Góp nhặt dông dài

Machiavelli nói quyền lực không quan trọng ở “chính danh” miễn là quyền lực đoạt được thông qua một cuộc cạnh tranh tự do.

Cũng theo Machiavelli, bài học thành công, nếu có thể đem dạy, và có thể học được, thì học từ kẻ ác cũng tốt như học từ người xấu. Vả lại tấm gương thành công từ kẻ ác luôn nhiều hơn tấm gương thành công của kẻ thiện lương.

Chính trị quan trọng nhất là mục đích. Hiện tại và cũng như quá khứ cổ xưa, mục tiêu chính trị mà các phe phái phất lên luôn là cao cả. Nhưng mục đích lại cần đến phương pháp để đạt được. Phương pháp sẽ là vô nghĩa nếu nó tất bại. Tức là phương pháp phải thành công mới là phương pháp tốt. Vấn đề còn lại là tuyên truyền để biến nó thành “tốt”. Mà kẻ thành công, phe chiến thắng kiểu gì cũng sẽ thành “chính nghĩa”. Bởi thâm tâm con người từ cổ chí kim luôn tin rằng chính nghĩa tất thắng. Còn ý kiến dư luận đương thời, đương nhiên là do tuyên truyền mà ra.

Để có chính nghĩa, tuyên truyền của các phe phái chính trị sẽ cố tô vẽ phe mình thành những kẻ có đời sống thiện lương hơn hẳn phe đối thủ. Phe thắng cuộc lại càng có lợi thế lớn đạt được mục đích này. Tuy nhiên, cách tốt nhất để dễ dàng đạt được tuyên truyền như vậy, lãnh đạo (của mỗi phe) sẽ phải cố gắng sống một cuộc sống khiêm tốn, đức hạnh hơn đối thủ. Hoặc ít ra là diễn trò sao cho người ta tin như vậy. (Không nhớ các ý về tuyên truyền và đức hạnh là của Machiavelli, hay là của Bertrand Russell bình luận về Machiavelli, mà lười mở sách ra đọc lại.)

Đấy là về quyền lực và cách thức chiếm được quyền lực, quan điểm và lý luận của Machievelli trong The Prince thực dụng, máu lạnh, đơn giản như vậy. Về thể chế (chia sẻ và kiểm soát quyền lực), trong Discourse, ông chỉ nhấn đến ba thế lực xã hội: quân vương, quý tộc, dân thường là ba thế lực cần được chia sẻ của cải, quyền lực và giám sát lẫn nhau. Hiến pháp Sparta (Hy Lạp cổ) được Machiavelli cho là tốt nhất, hiến pháp Solon (của Athens được cho là khá mềm yếu (quá dân chủ), hiến pháp Cộng hoả La Mã khá tốt và ổn định.

*

Dân chủ quá đà luôn có xu hướng dẫn đến độc tài và cuối cùng sẽ là bạo chính (tyranny). Lý do là dân chủ trực tiếp (direct democracy) bản chất chỉ là các cuộc trưng cầu dân ý cho mọi quyết định của thành-bang, của đất nước, quyết định cuối cùng dựa vào đa số.

Thời cổ, và cả thời nay, đám đông ít ra quyết định bằng lý trí mà luôn bị cảm xúc dẫn dắt, cho nên một ‘bạo chúa” (tyrant) sẽ dễ dàng thao túng đám đông để lấy phiếu có lợi cho phe nhóm của mình. Đám đông không chỉ bị cảm xúc dẫn dắt, mà họ còn bị sự sợ hãi điều hướng các quyết định và hành vi của mình. Điều này lại càng tạo điều kiện hơn nữa cho các “bạo chúa”. Bạo chúa ở đây là cách dùng từ trong tiếng Hy Lạp cổ, nó không mang màu sắc quá tiêu cực như hiện nay. Thời Hy Lạp cổ, tyrant chỉ đơn giản một cá nhân cai trị đất nước (nền bạo chính), đối nghịch với nhân dân tự cai trị đất nước của mình (nền dân trị). Có nhiều “bạo chúa” thực ra không tàn bạo tí nào và lãnh đạo đất nước rất tài tình, như một số hoàng đế túc tắc xuất hiện trong suốt ngàn năm lịch sử Đế quốc La Mã.

Dẫu vậy, về cơ bản, một nền dân trị (dân chủ )với thể chế cộng hoà vẫn luôn tốt hơn bất cứ một nền quân trị (quân chủ), quý tộc trị hay bạo chính nào. Tất nhiên phải là một nền dân trị và thể chế cộng hoà được thiết kế đủ tốt và phù hợp với đất nước mà nền dân trị ấy mọc lên.

*

Tổ tiên của phong trào chính trị “cánh tả” được truy gốc về hai anh em nhà Gracchus (Grachis Brothers). Người anh, Tiberius Gracchus, phát động một cuộc cải cách kinh tế xã hội đậm màu sắc dân tuý vào giai đoạn cuối của Cộng Hoà La Mã. Tiberius bị giết hại năm 133 Trước Công nguyên. Đây có thể coi là ca bạo lực chính trị đầu tiên trong lịch sử thành văn.

Mặc dù các khái niệm cảnh tả, xã hội chủ nghĩa… ra đời rất muộn sau này, anh em nhà Grachus vẫn thường được coi là hai sáng tổ của chủ nghĩa xã hội và phong trào dân tuý. Do vậy dân tuý, mị dân (và phần nào đấy là tư duy và hành động quá khích/radical vượt ra khỏi giới hạn của ngưỡng cấp tiến theo nhận thức chung của xã hội đương thời ) luôn là một phần bản tính của “cánh tả”. Qua thời gian, các chiêu thức dân tuý và mị dân dần trở nên kinh điển của cả tả lẫn hữu và mọi chính trị gia. Các chính đảng thành công đều lão luyện các kỹ thuật thao túng đám đông. Ở cánh hữu, cách làm này thường dẫn đến cuồng nộ của đám đông (angry mob), ở cánh tả thường dẫn đến các cơn lên đồng tập thể (mass histeria). Cả hai cánh nếu đi về phía cực đoan (cực tả và cực hữu) thì thao túng trở thành kích động đám đông và sẽ gây ra bạo lực trên diện rộng vượt qua mọi khuôn khổ luật pháp.

Cuộc cách mạng của anh em Gracchus đã phá vỡ cái norm vốn đã tồn tại hàng trăm năm của chính thể Cộng Hoà La Mã. Dẫn đến sự xuất hiện của Tướng Sulla, người thiết lập vị thế lãnh đạo độc tôn (dictator/độc tài) đầu tiên ở La Mã (Roma), ngồi ghế này vài năm, nghỉ hưu, rồi qua đời. Sau khi Sulla chết, Cộng Hoà La Mã rơi vào khủng hoảng với các biến động chính trị và bạo lực liên miên, trong đó có việc Julius Ceasar bị đâm chết. Biến động chỉ chấm dứt khi Augustus lên ngôi Hoàng Đế La Mã (năm 27 Trước Công Nguyên), xoá bỏ hoàn toàn nền Cộng Hoà. Đế chế La Mã từ đó tồn tại 500 năm, hoặc 1000 năm tuỳ theo quan điểm (Tây La Mã sụp đổ năm 476, Đông La Mã sụp đổ năm 1453).

Cho đến khi sụp đổ về mặt thể chế, Cộng Hoà La Mã (Rome Republics) tồn tại khoảng 500 năm (từ năm 509 Trước Công Nguyên).

*

Lúc đầu, La Mã, hình thành năm 753 Trước Công Nguyên, là một vương quốc nhỏ, toàn nông dân, và có một ông vua. Vương quốc ấy nhờ chăm chỉ làm nông, và chăm chỉ đi đánh nhau, dần dần giàu có và rộng lớn thêm. Có một tầng lớp giàu có lên, củng cố được địa vị, nắm giữ được nhiều nguồn lực quốc gia, và cuối cùng chuyển sang nắm quyền cai trị bằng cách bầu ra vua (khác vua phong kiến phương Đông, hoặc phong kiến châu Âu sau này, vua ngày xưa lại được bầu ra, thay vì trong hoàng gia nối ngôi nhau).

Thế là vương quốc La Mã cổ chuyển từ “quân trị”, sang “quý tộc trị”, và chẳng bao lâu sau thì chuyển qua “dân trị”. Dân trị, ở VN hay gọi là dân chủ, ở La Mã có một hình thức khác hẳn dân chủ ở Hy Lạp cổ đại.

*

Nền dân chủ Hy Lạp có một vấn đề khá trầm trọng. Nền dân chủ ấy (do Solon đặt ra năm 594 Trước Công nguyên sau khi Athens giành được ngôi vị độc tôn trong số các thành bang Hy Lạp) cho phép mọi người dân (thực ra mọi người ở đây không bao gồm nô lệ và phụ nữ ) có tiếng nói. Mọi việc quan trọng của thành-bang đều được đem ra bàn cãi, và bỏ phiếu. Việc này rất mất thời gian, công sức và quyết định cuối cùng thường được thông qua bằng đa số xít xao. Tức là 50% cộng 1 phiếu. Nếu một triệu người bỏ phiếu, thì chỉ cần 50% cộng 1 phiếu củng hộ là được thông qua. Vì là đa số xít xao nên các quyết định quan trọng bị quay xe luôn xoành xoạch, dẫn đến một nền chính trị không bao giờ ổn định và dễ bị thao túng, uy hiếp.

Các thành bang Hy Lạp và Nam Ý thời ấy có thói quen mời một vị hiền triết về viết hiến pháp và luật cho bang của mình. Solon là một vị hiền triết trong thất hiền của Hy Lạp cổ đại, ông còn là tổng chánh toà của Athens. (Chức này gọi là archon, một chức vụ làm trùm của các magistrate, là những ông pháp quan vận hành thành phố Athens). Hiến pháp và Luật do ông viết ra được coi là bộ luật nền tảng của nền dân trị Hy Lạp cổ, tức là khai sinh ra dân chủ. Luật của Solon bớt hà khắc hơn luật Draco trước đó (từ năm 620 Trước Công nguyên), chia sẻ quyền lực và quyền lợi từ tầng lớp quý tộc sang cho giới bình dân, bằng cách cho phép mọi công dân Athens được bỏ phiếu lựa chọn các quyết định của thành bang Athens, tức là dân chu trực tiếp. Để tránh thành bạo chúa (tyrant) ông ra luật xong thì bỏ đi 10 năm để chính mình không được hưởng lợi từ hiến pháp và luật do mình đặt ra, tránh trở thành bạo chúa, cũng như để tránh sức ép từ các thế lực lớn yêu cầu sửa hiến pháp và luật.

Điều này rất quan trọng, vì nền dân trị, tự thân nó đã có tư tưởng thiên tả khi nó chia sẻ quyền lực và quyền lợi cho cần lao. Ngay cả cơ chế checks and balances cũng chưa đủ để ngăn một nền dân trị chuyển biến thành nền bạo chính. Quy tắc tốt nhất để một nền dân trị không bị thao túng để trở thành nền bạo chính với một bạo chúa tại vị đến lúc chết: người ra luật sẽ không nắm quyền cai trị, và kẻ cai trị sẽ không nắm quyền mãi mãi mà phải có nhiệm kỳ. Cách thức để một tư tưởng có màu sắc thiên tả như Solon biến thành một nền dân trị đó là phải thông qua lập hiến và lập pháp, mọi biện pháp khác đều biến nó thành toàn trị cánh tả. Tức là, dù tả hay không, cái quan trọng là ở phương pháp, không phải ở mục đích.

*

Khi vương quốc La Mã chuyển từ quân trị sang quý tộc trị, thì tầng lớp quý tộc sử dụng đại diện của họ là Nguyên Lão viện (The Senate) để ra các quyết định, thông qua bỏ phiếu, bao gồm bỏ phiếu bầu ra người lãnh đạo vương quốc. Tiếp đó, khi tầng lớp bình dân mạnh lên, họ cũng đòi được quyền có tiếng nói, đại diện của họ là Hộ dân viện (The Tribune) với các thành viên là do giới bình dân bầu ra. Mọi quyết định quan trọng phải được cả viện quý tộc (nguyên lão) và viện bình dân (hộ dân) thông qua. Cả hai giới, bầu ra hai lãnh đạo vương quốc, gọi là hai viên quan chấp chính (consul). Như vậy Cộng Hoà La Mã là lưỡng-đầu-chế và là dân-trị. Lưỡng đầu chế (chế độ có hai người đồng cai trị) là để tránh quả đầu chế (chế độ chỉ có một người cai trị, quả nghĩa là một mình, như trong quả-nhân, quả-phụ). Nghĩa hiện đại của từ quả đầu, oligarch, thường hiểu theo nghĩa tài phiệt thao túng chính trị kiểu Nga hậu Yelsin. Hai vị quan chấp chính làm việc theo nhiệm kỳ và có quyền veto nhau. Như vậy Cộng Hoà La Mã tránh được việc nền dân trị của mình bị trượt qua nền bạo chính như Hy Lạp của Solon. Hy Lạp của Solon tuy rất hiện đại và tiến bộ lúc đương thời, nhưng là một cơ chế cai trị rất lủng củng, hoạt động không hiệu quả và bị chuyển sang bạo chính dưới thời Pericles. Ông Pericles là ông vua chuyên chế (tyrant). Thời của ông này là thời sinh ra Socrates.

*

Mô hình lãnh đạo tập thể của Cộng Hoà La Mã ẩn chứa dưới nó một triết lý rất thú vị đối với việc ra các quyết định quan trọng:

+ thà không làm gì, còn hơn làm sai;

+ thà không làm gì, còn hơn làm những dự án phục vụ đa số xít xao.

Tuy nền dân trị La Mã tiến bộ hơn dân chủ Hy Lạp, nhưng nó vẫn là cơ chế ra quyết định tập thể, rất rắc rối. Nó tồn tại hàng trăm năm cho đến khi anh em Grachus làm cuộc cách mạng cánh tả, rồi sau đó tướng Sulla kéo quân về Roma, củng cố và gia tăng quyền lực của Nguyên Lão viện, giới hạn quyền lực của Hộ dân viện, thiết lập chính quyền độc tài (năm 82-81 Trước Công nguyên), mở đường cho Augustus sau này lên làm Hoàng Đế, chấm dứt nền Cộng hoà, mở ra một đế chế hùng mạnh kéo dài nhiều thế kỷ.

*

Sparta là nước nhỏ, đơn sơ, vì họ là nhà nước chiến binh, đề cao lối sống giản dị, các công dân hy sinh tự do cá nhân để phụng sự nhà nước. Thế nhưng hiến pháp của Sparta khá rườm rà. Đầu tiên là việc họ có tới hai ông vua, hai ông này được hai gia tộc lớn cử ra làm vua (tức là ở mỗi gia tộc có một ông vua cha truyền con nối). Một ông sẽ nắm quân đội thời chiến, ông còn lại lo việc hậu phương. Hai ông là thành viên của Viện Nguyên lão (Counsil of Edlers), gồm 30 người, cả 28 người (trừ hai vua) đều phải trên 60 tuổi và do toàn dân bầu ra. Họ được chọn từ các gia đình quý tộc và sau khi đã được bầu thì họ là thành viên viện đến cuối đời. Viện nguyên lão làm các việc lập pháp, tư pháp. Các vấn đề họ kết luận đều phải đưa qua Nghị viện (Assembly) để toàn dân thông qua. Nghị viện còn bầu ra, bằng cách chọn ra từ toàn thể nhân dân, năm giám quan để giám sát hành pháp của hai ông vua và có quyền xử nhà vua. Hiến pháp (thể chế) của Sparta gợi ra nhiều thể chế sau này, như The Senate của La Mã, hay Tối cao Pháp viện của Hoa Kỳ, hay quốc hội lưỡng viện ở Anh, Mỹ.

Nền dân chủ Sparta với thể chế cộng hoà ưu việt hơn nền dân chủ trực tiếp của Athens do có thêm viện nguyên lão, giám quan và… hai ông vua. Nó dẫn đến việc Sparta lúc đầu ly khai, không chịu gia nhập hợp-bang Hy Lạp do tiểu bang Athens dẫn đầu, dần mạnh mẽ hơn và đánh bại Athens. Nền dân chủ La Mã với mô hình Cộng hoà, tiếp thu từ Sparta với hai quan chấp chính, một viện nguyên lão và một viện hộ dân, cũng đã tồn tại được 500 năm, cho đến khi Ceasar hùng mạnh, thông minh, quả cảm, lõi đời… cũng bị đâm chết sau những cơn biến động chính trị xã hội do anh em Gracchus phát động.

*

Thời của Machiavelli là lúc Đế quốc La Mã đã lụi tàn. Và một thể chế dân-chủ cộng-hoà là cái người ta ít nhiều bắt đầu hướng tới.

*

Ở Mỹ, Đại hội Đảng Dân Chủ và Đại hội Đảng Cộng Hoà đều đã kết thúc. So với chính họ thì đại hội năm nay thua xa hai đại hội gần đây nhất. Còn so hai đảng với nhau, năm nay bên Dân Chủ có chất lượng tốt hơn hẳn. Một lý do mà Dân chủ làm tốt hơn, đó là phe tả luôn có những orator tầm cỡ thế giới. Tuy vậy, hai ngôi sao diễn thuyết số một của họ là Cliton và Obama đều mất phong độ. Hai speech tốt nhất năm nay của Dân Chủ có lẽ là bài của Hilary Cliton và Harris. Mọi người rất nên xem trên youtube (đừng đọc transcript vì nó mất hay rất nhiều).

Cả hai bài diễn thuyết đều có cấu trúc rất tốt: các phân khúc, thứ tự, thời lượng, chủ đề. Cách diễn đạt, thậm chí các dùng từ, hay cách nói nó ra thành lời cũng được tính toán kỹ lưỡng. Nhất là bài của Harris, một phụ nữ trung niên xuất thân là công tố viên.

Một trong những thông điệp mà bên Dân Chủ nhấn vào, đó là xây dựng và bồi đắp tầng lớp trung lưu. Trung lưu là backbone của Hoa Kỳ, trong đó phụ nữ trung lưu (có học, chủ gia đình, sống ở ngoại ô) là một phần quan trọng.

*

Thời Cộng Hoà La Mã, tầng lớp trung lưu là nông dân và cũng là backbone của kinh tế xã hội La Mã. Họ rất mạnh, và có tiếng nói thông qua The Tribune, để đối lập với tầng lớp quý tộc nhà giàu (The Senate). Nhưng tầng lớp trung lưu La Mã bị xói mòn theo thời gian (khoảng 4 thế kỷ), bị mất đất, không có công cụ sản xuất và để tồn tại thì họ phải đi lính. Lực lượng lao động và một phần trung lưu đi lính, khiến các ông tướng tự nhiên có quyền lực (và tất nhiên là có nguồn lực, khi đi đánh nhau để cướp của và cướp đất). Tài sản và quyền lực đang được chia sẻ bình ổn hàng trăm năm cho mọi tầng lớp bỗng rơi vào tay vài viên tướng.

Anh em nhà Gracchus phát động một cuộc cải cách. Ông anh cải cách ruộng đất, và bị giết. Ông em cải cách quân đội, và cũng bị giết. (Cả hai ông đều là quan chấp chính, đại diện cho tầng lớp dưới). Sau đó La Mã rơi vào nội chiến liên miên, mấy ông tướng hùng mạnh đánh lẫn nhau suốt hơn nửa thế kỷ: Caesar đánh bại Pompey. Antony liên thủ với Octavian đánh bại Brutus.

Rồi Octavian (Octavius) đánh nốt Antony rồi xoá bỏ nền cộng hoà, tiến lên làm hoàng đế đầu tiên của đế chế La Mã, lấy tên là Augustus.

Người dân La Mã vốn từng phát chán với nền quân trị và mấy ông vua, đã quyết tâm chuyển qua dân chủ cộng hoà, vui vẻ với thể chế này hàng trăm năm, cuối cùng lại quay về với cái máng của Hoàng Đế.

*

Một đoạn ngắn trong bài nói của Hilary gợi nhớ đến một diễn giải rất nối tiếng của tổng thống Roosevelt về quyền tự do mà ông gọi là bốn quyền tự do căn cốt của con người (tức là bốn nhân quyền cơ bản theo diễn giải của Roosevelt, xem quote phía dưới.)

Trong phát biểu của Roosevelt lẫn Clinton đều có freedom from fear. Đây là một ý tưởng rất quan trọng của Epicurus thời Hy Lạp Cổ Điển.

*

Ở Hy Lạp, sau khi nền dân chủ sụp đổ khá lâu và đã kịp có Socrates và Plato, thì họ có thêm Epicurus. Epicurus là học trò của Democritus, sống ở thời Alexander Đại Đế đã chén xong Hy Lạp. Là môn đệ của Democritus nên Epicurus có tư tưởng nguyên tử luận và duy vật luận. Epicurus sáng lập ra triết phái The Garden, hay còn gọi là Epicureanism. Tiếng Việt hay dịch nhầm là chủ nghĩa khoái lạc. Chủ nghĩa Epicturus cổ suý lối sống sảng khoái, chứ không phải truy tầm lạc thú. Hedonism mới là chủ nghĩa khoái lạc. Ngay cả bài báo mới đây của tờ The Economist viết về tbt cũng nhầm lẫn khi tiêu đề thì dùng hedonist, còn nội dung thì dùng epicurean.

“Freedom from fear” khác với “no fear” và “vô uý”. Nó là xuất phát điểm của quyền con người. Do đó tư tưởng của Epicurus ảnh hưởng đến rất nhiều thứ sau này, từ triết phái Stoic, đến John Locke và Hiến Pháp Mỹ. Tổng thống Mỹ Jefferson cũng từng nói: “Tôi cũng là một epicurean – I too am an Epicurean.” “I consider the genuine (not the imputed) doctrines of Epicurus as containing every thing rational in moral philosophy which Greece & Rome have left us.”

*

Nhưng trước hết, kể cả là không ưa phe Dân Chủ, mọi người cũng nên bớt chút thời gian lên youtube xem diễn thuyết của Clinton và Harris ở DNC. Dù cho chính trị gia Mỹ có hypocrite đến mấy thì diễn ngôn của họ có những thông điệp hướng thượng và đề cao những giá trị cốt lõi của con người, gia đình, tôn giáo và tổ quốc. Đó là những thứ rất đáng nghe.

PS: Quote của Roosevelt:

“In the future days, which we seek to make secure, we look forward to a world founded upon four essential human freedoms.

The first is freedom of speech and expression–everywhere in the world.

The second is freedom of every person to worship God in his own way–everywhere in the world.

The third is freedom from want–which, translated into world terms, means economic understandings which will secure to every nation a healthy peacetime life for its inhabitants-everywhere in the world.

The fourth is freedom from fear–which, translated into world terms, means a world-wide reduction of armaments to such a point and in such a thorough fashion that no nation will be in a position to commit an act of physical aggression against any neighbor–anywhere in the world.

That is no vision of a distant millennium. It is a definite basis for a kind of world attainable in our own time and generation.… The world order which we seek is the cooperation of free countries, working together in a friendly, civilized society…. Freedom means the supremacy of human rights everywhere. Our support goes to those who struggle to gain those rights or keep them.”

*

Nhìn vào phương trình Schrödinger gốc ta sẽ thấy thời giankhông gian không được đối xử công bằng. Vế trái là vi phân bậc một theo chiều thời gian, vế phải là vi phân bậc hai theo ba chiều không gian. Trong khi đó, thuyết tương đối hẹp của Einstein-Minkowski đối xử thời gian và không gian công bằng như nhau, chiều thời gian và ba chiều không gian là bốn chiều của không-thời-gian.

Phương trình của Klein Gordon giải quyết được việc này, thời gian và không gian đều là vi phân bậc hai, rất công bằng. Nhưng Klein-Gordon lại là phương trình bậc hai (bình phương). Bậc hai làm mất thông tin. Ta biết là (-2) và (+2) mà bình phương lên là (+4) và nếu chỉ nhìn vào số 4 ta không biết gốc tạo ra nó là -2 hay +2. Thông tin (dấu âm và dấu dương đứng trước số 2) bị mất đi ở phép bình phương.

Dirac giải quyết vấn đề bằng phép khai căn, tìm ra hai nghiệm âm dương, nghiệm dương là vật chất, nghiệm âm là phản-vật-chất.

Xét cho cùng, để làm đúng mọi thứ thì cần phải đối xử công bằng với những đại lượng cần công bằng (equality, on same footing), và cần phải quay về gốc rễ, căn cốt (root).

*

Grabriel’s Horn là một dạng hình học mà Torricelli từ thế kỷ 17 đã chứng minh được: thể tích (bên trong) là hữu hạn trong kkhi diện tích (bề mặt bên ngoài) là vô hạn. Phép chứng minh này tương đối đơn giản và dễ hiểu, trên instgram có những clip giải thích phép chứng minh này chỉ trong mấy chục giây.

Nếu bốc phét thêm qua tri thức luận thì tri thức (bên trong) luôn là hữu hạn, còn sự khoe khoang (ra bên ngoài) là vô hạn. Einstein diễn giải nó ra thành: “Two things are infinite: the universe and human stupidity; and I’m not sure about the universe.”

*

Lý Thuyết Số Sơ Cấp – Phương pháp sơ cấp trong lý thuyết số

Ngô Bảo Châu – Đỗ Việt Cường

Có vài điều để nói về cuốn sách này, điều đầu tiên và quan trọng nhất sẽ nói sau cùng.

Sách khá dày, vì có phần bài tập và lời giải. Giá bán khá mềm so với thể loại sách và độ dày, là 180 ngàn đồng.

Sách do NXB ĐHQG Hà Nội và Viasm xuất bản.

Sách có Lời Nói Đầu, Chương 0 và các chương đánh số từ 1 đến 8. Bản thân việc bắt đầu từ Chương 0 cũng có một chút triết lý số. Ở nhiều trường phái, nhất là Anh, thì số tự nhiên bắt đầu từ số 1. Bởi dãy số này bao gồm các con số mà mỗi con số là một successor (kế nhiệm) do successor operation tạo ra (ví dụ số 2 là do số 1 tạo ra). Còn số 0 thì chẳng do số nào tạo ra (không là successor của ai cả). Quan điểm (quy ước) này bắt nguồn có lẽ từ Dedekind. Với cuốn sách của anh Châu, dãy số tự nhiên này bắt đầu từ số 0, và do đó có Chương 0.

Kiến thức từ sách vở gọi là văn tuệ, đọc sách rồi hấp thụ văn tuệ để thành kiến thức của mình gọi là tư tuệ. Như vậy, cuốn sách toán này có “văn tuệ” dựa trên nền tảng toán học của thế kỷ 18. Điều này khá là quan trọng. Như sau.

Toán học vốn được ngưỡng mộ vì nó khó, cái này ai đi học rồi thì cũng biết cả, nhất là ở VN những năm trước 2000 khi mà những học sinh giỏi nhất sẽ học khối A và giỏi nhất của khối A là chuyên toán. Nhưng sâu xa hơn, toán là một hệ thống hoàn toàn do con người sáng tạo ra. Con người thì tạo ra lắm hệ thống lắm, nhưng toán là hệ thống: chính xác và chặt chẽ. Nó có tinh thần chính xác và chặt chẽ từ thời cổ đại với Pythagoras, và bắt đầu lung lay khi đội thường nghiệm xuất hiện, đặc biệt là kể từ Locke về sau. Sự sốt ruột lẫn ngạo mạn của giới toán học đã dẫn đến chỗ nhiều thành công lớn của họ (như phép vi phân của Leibniz) có đầy các lỗi ngụy biện cẩu thả. Đây là ý kiến của Russell từ hồi gần giữa thế kỷ 20, và chắc là rất khó bác bỏ ý kiến này. Quả thật nền toán học sau thế kỷ 17 bắt đầu vấp phải các lỗi nền tảng, vì dụ hệ tiên đề của Euclid là nền tảng rất vững cho đến khi xuất hiện hình học phi-Euclid mà trong đó tiên đề số 5 của ông này không còn đúng nữa.

Tức là, khi nền tảng có lỗ hổng thì toàn bộ hệ thống có thể vẫn chính xác nhưng không còn chặt chẽ nữa. (Chặt chẽ trong toán học, bao gồm cả nhất quán, và đây là cái để phân biệt khoa học và ngụy khoa học). Các hệ tiên đề khác nhau sẽ cho ra các hệ quả toán học khác nhau. Không có hệ tiên đề nào bao trùm được toàn bộ toán học (như Hilbert kỳ vọng) bởi nó sẽ tự mâu thuẫn (bất toàn của Godel).

Russell (và đến ngày nay thì còn nhiều bộ óc lớn nữa) cho rằng Cantor và Frege (thế kỷ 18) là hai bộ óc đặt nền tảng mới cho toán học hiện đại.

Cantor là cái ông làm việc với một quái thú kinh hoàng là infinity. Ông đưa thế giới toán học vào một vũ trụ kỳ lạ với nhiều cái “vô cùng” (củ lạc nằm ngang) mà kích cỡ của những thứ “vô cùng” này lại khác nhau. Có những cái “vô cùng” to hơn những cái “vô cùng” khác. Trong các bài nói chuyện của mình, Penrose thường xuyên bắt đầu bằng Cantor và đưa ra các ví dụ rất dễ mường tượng về việc set vô cùng nào to hơn set vô cùng nào.

Còn Frege là người mà công trình xuất bản từ 1879-1884 mà chả ai để ý, cho đến khi được chính Russell phát hiện (và cũng tự khoe là nhờ mình mà Frege nổi tiếng). Frege và Russell xây dựng ra một thứ kỳ quan gọi là logicism: toán học được diễn dịch (deduct) từ logic. (Ngày xưa, logic cũng như xác suất thống kê ngày nay, lại không phải là toán. Logic của những nhà toán học lớn như Russell khác với logic mà ở VN quen biết, logic ở VN là kiểu: “mày nói vô lý bỏ mẹ, chả logic gì”.)

Trên đây là lý do Chương 0 của sách anh Châu, dù là sách chuyên môn, cũng rất đáng đọc với cả dân ngoại đạo. Với dân ngoại đạo thì có thể đọc thêm Chương 8. Nhưng trước tiên cần đọc Lời nói đầu.

Cuốn Elements nổi tiếng của Eulid (bản dịch tiếng Việt do anh Đàm Thanh Sơn khởi xướng, anh Châu viết giới thiệu có tên là “Cơ sở của hình học”) dạy chúng ta một điều quan trọng không chỉ trong toán học mà trong cả tranh luận hay làm việc đời thường: trước khi cùng nhau bắt tay vào làm một việc gì đấy, tất cả chúng ta cùng phải nhất trí với nhau một vài quy tắc, quy đinh. Đó là cùng đồng ý với một số định nghĩa (điểm là gì, đường thẳng là gì…), đồng ý với một hệ tiên đề, trong đó có 5 tiên đề hình học và 7 tiên đề logic (ví dụ qua hai điểm chỉ kẻ được một đường thẳng, hoặc hai góc bằng góc thứ ba thì bằng nhau,…) Việc tất cả cùng đồng ý với các nguyên tắc trước khi bắt tay vào làm việc chính là triết lý để tạo nên sự chặt chẽ trong toán học.

Cuốn “Lý Thuyết Số Sơ Cấp”, trong phần Lời giới thiệu, cũng nói rất rõ các nguyên tắc chung của một cuốn sách toán, cũng như các nguyên tắc riêng của các tác giả. Nếu rất nhiều bạn đọc, dù không phải dân toán, mà làm quen và nắm bắt được các nguyên tắc kiểu này, thì chắc chắn xã hội sẽ bớt đi rất nhiều rác. Dọn bớt rác trong tư duy và tâm hồn con người, cũng là một hệ quả phái sinh của toán học.

Viết một cuốn sách “cao cấp”, ví dụ “Lý thuyết số cao cấp” về mặt kỹ thuật thực ra dễ hơn viết sách “sơ cấp” rất nhiều. Bạn đọc của sách cao cấp, sách nâng cao vân vân đều là dân đã có trình, viết sai viết thiếu họ đọc vẫn hiểu. Nhưng với sách sơ cấp, cơ bản, căn bản… thì khó nhất là viết làm sao cho bạn đọc đọc mà không hiểu sai; viết sao không tối nghĩa để bạn đọc không mất công vật lộn để hiểu một cái đáng ra không khó hiểu; và cấu trúc của sách làm sao để bạn đọc đi từ cái nọ sang cái kia nhịp nhàng và mạch lạc. Không rõ cuốn sách này có thỏa mãn các tiêu chí làm sách này không, phải để dân học toán đọc và phản hồi với tác giả. Chắc chắn mọi sự phản hồi đều giúp các edition sau của cuốn sách này tốt hơn. Vấn đề hiện nay là phải bán hết sách đã. Mong mọi người mua nhiệt tình, mỗi người hai cuốn, một để bày giá sách, một để tặng sinh viên.

PS:

Trong Chương 0 anh Châu có nhắc qua về Nghịch lý Russell. Dùng logic để vật nhau với nghịch lý vốn là thú vui trí não của các bộ óc nghịch ngợm. Một trong các nghịch lý nổi tiếng và có ích là con mèo Schrodinger. Mọi người thử làm quen với nghịch lý Russell xem sao.

Nghịch lý Russell viết ra thì nó thế này: ∃A∀x(x∈A≡ϕ)

Diễn đạt thô sơ thì thế này: trên bàn tiệc ai cũng uống rượu, xét một người rót rượu cho tất cả những ai không tự rót. (Người rót rượu rót cho tất cả những ai không tự rót và không rót cho ai ngoài những người này).

Nghịch lý xuất hiện: nếu người rót rượu rót cho chính anh này – xảy ra mâu thuẫn. Nếu anh không rót cho mình, thì anh lại thuộc nhóm uống mà ko tự rót, thế là anh lại phải rót cho mình, và lại xảy ra mâu thuẫn.

Anh Châu nói vắn tắt đây không phải là nghịch lý, mà là chân lý sai (do sau đó có một tiên đề của Zermelo xử lý mâu thuẫn Russell).

*

Thơ Phan Đan

Năm 1988, Phạm Thị Hoài cho ra mắt một tiểu thuyết mỏng nhưng rất có tiếng vang: Thiên Sứ. Cuốn tiểu thuyết có cấu trúc khác thường, mà nay gọi là mash-up, có một chương tên là “Thơ Ph.” Nguyên vẹn chương này là một bài thơ văn xuôi khá dài và hoàn toàn không có chấm phảy của nhà thơ Ph. mà Thiên Sứ giới thiệu là “một người đàn ông giàu im lặng”. Bài thơ có đoạn:

“em đừng đánh rơi cái nhìn vào vùng cực tím ấy đừng lặp lại thói quen soi gương vào mặt đồng hồ đeo tay những cây kim sẽ quay hết tốc lực những con số sẽ hoán vị không ngừng trong điệu nhảy loạn nhịp của 1 discotheque lượng tử trong nỗi hối hả của vòng đời mải miết trong hạt muối đọng trên 8 kẽ ngón tay những linh hồn khổ nhục”

Nhà thơ Ph. trong “Thiên sứ” ở ngoài đời là một người đàn ông trẻ mới ra tù. Chính là nhà thơ Phan Đan. Đoạn trích trong Thiên sứ hình như là lần đầu tiên thơ Phan Đan được xuất bản chính thức.

Công chúng gần như không biết đến Phan Đan dù trên đài có phát nhiều bài hát phổ thơ Phan Đan (Phan Đan luôn phủ nhận đấy là ”thơ” mà“chỉ coi  là “lời hát”). Trong đó có “Phía tối tâm hồn em” (Phú Quang), “Bài hát buồn” (Quốc Bảo), “Lời ru mùa đông”, “Trăng Chiều” và nhiều bài khác (Đặng Hữu Phúc). Trong đó “Lời ru mùa đông” và “Trăng Chiều” là hai bài Phan Đan sáng tác ở Hà Nội sau khi ra tù.

Bạn đọc thật sự của thơ Phan Đan là một nhóm nhỏ, sống trong một không gian nhỏ ở Hà Nội (từ Hồ Hale đến Hồ Gươm), trong một quãng thời gian hẹp (từ đầu 197x đến cuối 198x). Không gian này ở đoạn cuối mở rộng thêm được một chút theo chiều ngang, từ Giảng Võ đến Nguyễn Công Trứ.

Thơ của Phan Đan được phát hành bằng cách đọc cho nhau nghe, và chép cho nhau giữ. Cái lối chép thơ ấy ngày nay không còn nữa.

Trong một lần chép thơ như vậy, ở nhà Văn Cao, bài thơ vừa chép xong bị tịch thu, còn tác giả của nó là Phan Đan được bà vợ Văn Cao nhanh tay giấu qua phòng khác. Trong những lần đọc thơ như vậy, mà nhuận thơ được bạn hữu, nhất là Bùi Xuân Phái, Đặng Đình Hưng, “trả” bằng rượu và chút mồi nhắm nghèo nàn của thời bao cấp, đã phát sinh ra một họa sỹ nổi tiếng là Lê Thiết Cương mà lúc đó chỉ là “traffic boy” cho các bữa rượu tại gia.

Và trong một lần đi giao lưu như vậy ở một tụ điểm thơ phía sau Nhà Hát Lớn, Phan Đan không ngờ mình đã đến đọc thơ ở bản doanh của nhóm “Chân Đất”. Ngày nay chẳng còn ai nhớ đến nhóm Chân Đất và các thành viên của nó, kể cả công an Hà Nội, nhưng ở thời điểm đó nó đã đem rắc rối đến gõ cửa nhà Phan Đan và cánh cửa một khi đã mở ra thì vô vàn rắc rối sẽ kéo đến suốt hàng chục năm trời. 

Bài thơ Phan Đan chép cho Văn Cao là một bài thơ dài “những cánh hoa màu đen”, sáng tác năm 1970, là bài thơ nổi tiếng nhất của Phan Đan những năm trước 1975. Lời bài thơ có đoạn:

“Những cành cây/hai lần chết chém

Những đám mây/hai lần bị bắn

Và nụ cười tôi/hai lần bị treo cổ/cái màu đỏ điên rồ/khi tôi đón em.”

*

Tập thơ Phan Đan ra đời vào một năm ảm đạm nhất của thị trường sách. Thậm chí cái tháng mà nó ra đời còn là tháng thấp điểm của việc bán sách quanh năm. Nó ra đời trong im lặng. Phần lớn các bài thơ in trong tập thơ này là các bài thơ sáng tác giai đoạn từ 1970 đến cuối 198x, bao gồm các bài thơ văn xuôi, và không có các bài “lời hát” cũng như thiếu mất một số bài thơ “trong tù”.

Cái mà người yêu thơ nói chung và những người tò mò về những nhà thơ “giàu yên lặng” nói riêng là họ vật lộn thế nào với quá trình sáng tác của mình, nhất là khi cuộc đời họ gặp nhiều khó khăn nhất. Tập thơ Phan Đan cho thấy một (trong các) câu trả lời: “thử nghiệm”. Phan Đan có vẻ như rất thích thử nghiệm và không ngại thử nghiệm, dù khả năng thất bại là rất cao và sự thành công còn mỏng manh hơn cả phận người thời chiến.

*

Năm năm sau “những cánh hoa màu đen”, 1975, Phan Đan có những bài thơ gọn hơn, tình tứ hơn, với những câu thơ figurative:

“Tắt ánh sáng đi,

Đằng sau là đôi mắt mở,

In bóng hai bàn tay,

Làm cử động âm thầm”

hoặc:

“Chỉ còn mấy cuống hoa thôi

Để em bắt chước dáng ngồi của anh

Ngưa gầy xe nước dưới sương

Trầm ngâm như thể mắt buồn của em”.  

*

Sau 1975, Phan Đan vào Nam. Cuộc sống ở Sài Gòn mang đến cho Phan Đan nhiều người bạn mới, Trịnh Công Sơn, Nguyễn Hữu Hiệu và có lẽ là cả Tuệ Sỹ. Và sau này là Cao Xuân Hạo, Trần Tiến, Thái Tuấn… Những người bạn mới mở ra chân trời mới và cả những hệ lụy mới đau và đắng hơn.

Rồi vì gia đình, Phan Đan quay về Hà Nội, lúc này gần như ở đáy của khủng hoảng kinh tế xã hội và bắt đầu nảy mầm mống cho thời kỳ có tên gọi mỹ miều là đêm trước đổi mới, Phan Đan vô tình trở thành hướng đạo cho lớp trẻ hơn, không chỉ có những người sáng tác như Phạm Thị Hoài mà cả những sinh viên kinh tế chính trị đầu tiên ở HN, những người truyền bá kinh tế học tư bản vào thủ đô. Giai đoạn sống động này cũng mang lại cho Phan Đan kinh nghiệm sống và kiến thức mới giúp Phan Đan sau này khi quay lại kiếm sống bằng nghề báo ở Sài Gòn đã cho ra đời những bài báo rất có tiếng vang về kinh tế. Sau này dân làm báo kỳ cựu vẫn nhắc đến từ “thuyền ngân” là từ do Phan Đan dùng để viết về tiền do Việt Kiều (vượt biên, thuyền nhân) gửi về, mà nay ta gọi là kiều hối.

Một bài thơ sáng tác năm 1980, có tên “ba tuần nhang cho Henry Miller”, ở phần “Tuần hai” có ghi “Gửi H.”. H. ở đây có lẽ là Nguyễn Hữu Hiệu, một dịch giả mà sau này bị tuyên giáo và công an xếp vào nhóm Biệt kích văn nghệ. Nguyễn Hữu Hiệu, Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ là các dịch giả rất có tiếng trước 1975. Sách dịch của Nguyễn Hữu Hiệu nay vẫn còn tái bản: Hoàng Hôn Của Những Thần Tượng, Bác sĩ Zhivago, Con đường sáng tạo.

Phần “Gửi H.” có những câu:

“chiều nay rượu whiskey lên cơn buồn thủy tinh ướt áo,

đổ vào thơ không biết tuổi sang ngày”

đọc lên có thể thấy như Phan Đan nhắn Hiệu, tao ngồi đây uống rượu với Sơn (Trịnh Công) mà buồn vì không có mày. Nhưng thực ra chẳng có Sơn, chẳng có rượu, chỉ có nỗi thất vọng rất buồn:

“Hát ô ô huyền hồ, thôi treo cung lên vách

Vách thì trắng trinh nguyên như lụa bạch.

Toàn những chuyện không đâu!”

Nhưng đấy có phải là thơ không, hay không phải là thơ, mà là rất thơ. Đấy có phải là thử nghiệm thành công của Phan Đan hay không? Hay chỉ là sự thất bại đằng sau lắp ghép ý tưởng với câu từ một cách đầy chủ ý. Cái này không ai biết được, nhưng nếu đọc cả tập thơ Phan Đan, dù bạn chưa biết thơ Phan Đan, cũng sẽ thấy những dòng thơ này là rất Phan Đan.

(Trước phần Gửi H là phần một, có những câu thơ triết/tôn giáo mà nếu ta không quá khắt khe, có thể cho rằng nó hay hơn cả những câu thơ hay nhất của Phạm Công Thiện:

“Vườn Địa Đàng chắc chiều nay cắt điện

Con rắn mù ngủ gật phía trời tây,

Cây đâm rễ trên kia trùng trùng ngón loạn

Chồi xanh xao trong giếng sỏi khô gầy”.

Nó hay hơn vì  nó Hà Nội hơn, bao cấp hơn, khắc khổ hơn, và giàu hy vọng hơn. Chắc thế!)

*

Cũng năm 1980, Phan Đan có một bài thơ ngắn, tên rất bình thường là “mặt trời”, cả bài chỉ thế này:

“trưa mùa hè

lũ kiến đen suy tưởng

leo lên sợi nắng

đuổi bắt những hạt bụi

trưa mùa hè

cắm chiếc đinh

vào vùng tối tăm của bóng.”

Ai từng sống qua những mùa thu ở Hà Nội những năm 1979-1980 mới thấy vẻ đẹp của bài thơ này. Hà Nội rất nghèo và xơ xác, cái nghèo và xơ xác ấy phản ánh qua sự vắng vẻ và yên tĩnh của đô thị ngay lúc ban trưa: không tiếng xe cộ, không tiếng còi, không tiếng đài, không tiếng loa, không có điện và không có cả tiếng quạt, thậm chí không có cả tiếng nước máy vì mất nước. Tất cả chỉ có ánh nắng thu lọt qua khe cửa ánh lên những suy tưởng như kiến bò ra từ óc của một nhà thơ.

Nói bài thơ có tên bình thường là bởi Phan Đan có biệt tài viết các bài thơ văn xuôi và vì vậy ngay cả tên của một số bài thơ cũng là một câu thơ: “trích đoạn một cơn mưa đêm”, “vụ đắm tàu trong ly thủy tinh”. Hoặc “từ một hạt giống mà con chim đêm đánh rơi trong mùa di cư tình ái”.

*

Quay lại với những năm đầu thập niên 1970. Đấy là một Hà Nội của giai đoạn gian khó nhất với bom Mỹ ném vào đến tận Khâm Thiên và cũng là những năm hiệp định Paris mang lại hòa bình trên miền bắc cùng với bao nhiêu là hy vọng. Đây cũng là thời gian bắt đầu thơ của Phan Đan. Mở đầu của nhà thơ nào cũng là những bài thơ tình. Những bài thơ tình của Phan Đan, dịu dàng và ngắn gọn, hồi đó còn được chép tặng nhau để tán gái, hoặc đọc trên tàu điện giữa các nhóm thanh niên. Rồi đến thời kỳ bùng nổ của các bài thơ kiểu “cánh hoa đen”. Năm 1975 khép lại với một bài thơ kỳ lạ “ghi sau một trang lịch” (ngày hai sáu tháng ba) tức là chỉ vài tuần trước 30/4”

“Mặt trời xanh như một củ su hào

Mặt trời mọc bình yên trong đáy chậu,

Giữa một mùa lành vàng úa hoa cau.

“Trong dáng đổ hoa cành, trong lòng gương hốc hác.

Anh chợt thấy mắt em vụt tắt khung trời,

Hố mắt buồn như một vết bom rơi.”

Sang năm 76 là một thể loại thơ khác, như “em là không gian gothic của tôi” kết hợp nhiều hình thức, có cả thơ văn xuôi đột ngột chen lẫn với đồng dao:

“Đậu phải cành mềm

Lòng đau như cắt

Máu vùi trong đất

Xác rải trăm nơi

Nước mắt không rơi

Trẻ con không khóc

Cái mũi chảy dọc

Cái miệng kéo ngang

Thống khổ mênh mang”

Để rồi bốn năm sau, các hình thức thơ giàu tính thể nghiệm của Phan Đan bắt đầu ngưng tụ. Như “những ghi chú trên tường phòng giam” gồm nhiều đoạn thơ lẻ, mà trong đó nhiều câu thơ như từ bên trong tăm tối của hiện thực đột ngột hiện ra dưới ánh sáng chói lòa của siêu thực:

“một ngày gặp em

Tôi bắn rụng mặt trời trong võng mạc,

Một lần hành khất

Chìa tay cho gió câm.”

Có lẽ đây là giai đoạn sáng tác hay nhất của Phan Đan, và cho dù không bao giờ được xuất bản cho đến năm nay, nó vẫn là một viên gạch quan trọng trong đời sống văn nghệ Hà Nội, là nền tảng cho văn nghệ bùng nổ sau Đổi Mới, đặc biệt là mảng truyện ngắn, hội họa và nhạc pop thủ đô. Còn với thơ, sức ảnh hưởng chủ yếu là ở phía nam và hải ngoại.

Cuộc sống sôi động, là nhờ có vô số cuộc đời yên lặng!

*

Hiện nay Phan Đan sống ở Mỹ, không biết còn làm thơ hay không, nhưng vẫn dịch sách. Trong những cuốn Phan Đan dịch, có một số cuốn bán rất chạy: “Những tù nhân của địa lý” (Prisoners of Geography/Tim Marshall), “Lược sử thế giới” (Little History of the World/Gombrich), Economix (Kinh tế học hỗn hợp – Các nền kinh tế vận hành và không vận hành thế nào). Mới đây nhất là sách của tác giả trinh thám kinh điển Raymond Chandler (ai là fan của Haruki Murakami đều biết tác giả này), cuốn Kẻ không thể giã từ/The Long goodbye”.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 03, 2024 09:14
No comments have been added yet.


Nguyễn Phương Văn's Blog

Nguyễn Phương Văn
Nguyễn Phương Văn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Nguyễn Phương Văn's blog with rss.