa được chậu nước dơ đó và chuyển hóa được nó một cách rất là dễ dàng. Còn nếu chúng ta đổ chậu nước dơ đó vào trong một thùng nước, hay trong lu nước trước nhà chúng ta, thì chắc chắn là lu nước đó ta không thể uống được nữa, tại vì lu nước đó nhỏ quá và nước trong lu ít quá. Dòng sông mênh mông đã ôm lấy chậu nước dơ và chỉ trong vòng một, hai giờ đồng hồ đã làm cho nước dơ đó chuyển hóa, tất cả những cái dơ lặn xuống dưới đất, dưới đáy sông, trộn lẫn với đất, với cát và nước của nó trở thành ra trong trở lại. Dòng sông đâu có làm gì nhiều đâu, ấy vậy mà chậu nước dơ chúng ta đổ vào dòng sông tự nhiên biến thành nước trong, là tại vì đất ở dưới dòng sông rất lớn và nước trong dòng sông rất nhiều.
Bụt (đức Phật) và Bồ Tát cũng vậy, nên quý vị không cần “cắn răng chịu đựng”. Chỉ có những người trong phạm vi thế gian mới phải cắn răng chịu đựng, đó gọi là nhẫn thế gian. Khi trái tim mình đã lớn, khi tâm lượng mình đã trở nên vĩ đại thì mình đâu cần phải cắn răng chịu đựng nữa, đó gọi là Nhẫn xuất thế gian. chúng ta biết rằng đè nén và chịu đựng một hồi thì chúng ta cũng sẽ bùng nổ, cho nên phương pháp nhẫn thế gian không đáng để chúng ta học theo. Chúng ta phải học theo nhẫn xuất thế gian. Trái tim chúng ta lớn chừng nào thì ta dung nạp càng dễ chừng đó, mà dung nạp được một hồi thì sẽ có chuyển hóa. Chúng ta hãy bắt chước dòng sông, tập nhìn bằng con mắt không hẹp hòi, không khắt khe, tập nhìn bằng con mắt độ lượng và bao dung thì chúng ta sẽ không còn khổ nữa.
Nhẫn nhục, ở đây, không đòi hỏi một sự cắn răng chịu đựng, vì nhẫn xuất thế gian rất khác với nhẫn thế gian. Khi nói: “Tôi không muốn thấy mặt anh nữa, tôi không muốn nghe đến tên anh nữa, tôi muốn anh ra khỏi cuộc đời tôi…” là chúng ta đang làm ngược lại với tinh thần “Đựng”. Chúng ta chỉ muốn đổ ra ngoài. Ta nghĩ rằng người đó đã làm cho ta đau khổ, ta không chịu đựng nổi và ta quyết tâm đẩy người đó ra ngoài trái tim của ta. Ngay cái ý định đẩy người đó ra ngoài trái tim của mình đã là một nguyên do của khổ đau rồi. Trái tim của Bụt (đức Phật) là trái tim có dung lượng rất lớn. Bụt (Phật) không muốn đẩy ai, bỏ ai ra ngoài dung lượng của trái tim ấy cả. Nếu ta không có khả năng đựng, không có khả năng ôm lấy một người em, một người anh, một người chị, đó là tại vì sao? Tại vì trái tim ta chưa lớn. Trái tim ta chưa lớn là tại vì sao? Tại vì ta đang còn ngu si, tại vì ta không thực tập quán chiếu, ta không biết rằng người đó chính là ta và người đó cần ta. Ta vẫn coi người đó là kẻ thù, và đó là nguyên do của đau khổ trong ta. Khi ta nhìn người bằng con mắt khắt khe, khi ta nói với người bằng những lời trách cứ, khi ta làm khổ họ bằng những cử chỉ, những lời nói và những ánh mắt của ta, tức là ta không có khả năng ôm, ta không có khả năng đựng. Sự thực tập của ta là phải quán chiếu để có thể ôm, có thể chịu, đó là Nhẫn Nhục Ba La Mật.
Khi một tai nạn hay một khổ đau xảy đến cho ta, ta thường hay có khuynh hướng nghĩ rằng: “Ta đang là nạn nhân của sự bất công. Tại sao người kia không bị như vậy mà ta lại bị như vậy? Tại sao người đó được thương mà ta lại không được thương? Tại sao người đó không có bệnh mà ta lại bị bệnh?” Ta thấy ta là nạn nhân của một sự bất công, sự bất công đó có thể từ xã hội hay Thượng Đế đưa tới. Đó cũng là vô minh. Chính vô minh đã làm cho chúng ta khổ.
“TẤT CẢ CHỈ LÀ NHỮNG PHÉP THỬ”Có khi chúng ta tự hỏi: “Tại sao mình phải gánh chịu cái tai nạn này, tại sao mình lại bị bệnh nan y này, tại sao mình bị khuyết tật từ ngay khi cha mẹ sanh ra, tại sao con mình mới sanh ra có hai tuổi thôi mà đã bị bệnh nan y?” Có nhiều trường hợp ta không thể nào hiểu được. Không hiểu tại sao những người ăn hiền ở lành mà lại gặp phải những tai nạn ghê gớm như vậy.
Nhìn vào xã hội, vào loài người, vào hoàn cảnh xung quanh để tìm ra một lý do và một nẻo thoát, người ta không tìm ra được và vì vậy người ta phải ngửa mặt lên trời để hỏi.
“Vương bà nghe bấy nhiêu lời,
Tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên.”
(Trích Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Trời là cái hướng duy nhất còn lại để mình có thể vạch ra mà kêu oan. Còn ở bên đạo Công giáo, trong Kinh Cựu Ước có một thi phẩm rất hay, đó là “The book of Job” (Câu chuyện về ông Job). Job là một con người hạnh phúc, một ông nhà giàu có hàng ngàn con bò, con cừu và những đứa con xinh đẹp, lại có một địa vị lớn trong xã hội. Người ta nói rằng ông Job rất kính trọng, nghe lời, sợ hãi Thượng Đế và có niềm tin nơi Thượng Đế một cách vững chãi. Một hôm, vị quỷ Satan xuất hiện nơi thượng giới và muốn đưa ra thử thách cho ông Job, một con người ở thế gian được cho là có niềm tin vững chãi nơi Thượng Đế như vậy. Thượng Đế trả lời: “Ông cứ thử đi, nhưng ông đừng động tới sinh mạng của người đó.”
Hôm ấy, trong khi ông Job đang ngồi trong phòng khách ấm cúng của mình thì có một người đầy tớ về báo cáo rằng tất cả những con trâu, bò, lạc đà, cừu của ông ta đều chết hết. Mấy đứa con gái yêu quý của ông ta đi ăn đám giỗ ở nhà đứa em út cũng bị tai nạn chết hết rồi. Lúc đó ông Job chắp tay lại, nói: “Nếu những cái này xảy ra, đó là tại vì có lý do sâu sắc nào đó mà mình chưa hiểu”. Và ông hoàn toàn không trách móc, không lên án Thượng Đế.
Satan thất bại. Satan lên trên Thiên đình một lần nữa và nói với Thượng Đế là tại vì mình chưa chạm vào con người anh ta, nếu chạm vào người anh ta thì có lẽ là anh ta sẽ trách móc, oán hờn Thượng Đế. “Hãy cho tôi thử đi. Nếu tôi không thử thì làm sao ta biết được sự trung kiên ấy có hay là không?” Thượng Đế chịu thua. Ngài bảo Satan: “Như vậy thì ta cho phép anh thử, nhưng đừng làm cho người đó chết.” Lần này Satan bắt Job phải đau những chứng bệnh rất ngặt nghèo, cả người đều bị lở lói, không di chuyển được, nằm một đống, đau khổ vô cùng. Sự sản tan nát, các con đều chết, bây giờ thân hình mình bị tật bệnh rất nặng. Lúc đó, ông Job mới mở miệng ra nguyền rủa, nhưng không phải là nguyền rủa Thượng đế mà là nguyền rủa cái ngày sinh của mình, nguyền rủa cái huyền ước của mình. “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để cho tôi phải khổ như ngày hôm nay? Tại sao tôi phải sinh ra để gánh chịu tất cả những đau khổ này?”
Lúc đó có bốn người bạn của Job tới. Thấy ông đau khổ như vậy, họ không biết làm gì cả. Sau đó, họ bắt đầu nói chuyện với Job: “Có lẽ là trong quá khứ mình cũng đã có gây tạo những tội lỗi nào đó mà không biết, cho nên bây giờ mình mới phải gánh chịu những khổ đau cùng cực như vậy.” Nhưng ông Job nhất định không chấp nhận. Job nói: “Tôi chưa từng gây tạo một nỗi khổ đau, một tội lỗi nào hết. Tôi đã sống theo đường lối của Thượng Đế đã dạy. Tôi chưa làm điều gì thất đức thì tại sao tôi phải gánh chịu những tai ương như thế này? Tôi không nguyền rủa Thượng đế, nhưng tôi không thể nào không nguyền rủa cái ngày sinh của tôi”. Người bạn cuối cùng an ủi không được, mới nói: “Đau khổ cần thiết cho con người. Có lẽ đau khổ giúp cho ta học một bài học của sự sống, và ta sẽ lớn lên từ sự đau khổ đó.” Nhưng Job cũng không vừa ý.
Cuối cùng thì Thượng Đế xuất hiện trong tiếng gió, và Thượng Đế nói: “Cái ngày mà ta tạo thiên lập địa, có mặt ngươi đó hay không? Ai thắp mặt trời lên buổi sáng, ai thắp mặt trăng lên buổi chiều, có mặt ngươi đó không? Có nhiều cái ngươi chưa biết.” Và Job nhận ra rằng quả thật có nhiều cái mình không biết. Chính sự chấp nhận có những cái mình chưa biết làm cho Job bớt đau khổ, và ông quỳ xuống để hối lỗi. Lúc đó, Thượng Đế hoàn trả lại cho ông tất cả những gì mà Job đã mất, nào lạc đà, nào ngựa, nào trâu, nào bò, nào con cái…
Tác phẩm này là một tác phẩm thi ca rất nổi tiếng trong Thánh Kinh. Còn chúng ta thì thông qua tác phẩm này, nhận ra một phép ẩn dụ sâu sắc, rằng tất cả những khổ đau trên đời mà ta có thể gánh chịu, có thể chỉ là những phép thử mà thôi.
‘CHA ĂN MẶN – CON KHÁT NƯỚC’Ở trong đạo Bụt (đạo Phật), khi được hỏi tại sao những người ác độc vẫn sống phây phây và những người nhân từ lại khổ đau, có nhiều vị pháp sư trả lời: “Đó là tại vì những người đang đau khổ ấy tuy bây giờ hiền lành nhưng trong kiếp trước đã làm những điều dữ. Nếu có những người dữ đang sống phây phây bây giờ là vì trong kiếp trước họ đã biết làm điều lành.” Nói như vậy để chúng ta có thể chấp nhận được khổ đau của chúng ta. “Dục tri tiền thế nhân, kim sinh thọ giả thị. Dục tri lai thế quả, kim sinh tác giả thị”. Muốn biết những cái nhân của kiếp trước mình gây tốt hay không, thì mình chỉ cần nhìn những kết quả mà mình thu nhận trong đời sống ngày hôm nay. Nếu mình bây giờ có hạnh phúc, được đoàn tụ gia đình, có công ăn việc làm đàng hoàng, thiên hạ đối xử với mình tử tế, mình không bị bệnh tật là tại vì sao? Nhìn vào những cái mà mình thọ hưởng ngày hôm nay, mình biết ngày xưa mình đã gây ra những nhân tốt. Còn nếu nhìn vào những cái khổ đau trong đời sống bây giờ, mình biết rằng tại vì trong quá khứ, trong đời trước, mình đã làm những việc ác đức.
Nếu muốn biết rằng đời sau mình có được hạnh phúc hay không, nếu muốn biết cái quả của đời vị lai thì mình chỉ cần nhìn vào những hành động của ngày hôm nay. “Kim sinh tác giả thị” là những cái gì mình tạo tác ra trong đời sống hiện tại. Nếu trong đời này mình làm những chuyện thất đức thì kiếp sau mình sẽ khổ đau, mình sẽ lãnh đủ.
Đó là cách giải thích cho những người quá đau khổ để họ có thể chấp nhận được số phận của họ. Lối giải thích đó, tuy cũng đúng với luật nhân quả, nhưng chỉ đúng có một phần thôi. Tại sao? Cố nhiên theo luật nhân quả: trồng ngô thì hái ngô, trồng đậu thì hái đậu, gieo gió thì gặt bão. Vậy tại sao không nói là đúng hết, mà chỉ nói đúng một phầ ? Đúng một phần, là tại vì lối giải thích về nhân quả này còn vướng vào ý niệm ‘Ngã’ (cái tôi riêng biệt). Vì vậy lối giải thích ấy chưa phải là nhân quả đích thực của đạo Bụt (Phật). Đạo lý nhân quả đích thực của đạo Bụt (Phật) phải đi đôi với giáo lý vô ngã. Khi ta hiểu được giáo lý vô ngã, theo nguyên lý vô ngã, khi ta hiểu được giáo lý nhân quả trong ánh sáng của vô ngã, thì lúc đó ta mới bắt đầu hiểu được thực sự tại sao “cha ăn mặn” mà “con lại khát nước”. Tại vì ‘cha ăn mặn’ mà ‘con khát nước’ cũng cùng là một sự thật. Người này làm mà người kia chịu, như vậy nó có phải là một điều trái chống với lý nhân quả không? Không, nó không trái chống với lý nhân quả, nó đúng là lý nhân quả trong đạo lý vô ngã, tại vì cha với con không phải là hai thực thể riêng biệt. Cha với con cùng chung một dòng sinh mạng, vì vậy cho nên những điều gì mà cha ông ta làm ngày xưa, bây giờ ta sẽ tiếp tục thừa hưởng hoặc lãnh đủ.
Có thể ta không biết, nhưng mỗi khi ta hút một điếu thuốc hay uống một ly rượu, thì hành động này chắc chắn là có tác động tới cháu chắt của ta trong nhiều đời về sau. Khi được thừa hưởng một cơ thể lành mạnh không bệnh tật, chúng ta đừng nói rằng cái đó là chỉ do kiếp trước ta đã trồng những nhân tốt cho nên trong kiếp này ta được thừa hưởng một thân thể lành mạnh không có tật bệnh. Có những em bé mới sinh ra đã có một cái cơ thể bèo nhèo rất tội nghiệp. Trong sự thật “cha ăn mặn, con khát nước” vừa có lý nhân quả vừa có lý vô ngã. Nếu ngày hôm nay ta được thừa hưởng một cơ thể lành mạnh không bệnh tật, thì ta biết rằng đó là nhờ cha, nhờ mẹ, nhờ ông nội, nhờ bà nội, ông ngoại, bà ngoại và những thế hệ khác đã sống như thế nào, đã giữ gìn cơ thể họ như thế nào nên hôm nay ta mới có được cơ thể này. Vì vậy không phải chỉ có ta gieo hạt trong quá khứ, mà ông cha chúng ta cũng đã gieo hạt trong quá khứ. Như vậy cũng có nghĩa ông cha ta tức là ta, ta là sự tiếp nối của ông cha. Đây là đạo lý vô ngã.
Cho nên khi gánh chịu một khổ đau, ta phải thấy rằng khổ đau này là ta đang gánh chịu cho cả dòng họ, cho cả những cộng đồng lớn hơn mà ta thuộc về. Khi thấy như vậy, thì ta sẽ đỡ đau khổ nhiều lắm, và trong khi gánh chịu ta có thể có rất nhiều nghị lực và nhiều niềm vui, vì ta đang gánh chịu với tình thương và trách nhiệm của một thành phần trong dòng sinh mạng.
Một ví dụ như thế này: trong khi lau chùi nhà vệ sinh, một sư chú biết rằng sư em mình đang nói pháp thoại trên thiền đường. Tuy vậy, sư chú vẫn lau chùi dọn dẹp nhà vệ sinh một cách rất hạnh phúc, và thấy rằng việc lau dọn nhà vệ sinh là một việc rất cao cả, quan trọng không thua gì việc nói pháp thoại. Sư chú biết rằng nhờ sư chú đang lau chùi dọn dẹp nhà vệ sinh, nên sư em mới có cơ hội để nói pháp thoại. Như vậy việc lau dọn nhà vệ sinh cũng là một hình thức nói pháp thoại. Trong khi sư em mình nói pháp thoại có lợi lạc cho sư em và cho những người khác, thì sư chú lau dọn nhà vệ sinh cũng có rất nhiều lợi lạc và cũng đem lợi lạc này lại cho rất nhiều người. Vì vậy không có sự kỳ thị giữa việc lau dọn nhà vệ sinh và việc nói pháp thoại. Đó là vô ngã.
Ta biết rằng đức Quan Thế m Bồ Tát đã thành Bụt (Phật) từ vô lượng kiếp rồi, nhưng trong pháp hội của Bụt (Phật) Thích Ca, đức Quan m vẫn đóng vai trò của một người đệ tử. Chúng ta biết rằng Bụt (Phật) Thích Ca cũng có thể làm chuyện đó. Có thể trong một hoàn cảnh khác, đức Quan Thế m Bồ Tát đóng vai trò của một bậc Chúng Trung Tôn và Bụt Thích Ca Mâu Ni lại đóng vai trò của một người đệ tử. Tất cả đều là thị hiện. Thị hiện trong tuệ giác tôi với anh không phải là hai thực thể: anh làm chuyện này, tôi làm chuyện khác; anh vo gạo, tôi rửa bát, tất cả đều mầu nhiệm như nhau. Vì vậy cho nên dù ngồi trên pháp tọa hay đang làm vua thì mình cũng không thấy mình bị tách rời ra khỏi những thực thể khác ở chung quanh mình. Vì vậy mình có khả năng hạnh phúc, và nếu cần đau khổ, mình cũng có thể chấp nhận được, tại vì mình đang gánh chịu cho anh mình, cho chị mình, cho em mình, cho cộng đồng, cho dòng họ của mình. Đó là Nhẫn.
Nhẫn tức là có một trái tim rất lớn có thể chứa đựng được những cái mà những trái tim khác không thể chứa đựng. “Nhẫn điều khó nhẫn mới là chân tu”, đó là một câu ở trong truyện Quan m Thị Kính. Chứa đựng những cái không thể chứa đựng được, đó mới gọi là chân tu. Mà tại sao trái tim mình đã lớn lên được tới cái mức đó, có thể chứa đựng được tất cả những đau khổ, những bất công như thế? Đó là tại vì mình đã có dụng cụ của sự quán chiếu. Dụng cụ của sự quán chiếu ấy tháo tung được trái tim mình ra, và làm cho trái tim mình có thể ôm trọn cả được thái hư. Còn nếu không thì mình vẫn còn trách trời, trách đất, nguyền rủa thiên địa, nguyền rủa xã hội, nguyền rủa cha mẹ, nguyền rủa đủ thứ và mình tiếp tục đau khổ.
[Từ các bài giảng của Sư Ông Làng Mai]
[Từ QH & MayQ Team] Những nguyên lý thật sự sâu sát, thuyết phục và đủ sức chạm, đủ để chúng ta tập thực hành sâu và rộng hơn, để qua đó chúng ta dần buông xuống được sự nhẫn nhịn theo phương pháp đè nén cảm xúc của thế gian và dịch chuyển dần sang hướng ‘Hiểu sâu – Thương lớn’. Đó chính là sự kỳ diệu của Nhẫn Xuất thế gian – tức Nhẫn Ba La Mật vậy.
Sau khi học xong bài hôm nay, trong những ngày cuối cùng của năm cũ này, chúng ta cùng ngẫm ngộ, tập thực hành ngay quán chiếu mọi sự việc theo hướng Nhẫn Xuất thế gian – Nhẫn Ba La Mật, để mỗi ngày đưa dần chúng ta đến sự an lạc bền ổn và vững vàng, dẫu xung quanh ta những bài khảo có khắc nghiệt đến độ nào, cả nhà mình nhé.
Gửi niệm lành cho tất cả,
(8.2.2024 (29/Chạp Quý Mão) – QH & MayQ Team)
#SưÔngLàngMai
#Nhữnglờidạy
#Lượngcảbaodung
#Nhẫnbalamật
#SinhLãoBệnhTử
Bài viết SERIES LƯỢNG CẢ BAO DUNG – BÀI 4: ‘LƯỢNG CẢ BAO DUNG’ TRONG CHẤP NHẬN VÀ CHUYỂN HÓA BẤT Ý, BỆNH NẠN, OAN KHIÊN, ĐAU KHỔ đã xuất hiện đầu tiên vào ngày QUYNH HUONG LE DO | OFFICIAL WEBSITE.
February 6, 2024
SERIES LƯỢNG CẢ BAO DUNG – BÀI 3: TRÁI TIM ÔM TRỌN THÁI HƯ – NHẪN THẾ GIAN & NHẪN XUẤT THẾ GIAN
[Lời QH] Cả nhà mình thân mến, chuỗi bài về ‘Lượng cả bao dung: Nhẫn Ba La Mật’ này đến với chúng ta trong những ngày cuối cùng của năm cũ âm lịch, và mang lại những giá trị quán sát để thông suốt rất lớn. Sau hai bài trước đây, tìm hiểu những khái niệm về sự ‘Chịu’ – ‘Đựng’ để học mở rộng Tâm lượng chúng ta ngày càng rộng lớn hơn, học đối diện, chấp nhận và ôm ấp những trải nghiệm lớn mà đời người ai cũng phải trải qua như Sinh – Lão – Bệnh – Tử, bài thứ 3 hôm nay của chuỗi bài quý này từ Sư Ông Làng Mai sẽ đưa chúng ta đi đến những khái niệm rộng lớn hơn nữa: “Trái tim ôm trọn Thái Hư’. Và, chúng ta cũng qua đó bắt đầu làm quen với hai khái niệm mới: Nhẫn theo cách sống của thế gian, gọi là Nhẫn Thế gian, và Nhẫn theo cách nhìn của những người biết thực tập theo lời Phật dạy, gọi là Nhẫn Xuất thế gian.
Chúng ta bắt đầu học cùng nhau nhé!
[Lời dạy của Sư Ông]
Chúng ta đã nói tới danh từ chịu đựng. Chịu có nghĩa là chấp nhận và Đựng có nghĩa là ôm lấy. Ôm lấy có nghĩa là không phải vứt bỏ ra ngoài, không liệng ra ngoài. Nếu chúng ta có thể ôm lấy được, thì đó là vì dung tích của trái tim chúng ta lớn. Còn nếu trái tim chúng ta nhỏ thì chúng ta sẽ không ôm lấy được. Nếu chúng ta ôm được và ôm hết lòng thì đối tượng ấy sẽ được chuyển hóa. Đó là tại vì cái lượng của chúng ta lớn. Bài chúc tán có câu: “Bậc đại giác viên mãn xuất hiện nơi cõi Ta bà, tấm lòng ôm trọn cả thái hư.” “Tấm lòng ôm trọn cả thái hư” là được dịch từ câu: “Tâm bảo thái hư”. Mấy chữ đó cho chúng ta thấy trái tim của đức Thế Tôn rất lớn. “Lượng châu sa giới”: lượng Từ Bi của Ngài ôm được cả vũ trụ. Thái là lớn, Hư là không gian, Thái hư là mang nghĩa là Vũ trụ. Bốn chữ này là bốn chữ ca ngợi đức từ bi và nhẫn nhục của đức Thế Tôn. Trái tim của Bụt (đức Phật), tình thương của Ngài có thể bao trọn và ôm hết được tất cả các loài chúng sanh với tất cả những gai góc khó khăn; ôm lấy được hết, ôm mà không đau khổ. Khi trái tim mình còn nhỏ, mà mình phải ôm thì mình đau khổ, nhưng khi trái tim đã lớn, có nghĩa là khi tình thương đã mở rộng, thì mình không còn đau khổ nữa. Cho nên sự thực tập của chúng ta là phải làm cho tim ta lớn lên hơn mỗi ngày.
“Lượng”, chữ này chúng ta đã học rồi. Lượng tức là sức dung chứa, là sự bao dung của ta. Trong thơ Kiều có câu: “Có dung kẻ dưới mới là lượng trên”. Châu là bao trùm, là đi giáp một vòng xung quanh. Sa giới tức là những thế giới nhiều như cát ở sông Hằng. Trái đất của chúng ta chẳng qua chỉ là một phần rất nhỏ của thái dương hệ, của một tiểu thế giới thôi, và ngoài kia còn có biết bao nhiêu tinh hà, còn có biết bao nhiêu thế giới trong vũ trụ nhiều như số cát sông Hằng. Vì vậy thế giới được gọi là sa giới. Cái lượng của đức Thế Tôn bao trùm hết tất cả mọi cõi. “Tâm bảo thái hư, Lượng châu sa giới”, chỉ tám chữ mà nói lên được cái từ bi vô lượng, lòng thương và sức dung chứa vô lượng của một trái tim. Người ấy là ai mà có một trái tim rộng lớn như vậy? Chúng ta là học trò của Người, chúng ta phải thực tập thế nào để trái tim của chúng ta cũng càng ngày càng lớn để có thể nhìn những người khác bằng một cặp mắt ít khắt khe hơn, ít hẹp hòi hơn.
Chúng ta phải nhìn bằng con mắt rộng rãi. Chúng ta phải có không gian bên trong thật nhiều thì tự nhiên con mắt chúng ta sẽ sáng ra. Con mắt đó có thể nhìn mọi loài với tình thương. “Nhìn mọi loài với tình thương” là năm chữ ở trong kinh Pháp Hoa, “Từ nhãn thị chúng sinh.” Thế nhưng, không phải là hễ chúng ta muốn nhìn bằng tình thương mà nhìn được đâu. Ai lại không muốn nhìn bằng tình thương, nhưng nếu trái tim ta đang còn nhỏ thì ta nhìn cách ấy không được. Do đó sự thực tập của chúng ta là phải nuôi cho trái tim lớn lên. Mà muốn nuôi cho trái tim lớn lên thì ta phải thực tập quán chiếu để thấy. Khi có thấy thì mới có hiểu, và có hiểu rồi thì mới có thương.
“Bậc Đại Giác Viên Mãn
Xuất hiện nơi cõi Ta bà
Tấm lòng ôm trọn cả thái hư
Trí giác soi cùng đại thiên thế giới”
Ngay đối với cái bệnh của chúng ta, dù là một chứng bệnh ngặt nghèo, nan y hay là một chứng bệnh tầm thường mỗi ngày của chúng ta, mà nếu chúng ta có một trái tim lớn, có một cái nhìn lớn thì những chứng bệnh đó không còn làm khổ chúng ta nữa.
Kỳ trước chúng ta đã nói tới bốn cái bệnh lớn mà người nào cũng đang mang ở trong con người, là bệnh sinh, bệnh già, bệnh bệnh và bệnh c.h.ế.t. Bốn cái đó làm cho chúng ta đau nhức. Mỗi khi nghĩ tới bốn cái đó, chúng ta thấy nhức nhối tại vì thân của chúng ta đã bị điều kiện hóa bởi chúng. Ta thế nào cũng phải già, ta thế nào cũng phải bệnh, ta thế nào cũng phải chết, và tệ hơn nữa là chết rồi ta lại phải sinh ra trở lại để mà tiếp tục chịu khổ. Đó là chứng bệnh trầm kha mà đức Thế Tôn đã đi tìm những phương thuốc để trị liệu.
NHẪN THEO THẾ GIAN & NHẪN XUẤT THẾ GIANTrong giới Phật học, người ta có ý niệm về hai loại Nhẫn, tức là hai loại chịu đựng. Thứ nhất là Nhẫn thế gian và thứ hai là Nhẫn xuất thế gian. Nhẫn thế gian nghĩa là cái nhẫn trong cuộc sống hàng ngày của người phàm, còn nhẫn xuất thế gian là một loại nhẫn được làm bằng chất liệu của tuệ giác. Có những người có một khả năng nhẫn nhịn nào đó, nhưng trong khi nhẫn nhịn họ cảm thấy đau khổ và thấy rằng mình phải nghiến răng chịu khổ. Khi thực tập Nhẫn xuất thế gian, chúng ta vượt tới một bờ bến rất xa lạ: trong khi nhẫn, chúng ta không còn thấy chúng ta nhẫn nữa, chúng ta không cần chịu đựng nữa, tại vì chúng ta đã có tuệ giác, đã tiếp xúc được với bản môn – tức quay về với bản chất của mọi sự vật hiện tượng.
Nhẫn của thế gian chẳng qua chỉ có thể giúp ta tránh khỏi một ít những đổ vỡ và lầm lỗi. Ngày xưa có một đại gia đình, cả trăm người, suốt trong chín thế hệ, nổi tiếng là ăn ở với nhau vô cùng hòa thuận. Đó là gia đình Trương Công Nghệ. Vua nghe đồn là gia đình đó ăn ở với nhau rất hòa thuận nên mới ngự giá tới thăm. Tất cả mọi người trong gia đình đều ra quỳ xuống để đón tiếp vua. Vua hỏi: “Bí quyết của các vị là gì mà có thể sống với nhau có hạnh phúc, không có sự xáo trộn, không có sự mâu thuẫn và không chia rẽ?” Ông tộc trưởng mới dâng lên một tờ biểu để trả lời. Trong tờ biểu đó chỉ có viết một trăm chữ “Nhẫn”. Vua gật đầu khen phải và thưởng cho gia đình kia mấy tấm lụa. Đó là bài học thuộc lòng trong sách Luân Lý Giáo Khoa Thư mà thầy được học hồi còn nhỏ. Và đây là cái nhẫn gọi là nhẫn thế gian.
Thế nhưng, Nhẫn của thế gian, có những người có một khả năng nhẫn nhịn nào đó, nhưng trong khi nhẫn nhịn họ cảm thấy đau khổ và thấy rằng mình phải nghiến răng chịu khổ, thì tới một mức nào đó thì người đời hết nhẫn được nữa và họ sẽ nổ tung. Còn khi học Phật, chúng ta phải học cho được Nhẫn xuất thế gian. Chính cái nhẫn của xuất thế gian mới đem lại cho ta an lạc thực sự.
[Từ chuỗi bài pháp giảng của Sư Ông Làng Mai]
[QH & MayQ Team] Thật sự, chỉ khi chúng ta hiểu biết về khái niệm Nhẫn Xuất thế gian, chúng ta mới biết rằng, chỉ có thực hành thật sâu và thật miên mật cái Nhẫn Xuất thế gian mới cho chúng ta một sự an lạc và giải thoát rốt ráo, chứ chúng ta không nên chỉ tự thuyết phục mình dừng lại ở Nhẫn theo thế gian, vì biết chắc rằng cái nhẫn của thế gian thể nào cũng chỉ đến một giới hạn nào đó, mà những bài khảo của cuộc đời rồi sẽ lần lượt đến với ta như để thử thách ta đến cực hạn. Những phương pháp chi tiết của Nhẫn Xuất thế gian sẽ được Sư Ông lần lượt hướng dẫn trong bài tụi mình sẽ giới thiệu tiếp theo, sẽ giúp được chúng ta rất nhiều khi ta đi qua bất ý, bệnh nạn, oan khiên…, những trải nghiệm mà có lẽ không có ai trên đời này tránh khỏi. Chúng mình sẽ cùng nhau đón đọc/nghe trong bài của ngày mai, cùng ngẫm ngộ những điều này, để ngay trong những ngày cuối cùng của năm cũ này, chúng ta cùng bắt tay vào, tập thực hành ngay quán chiếu mọi sự việc theo hướng Nhẫn Xuất thế gian, để mỗi ngày đưa dần chúng ta đến sự an lạc bền ổn và vững vàng, dẫu xung quanh ta những bài khảo có khắc nghiệt đến độ nào, cả nhà mình nhé.
Gửi niệm lành cho tất cả,
(7.2.2024 (28/Chạp Quý Mão) – QH & MayQ Team)
#SưÔngLàngMai
#Nhữnglờidạy
#Lượngcảbaodung
#Nhẫnbalamật
#SinhLãoBệnhTử
Bài viết SERIES LƯỢNG CẢ BAO DUNG – BÀI 3: TRÁI TIM ÔM TRỌN THÁI HƯ – NHẪN THẾ GIAN & NHẪN XUẤT THẾ GIAN đã xuất hiện đầu tiên vào ngày QUYNH HUONG LE DO | OFFICIAL WEBSITE.
SERIES LƯỢNG CẢ BAO DUNG – BÀI 2: ‘LƯỢNG CẢ BAO DUNG’ KHI ĐỐI MẶT VỚI ‘SINH – LÃO – BỆNH – TỬ’
[Lời QH] Cả nhà mình thương mến, “Sinh – Lão – Bệnh – Tử” hay “Sinh – Già – Bệnh – C.h.ế.t” là chuỗi bốn khái niệm mang tính quy luật mà dường như ai ai cũng biết. Cùng với khái niệm “Lượng cả bao dung”, tức tập nuôi cho tâm lượng của mình càng ngày càng trở nên lớn hơn, dung chứa được hết thảy những phiền não, bất ý đến với mình một cách nhẹ nhàng, Sư Ông Làng Mai dạy, chính là một hình thức của hành pháp Nhẫn Ba La Mật theo Phật giáo. Theo sau bài 1 phác họa khái niệm về ‘Chịu’ – ‘Đựng’ & ‘Tâm lượng’ để hướng đến ‘Lượng cả bao dung’, bài 2 hôm nay xin được lảy tiếp lời dạy của Sư Ông khi đối diện với bốn vấn đề, bốn nỗi khổ mà người đời ai cũng gặp này. Mời cả nhà cùng tiếp tục học với chúng mình nhé.
[Bài dạy của Sư Ông]
Trước hết chúng ta hãy nói về bệnh. Bệnh là một cái mà tất cả chúng ta đều phải chấp nhận. Chúng ta người nào cũng có một chút bệnh, ít hay nhiều. Chúng ta phải có cái lượng khá lớn để có thể chấp nhận được cái bệnh của chúng ta. Cố nhiên bệnh lớn thì phải thực tập nhiều. Và bốn cái bệnh lớn nhất là bệnh chết, bệnh già, bệnh sinh và bệnh bệnh.
BỆNH C.H.Ế.TTrước hết chúng ta hãy quán chiếu về bệnh c.hế.t. C.h.ế.t là một cái bệnh. Tất cả chúng ta đều đang mang cái bệnh đó ở trong người, tại vì chúng ta ai mà không phải chết. Người thì c.h.ế.t sớm, người thì c.h.ế.t trễ. Anh nói rằng anh có ung thư, anh sẽ c.h.ế.t trong vòng sáu tháng. Anh nói rằng tôi không có ung thư, tôi không c.h.ế.t. Cái đó không đúng. Tôi cũng đang c.h.ế.t như anh. Tôi chỉ c.h.ế.t trễ hơn anh thôi. Anh và tôi cùng mang chung một thứ bệnh, đó là bệnh c.h.ế.t. Có nhiều người tìm cách để quên rằng mình có cái bệnh c.h.ế.t đó. Các nhà triết học và đạo học đều đặt vấn đề: Tại sao ta sinh ra? Để rồi ta phải c.h.ế.t?
Có người đi tìm phép trường sinh bất tử, đi tu đạo Lão, tịch cốc, luyện đơn. Có người đi tu theo đạo Bụt (đạo Phật)… Thiền sư Tiên Nhai của Nhật, một hôm viết xuống một chữ Tử rất lớn. Rồi thầy viết thêm một hàng nhỏ: “Nếu người nào thấy được bản chất của cái này thì mới là bậc đại trượng phu”. Tất cả chúng ta ai cũng đều có cái bệnh c.h.ế.t. Đạo Lão, đạo Tiên cũng đi tìm cách chữa bệnh này, đạo Bụt (đạo Phật) cũng đi tìm cách chữa bệnh này. Chúng ta phải chịu đựng nó bởi vì nỗi sợ c.h.ế.t là cái ung nhọt do bệnh làm ra, nó luôn luôn nằm dưới đáy tâm thức. Sở dĩ chúng ta cười được, nói được, chạy chơi được là tại vì ta tạm quên nó thôi, chứ sự thật nó sờ sờ ra đó, và một ngày nào đó thì mình phải c.h.ế.t.
Muốn để cho cái sợ c.h.ế.t không làm mình khổ thì mình phải thực tập. Mình phải có cái lượng. Đạo Bụt (Phật) dạy mình nhiều phương pháp. Đạo Bụt (Phật) dạy mình trong đời sống hằng ngày, trong những giây phút của đời sống hằng ngày, sống làm sao cho sâu sắc, để đồng thời tiếp xúc được với bản môn – tức là bản chất của mọi sự vật hiện tượng. Chỉ có tiếp xúc được với bản môn thì ta mới có thể chữa được bệnh c.h.ế.t. Mà muốn tiếp xúc được với bản môn thì ta phải quán chiếu. Khi tiếp xúc được với bản môn rồi, thì ta thấy sống và c.h.ế.t chỉ là sóng, trong khi ta là nước. Lúc đó cái lượng của mình rất lớn. Sống thì sống c.h.ế.t thì c.h.ế.t. Sống một triệu lần cũng được. C.h.ế.t một triệu lần cũng được. Không sợ nữa. Cưỡi trên sóng sinh tử mà đi. Đó là người đã đạt được tới sự siêu thoát sinh tử. Đó là cái công phu làm cho lượng mình lớn. Không những ta gọi nó là đại lượng mà còn gọi nó là vô lượng. Vô lượng thọ, tức là tên của đức Phật A Di Đà. Vô lượng thọ là gì? Là sống hoài sống mãi. Làm sao có thể có được chuyện này? Có ai sống hoài đâu? Ai có thể tự xưng mình là vô lượng thọ? Không ai tự mình xưng mình là vô lượng thọ cả. Nhưng đối với người đã tiếp xúc được với bản môn thì người đó có vô lượng thọ. Chúng ta cũng vậy.
BỆNH SINHSinh là một cái bệnh. Điều này mới nghe thì thấy lạ lùng. Tại vì sinh thường được người ta cho là một hiện tượng rất vui, rất hy hữu. Khi sinh con, người ta làm tiệc ăn mừng và tới ngày sinh nhật người ta thường làm một cái bánh và đốt lên bao nhiêu ngọn nến. Người ta ăn mừng sự sống. Không ai ăn mừng sự c.h.ế.t cả. Mình muốn thoát ly khỏi sự c.h.ế.t, chứ mình đâu có muốn thoát ly khỏi sự sống. Vì vậy cho nên giữa hai cái sinh và tử, mình chỉ muốn chọn một cái. Chọn sinh thôi, còn tử thì bỏ ra ngoài. Nhưng quán sát lại ta sẽ thấy, có những người đã từng trải qua rất nhiều khổ đau. Niềm vui rất ít, mà nỗi khổ thì vô lượng. Có những người sống ngay trong thế kỷ này mà nhiều lần tìm cách kết liễu sự sống, tại vì họ chịu đựng không nổi sự sống, họ không có Nhẫn Nhục Ba La Mật.
Nhưng đức Thế Tôn dạy rằng c.h.ế.t không phải là giải pháp. Tại vì sau khi c.h.ế.t rồi, anh lại phải sinh ra trở lại. Con đường tự kết liễu đời mình là con đường dại dột. Anh nghĩ rằng c.h.ế.t là để chấm dứt, nhưng theo tuệ giác của tôi thì c.h.ế.t không phải là chấm dứt mà là một khúc quanh để chuyển sang một giai đoạn mới. C.h.ế.t là để sinh ra trở lại. Điều này không phải chỉ đúng trong giờ phút lâm chung, mà đúng ở trong mỗi giây phút của đời sống hằng ngày. Trong mỗi giây phút của đời sống hằng ngày, anh luôn luôn c.h.ế.t để sinh trở lại. Nếu thực tập thì anh sẽ sinh vào một cõi nhẹ nhàng hơn, nếu anh không thực tập thì anh sẽ sinh vào địa ngục, ngay trong giờ phút hiện tại. Trong một ngày mình có thể sinh ra và c.h.ế.t đi rất nhiều lần, và cõi mình sinh ra tùy thuộc ở cách mình c.h.ế.t. Vì vậy cho nên ngày xưa, và cả bây giờ cũng vậy, có rất nhiều người sợ sinh, tại vì sinh ra là phải chịu đựng những cái mà mình đã chịu đựng trong suốt cuộc đời mình.
Giải thoát tử rồi lại còn muốn giải thoát sinh nữa. Nếu không giải thoát sinh thì ta còn phải c.h.ế.t hoài, c.h.ế.t trăm lần, ngàn lần, vạn lần. Ở địa ngục, người ta nói rằng mỗi ngày người ta phải chết cả triệu lần. Đúng như vậy. Trong địa ngục, giây phút nào ta cũng đau khổ, vì vậy cho nên giây phút nào ta cũng muốn c.h.ế.t. Nhưng c.h.ế.t đâu có phải là yên, là hết. Chết là để sinh ra lại. Cho nên giải thoát không phải là giải thoát tử, mà là giải thoát sinh tử. Mục tiêu đó trong đạo Bụt (đạo Phật) gọi là Vô Sinh. Cửa vô sinh mở rồi. Vì vậy tìm cách giải thoát ra khỏi cái c.h.ế.t, mà không tìm cách giải thoát ra khỏi cái sinh thì đó là một điều mơ ước viển vông.
Làm sao có cái sinh mà không có cái c.h.ế.t. Sự thật rất đơn giản, là có sinh thì phải có tử, có ngày thì phải có đêm, có trái thì phải có phải, có trên thì phải có dưới. Tại sao anh muốn có một cái mà không muốn có cái kia? Anh muốn có phải mà không muốn có trái thì làm được, làm sao có thể có trái mà không có phải? Nếu anh chấp nhận sinh thì anh phải chấp nhận tử. Chúng ta đã hiểu rằng, tại sao ở trong kinh điển có câu “giải thoát sinh tử”. Nếu thấy được điều đó, chúng ta mới bắt đầu hiểu được mười hai nhân duyên trong đạo Bụt (đạo Phật). Người ta tu đạo Lão để trốn thoát cái tử. Người ta tu đạo Bụt (đạo Phật) để giải thoát cả sinh lẫn tử. Cái khác là ở chỗ đó.
Cái chúng ta đi tìm không phải là trường sinh bất tử. Cái chúng ta đi tìm là giải thoát sinh tử. Tức là ta có khả năng coi sinh và tử nhẹ như một sợi tóc, một chiếc lông hồng, một sợi tơ. Chỉ có thực tập đạo Bụt (đạo Phật) và tiếp xúc với bản môn ta mới giải thoát được sinh và tử. Cho nên với người ngộ đạo thì sinh ra cũng được, chết đi cũng không sao. Gọi là ra vào sinh tử. Nhưng ra vào với cái lượng của một vị bồ tát, cưỡi trên sóng sinh tử mà đi. Sinh hả, cũng được! Tử hả, cũng được! Tại vì mình có một cái thấy lớn, một tình thương bao la, một tâm lượng bao la, cho nên sinh và tử không thực sự đụng chạm tới mình. Vì vậy cho nên thiền sư Tuệ Trung đời Trần, trong bài Phóng Cuồng Ca đã thốt lên: “Cái sống và cái c.h.ế.t tới ép uổng ta, vây hãm ta, nhưng làm sao động tới ta được?” (Sinh tử tương bức hề, ư ngã hà thương). Đó là câu thơ của một người ngộ đạo, có thể xem sinh tử nhẹ như chiếc lông hồng.
BỆNH GIÀGià là một cái bệnh, và tất cả chúng ta đều có mang hạt giống của bệnh già. Có ai mà sẽ không già? Thế nào ta cũng sẽ phải già. Ta có chịu đựng được không? Sự thật là tất cả chúng ta đều sẽ phải trở thành những ông già móm, những bà già móm. Chúng ta đều sẽ phải chống gậy để đi. Chúng ta đều sẽ không còn có hai chân khỏe để chạy. Chúng ta hãy nhớ đi thiền hành mỗi ngày, nếu không thì uổng lắm đó. Đến khi hai chân run rồi thì dù ta có muốn đi thiền hành nữa cũng không đi được. Tôi (tức Sư Ông Làng Mai) cũng đang mang bệnh già và tôi đang thực tập quán chiếu rất nhiều về cái bệnh già của tôi. Ngày xưa ký ức tôi rất tốt. Đến khi về già rồi, tự nhiên có những cái tiếng, có những cái chữ mình muốn nhớ lại mà chúng không chịu nhảy lên, và dù có đi tìm tòi lục lạo trong tàng thức mình cũng khó nhớ lại. Ban đầu tôi không chấp nhận được điều đó. Mình giận vì không chấp nhận được sự kiện là mình đã già. Nhưng sự thật là tôi đã già. Mỗi ngày có nhiều tế bào óc c.h.ế.t. Những phản kháng và bực mình của ta chỉ là do vô minh tạo ra thôi. Chúng ta nhiều người có trí tuệ, nhưng không chịu đem trí tuệ của mình ra để sử dụng. Mình biết chứ không phải không biết đâu, nhưng mình vẫn không chịu đem trí tuệ ấy ra sử dụng. Vì vậy trong khi còn trẻ, ta hãy làm những gì mà người trẻ có thể làm được.
Điều này rất quan trọng. Thiền sư Huyền Quang, tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm, ngày xưa ưa ở Côn Sơn. Thầy Huyền Quang rất ưa hoa cúc. Thầy để rất nhiều thì giờ chăm bón hoa cúc. Thỉnh thoảng đến mùa hoa mai nở, thầy cũng đi vào núi cắt một vài cành mai về cắm. Thầy nói rằng sở dĩ thầy cắt cành mai về là để cho cái bệnh già của Thầy được thuyên giảm chút đỉnh đó mà thôi.
Ngửa mặt trời cao hỏi lý do
Hiên ngang trong núi mọc thành hoa
Hái về không để chưng vui mắt
Chỉ mượn màu xuân đỡ bệnh già.
Tôi có cái bệnh già, vì vậy cho nên tôi cắt một cành mai về cắm ở trong phòng để ngắm nhìn và cảm thấy bớt già. Khi đọc thơ thầy Huyền Quang, tôi mới hiểu tại sao tôi ưa ngồi chơi với các sư cô và các sư chú trẻ. Tại khi ngồi với các người trẻ, ta thấy là ta không già. Nếu quán chiếu, mình có thể làm hay hơn. Mình có thể vượt được cái bệnh già chứ tại sao không. Nếu quán chiếu vào bản thân, nếu quán chiếu vào bông hoa, vào cành mai, nếu quán chiếu vào các sư chú và các sư cô ta sẽ thấy rằng ta đâu có già. Ta là một với họ. Ta đang trẻ mà, ta sẽ trẻ mãi mãi. Tất cả đều do sự quán chiếu. Quán chiếu như vậy, cái thấy lớn lên và cái bệnh già sẽ tiêu mất.
BỆNH BỆNHCái bệnh thứ tư gọi là bệnh bệnh. Bệnh sinh, bệnh c.h.ế.t, bệnh già và bệnh bệnh. Bệnh bệnh có nghĩa là chúng ta không ai tránh khỏi cái bệnh. Anh nói anh không có bệnh gì hả, nhưng mà anh cũng có bệnh bệnh. Nghĩa là anh có thể bị bệnh bất cứ lúc nào. Sự kiện chúng ta có thể bị bệnh, cái đó gọi là bệnh bệnh. Chúng ta phải quán chiếu. Đức Thế Tôn không muốn chúng ta trốn chạy. Cho nên Ngài mới nói rằng mỗi ngày ta đều phải thực tập: “Tôi thế nào cũng phải bệnh, tôi không thể nào chạy thoát khỏi cái bệnh.” Luận Bảo Vương Tam Muội có nói: “Tu học đừng có cầu cho không có bệnh. Không có bệnh thì tham dục dễ sanh.” Mình phải học làm thế nào để chấp nhận được cái bệnh của mình. Mình phải làm quen với nó. Mình phải cười với nó. Mình phải ôm lấy nó. Mình phải đồng nhất với nó. Cuối cùng mình và nó cùng siêu việt.
Mà con đường thực tập cũng là một con đường làm cho cái lượng của ta lớn lên. Có những người bệnh ít thôi, nhưng cũng chịu đựng không nổi. Bệnh chưa ghê gớm gì mấy, nhưng đã hốt hoảng và xuống tinh thần. Đôi khi mới tưởng tượng là mình có cái bệnh đó thôi, chứ chưa thực sự có bệnh mà đã hoảng lên, và đã bị trầm cảm. Những người ấy có cái lượng rất nhỏ. Có một vị nữ thiền sư ở Boston biết bà ta có ung thư. Trong những năm chót của đời bà, bà thực tập rất sâu sắc. Có thể cái bệnh đó là một trong những nguyên do khiến cho vị nữ đạo sư đó thực tập rất vững chãi, rất êm ả. Đến ngày lâm chung, thị tịch, người nữ đạo sư đó có rất nhiều an bình. Từ khi được nghe tin rằng mình có ung thư, vị nữ đạo sư đó đã đi qua một cơn sóng gió. Nhờ sự thực tập cho nên sau một thời gian ngắn bà chấp nhận được. Biết rằng mình còn có bao nhiêu tháng, bao nhiêu năm để thực tập, nên bà đã đem hết tất cả con người của mình để thực tập. Do đó bà không còn chạy theo những cái danh, những cái lợi tầm thường nữa.
Sự có mặt của một người như vậy rất có ích lợi cho những người xung quanh. Đâu có cần phải sống một trăm năm. Chỉ cần sống một năm thôi, hay là sáu tháng thôi, mà sống đúng với cái phong thái của một bậc thầy, còn hơn là sống năm mươi năm, bảy mươi năm mà phong thái của mình và đời sống của mình không phản ánh được những ngôn từ mà mình nói ra.
Những người như thế, như vị nữ đạo sư kia, đã có thể vượt ra khỏi cái bệnh gọi là bệnh bệnh. Thấy được rằng bệnh là một chuyện tất nhiên. Nếu mình không bệnh thì người khác bệnh. Mà người khác cũng là mình thôi. Cho nên, nếu mình thấy người khác bệnh mà mình mừng: “May quá, không phải mình!” tức là cái lượng của mình còn rất nhỏ. Trong sự thực tập hàng ngày, mình phải thấy cái bệnh của người kia là cái bệnh của mình. Do đó mình có thể lân mẫn, giúp đỡ và chăm sóc người đó như là chính mình bệnh. Những người như vậy có tâm lượng lớn. Nếu có rủi ro mà người như vậy mắc bệnh, thì người đó không đau khổ nhiều như những người khác. Cùng gặp những biến cố như nhau mà một người thì đau khổ cực kỳ, một người có thể mỉm cười được. Cái gì làm ra sự sai khác đó? Đó là Ksanti Paramita, Nhẫn Nhục Ba La Mật. Chúng ta phải học hỏi. Chúng ta phải thực tập trong đời sống hằng ngày.
[Từ chuỗi bài pháp giảng của Sư Ông Làng Mai]
[Lời QH & MayQ Team] Như vậy, càng cùng những lời dạy của Sư Ông để đi sâu hơn, tập làm quen, chấp nhận và ôm ấp những thực tại người đời ai trước sau gì cũng phải trải qua, chúng ta hãy cùng nhau thực tập quán chiếu và thực hành từng bước giống như Sư Ông hướng dẫn nha. Chúng mình tin rằng, rồi chuyện gì cũng sẽ qua một cách nhẹ nhàng cả, bao gồm cả bốn ‘nỗi khổ lớn của loài người’, là Sinh – Lão – Bệnh – Tử.
Gửi niệm lành cho tất cả,
(6.2.2024 (27/Chạp – Quý Mão) – QH & MayQ Team)
#SưÔngLàngMai
#Nhữnglờidạy
#Lượngcảbaodung
#Nhẫnbalamật
#SinhLãoBệnhTử
Bài viết SERIES LƯỢNG CẢ BAO DUNG – BÀI 2: ‘LƯỢNG CẢ BAO DUNG’ KHI ĐỐI MẶT VỚI ‘SINH – LÃO – BỆNH – TỬ’ đã xuất hiện đầu tiên vào ngày QUYNH HUONG LE DO | OFFICIAL WEBSITE.
SERIES LƯỢNG CẢ BAO DUNG – BÀI 1: ‘CHỊU’ – ‘ĐỰNG’ & ‘TÂM LƯỢNG’
[Lời QH] Cả nhà mình thương mến, trong bài Lời chúc và câu đối Tết cho năm Giáp Thìn 2024 từ tăng thân Làng Mai, có trích ý bài dạy của Sư Ông Thích Nhất Hạnh về khái niệm Lượng cả bao dung, tức Nhẫn Ba la mật. Nguyên văn phần trích này như thế này: “Mình có đau khổ trong lòng cho nên mình mới muốn trừng phạt người kia, để cho người kia khổ, để cho đã cái khổ của mình, cái giận của mình. Khi tâm lượng của mình lớn rồi thì dù người kia không dễ thương với mình, ác độc với mình, tệ lậu với mình thì mình cũng không giận, trái lại mình biết thương xót. Do đó cho nên thay vì có ý định muốn báo thù hay muốn trừng phạt, mình lại có những biện pháp giúp người kia để người kia đừng làm như vậy nữa, tại vì làm như vậy thì chính người đó khổ và người đó làm cho những người khác tiếp tục khổ. Cái đó gọi là lượng cả, đại lượng.”
Bài dạy đầy đủ của Sư Ông Làng Mai về “Lượng cả bao dung” khá dài, bao gồm nhiều phần. Chúng mình xin lược trích một số những đoạn mang ý nghĩa quan trọng nhất, chia ra thành nhiều bài, để cho nhà mình tiện lần lược đọc hay nghe, và ngẫm cùng chúng mình, nha.
LƯỢNG CẢ BAO DUNG (NHẪN BA LA MẬT) – Bài 1: ‘CHỊU’ – ‘ĐỰNG’ & ‘TÂM LƯỢNG’ ‘CHỊU’ & ‘ĐỰNG’:Paramita, dịch theo tiếng Hán Việt mang nghĩa là Độ, có nghĩa là đi sang bờ bên kia, vượt bờ. Ta biết rằng ta có thể thực tập được chuyện vượt bờ bất cứ lúc nào trong ngày. Khi giận hờn thì ta đang ở bờ bên này, bờ của sự giận hờn, và ta muốn vượt qua bờ bên kia, bờ của sự thương yêu và tha thứ. Muốn qua bờ bên kia, ta phải sử dụng một chiếc bè nào đó mà ta đã tiếp nhận được từ Bụt (đức Phật), từ thầy, từ tăng thân. Đứng ở bờ bên kia nỗi buồn và cơn giận sẽ không còn nữa. Chúng ta biết rằng bờ bên kia không phải là chuyện xa vời. Bờ bên kia là cái có thể xảy ra ngay trong giờ phút hiện tại.
Chữ Nhẫn có nghĩa là chịu đựng. Danh từ “chịu đựng” là một danh từ rất hay. Nó dịch được chữ ‘ksanti’. Nó hay hơn chữ ‘Nhẫn nhục’. Chữ Nhẫn viết theo tiếng Hán có chữ Tâm nằm bên dưới – tức là tâm thức của ta, và trên chữ Tâm có chữ Nhận. Chữ Nhận có nghĩa là mũi nhọn, giống như có một cây dao hay cái dùi có mũi nhọn đang làm chúng ta đau nhức. Tâm chúng ta phải làm thế nào để có thể ôm được, chấp nhận được sự nhức nhối đó. Đó là nghĩa của chữ Nhẫn theo cảm nghĩ của người Trung Quốc. Trong khi đó tiếng Việt là chịu đựng. Chịu tức là chấp nhận. Chịu không, anh chịu không?”. “Tôi chịu.” Cho dù có khó khăn, vất vả, cho dù có lao nhọc, dai dẳng, tôi vẫn gánh chịu được. Chữ chịu này là có nghĩa là sự chấp nhận (acceptance).
Chúng ta biết rằng chấp nhận là một sự thực tập rất lớn. Khi chưa chấp nhận được chúng ta mới đau khổ nhiều. Giờ phút mà ta chấp nhận được thì ta đã có sự an bình trong lòng rồi. Một người bị ung thư, lần đầu tiên được tin mình đang có bệnh ung thư, không thể tin được rằng mình có thể có ung thư. “Ôi, không!”, người ấy nói như vậy. Người đó đau khổ và chống đối. Trách trời, trách đất, giận mình, giận người, giận tất cả. Và người đó phải vật lộn rất lâu với sự thật. Sự đau khổ lên tới cùng cực, kéo dài một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, mười ngày, hai mươi ngày. Thời gian đó là thời gian người ấy học tập để chấp nhận sự thật. Khi chấp nhận rằng tôi có ung thư, đây là một sự thật không thể nào chối cãi được, thì lúc đó ở trong tâm sẽ phát sinh một sự bình an.
Chúng ta phần lớn chưa có, hoặc không có ung thư, nhưng chúng ta cũng có thể đã có cái kinh nghiệm tương tự. Khi có một sự kiện bất như ý xảy ra trong đời sống, chúng ta thấy rằng chúng ta không thể chấp nhận được. Chúng ta nghĩ: làm sao sống được với tình trạng này, với cái gì đang xảy ra? Tại sao ta như thế này mà lại phải gặp một hoàn cảnh như thế kia? Tại sao ta như thế mà người ta lại đối xử với ta như thế? Ta phản kháng, ta chống đối, ta không chấp nhận. Nhưng sự thật là như vậy. Cuối cùng ta cũng phải học chấp nhận. Đó là nghĩa chữ ‘Chịu’ của tiếng Việt.
Chữ thứ hai là Đựng. “Đựng” có nghĩa là chứa đựng. Chúng ta có những cái chén có thể đựng nước. Chén nhỏ thì đựng được ít nước. Chén lớn thì đựng được nhiều nước. Nếu niềm đau nỗi khổ của ta lớn thì ta phải có một cái tâm khá lớn thì mới đựng được nó. Nếu không nó sẽ tràn ngập và làm ta khổ vô cùng. Tâm càng lớn thì nỗi khổ đau càng nhỏ, khi mà tâm đạt tới cái mức rất lớn (cực quảng, thậm đại) thì cái đau khổ đó tuy có mặt nhưng không đủ sức làm cho ta đau khổ. Đây là một điều rất lạ lùng, nhưng rất dễ hiểu.
Trong kinh Tăng Chi Bộ, Anguttara-Nikaya, Bụt (đức Phật) có dùng một ví dụ rất hay. Ngài nói nếu trong một bát nước mà người ta thả vào một nắm muối thì nước ở trong bát đó uống không được. Nhưng nếu có một người đứng trên thuyền mà đổ một bát muối xuống dưới sông thì người ta vẫn có thể uống nước sông được như thường. Người ta uống nước sông được, không phải tại vì trong ấy không có muối, nhưng tại vì lòng sông quá lớn. Cho nên so với sông thì chút muối ấy không có nghĩa lý gì cả. Cũng vậy, khi ta có một nỗi khổ niềm đau, mà ta có một cái tâm quảng đại, thì nỗi khổ niềm đau đó không đủ sức làm cho ta đau khổ. Nó có đó chứ không phải là không có, nhưng vì ta có một sức chịu đựng rất lớn cho nên nỗi khổ niềm đau đó không có tác dụng gì trên cái tâm của chúng ta. Đó là nghĩa của chữ Đựng.
Vì vậy cho nên Nhẫn Nhục Ba La Mật không phải là đè nén xuống, đè nén niềm đau, nỗi giận của mình xuống. Rất đông người học Bụt (Phật) không hiểu được chữ Nhẫn, và nghĩ rằng Nhẫn tức là ráng cắn răng đè niềm đau nỗi khổ xuống. Khi một dòng sông vĩ đại nhận một nắm muối nhỏ, nó đâu cần phải nghiến răng để đè niềm đau đó xuống đâu. Nó vẫn cười như thường, tại vì niềm đau nỗi khổ đó, nắm muối đó không có nghĩa lý gì hết. Vì vậy nhẫn nhục không có nghĩa là đè nén hay ức chế. Phương pháp cắn răng chịu đựng và cố nuốt đó rất nguy hiểm. Chúng ta đã từng thấy có nhiều người khi bị la mắng hay dày vò thì cố không có phản ứng, cố làm ra vẻ tươi cười. Chúng ta thấy được thiện chí của người đó.
Nhưng mà sức người có hạn. Một tuần, hai tuần, ba tuần, bốn tuần…, cho đến một ngày nào đó, những cái mà chúng ta đè nén áp bức đó sẽ vùng dậy và giống như một dòng sông vỡ bờ, chúng sẽ làm ngập lụt cả vùng. Rất nguy hiểm. Vì vậy cho nên nhẫn nhục quyết không phải là sự đè nén, không phải là sự ức chế. Nhẫn nhục tức là mở lòng ra cho tâm càng ngày càng lớn. Bụt (đức Phật) dạy chúng ta ôm ấp niềm đau nỗi khổ đó và làm cho tâm của chúng ta lớn lên bằng phương pháp quán chiếu.
TÂM LƯỢNG & ‘LƯỢNG CẢ BAO DUNG’:Đựng nghĩa là chứa đựng. Muốn chứa đựng thì chúng ta phải có một dụng cụ, một đồ đựng. Đồ đựng đó nhỏ thì mình đựng được ít. Đồ đựng đó lớn thì mình đựng được nhiều. Dung tích của đồ đựng đó, chúng ta gọi là Lượng. Lượng này là lượng của cái gì? Không phải là lượng của một cái chén, cái ly hay một cái lu, cái chậu, mà là lượng của tâm, tại vì chúng ta đang nói tới nhẫn nhục. Vì vậy cho nên lượng của tâm gọi là tâm lượng. Chúng ta khổ đau nhiều hay ít là do cái tâm lượng của chúng ta lớn hay nhỏ. Và tu tập có nghĩa là làm cho cái lượng của tâm càng ngày càng lớn. Lượng tâm càng lớn thì càng ít đau khổ, càng nhiều hạnh phúc.
Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, khi nói chuyện với Từ Hải lần đầu, Thúy Kiều đã thấy được nơi Từ Hải một con người rất tốt, một lòng dạ khá lớn.
“Nàng rằng: lượng cả bao dung
Tấn dương được thấy mây rồng có phen.”
“Lượng cả bao dung”. Chữ Cả tương đương với chữ Đại, có nghĩa là lớn. ‘Lượng cả’ tức là đại lượng. ‘Lượng cả bao dung’ tức là lượng của người lớn quá cho nên nó bao dung được hết tất cả, dù người kia có lỗi lầm, dù người kia có hư hỏng, dù người kia có khó khăn, dù người kia có ác độc, người vẫn có thể bao dung được, người vẫn có thể thương được. Người thấy người kia đó cần được cứu giúp hơn là cần bị trừng phạt.
Khi mình muốn trừng phạt là mình đang có đau khổ. Mình có đau khổ trong lòng cho nên mình mới muốn trừng phạt người kia, để cho người kia khổ, để cho đã cái khổ của mình, cái giận của mình. Khi tâm lượng của mình lớn rồi thì dù người kia không dễ thương với mình, ác độc với mình, tệ lậu với mình thì mình cũng không giận, trái lại mình biết thương xót. Do đó cho nên thay vì có ý định muốn báo thù hay muốn trừng phạt, mình lại có những biện pháp giúp người kia để người kia đừng làm như vậy nữa, tại vì làm như vậy thì chính người đó khổ và người đó làm cho những người khác tiếp tục khổ. Cái đó gọi là lượng cả, đại lượng. Những người lớn như là cha, mẹ, thầy, anh, chị, tỉnh trưởng, quận trưởng, bộ trưởng, tổng thống, hay vua… đều là những người cần có cái lượng lớn. Tại vì nếu không có cái lượng lớn thì mình không xứng đáng làm anh của người kia, không xứng đáng làm chị của người kia, không xứng đáng làm thầy của người kia, không xứng đáng làm cha, làm mẹ của người kia. Cha mẹ mà giận con, mà từ con, mà oán hờn con cũng tại vì cha mẹ chưa có lượng lớn.
Trong truyện Kiều có một câu khác của Nguyễn Du nói về lượng: “Có dung kẻ dưới mới là lượng trên”. Dung tức là dung chứa, là đựng. Nếu mình muốn là người trên thì mình phải có lượng. Người trên là ai? Người trên là anh, là chị, là thầy, là cha, là mẹ, là vua. Người trên thì phải có lượng, lượng lớn, cái đó gọi là lượng trên. Có lượng lớn thì mình mới có thể dung được kẻ dưới. Dung tức là ôm trùm được mà không có nhu yếu loại trừ, đá ra khỏi, đạp ra khỏi.
Nhưng mà, lượng lớn hay không là do ta thực tập mà có được, chứ không phải mình muốn cái lượng của mình lớn mà tự nhiên nó lớn ra được. Ví dụ ở Làng Mai có một thiền sinh mới tới. Thiền sinh đó cần tu học lắm, nhưng thiền sinh đó không dễ chịu. Vậy thì cái lượng của tăng thân như thế nào? Người đó ở được hay không ở được một phần là tùy cái lượng của tăng thân. Cái sự khó chịu đó của người kia chúng ta đo được, ví dụ một gang hoặc một gang rưỡi. Nếu cái lượng của tăng thân nhỏ hơn một gang thì tăng thân không bao dung được người đó. Tăng thân chỉ bao dung được một phần sự khó chịu của người đó thôi, và người này sẽ không được ở trong chúng. Nhưng nếu tăng thân giỏi, có hạnh phúc nhiều thì tăng thân dễ chấp nhận được những người khó chịu.
Tăng thân cũng cần thực tập như cá nhân, nghĩa là làm thế nào để cho cái lượng của mình càng ngày càng lớn. Nếu cái lượng của tăng thân lớn hơn, hai gang, ba gang mà người kia vẫn không được ở, thì trong trường hợp này chúng ta phải hiểu như thế nào? Chúng ta phải nhìn nhận rằng nếu muốn đi tới một giải pháp êm đẹp cho cả hai bên thì phải có sự cố gắng của cả hai bên. Tăng thân phải cố gắng làm cho cái lượng của tăng thân lớn lên một chút, tăng thân phải hoan hỷ hơn, phải hiểu biết hơn, phải thấy được nỗi khổ của người kia hơn. Nghĩa là cái lượng của tăng thân phải lớn ra thêm. Người kia cũng phải cố gắng thực tập để làm giảm bớt sự khó chịu đi. Nếu người đó thực tập được, làm cho cái mức khó chịu của mình xuống dưới cái mức chịu đựng của tăng thân thì người đó sẽ được chấp nhận. Vấn đề là như vậy. Thành ra cần phải có sự cố gắng của cả hai bên. Điều này có thể được áp dụng ở tất cả trường hợp: cha với con, chủ hãng với người làm công, chị với em, anh với em.
… Trong đời sống chúng ta có thể gặp nhiều điều bất như ý. Ta có thể đau khổ cùng cực. Có lúc ta có thể nghĩ rằng thà chết mà còn khỏe hơn là sống. Nhẫn Nhục Ba La Mật là phương pháp thực tập để chúng ta có thể đối diện với tất cả những khó khăn, những khổ đau, những trắc trở, những tai nạn có thể xảy ra trong đời chúng ta, dù tai nạn đó là tai nạn lớn nhất. Phương pháp thực tập đó không có gì khác ngoài việc học tháo gỡ để làm cho tâm ta càng ngày càng lớn, để cho cái tâm lượng của chúng ta càng ngày càng lớn. Mà cái lượng của tâm thì chỉ có thể được làm bằng chất liệu của hiểu biết và của thương yêu.
[Từ chuỗi bài pháp giảng của Sư Ông Làng Mai]
[Từ QH & MayQ Team] Lượng của tâm chỉ có thể được làm bằng chất liệu của sự hiểu biết và thương yêu, kết hợp với sự kiên nhẫn thực hành quán chiếu trong hàng ngày hàng giờ, trong từng giây từng phút, trong từng hoàn cảnh cụ thể. Điều này, chúng mình đã và đang cố gắng thực hành hàng ngày. Và chúng mình tin rằng bạn cũng làm được, bạn có tin như vậy không?
Hôm nay đã là ngày 26 tháng Chạp rồi, những ngày cuối cùng của năm cũ đang chầm chậm trôi qua. Không bao giờ là muộn để chúng ta bắt đầu hành trình thực hành mở rộng tâm lượng của mình, tức hành Nhẫn Ba La Mật. Bạn cùng bắt tay thực hành cùng chúng mình nha!
Gửi niệm lành cho tất cả,
(5.2.2024 (26/Chạp – Quý Mão) – QH & MayQ Team)
#SưÔngLàngMai
#Nhữnglờidạy
#Lượngcảbaodung
#Nhẫnbalamật
Bài viết SERIES LƯỢNG CẢ BAO DUNG – BÀI 1: ‘CHỊU’ – ‘ĐỰNG’ & ‘TÂM LƯỢNG’ đã xuất hiện đầu tiên vào ngày QUYNH HUONG LE DO | OFFICIAL WEBSITE.
February 3, 2024
NĂM GIÁP THÌN 2024: LỜI CHÚC VÀ CÂU ĐỐI TẾT THEO TINH THẦN LÀNG MAI
[Lời QH] Cả nhà mình thương mến, mỗi khi năm hết Tết đến, một trong những điều mà mình và nhà MayQ hay đón đợi, là thông điệp hàng năm từ Làng Mai của Sư Ông Thích Nhất Hạnh, được thể hiện qua những cặp câu đối Tết tinh tế. Chẳng hạn như, trong một năm trước đây, Làng Mai đã lảy hai câu kệ trong sách “Hướng đi của đạo Bụt cho hòa bình và môi sinh” của Sư Ông: “Địa cầu vừa tỉnh thức – Lòng đất bỗng đơm hoa”. Thì năm nay, Giáp Thìn 2024, thông điệp lớn được Làng Mai chuyển tải đi rộng rãi chính là cặp câu đối Tết: “Tha thứ – Bao dung”.
Chúng mình trân trọng từng ý nghĩa sâu sắc được lồng vào trong cặp câu đối này. Vì vậy, xin phép được đăng tải lại phần nội dung được trang Làng Mai đăng tải, để các bạn hữu duyên gần xa trên trang tụi mình cũng có thể cảm nhận được những thông điệp đẹp đẽ này.
Gửi niệm lành cho tất cả,
(4.2.2024 (25/Chạp – Quý Mão) – QH & MayQ Team)
[Từ Làng Mai]“Kính bạch Sư Ông!
Kính thưa quý vị thân hữu gần xa!
Tết nguyên đán đã gần về, tăng thân Làng Mai xin được gửi đến quý vị thân hữu câu đối Tết Giáp Thìn như một món quà để thực tập cùng nhau trong năm mới.
Câu đối năm nay là: Tha Thứ – Bao Dung, để cầu mong cho tất cả trọn một năm mới yêu thương.
Tha thứ và Bao dung là hai biểu hiện cụ thể của tình thương, là hoa trái của hiểu biết. Ta nguyện học nuôi lớn cái hiểu để tình thương trong ta lớn lên. Cái tha thứ khó nhất đó là tha thứ cho chính mình.
“Trong đời sống, có nhiều lúc vì thiếu chánh niệm, thiếu sự khéo léo, ta đã làm những điều gây khổ đau, đổ vỡ cho những người ta thương và nhiều người khác. Ta hối hận, cảm thấy tội lỗi và trở nên chán ghét chính ta, không có khả năng tha thứ cho chính mình. Nhưng ta không biết rằng chính mình cũng đã gây khổ đau, tàn hoại cho thân tâm mình rất nhiều. Sự thực là tất cả những khổ đau, hư hoại ta đang gánh chịu đều do chính mình tạo ra. Xin quý vị quán chiếu về điều này. Nếu nhìn kỹ lại, quý vị sẽ thấy rằng người làm mình khổ nhiều nhất lại chính là mình chứ không phải ai khác. Đây là sự thực hiển nhiên mà ta không hề hay biết.”
(Lời Sư Ông hướng dẫn thêm: https://langmai.org/…/van-dap…/tha-thu-cho-chinh-minh/)
Ðôi khi, ta muốn tha thứ cho một người nhưng ta không thể làm được. Thiện chí muốn tha thứ có đó nhưng sự chua chát và đau khổ, thậm chí giận dữ cũng còn đó. Vì thế sự tha thứ chỉ có thể xảy ra một cách bình an nếu tâm bao dung của mình đủ lớn để chứa đựng.
“Mình có đau khổ trong lòng cho nên mình mới muốn trừng phạt người kia, để cho người kia khổ, để cho đã cái khổ của mình, cái giận của mình. Khi tâm lượng của mình lớn rồi thì dù người kia không dễ thương với mình, ác độc với mình, tệ lậu với mình thì mình cũng không giận, trái lại mình biết thương xót. Do đó cho nên thay vì có ý định muốn báo thù hay muốn trừng phạt, mình lại có những biện pháp giúp người kia để người kia đừng làm như vậy nữa, tại vì làm như vậy thì chính người đó khổ và người đó làm cho những người khác tiếp tục khổ. Cái đó gọi là lượng cả, đại lượng. Những người lớn như là cha, mẹ, thầy, anh, chị, tỉnh trưởng, quận trưởng, tổng thống, hay vua… đều là những người cần có cái lượng lớn. Tại vì nếu không có cái lượng lớn thì mình không xứng đáng làm anh của người kia, không xứng đáng làm chị của người kia, không xứng đáng làm thầy của người kia, không xứng đáng làm cha, làm mẹ của người kia. Cha mẹ mà giận con, mà từ con, mà oán hờn con cũng tại vì cha mẹ chưa có lượng lớn.”
(Lời Sư Ông hướng dẫn thêm: https://langmai.org/…/luong-ca-bao-dung-nhan-ba-la-mat/)
Trong năm mới, mong ước mọi người sống chậm lại, có thời gian để lắng nghe nhau, có được những khoảng lặng để nhìn sâu vào người gây khổ đau, khó khăn cho mình. Hiểu được thì tình thương bắt đầu có mặt. Khi giọt nước từ bi ứa ra trong trái tim mình là lúc những cơn sóng cảm xúc có cơ hội lắng dịu lại. Chúng ta hãy nuôi dưỡng hạt mầm tha thứ bằng việc phát khởi tâm niệm thương yêu đầu ngày:
Thức dậy miệng mỉm cười
Hăm bốn giờ tinh khôi
Xin nguyện sống trọn vẹn
Mắt thương nhìn cuộc đời.
Thương yêu là một trong Bốn tâm vô lượng. Khi tâm ta rộng lớn như sông, như biển, ta có thể dung chứa, chấp nhận và ôm được những vụng về, lầm lỡ của vợ, của chồng, của cha mẹ, anh em hay con cháu mình. Bằng sự thực tập chánh niệm ta nhận ra được và biết ơn những điều kiện hạnh phúc đã có sẵn quanh mình.
“Tịnh độ nơi đây thích ý rong chơi người chẳng tìm cầu chi nữa”
Hài lòng với những gì đang có, tâm tư ta nhẹ nhõm và thênh thang tựa đất trời.
Mỗi khi ta ngồi, ta đi, ta ăn cơm, uống nước ta học tiếp xúc với đất Mẹ và trời Cha. Không một giây, một khoảnh khắc nào mà đất trời không nuôi lớn ta. Chỉ cần một hơi thở nhẹ là ta hòa quyện cùng trời Cha, chỉ một bước chân an bình là ta ôm trọn được đất Mẹ. Đất Mẹ và trời Cha là những biểu hiện của đức bao dung, không kì thị. Dù hơi nước bốc hơi từ nơi nào trên đại địa, ô nhiễm hay tinh sạch, Cha đều đón nhận chúng in dấu trắng xóa trên nền trời. Khả năng của Mẹ còn thêm bất khả tư nghì. Dù cho đờm dãi tanh hôi, khí độc hay phóng xạ nguyên tử Mẹ cũng có khả năng ôm ấp và chuyển hóa.
Trong năm mới, chúng ta hãy cùng nhau phát khởi tình thương để nuôi dưỡng hạt mầm tha thứ, nương tựa nơi đất Mẹ và trời Cha cho bao dung thấm nhuần nơi từng cử chỉ, lời nói và hành động hằng ngày.
Đệ tử nguyện sống cuộc đời thiểu dục
Nếp sống lành mạnh an hòa
Cho thân thể kiện khương
Nguyện rũ bỏ âu lo
Học tha thứ bao dung
Cho tâm tư nhẹ nhõm.
Đó là lời kinh trong bài sám Quy Nguyện. Quý vị có thể đọc tụng bài Sám nguyện ấy trong đêm giao thừa.
Thương chúc mọi người sửa soạn lòng mình để đón năm mới với một vườn hoa tươi thắm.
[Tăng thân Làng Mai]
[Tham khảo]SÁM QUY NGUYỆN (theo Làng Mai)
Trầm hương xông ngát điện
Sen nở Bụt hiện thân
Pháp giới thành thanh tịnh
Chúng sinh lắng nghiệp trần.
Ðệ tử tâm thành
Hướng về Tam Bảo
Bụt là thầy chỉ đạo
Bậc tỉnh thức vẹn toàn
Tướng tốt đoan trang
Trí và bi viên mãn.
Pháp là con đường sáng
Dẫn người thoát cõi mê
Ðưa con trở về
Sống cuộc đời tỉnh thức.
Tăng là đoàn thể đẹp
Cùng đi trên đường vui
Tu tập giải thoát
Làm an lạc cuộc đời.
Ðệ tử nương nhờ Tam Bảo
Trên con đường học đạo
Biết Tam Bảo của tự tâm
Nguyện xin chuyên cần
Làm sáng lòng ba viên ngọc quý.
Nguyện theo hơi thở
Nở nụ cười tươi
Nguyện học nhìn cuộc đời
Bằng con mắt quán chiếu
Nguyện xin tìm hiểu
Nỗi khổ của mọi loài
Tập từ bi
Hành hỷ xả
Sáng cho người thêm niềm vui
Chiều giúp người bớt khổ
Ðệ tử nguyện sống cuộc đời thiểu dục
Nếp sống lành mạnh an hòa
Cho thân thể kiện khương
Nguyện rũ bỏ âu lo
Học tha thứ bao dung
Cho tâm tư nhẹ nhõm
Ðệ tử xin nguyện ơn sâu đền báo
Ơn cha mẹ ơn thầy
Ơn bè bạn chúng sinh
Nguyện tu học tinh chuyên
Cho cây bi trí nở hoa
Mong một ngày kia
Có khả năng cứu độ mọi loài
Vượt ra ngoài cõi khổ.
Xin nguyện Bụt, Pháp, Tăng chứng minh
Gia hộ cho đệ tử chúng con
Viên thành đại nguyện.
Bài viết NĂM GIÁP THÌN 2024: LỜI CHÚC VÀ CÂU ĐỐI TẾT THEO TINH THẦN LÀNG MAI đã xuất hiện đầu tiên vào ngày QUYNH HUONG LE DO | OFFICIAL WEBSITE.
January 16, 2024
WE THANK YOU – BIẾT ƠN CẢ NHÀ (16/1/2024)
Cả nhà mình thân mến, thời gian qua, gia đình chúng mình đã đang cùng nhau đi qua một bài thi lớn, mà chắc hẳn cho đến bây giờ, nhiều bạn đã được biết về tin anh xã mình trên các bản tin. Rất biết ơn tất cả mọi người đã quan tâm và lo lắng cho chúng mình. Cho đến bây giờ, trước mắt chúng mình bình tĩnh và vững tâm, nên mọi người cũng đừng quá lo lắng cho tụi mình nhen.
Tự trong sâu thẳm trái tim mình, mình biết ơn vô cùng các biểu đồ các thể loại Nhân số học. Vì chính nhờ đã nghiên cứu được cuộc đời anh xã mình giai đoạn này, theo Nhân số học Pythagoras thì đi ngang qua đỉnh cao cuối cùng mang tính chất của con số 5, nhất định phải trải qua một sự kiện ‘kinh động cuộc đời’ nhằm thay đổi rốt ráo nhận thức hướng đi lên, nên đã mấy năm nay, mình đồng hành cùng anh, nguyện làm chỗ dựa cho anh từng bước đi qua bài khảo quan trọng này. Hơn nữa, cũng nhờ nhìn được những phần ‘Kế hoạch gốc’ cho phần đời sau này của anh qua các biểu đồ Giải tích Mandala, I Ching Mandala… mà nhà MayQ đang giảng dạy ở các cấp độ cao hơn, mà góp ba biểu đồ này lại với nhau, chúng mình cũng đại khái hòm hòm phán đoán được trước đường hướng của bài khảo dạng này, và qua đó, hướng anh về sự định tâm, vững lòng, quay về với Phật pháp, và hết sức hợp tác với những gì được yêu cầu. Tụi mình cũng vô cùng biết ơn Phật pháp, vì những thời gian này, nhờ học được và ngộ được những giá trị từ Phật pháp, chúng mình động viên nhau, hướng nhau chấp nhận những cái thuộc về ‘nghiệp quả’, và song song đó, nhẫn nại gieo tiếp những nhân lành. Những điều này, cũng thật biết ơn, là mấy năm qua, từ khi mở được những lớp về Quản trị cuộc sống với Nhân số học qua các cấp độ, mình luôn lấy trường hợp của anh xã mình ra làm ví dụ trực quan cho những người có đỉnh cao số 5, cũng như các lớp ở trên nữa. Cao hơn nữa, như ở lớp Cấp độ 6 vừa kết thúc cuối tuần vừa rồi, mình cũng đã không ngần ngại lấy trường hợp của anh ra mà cho mọi người nhìn thấy một cái nhìn tổng quan khi đan chéo các dạng biểu đồ vào nhau, sẽ cho ra một cái nhìn thấu suốt như thế nào…Để qua đó, tin chắc rằng những học viên hữu duyên có mặt trong lớp đã có một độ tham khảo nhất định, qua đó, rút kinh nghiệm cho chính mình, qua đó, đưa ra những phác đồ cho chính họ thấu suốt hơn, xoay chuyển cuộc đời họ hữu diệu hơn, khi thời gian còn đủ dài, đủ sớm.
Vì, chúng ta ai cũng đến cuộc đời này để học những bài cần học, thi những bài cần thi, có ai tránh được đâu. Vậy đó mà.
Khi chúng ta nhìn thấu suốt bài thi, bài khảo của chính mình, ta sẽ bình tĩnh hơn, không nuôi oán thán trước hoàn cảnh hay con người cụ thể, mà tin rằng đây là bài thi được dành cho riêng ta, nhiệm vụ của ta phải đủ bình tĩnh và định tâm để tập trung vào, đi qua bài thi ấy cho thật tốt, qua đó, lảy được thật nhiều những giá trị lợi lành. Chúng mình cũng đang động viên nhau như vậy. Vì vậy đối với hoàn cảnh này, mỗi người trong gia đình nhỏ và gia đình lớn của chúng mình đều đang học bài học định tâm, sống bình thường và làm việc bình thường.
Rồi bạn sẽ thấy, ngay từ ngày mai, mình vẫn sẽ có mặt cùng các bạn học viên lớp “Thức sớm Yoga cùng MayQ” như bình thường. Những hoạt động của 28 Ngày Biết ơn vẫn sẽ được chúng mình triển khai như bình thường. Thậm chí hổm rày, mình còn biết ơn được những ngày tháng này, những ngày tháng đầy thử thách, nhưng cũng đã thực sự cho chúng mình thêm nhiều cú hích để trưởng thành thêm nhiều lắm. Chúng mình vẫn sẽ có những lớp học, những chuyến đi, những hoạt động cộng đồng… như bình thường. Còn ở bên kia, con trai chúng mình vẫn đang học tập một cách chí thành hết dạ như bình thường. Vì chúng mình biết rằng, gia đình chúng mình là một thể, trong ba có mẹ và con, trong mẹ có ba và con, trong con có cả ba mẹ. Ở bên ngoài đây, chúng mình sống và làm việc bình thường, hòa ái, bởi vì chúng mình tin, những năng lượng của sự ổn định ấy cũng đang góp phần được chuyển tải đến cho anh, ở nơi kia, anh cũng đang ổn định và vững tin, hợp tác tốt với cơ quan chức năng, rồi chuyện đâu còn có đó.
Thật sự biết ơn vô cùng sự quan tâm và lo lắng cùng chia sẻ từ mọi người. Xin được tiếp nhận ở đây một lần, để rồi từ ngày mai dài về sau, cách bày tỏ sự quan tâm và yêu thương thiết thực nhất của mọi người đến với chúng mình, đó chính là, xin hãy đón nhận và coi tụi mình như bình thường. Mình đã còn nói thật lòng với anh xã mình, nếu anh gạt ra được những cảm giác ít nhiều bị cuốn theo cảnh này mà quan sát được bản thân mình trong giai đoạn này, sẽ thấy anh đang được đi qua một khóa học lớn, và nên hãy tận dụng ‘nguy’ này để lảy ra cơ hội học hỏi được thêm biết bao nhiêu là điều quý giá. Mình tin rằng anh hiểu, và làm được rất tốt điều này. Cho nên, mọi người hãy yên lòng về chúng mình nhé. Thương lắm.
(16.1.2024 – QH & Gia đình)
PS: Thật xin lỗi từ tối đến giờ mình lu bu quá, đến tận bây giờ mới lên đây viết nhanh một ít dòng gửi đáp lại sự quan tâm và lo lắng của mọi người. Lại một lần nữa, thương và biết ơn mọi người nhiều lắm! Tặng nhà mình một bức ảnh buổi bình minh đơn sơ mà đẹp lắm ở trước nhà tụi mình, mỗi ngày thức sớm tụi mình đều được ngắm nhìn. Tụi mình biết, ngày và đêm nối tiếp nhau là một quy luật của đất trời. Nhưng, tụi mình cũng biết rằng, hết đêm rồi sẽ bình minh thôi. Tụi mình tin vào năng lượng đẹp đẽ của những ánh bình minh, cho dù trong hoàn cảnh nào. Và tin rằng, bạn cũng vậy.
Bài viết WE THANK YOU – BIẾT ƠN CẢ NHÀ (16/1/2024) đã xuất hiện đầu tiên vào ngày QUYNH HUONG LE DO | OFFICIAL WEBSITE.
Lê Đỗ Quỳnh Hương's Blog
- Lê Đỗ Quỳnh Hương's profile
- 18 followers
