Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 27
December 11, 2021
Nghĩ cùng Bông Giấy
Nghĩ cùng Bông Giấy
Lê Quang Khánh (Australia)
Ghi chú: BS Lê Quang Khánh, người bạn cùng khóa Y khoa Saigon với tôi (1962-1969) hiện sống ở Melbourne. Có lẽ đọc bài “Buông” tôi vừa post nên cảm xúc viết mấy dòng về Chòm Bông Giấy đỏ rực mùa hè trước nhà anh. Cùng lúc, tôi nhận “meo” của BS KienMai ở Canada thì tuyết đông đang ngập trắng xóa! Cho nên…
(ĐHN)
Trước nhà có khóm bông giấy đỏ. Hè về bông đỏ nở rực như phượng vĩ nơi quê hương thứ nhất. Chốn nầy, trời thường mát và lạnh, đâu đủ ấm nóng để trồng phượng vĩ, dù có lúc cũng nóng và ve kêu inh ỏi. Bông giấy nở rộ cũng đúng lúc mùa hè và mùa học sinh nghỉ hè vài tháng từ lúc gần Giáng sinh và đầu năm mới. Bông giấy đỏ nở rộ nhắc đến mùa phượng vĩ thời học trò. Màu đỏ rực là màu tươi vui của xác pháo lúc Tết, của ngày đám cưới, của bao giấy đựng tiền lì xì mà cũng là màu đỏ của máu, của đau đớn, khổ sở, chia ly vì chiến tranh, tai nạn và bệnh hoạn…Màu đỏ của than, của lửa cho cái ấm, cái no sau bữa ăn, của mặt trời đem cái sáng, cái ấm, cùng cái nóng bức.
Sao được đặt tên là bông giấy. Có lẽ là bông mỏng như tờ giấy, nhám và hơi cứng, không mùi, có nhụy mà không mật nên không quyến rủ được bướm ong. Mà có ong bướm đến thì cũng không có thụ phấn, để có trái. Giống như bông giả bằng giấy. Bông hồng, bông bụp cũng có trái nhưng không ăn được. Hồng đỏ bụp đỏ cũng khoe sắc lúc hè về. Bông giấy cũng có gai dù ít gai hơn hồng, cao hơn hồng, có khi mọc theo hàng rào, vừa đẹp và vừa có gai. Chàng theo nàng đến nhà thấy hàng rào bông giấy, tuy thích nhưng đâu dám trèo qua. Bông giấy trồng thì dễ vì ít cần nước nhưng phải cắt tỉa thường xuyên.
Có nhiều loại và nhiều màu: tím, vàng, cam, hồng và trắng. Thường thích nắng sáng và ấm trừ bông giấy trắng.
Bông giấy đỏ nằm ở sân trước nhà là do duyên mà thành, trùng trùng duyên khởi. Từ nhánh của cây mẹ, được cắt ra, nuôi lớn, xe chở đến vườn bán cây, rồi cần xẻng để đào lổ chôn xuống, chăm sóc, tưới nước cho phân, không khí, mặt trời, khí hậu, đất xốp vừa đủ. Tuy là nhân là bông giấy mà chưa chắc có quả là bông giấy vì thiếu một duyên thì không có bông giấy trổ bông, nhưng nhân bông giấy không thành bông hồng được. Bông giấy cũng phải chịu luật vô thường: sinh trụ dị diệt. Đủ duyên thì lớn, đúng thời thì trổ bông, rồi héo, rồi chuyển thành nâu xám, rồi tan thành bụi, thành đất. Đâu tăng trưởng, trổ hoa, rồi héo tàn theo ý người được. Bông nở không ý mừng xuân nghinh hạ, không khoe sắc khoe đẹp với hồng với bụp. Bông tàn bông rụng không cần ai chôn ai khóc. Mặt trời mọc hay lặn đều nở không thay không đổi. Mưa xuống, trăng lên cũng chẳng sao. Tự tại thanh thản. Gió thổi thì lung lay. Gió qua thì lặng yên. Không loạn nên không cần định. Như giấy, như giả mà thiệt. Có mà thật là không. Không buồn không vui mà sống mà vươn. Đang sống mà không biết đã sống . Có hồn hay không ai biết. Không tạo nghiệp nên không luân hồi.
Cây bông trước nhà, bởi có sau nên có trước. Cây bông đẹp, vì thấy đẹp xấu nên có cảm thọ, nên sinh vui buồn. Cây bông của ta ở vườn ta. Cái ngã lan ra, tham ái tỏa rộng. Tham sắc tham vui, nên phải cực khổ, cắt tỉa bón tưới, chẳng chịu thảnh thơi. Chịu cực chịu khổ, tinh tấn tu tâm. Thoát khỏi luân hồi.
Nghĩ loạn.
Thấy bông. Hạ đến.
Thanh tịnh. Trải rộng.
Buông.
(LQK)
December 3, 2021
Thư gởi bạn xa xôi (4.12.2021): Nhóm Học Phật, chùa Xá Lợi
Thư gởi bạn xa xôi,
(4.12.2021)
10 Năm, NHÓM HỌC PHẬT,Chùa Phật học Xá Lợi Tp.HCM (Saigon).
Ngày này, 10 năm trước, nhóm bạn mình thường gặp nhau ở Chùa Xá Lợi Tp.HCM (Saigon) đã quyết định hình thành Nhóm Học Phật (NHP) để cùng chia sẻ, trao đổi, học Phật với nhau. Nhóm được Thầy Đồng Bổn hết sức ủng hộ và thậm chí nhường phòng của Thầy cho NHP sinh hoạt. Mỗi tuần chúng tôi gặp nhau vào buổi sáng Thứ tư, cùng trao đổi, tranh luận… sôi nổi những vấn đề Phật học, liên quan đến đời sống, đến tâm linh, đến những kinh nghiệm, phương cách tu tập. Nhóm chỉ có 10 thành viên, không mở rộng, có tính “chuyên sâu” một chút vì trong nhóm có người Hán học, người Pali, người triết, người y, người Nguyên thủy, người Đại thừa…
Thỉnh thoảng tổ chức những buổi dã ngoại, đi thăm nơi này nơi khác, để học hỏi thêm. Từ Huế đến Đà Nẵng, Hội An, Quảng Trị, Đồng Nai, Phan Thiết, Đà Lạt, Gò Công, Sa đéc, Đồng Tháp, Vũng Tàu, Bà Rịa…
Dự định nhân kỷ niệm 10 năm, ngày 4.12 này sẽ Họp mặt các thành viên NHP cho vui, cũng để rút kinh nghiệm nhưng tình hình dịch bệnh chưa cho phép…
Do vậy, mình gởi bạn bức thư viết cho Thầy Đồng Bổn, Trụ trì chùa Xá Lơi và chọn vài hình ảnh coi vui thôi nhe.
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
……………………………………………………
Nhóm Học Phật chùa Xá Lợi
Kính gởi Thầy Đồng Bổn, Trụ trì Chùa Xá Lợi Tp HCM,
Ngày 4.12.2021 là Ngày kỷ niệm 10 năm Nhóm Học Phật Chùa Xá Lợi sinh hoạt tại chùa trong suốt 10 năm qua, mỗi tuần một buổi vào sáng Thứ tư.
Giai đoạn đầu, Thầy đã nhường Phòng của Thầy cho Nhóm sinh hoạt, và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nhóm học tập. Tôi với tư cách Trưởng nhóm xin chân cảm ơn Thầy về nghĩa cử đó. Sau chúng tôi được chuyển về phòng sách của Thư viện chùa Xá Lợi một thời gian khá lâu, rồi về hẳn phòng Họp sinh hoạt học tập cho đến nay.
Nói chung, việc học rất nghiêm túc, thảo luận, tranh biện tự do, sôi nổi; học căn bản từ đầu với Tứ Diệu Đế, Tứ thập nhị chương, Bát đại nhân giác, Lý hoặc Luận (của Mâu Tử), rồi đến kinh Lăng Nghiêm, kinh Viên Giác, kinh Lăng Già…
Thành viên 10 người (không mở rộng) gồm Đỗ Hồng Ngọc, Trần Đình Sơn, Minh Ngọc, Trần Đức Hạ, Trần Phi Hùng, Tô Văn Thiện,Thanh Nguyên, Diệu Châu, Diệu Viên, Ngô Tiến Nhân… về sau thêm Huỳnh Đăng Khoa. Ngoài những buổi học tại Lớp, thỉnh thoảng tổ chức dã ngoại, thăm viếng các chùa chiền, giao lưu v.v… mở rộng thực tế.
Vài năm đầu, có tổ chức Kỷ niệm, và Thầy Đồng Bổn cũng đã đến tham dự vài lần, động viên mọi người, nhưng những năm sau này do bề bộn nhiều việc rồi dịch bệnh nên không tổ chức họp mặt kỷ niệm được.
Nay nhân kỷ niệm Ngày 10 năm Nhóm Học Phật hoạt động tại Chùa Xá Lợi, tôi viết Thư này thay mặt Anh Chị Em kính cảm ơn Sư Ông Hiển Tu, Thầy Đồng Bổn trụ trì, cùng toàn thể quý Thầy và nhân viên của chùa đã hỗ trợ Nhóm Học Phật trong suốt thời gian qua.
Trân trọng,
Đỗ Hồng Ngọc,
—
Hòa Thượng Thích Đồng Bổn:
Nhân ngày kỷ niệm đệ thập chu niên của Nhóm học Phật,
Chào Bác Ngọc,
Tôi thay lời HT viện chủ và chư tăng, kính chúc Bác và Nhóm học Phật luôn an lành trong sự chở che của Tam bảo Xá Lợi.
Chúc Bác Ngọc luôn dồi dào sức khỏe để dẫn dắt anh em cùng học Phật.
Kính,
Thích Đồng Bổn
…………………………………………………………..
—
Thư gởi bạn xa xôi (4.12.2021)
Thư gởi bạn xa xôi,
(4.12.2021)
Ngày này, 10 năm trước, nhóm bạn mình thường gặp nhau ở Chùa Xá Lợi Tp.HCM (Saigon) đã quyết định hình thành Nhóm Học Phật (NHP) để cùng chia sẻ, trao đổi, học Phật với nhau. Nhóm được Thầy Đồng Bổn hết sức ủng hộ và thậm chí nhường phòng của Thầy cho NHP sinh hoạt. Mỗi tuần chúng tôi gặp nhau vào buổi sáng Thứ tư, cùng trao đổi, tranh luận… sôi nổi những vấn đề Phật học, liên quan đến đời sống, đến tâm linh, đến những kinh nghiệm, phương cách tu tập. Nhóm chỉ có 10 thành viên, không mở rộng, có tính “chuyên sâu” một chút vì trong nhóm có người Hán học, người Pali, người triết, người y, người Nguyên thủy, người Đại thừa…
Thỉnh thoảng tổ chức những buổi dã ngoại, đi thăm nơi này nơi khác, để học hỏi thêm. Từ Huế đến Đà Nẵng, Hội An, Quảng Trị, Đồng Nai, Phan Thiết, Đà Lạt, Gò Công, Sa đéc, Đồng Tháp, Vũng Tàu, Bà Rịa…
Dự định nhân kỷ niệm 10 năm, ngày 4.12 này sẽ Họp mặt các thành viên NHP cho vui, cũng để rút kinh nghiệm nhưng tình hình dịch bệnh chưa cho phép…
Do vậy, mình gởi bạn bức thư viết cho Thầy Đồng Bổn, Trụ trì chùa Xá Lơi và chọn vài hình ảnh coi vui thôi nhe.
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
……………………………………………………
Nhóm Học Phật chùa Xá Lợi
Kính gởi Thầy Đồng Bổn, Trụ trì Chùa Xá Lợi Tp HCM,
Ngày 4.12.2021 là Ngày kỷ niệm 10 năm Nhóm Học Phật Chùa Xá Lợi sinh hoạt tại chùa trong suốt 10 năm qua, mỗi tuần một buổi vào sáng Thứ tư.
Giai đoạn đầu, Thầy đã nhường Phòng của Thầy cho Nhóm sinh hoạt, và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nhóm học tập. Tôi với tư cách Trưởng nhóm xin chân cảm ơn Thầy về nghĩa cử đó. Sau chúng tôi được chuyển về phòng sách của Thư viện chùa Xá Lợi một thời gian khá lâu, rồi về hẳn phòng Họp sinh hoạt học tập cho đến nay.
Nói chung, việc học rất nghiêm túc, thảo luận, tranh biện tự do, sôi nổi; học căn bản từ đầu với Tứ Diệu Đế, Tứ thập nhị chương, Bát đại nhân giác, Lý hoặc Luận (của Mâu Tử), rồi đến kinh Lăng Nghiêm, kinh Viên Giác, kinh Lăng Già…
Thành viên 10 người (không mở rộng) gồm Đỗ Hồng Ngọc, Trần Đình Sơn, Minh Ngọc, Trần Đức Hạ, Trần Phi Hùng, Tô Văn Thiện,Thanh Nguyên, Diệu Châu, Diệu Viên, Ngô Tiến Nhân… về sau thêm Huỳnh Đăng Khoa. Ngoài những buổi học tại Lớp, thỉnh thoảng tổ chức dã ngoại, thăm viếng các chùa chiền, giao lưu v.v… mở rộng thực tế.
Vài năm đầu, có tổ chức Kỷ niệm, và Thầy Đồng Bổn cũng đã đến tham dự vài lần, động viên mọi người, nhưng những năm sau này do bề bộn nhiều việc rồi dịch bệnh nên không tổ chức họp mặt kỷ niệm được.
Nay nhân kỷ niệm Ngày 10 năm Nhóm Học Phật hoạt động tại Chùa Xá Lợi, tôi viết Thư này thay mặt Anh Chị Em kính cảm ơn Sư Ông Hiển Tu, Thầy Đồng Bổn trụ trì, cùng toàn thể quý Thầy và nhân viên của chùa đã hỗ trợ Nhóm Học Phật trong suốt thời gian qua.
Trân trọng,
Đỗ Hồng Ngọc,
—
Hòa Thượng Thích Đồng Bổn:
Nhân ngày kỷ niệm đệ thập chu niên của Nhóm học Phật,
Chào Bác Ngọc,
Tôi thay lời HT viện chủ và chư tăng, kính chúc Bác và Nhóm học Phật luôn an lành trong sự chở che của Tam bảo Xá Lợi.
Chúc Bác Ngọc luôn dồi dào sức khỏe để dẫn dắt anh em cùng học Phật.
Kính,
Thích Đồng Bổn
…………………………………………………………..
—
November 28, 2021
“BUÔNG”
“BUÔNG”
Kính tặng Thầy Thanh Từ, 98 tuổi

Thầy Thanh Từ và Đỗ Hồng Ngọc,
( tại Thiền viện Trúc Lâm, Đà Lạt, 2005 )
Tôi thỉnh thoàng có được những buổi trực tiếp gặp gỡ với riêng Thầy. Được gặp Thầy một mình như vậy, được trò chuyện trực tiếp với Thầy như vậy, tôi không chỉ học được những kiến giải sâu sắc của Thầy mà quan trọng hơn, còn học được cái “thân giáo”: ân cần, niềm nở, hết sức từ tốn, chân thành… của một bậc chân tu.
Một lần gặp Thầy ở Vũng Tàu, Thiền viện Chơn Không. Trưa hôm đó, thầy Thích Thông Thiền đưa tôi đến thăm Thầy, thầy đang bị đau khớp gối. Vì có buổi Pháp thoại với Phật tử ngay sau buổi nghỉ trưa nên tôi rút lui sớm. Một lần khác đến thăm Thầy ở Bệnh viện 115. Bệnh viện không cho ai vào thăm nhưng tôi trong ngành nên được cho phép vào. Thầy vui, ân cần nắm lấy tay tôi. Lần khác nữa gặp Thầy cũng ở Chơn Không thì lần này Thầy đã ngồi xe lăn, còn nhận ra và nói ít tiếng. Tôi vẫn theo dõi tình hình sức khỏe Thầy qua các Thầy ở Thiền viện, đặc biệt với Thầy Thich Thông Hạnh…
Nhưng lần thăm Thầy ấn tượng nhất với tôi là gặp Thầy tại Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt, cách đây đã 16 năm, cũng vào khoảng tháng này, trời hơi lạnh và có chút mưa. Tôi có hội thảo gì đó bên Y tế. Thầy vừa đi Hà nội về, húng hắng ho, cảm lạnh.
Khi tôi đến Thiền viện thì cơn mưa vừa tạnh. Nắng vàng tỏa rực trên mặt Hồ Tuyền Lâm. Tôi không hẹn trước, chỉ đi cầu may. Có duyên thì gặp, không thì vô duyên vậy.
Người thị giả mở cổng tịnh xá nho nhỏ như một cái cốc, kiểu nhà sàn thấp, có một hòn đá rất lớn trước sân ghi 4 chữ: Chơn Tâm Vô Niệm. Một con chó trắng to đang nằm thiu thỉu ở bậc tam cấp. Chú thị giả nói chó hiền lắm bác. Tôi bước vào chắp tay chào Thầy. Trông thấy thầy khỏe, sắc mặt tươi vui. Thầy choàng thêm áo khoác và nói vừa ở Hà Nội về, ngoài đó lạnh quá. Tôi hỏi thăm Thầy về sức khỏe, về chuyện ăn ngủ các thứ… rồi quan sát chung quanh: góc phòng có cặp tạ nhỏ, nặng khoảng 1ký, Thầy nói để tập tay; một đôi dép cỏ cỡ lớn, Thầy nói ngày ngày đi bộ một vòng quanh núi.
Dịp này tôi đang viết Gươm báu trao tay (về Kinh Kim Cang) nên được dịp hỏi Thầy cho rõ thêm vài chỗ như nghĩa của cụm từ “Như như bất động” và chuyện “dĩ sắc, dĩ âm thanh” để thấy Như Lai có phải là… hành tà đạo?
Tôi hỏi tảng đá to trước sân của Thầy thấy viết “Chơn Tâm Vô Niệm”, trong khi Lục tổ Huệ Năng chỉ nói “Vô Niệm” là đủ? Thầy cười, Ổng là Tổ, nói tắt vậy, còn mình phải nói rõ chớ. Thầy rất cởi mở, vui vẻ, hỏi đâu đáp đó nhanh nhẹn dù Thầy lúc đó cũng đã ngoài 80. Tôi lại hỏi về các tác phẩm xưa của thầy như “Lục diệu pháp môn” và “Ba vấn đề trọng đại trong đời tu của tôi”… Thầy nói “Lục diệu pháp môn” dịch hồi còn trẻ (xưa rồi!). Tôi đề nghị thầy nên cho tái bản cuốn Ba Vấn Đề… vì rất cần cho giới trẻ hôm nay. Thầy có vẻ rất quan tâm.
Đã gần cả tiếng đồng hồ ngồi bên Thầy, tôi đứng dậy xá Thầy và nói: Nảy giờ học với Thầy nhiều quá rồi, giờ xin Thầy cho một chữ thôi trước khi ra về,
Thầy cười:
“BUÔNG”!
***
Tôi còn có được một bài học khác từ một bài thơ rất ngắn của Thầy: MỘNG.
Bài thơ này thầy viết năm 1980, thấy dán trên cột Thiền viện Chơn Không ở Vũng Tàu:
Mộng
Gá thân mộng,
Dạo cảnh mộng.
Mộng tan rồi,
Cười vỡ mộng.
Ghi lời mộng,
Nhắn khách mộng.
Biết được mộng,
Tỉnh cơn mộng.
(Thiền viện Chân Không, tháng 7. 1980)
Gá là gán, là gắn, là ghép… tạm bợ vậy thôi.
Thân là ngũ uẩn, năm thành tố với sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
Gắn gán ghép tạm bợ mấy thứ đó vào đâu? Vào mộng.
Gá Thân Mộng.
Mộng là ảo, là không thực. Đã gán, ghép tạm bợ, lại đặt vào chỗ không thực nữa thì tội nghiệp quá! Nhưng để làm gì? Để múa may quay cuồng, tự tạo bao cảnh khổ đau… cho đáng kiếp!
Chịu không chịu cũng phải chịu. “Nó vậy đó”!
Như một đứa bé lắp ghép trò chơi puzzle với mấy mảnh carton tạo ra người này người nọ, con thú này thú kia, phố xá xe cộ lâu đài, rồi xóa đi, rồi lắp ghép lại ra trăm ngàn thứ đồ chơi… trong chớp mắt.
Thân đã vậy rồi lại Dạo trong cảnh mộng nữa thì thật đáng tức cười.
Cảnh là thanh, hương, vị, xúc, pháp, những cái tưởng ở bên ngoài kia thực ra cũng là mộng. Nó không có thực. Nó do tâm tạo ra.
Không dễ mà ý thức được điều đó. Đấu đá tranh giành hơn thua vinh nhục trong cảnh mộng đó mà nào có biết. Khi giật mình tỉnh dậy thì nồi kê chưa chín.
Mộng tan rồi.
Đành cười thôi. Cười vỡ mộng.
Cười một mình. Nụ cười tủm tỉm của Phật chính bởi sự thấy biết đó.
Khi Phật giơ cành hoa sen lên, ai nấy đều trầm tư suy nghĩ, chỉ có lão Ca Diếp tủm tỉm cười, Phật bèn truyền ngay “Chánh pháp nhãn tạng” cho ông.
Nhưng nếu chỉ dừng ở đó, rồi tủm tỉm cười một mình thôi sao? Không.
Đó là lý do vì sao Phật rời khỏi cội Bồ đề, lang thang xuống núi.
Và vì thế bài thơ có phần thứ hai:
Ghi lời mộng.
Nhưng Ghi lời mộng mà không khéo thì người ta lại tưởng thiệt, bám vào câu chữ, vào lý thuyết suông.
Nên phải Nhắn khách mộng. Nhắn là chỉ vẻ, là khuyến khích thực hành, phải trải nghiệm tự thân. Có vậy mới mong Biết mà Tỉnh ra.
Biết được mộng.
Tỉnh cơn mộng.
Tỉnh cơn mộng chính là BUÔNG đó vậy!
Tôi thấy ở đây rất rõ tấm lòng của một vị Bồ Tát, thực hiện theo con đường 10 Hạnh nguyện Phổ Hiền.
Đỗ Hồng Ngọc.
(Saigon, tháng 10-2021)
November 26, 2021
Thơ Trần Vấn Lệ: Cũng Đành Gió Lạc Mùi Hương
Cũng Đành Gió Lạc Mùi Hương
Trần Vấn Lệ

internet
Bỗng thơm như có hương ngàn / bay qua nội cỏ tới làng xóm khuya… Có ai trong gió đi về / áo bay và tóc bay kìa, đêm trăng!Chuyện này có tự muôn năm, đêm nay lại hiện và thầm thì thơ… Chuyện tình nào cũng rất xưa, rất sau mà chẳng ai ngờ mới tinh…Trăng vàng thêm tỏ áo xanh! Gió thơm hai vạt thình lình dễ thương! Lại thêm hai má rất hường, hai môi rất ngọt một nguồn suối trong…Người về lòng tưởng đêm không, đi êm đến nỗi trăng song song người… Còn ai trên ngựa cứ ngồi, nhánh cây che khuất mặt trời cũng duyên…Chuyện rằng khởi tự một đêm viết câu tình nhớ trao em xa mờ… cũng vì duyên khởi mà chưa trầu cau nên nỗi đường tơ mịt mùng…Nếu xưa mà chiến tranh đừng… đâu thơm rất lạ gió rừng hỡi em? Nếu sau đừng nghĩ có Tiên… thì câu thơ chắc không phiền lụy đâu!Tại em, ai biểu qua cầu. tại em áo đổi sang màu hoàng hôn… Em xa gió đã hoảng hồn bay tan hết khói, đạn còn mảnh tim!Bài thơ này tạ tình em, cũng là ta tạ tình riêng của mình… Có ai khi đã hòa bình ngẩn ngơ đến nỗi nhớ hình như thương?Cũng đành gió lạc mùi hương, hoa thơm lối cũ hồn dường trăng sao!(TVL)
November 24, 2021
“Đêm thơm như một dòng sữa…”
“Đêm thơm như một dòng sữa…”
(ĐÊM, thi tập Khánh Minh, tháng 11, 2021)
Đỗ Hồng Ngọc
Bỗng dưng nhớ Đêm thơm như một dòng sữa của Phạm Duy (Dạ lai hương) khi nhận được Thi tập ĐÊM của Nguyễn Thị Khánh Minh.
Hiu hiu hương tự ngàn xa
Bỗng quay về dạt dào trên hè ngoài trời khuya…
Đêm đâu là chốn quê nhà
Trăng ngõ nhà ta xưa
Gần hơn trăng nơi này
Mộng hơn trăng nơi này
Nên trăng vàng khắp ngõ
Hỏi trăng gần, trăng xa
Đâu là chốn quê nhà…
Tìm trong đêm, mây trắng
Hỏi xem nhà ta đâu
Đêm cúi nhìn im lặng
Đêm guốc mùa đi tất tả
Năm tháng năm buồn thủ thỉ
Hằn vai quang gánh nỗi niềm
Tiếng guốc vẹt mòn kiệt phố
Lắng vào đêm tiếng chân quen
Năm tháng năm buồn lựng chín
Lời ru hồn phố chắt chiu
Tiếng guốc mùa đi tất tả
Hội An thức ngủ về theo
… lục tàu xá… lục tàu xá…
Bỗng nhớ “Hội An đêm” của Đỗ Nghê:
Hội An đêm
Bập bềnh cơn sóng dợn
Nghìn lồng mắt chao nghiêng
Những linh hồn thức dậy
Thở cùng Hội An đêm
(ĐN)
Đêm hai nửa điệu cong
Trăng trên kia
Một đường cong sáng
Nếu xóa đi không gian
Sẽ có được một vòng tròn đâu lại
Tôi và trăng
Hai nửa điệu cong
Mềm mại.
Thân đêm nồng nắng ủ
Mật ngọt. Lừ chiêm bao
Một giây bừng vĩnh cửu
Thầm thì, tan trong nhau…
Gợn lên từ hơi ấm
Tận cùng. Dâng hiến đất
Cúi xuống. Bao la trời
Trao nhau. Đêm diệu mật..
Chàng mở mắt
Và trái đất có bình minh
Nàng hỏi bằng ánh mắt thơ ngây nhất
Và đêm có đêm rằm
Trong phút giây hạnh phúc
Nàng nhắm mắt
Và. Đêm. Trăng mật
Đêm tiếng bước thời gian
Đêm qua anh cùng em
Dặm đường nghe gió biếc
Đêm nay em nhìn lên
Thấy một vầng trăng khuyết
Nhớ chuyện kể hình như của Tagore: người chồng có chuyến buôn xa, từ biệt vợ, nàng âu yếm đôi lần bảy lượt dặn đừng quên lúc về mua cho nàng một tấm gương tròn sáng như vầng trăng vành vạnh kia. Ngày về, chàng nhìn lên trăng, thấy một vầng trăng lưỡi liềm cong vút, vội vã mua một chiếc lược ngà…
Lại nhớ Trịnh: “Em đi qua chuyến đò, ối a con trăng còn trẻ/ Con sông đâu có ngờ, ngày kia trăng sẽ già” (Biết đâu nguồn cội).
Một nhà thơ nữ lẽ nào “đâu có ngờ” như con sông kia nhỉ?
Đêm rộn lòng dâu bể
Không rộn lòng dâu bể
Tỉnh thủy vô ba đào
Nếu mà không hạt lệ
Thử tâm chung bất dao…*
Nếu mà không trăng sáng
Làm sao nối xưa sau…
Cho nên Đêm Nguyễn Thị Khánh Minh đầy “rộn lòng dâu bể”, đầy hạt lệ yêu thương, cha mẹ, vợ chồng, bè bạn… quê hương xứ sở, dịch bệnh, phân ly, kỳ thị, ngăn cách, xót xa, giấc mơ em nhỏ châu Phi, giấc mơ em nhỏ Việt…
Ở Khánh Minh, thơ không chỉ là thơ mà còn là tiếng nói, còn là hạt lệ… còn là vòng tay, còn là hơi ấm từ trái tim biết đau xót nỗi đau chung:
Người đem theo nụ cười
Đi vào những biên giới
Những biên giới đôi co
Những biên giới gào thét
Bỗng nhận ra mình
Những phân chia hổ thẹn
Để rồi:
Nhìn trời. Thấy cái đồng không
Hét to. Lại thấy nỗi mông quạnh ngày
Sao tự nhiên đứng ở đây?
Một nơi rất lạ, cõi không nụ cười
Ngây ngô họ xúm gần tôi
Chỉ trỏ vào nụ tôi cười, ngạc nhiên
Quệt vào tôi những ánh nhìn
Hỏi tôi hạt nước mắt tìm ở đâu
Thưa, tôi nhặt ở tim đau..
Rồi quay về chính mình:
Soi gương thảng thốt mặt mày
Mở hai con mắt không đầy được tôi
Thốt lên ngọng nghịu những lời
Bóng trong gương hỏi, tiếng người đó chăng?
Đêm trái tim diệu mật
Nghe gió thỉnh hồi chuông
Từ trái tim diệu mật
Chắt chiu tâm Phật
Chuông giờ lành
Trái đất đầu thai
Trong thơ Khánh Minh, ngọn cỏ với Ta là một, cùng uống ánh mặt trời, cùng tỏa ngát hương thơm, cùng rúng động vì tiếng chuông chùa trên núi xa kia để hòa vào vũ trụ mênh mông không còn phân biệt bởi căn-trần-thức nữa!
Cỏ nhé. Ta nằm xuống
Cỏ nhé. Ta cùng uống
Vô lượng ánh mặt trời
Cỏ nhé. Ta đầy hương
Của nồng nàn thơm giấc
Đưa nhau đến ngọn nguồn…
Không thể không nhớ lữ khách nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San làm xao động giấc mơ…
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
[Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San]
(Phong Kiều Dạ bạc, Trương Kế)
***
Đêm thơm không phải từ hoa
Lung linh trăng lại về nữa
Cánh gió đưa hương ngả đầu mây phất phơ…
Đêm thơm không phải từ hoa
Mà bởi vì ta thiết tha tình yêu Thái Hoà…
(Dạ lai hương, Phạm Duy)
Phải, “mà bởi vì ta thiết tha tình yêu Thái Hoà…” đó vậy./.
ĐHN,
Saigon 24.11.2021)
……………………………………………….
(*) Ý đạo, Nguyễn Du
November 10, 2021
Tập Thơ ĐÊM. 2021 NGUYEN THI KHANH MINH

ĐÊM tập thơ NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH VĂN HỌC PRESS xuất bản, 2021 Tựa: Tô Thẩm Huy; Tranh bìa: Phạm Cung
Nguyễn Xuân Thiệp
… Đến với Đêm để được thiền sư Muju tặng cho vầng trăng. Đêm cũng là thời khắc để Khánh Minh gần với Nguyễn Du, Tagore và Gibran. Với Nguyễn Du thì có ‘Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh, Tỉnh thủy vô ba đào’. Trăng sáng lòng giếng xưa / Nước giếng không xao động. Ôi, thật là tĩnh lặng như lòng ai tới với thơ trong đêm trăng chiếu.
(…)
Đêm đưa Khánh Minh về gặp vầng trăng xưa để thấy: Trăng ngõ nhà ta xưa / Gần hơn trăng nơi này / Mộng hơn trăng nơi này /… Nên trăng vàng khắp ngõ / Xe về ấm lối quen / Ai chờ bên thềm gió… Hình ảnh cuối cùng trong mấy câu thơ trích dẫn trên là cô bé Khánh Minh chờ cha về trước thềm nhà xưa.
Trang thơ của Khánh Minh đầy thi ảnh và cảm xúc, vừa siêu thực vừa hiện thực, khiến nước mắt rơi… Đúng vậy. Đọc ĐÊM của Nguyễn Thị Khánh Minh ta gặp những ánh mắt nhìn trong sáng đầy ý thơ, với những cảm xúc nhân bản. Ở đó, nắng và hương cỏ và đêm tan vào mộng mị chiêm bao, tạo thành một thực tại huyền ảo. Đọc Đêm của Nguyễn Thị Khánh Minh để cảm nhận ngôn ngữ thơ tinh tuyền của tác giả và những hình ảnh sáng tạo như dưới cái nhìn của tuổi thơ. Ôi, xin cất giữ làm của cải cho đời sau.
Tô Thẩm Huy
(…) Và hỡi những họa sĩ thân yêu trên trần gian này, tôi xin được làm cậu Hoàng Tử Bé của St Exupery, yêu cầu quý vị vui lòng vẽ hộ tôi – không phải con cừu đang gặm cỏ trên tinh cầu xa xôi – mà làm ơn vẽ hộ tôi bức tranh của bóng khuya – không phải là bóng khuya lúc đang ngồi tỉ tê cạnh bóng đêm, mà là lúc đang lững thững đi dạo dưới trăng – để tôi có dịp được ngắm bức tranh vẽ lúc “bóng về” của họa sĩ Khánh Minh:
Ai vẽ được bóng khuya đi
Cho tôi đọ với bóng về. Của tôi
Lời của thơ trong “Đêm” là tiếng nói của con người nguyên sơ mà chúng ta đã lâu ít còn được nghe thấy ai nói, đến gần như đã quên mất. Xin mời nghe lại mấy lời:
Gió vườn nhà êm ả
Ai nói gì qua lá
Mà khuya đầy trăng thơm
Đêm ngó trời. Cao quá
Hỏi trăng gần, trăng xa
Đâu là chốn quê nhà…
Tô Đăng Khoa
Sự hội ngộ “Mặt mừng tay bắt gọi tên” giữa “ta-và-ta” không phải xảy ra giữa thanh thiên bạch nhật mà xảy ra trong bối cảnh của “Ánh đêm sắc lẻm” của sự nội quán: Trong đó lằn ranh giữa “Nhớ” và “Quên” quyết định sự “chia lìa” hay “không chia lìa”! Hay là nói cách khác: Chính “Nhớ” và “Quên” quyết định cái gì “Có” cái gì “Không”, cái gì “Hữu” cái gì “Vô”.
Đối với riêng tôi, bốn câu thơ cuối của bài “Phía Bên Kia” là bốn câu thơ xuất thần của sự “phản quan tự kỷ”, và có giá trị rất lớn trên cả hai lĩnh vực Thi Ca và Tư Tưởng. Hơn thế nữa, nó còn có thể được chiêm nghiệm thậm sâu để ứng dụng vào đời sống hàng ngày.
Thi Tập Đêm là cuộc hành trình tiếp nối của Ánh Sáng và của Bóng sau bao nhiêu phản xạ, khúc xạ khắp chốn nhân gian nay trở Về Quê của Màn Đêm Tịch Tịnh. Rồi thì sao?
Thì rồi mai nọ mốt kia
Đem hình vá bóng sợ gì một-hai.
Phan Tấn Hải
Có những buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều và buổi tối. Khi tôi ngồi tịch lặng ngoài hiên. Đôi khi có chút gió, có khi trăng rất mờ vào đêm, hay sương còn lạnh vào ban mai. Có khi buổi trưa trong xóm vắng không người, thoang thoảng tiếng xe chạy ngoài phố xa vọng tới. Có khi chiều nắng rất nhạt, như tới từ một ký ức thời thơ dại. Tôi lặng lẽ ngồi,hông nghĩ ngợi gì, chỉ cảm nhận những làn gió nhẹ thoảng qua. Không một ý nghĩ nào khởi lên trong tâm, không một chữ nào hiện ra trong tâm. Cả thế giới chung quanh chỉ là những cái được thấy, được nghe, được cảm thọ, và không có một cái gì khác khuấy động. Tỉnh thức, cảm nhận trên thân tâm một nỗi tịch lặng không lời. Nơi đó, vắng bặt tất cả những gì có thể so đo thành chữ. Những khi như thế, tôi không muốn cử động mạnh, chỉ vì sợ làm tan vỡ những vạt nắng ban chiều, hay là sẽ làm rơi mất ánh trăng.
Có đôi khi, tôi nghe nhạc. Thường là nghe các bản hòa âm ngắn, không lời của piano, ngắn thôi, cỡ vài phút. Không hơn 4 hay 5 phút. Tôi không muốn nghe ca khúc nào dài. Cuộc đời mình có dài đâu. Thêm nữa, vì cần chiêm nghiệm về những âm vang tập khởi, và rồi những âm vang biến diệt. Sinh và diệt. Hạnh phúc và đau đớn. Nghe nhạc, có những ca khúc như thế, cho mình ý thức thêm về những hư vỡ của cõi này. Chỉ lặng lẽ ngồi nghe. Có khi không dám cử động mạnh, chỉ lắng nghe thôi, lặng lẽ, để từng âm vang ngấm vào thân tâm. Tôi cũng từng kinh ngạc, tại sao khi người ta nghe nhạc hay lại vỗ tay lớn tiếng. Lẽ ra, sau mỗi ca khúc hay mỗi bản trình tấu hay, người nghe chỉ nên ngồi lặng lẽ thêm vài phút. Vì bất kỳ những cử động nào lúc đó sẽ có thể làm rơi các nốt nhạc còn bay lơ lửng quanh mình.
Khi đọc thơ Nguyễn Thị Khánh Minh, tôi cũng cảm nhận cũng thế.
(…)
trần thị nguyệt mai
Trăng thơm
Gửi chị Khánh Minh
Ai nói gì qua lá
Mà khuya đầy trăng thơm
(trăng gần trăng xa – thơ nt khánh minh)
Lá thở từ muôn kiếp
Đếm sao trời ngàn năm
Cho đêm hoài thơm trăng
Trăng thơm trong giấc ngủ
Cứ như gần như xa
Em bềnh bồng mộng ảo
Đẹp tuyệt vời là đêm
Trăng óng ả ướp mật
Như câu chuyện thần tiên
Và ước mơ bình yên
Người thương người vô biên
Thôi chiến tranh, muộn phiền
Đêm thơm cùng với trăng
Nguyện cầu cho thế giới
Vằng vặc một tâm rằm…
29.8.2021
November 9, 2021
Nguyễn Thị Khánh Minh: LAGI NGÀY CON VỀ
LAGI NGÀY CON VỀ
Thơ NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH
(trang 48, Tập Thơ ĐÊM vừa phát hành 11.2021)
Kính tặng Nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc
Có mùa xuân theo con về trước ngõ
Gọi Mẹ ơi. Hàng giấy đỏ xôn xao
Then cổng gỗ từ lâu rồi chưa mở
Trời Lagi mừng vội một câu chào
Có thời gian theo con về tung cửa
Hiên nhà xưa kỷ niệm mọc xanh um
Cội xoài vắng. Mầm cây khô nói mớ:
Ai về kia. Lẫn bóng mẹ mùa xuân…
Vâng thưa Mẹ. Con về reo tuổi nhỏ
Lòng ấu thơ khua giấc nắng chiêm bao
Hương xoài non khan giọng nhớ cồn cào
Gầy dáng Mẹ. Bên thềm hong tóc gió
Con ngồi đây. Một vuông sân lặng lẽ
Ôi nón quen. Mẹ cài đó. Thiu thiu
Nón mồ côi lâu rồi hương tóc Mẹ
Con mồ côi. Đường viễn xứ liêu xiêu
Nghe rất khẽ. Nghe như mơ. Tiếng chổi
Xào theo chân. Bóng mẹ mỏng như mây
Vườn thức giấc. Hồn tinh sương mẹ gọi
Chuồn chuồn bay về. Mưa trổ trên cây
Vâng thưa Mẹ. Bếp nhà vừa cơi lửa
Cơm chiều ngon thơm lúa vụ mùa tươi
Mai mẹ về. Về với Ngoại xa xôi
Chiếc nón lá Mẹ cứ cài trên cửa
Là cột mốc nhắc con. Đường xa ngái
Đất Lagi cát mặn biển theo chân
Mai con đi. Khép cổng nhẹ như thầm
Hàng giấy đỏ lại một mình. Ở lại…
1.2017
(Cảm xúc khi nhìn hình căn nhà cũ ở LaGi của Mẹ anh Đỗ Hồng
Ngọc).
November 4, 2021
“Chợ Đại Đồng” LA GI
“Chợ Đại Đồng” LA GI
Bich Chi Lam
(Cảm nhận khi nghe tin “chợ Đại Đồng” không được phép hoạt động lại)

“Chợ Đại Đồng” bên hông nhà Hồng Yến, La Gi.
Tôi lớn lên ở “Chợ Đại Đồng”, một chợ nhỏ xuất phát từ nhu cầu trao đổi hàng hóa của bà con, tồn tại song song trong khu dân cư thị trấn LaGi gần nửa thế kỉ.
“Đại Đồng” là hiệu của nhà thuốc bắc ngay đầu dãy phố nên người dân thương mến gọi chợ nhỏ là “Chợ Đại Đồng”, cái chợ mà sáng, trưa, chiều, tối gì cũng đầy đồ ăn ngon và hấp dẫn làm lấp lánh cả tuổi thơ tôi mỗi khi nghĩ đến.
Cũng như tên gọi “Đại Đồng”, người dân ở chợ gần gũi và chân tình lắm, đến nỗi mỗi lần tôi “xuất hiện”; đi từ đầu chợ đến cuối chợ đều nghe tiếng mời chào thân thương “Út ơi, mới về hả? Vào ăn nè em”.
Ra là mặt mình cũ như cái chợ đến nỗi đi bao nhiêu năm về mấy chị, mấy dì, mấy cô đều nhớ. Ta nói cái tình nó ấm áp chân thật biết bao!
Lễ/Tết về quê chưa cần đến nhà ai, sáng sớm đi ra chợ một vòng từ trên xuống dưới nghe đủ mùi vị quê hương bên lò bánh căn nóng hổi cùng xoong cá kho được bà Hai tỉ mẫn khạy từng chiếc thảy ra tô hành lá là mọi người nhanh tay gắp lấy, hay tô cháo lòng nghi ngút khói với miếng dồi đặc trưng quán chị Cúc,
ghé qua chị Tư bún miến chả hấp tươi ngon dậy lên mùi biển, cũng không thể bỏ qua hàng bánh canh đặc (bánh canh bột gạo) ngạt ngào hòa giữa mùi gạo, rau răm và miếng chả cá chiên thơm lừng, rồi những chiếc bánh bèo xoáy be bé như lúm đồng tiền trắng nõn ở hàng cô Mai, ly sương sâm, bánh lọt mát lạnh hàng dì Bảy, chút béo ngậy trong ly sữa đậu xanh dì Xuân… rất nhiều món ăn dân dã đã kết nối những con người về đây, ta sẽ biết tất cả người trong phố ai đã về ai chưa về quê. Đàn anh, đàn chị, đàn em gì đều nhẵn mặt nhau ngoài chợ, hỏi thăm nhau rối rít trong lúc chờ chủ quán bán hàng.
Mà chủ quán cũng chẳng cần hỏi cũng nhớ luôn tánh ăn của từng người như đứa nào ăn nhiều ớt, đứa nào thích nhiều rau, mắm nào khoái ăn mặn, con nào ăn hai lát chanh, nhỏ nào nhiều thịt ít bánh …
Chẳng ở đâu xa, chợ như ngôi nhà chung mọi người gặp gỡ thăm hỏi chuyện trò tự nhiên nhất quả đất. Chẳng cần trà bánh, chẳng cần câu nệ vỗ vai nhau cái bốp “Mới về hả?”; Thế là buổi đi ăn hàng khỏi đường về luôn.
Ba tháng dịch ở trong nhà bạn bè ở các nơi gặp nhau trên Net kể hết chuyện đông tây lại bàn các món ăn chợ Đại Đồng sau giấc ngủ trưa ngập nắng và gió chợ đon đả chào đón với tô bún mắm nêm ngon khó cưỡng, bánh quai vạt, chả lụi, bánh nậm, ốc mắm gừng quen thuộc của người miền biển mặn mà, đậm sâu. Nhớ lắm những buổi tối dịu mát, bạn bè í ới hẹn hò nhau đi ăn bánh xèo kiểu “người nhà quê” có tô nước mắm như canh, không cuốn cuốn chấm chấm e lệ như người thành phố, bên cạnh các hàng hột vịt lộn dưa chua, mì quảng nhiều nước không bánh tráng, đậm vị ngọt đặc trưng, bánh mì, bánh flan, rau câu chân vịt… được chế biến theo công thức nhà làm không tìm thấy ở đâu được nên đành mang theo như hương vị quê nhà thoang thoảng hòa quyện trong râm rang tiếng nói cười ngô nghê với những mẫu chuyện trường lớp, những bươn trải sớm mai cứ thế loang ra, loang ra lao xao cả một góc chợ. Để rồi nôn nao chờ cái ngày “bình thường mới”; về chợ Đại Đồng đặng ăn phủ phê các hương vị in hằn sâu trong tâm trí của những người con nơi nhà và những đứa xa quê.
Nhưng rồi “bình thường mới” cũng là lúc cải cách, sắp xếp lại chuyện buôn bán. Chợ không được sinh hoạt nữa, trả lại cho con phố đường thông hè thoáng như bao con đường khác. Dù biết phải thế nhưng cái “hồn” chợ qua bao thế hệ đã đi vào tâm tưởng của người dân nơi đây và nặng lòng cả những người xa xứ đang mong ngóng quay về.
Nghĩ mà thương những người bán hàng gắn liền cả đời mình với cái chợ, với những khách hàng thân thiết nhìn đến mòn mặt. Nghĩ mà tiếc tình nghĩa nơi này, nơi không chỉ bán thức ăn mà bán cả những hồi ức, hoài niệm. Cái tình nó nặng biết là bao!
Giờ phải đi đâu, về đâu? Dịch đã khổ, không chỗ mưu sinh càng khổ! Có ai mà ngờ một lần nghỉ dịch phải nghỉ luôn cả đời buôn gánh bán bưng nơi chốn chợ quê thân thuộc thế này!
Có thể nào “đô thị hoá” mà vẫn ĐẬM ĐÀ TÌNH QUÊ không?
BCL 2.11.2021
Nguồn ảnh: Sưu Tầm
Nghĩ về “Tập sách Cái cười & Sự lãng quên”
Nghĩ về “Tập sách Cái cười & Sự lãng quên”
(Tiểu thuyết Milan Kundera, Trịnh Y Thư dịch)
Đỗ Hồng Ngọc
Đó là cuộc truy tìm bản ngã con người để từ đó rất có thể lóe lên luồng sáng mới mẻ cho ta thấy rõ hơn cái ẩn mật của hiện tồn. (Kundera)
Je pense donc je suis… (Descartes). Mà vì hình như, suy nghĩ một mình không thể tìm ra bản ngã, tác giả phải tạo ra nhiều mình khác qua nhân vật, gọi là tiểu thuyết để cùng đi tìm: tìm trong cái phông nền lịch sử, trong tình dục, trong tình yêu, hạnh phúc, đớn đau…
Nhân vật trong tiểu thuyết tôi là những khả thể vô thức của chính tôi (Kundera). Bởi cuối cùng là để vượt ra, vượt qua: một cái đường biên mong manh mà mênh mông đó. Ở đó, Bên kia đường biên “bản ngã” của riêng tôi chấm dứt (trang 19). Nghĩa là đạt đến vô ngã / non-self (không phải no-self).
Cái đường biên đó do chính tác giả tạo ra cho mình và loay hoay tìm lối thoát, càng tìm lối thoát càng bị quấn chặt. Chỉ vượt ra, vượt qua (Gaté, gaté…paragaté…) đường biên khi có được trí Bát nhã (Prajna) thấy được ngũ uẩn giai Không, mới “độ nhất thiết khổ ách”.
Diễn viên, kịch sĩ cũng sắm nhiều “bản ngã” cho mình, như lúc sắm vai vua, lúc sắm vai ăn mày… nếu “thức tỉnh” cũng dễ vượt thoát. Nhà viết tiểu thuyết còn có ưu thế hơn: tiểu thuyết nói được những điều mà chỉ tiểu thuyết mới nói được (Kundera). Hài hước, châm biếm, ẩn dụ, châm ngôn, giả định, khoa đại, bông lơn, gây hấn, huyễn hoặc,… và dĩ nhiên cũng không tách khỏi cái “vòng tròn ảo diệu bao quanh đời sống” dù giãy nảy: Tiểu thuyết gia không phải là kẻ hầu của sử gia (Kundera). Cái “vòng tròn ảo diệu bao quanh đời sống” đó dù làm người ta nôn ói, người ta bị điều khiển ngay cả cách làm tình thì cũng đã tạo cái cớ cho tiểu thuyết gia vung chiêu. Dĩ nhiên lịch sử chỉ là… những lời nói dối (thơ ĐN).
Chỉ có một cách thoát, như Vạn Hạnh thiền sư dạy đệ tử hơn ngàn năm trước:
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô
(Vạn Hạnh thiền sư)
Lịch sử thịnh suy cuồn cuộn những kiếp người… Cho nên vấn đề không phải là Ra đi mà Trở lại. Trở lại Địa đàng. Ở trong Ta thôi. Quay về nguyên thủy loài người, nguyên thủy đời sống, nguyên thủy tình yêu (trang 328).
Cái cười là một khám phá. Sự lãng quên là một khám phá. Khi bạn vượt ra qua biên thùy, cái cười phải tuôn ra. Nhưng nếu bạn tiếp tục đi dấn, vượt qua cả cái cười, thì sao? (trang 315).
Trí bất đắc hữu vô
Nhi hưng đại bi tâm…
(Kinh Lăng Già)
Nghĩ về “dịch vật” của Trịnh Y Thư:
Dịch Kundera rõ ràng không dễ toát được Kundera. Nhưng Trịnh Y Thư mong có thêm 7 “biến tấu” nữa của tác giả để được dịch tiếp.
TYT thố lộ: “Dịch Cái cười & Sự lãng quên là việc làm thú vị tuyệt vời đối với tôi”. Kundera có cái mỉa mai, chua chát, thậm chí thâm độc nhiều tầng, mà TYT gọi là cái phần hồn phách, cái Thần của tác phẩm, “bất khả tư nghị”, chỉ có thể đạt đến bằng trực giác, Dionysian… Dịch thuật văn học là sự tái tạo, hoặc sáng tác lại, một tác phẩm văn học để cho nó một đời sống mới… và tôi sẵn sàng hi sinh cái chân lí tuyệt đối (đôi khi rất vô tích sự) để đổi lấy dăm ba nét linh diệu phù ảo của cái bất toàn. (TYT)
Tôi tò mò muốn biết giá TYT cho vài thí dụ… về dăm ba nét linh diệu phù ảo thì hay quá! Tôi vốn đã phục cách dịch “linh diệu phù ảo” của TYT qua các tựa sách: Đời nhẹ khôn kham, “Cái” cười và “Sự” lãng quên…
Khôn kham là chịu hổng nổi, chịu hết nổi!
Còn ở đây “Cái” có vẻ như để khinh miệt, còn “Sự” là cái còn được… tôn trọng phần nào. Tôi nghĩ ở đây có thể dùng cả “Cái” cho Cái cười và Cái lãng quên. Song hành Cái, Cái cũng hay chứ!
Cũng đã có những dịch giả ở Việt Nam dịch hay không kém (về Tựa): Cõi người ta (Bùi Giáng dịch St. Ex.): Cõi, như Cõi Ta bà, Cõi Bồ-tát… với pháp giới thể tánh riêng của nó. Hay Chuông gọi hồn ai (For Whom the Bell Tolls) của Huỳnh Phan Anh (dịch E. Hemingway).
Nhớ có lần TYT viết đâu đó: Những cái vi tế trong mỗi từ tiếng Anh, liệu tôi có thể tìm thấy nét tương đương trong tiếng Việt không? Câu trả lời là không (TYT).
Tôi không tin vậy. Mỗi ngôn ngữ có một sắc thái riêng, có thể đạt đến cái “thần” bằng trực giác. Cái đó gọi là “đi guốc trong bụng” tác giả.
Khái Hưng dịch Tình tuyệt vọng với hai chữ “thui thủi” trong 2 câu này của Sonnet d’Arvers chẳng đạt cái “thần” sao?
Hélas! j’aurai passé près d’elle inaperçu,
Toujours à ses côtés, et pourtant solitaire,
Hỡi ơi! Người đó ta đây
Sao ta thui thủi đêm ngày chiếc thân…
Hay Mùa thu chết (Apollinaire) của Bùi Giáng:
J’ai cueilli ce brin de bruyère
L’automne est morte souviens-t’en
Ta ngắt đi một cành hoa thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
với những chữ “ngắt đi”, “nhớ cho”… chẳng đạt đến cái “thần” sao? Nếu không, sao có Mùa thu chết của Phạm Duy với tiếng hát Julie Quang: “Em nhớ cho, em nhớ cho, đôi chúng ta sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa…trên cõi đời này…?”
Nhưng tôi đồng ý với TYT việc khó dịch thơ. Bởi tôi không tin thơ chỉ là ngôn ngữ, phối từ… Có dịp sẽ trở lại đề tài này.
Tôi nhớ Nguyễn Hiến Lê nói: dịch hay là dịch sao cho người đọc không nhận ra vết dịch.
Quả thật, đọc bản dịch của TYT không thấy có vết dịch.
(ĐHN)
Saigon, 02.11.2021
Đỗ Hồng Ngọc's Blog
- Đỗ Hồng Ngọc's profile
- 12 followers

