“…QÊ HƯƠNG…” của Nguiễn Ngu Í (tiếp theo)
Đôi dòng giới thiệu tập “…QÊ HƯƠNG…” của Nguiễn Ngu Í (tiếp theo)
Đỗ Hồng Ngọc
Bài thơ Nguiễn Ngu Í viết cho Mẹ trong tập Qê Hương:
MÁ
Má ơi! Con Má điên rồi,
Má còn trông đứng đợi ngồi mà chi?
Con nhìn Má, Má có thấy con không, hở Má?
Đêm khuya rồi, chỉ có Má, con thôi.
Nhà ngủ iên, và cả thế giới loi nhoi
Cũng thiêm thiếp với đất trời mệt mỏi.
Con nhìn Má, Má gầy nhiều, Má hỡi,
Xương, gân này rõ rệt ở tay chân.
Má lại đây, Má, cho con Má nhìn gần,
Coi tóc Má bạc nhiều hay bạc ít.
Má ốm, iếu mà Má tươi, mới chết
Cả lòng con ngào nghẹn lúc này đây.
Em chết, mang cả cháu ngoại đợi từng ngày…
Má đã khóc bao lần trong đạn lửa?
Hẳn Má đã dàu dàu như lá úa,
Nhưng khi ngồi chụp ảnh gởi ra con,
Má bảo: “Mình cố vui, vui nữa, vui hơn,
Cho nó tưởng mình vui, không buồn nữa…”
Con không buồn nữa, Má ơi! Con hứa
Không buồn đâu, vì Má lặng trong,
Vì Má ngồi iên, mà Má vững như trồng,
Ngồi tréo mẩy, tay vịn thành ghế sắt,
(Chiếc ghế sắt mà Thầy sơn dầu hắc,
Từ khi con lên bảy, biết phân li…
Chiếc ghế phiêu lưu, từ Cần-đước xuống ghe đi
Cần-giờ, rồi lên Bến-gỗ,
Rồi lên An-hảo rồi lại lên tàu ra Mường-mán, rồi lội bộ về
Tam-tân. Giặc bố chạy vào rừng,
Giặc bố già thì chạy lung tung,
Mà mặt ghế vẫn bình, chân chưa lảo đảo.)
Má đã khổ vì Thầy bị đày đi Lao-bảo,
Má có đau vì nhà nát, quê lìa,
Má còn sầu vì con ở đâu cia,
Má mới khóc vì con, cháu chết…
Và Nước… Đời Má dường mất hết,
Nhưng mà giờ, Má ngồi đó, vững vàng,
Nhìn chẳng thấy con, Má vẫn tin rằng
Rồi Má gặp con, con gặp Má,
Và rồi nắm tay con, Má sẽ ve vuốt má
Của dâu hiền iên lặng đứng bên con.
Má ngồi iên, Má trong lặng nhìn con,
Con rung động, nhận cái nhìn của Má.
Ù ơ… Ví dầu con Má có sao:
Có điên có dại Má nào bớt thương!
Nguiễn Ngu Í
(Qảng-ngãi, đêm 21-10-1950, khi nhận được ảnh Má và Em
từ Cực-Nam khói lửa gởi ra).
Bài thơ Nguyễn Ngu I (ký Tân Fong Hiệb) viết cho Vợ (bà Nguyễn Thị Thoại Dung) gốc Quảng ngãi, lúc đưa bà về quê Tam Tân (nay là Tân Hải, Lagi, Bình Thuận) trong Qê Hương
Về quê ai, tết đầu sau khi ngưng chiến
Gần đến nơi rồi, em thấy chưa?
*
Đường đi lúc lắc, nắng lưa thưa…
Có gì man rợ trong cây, đá,
Em sợ giờ đây, ngỉ cũng vừa.
Xe trâu cút cít, rừng ngiêng bóng,
Bụi trắng xôn xao lớp lớp đùa…
Đến suối, trâu ngừng, vui nước hát,
Mời em hớp một miếng trời ưa (1).
Hết rừng, đến ruộng vườn xanh mộng,
Tiếp cát, chân ai cứ cứ lùa,
Nhưng có anh bên cùng nhịp bước,
Đường dài, đường nặng, rồi cũng thua.
Biển xanh bỗng mở chân trời mát,
Anh đãi em thêm miếng nước dừa
Mát ngọt thanh thanh như phút gặp
Em nhìn mà mắt chẳng đong đưa.
*
Qê chồng em đó, mến thương chưa?
Tân Phong Hiệp – Tết Ất Mùi 1955
Tân Fong Hiệb
(1): nước dừa
Vài dòng trích “Cậu tôi, ông Ngu Í, Nguyễn Hữu Ngư”
Đỗ Hồng Ngọc
(http://www.dohongngoc.com/web/tag/c%E...)
(…) Cậu có những người “em tinh thần”, ai cậu cũng hết lòng thương yêu, giúp đỡ. Tôi nhớ một trong những người em tinh thần mà cậu thương quý nhất là nữ sĩ Minh Đức HT, một người ở trời Tây thỉnh thoảng về thăm, lúc nào cũng nghe cậu nhắc đến với lòng tự hào. Có lẽ một phần do ảnh hưởng của nữ sĩ khả ái này, cậu đã đặt cho những người “em tinh thần” khác, dòng họ Minh nào là Minh Ph, Minh X, Minh Kh… ai cũng có một chữ Minh ở đằng trước cho dễ nhận ra nhau. Có khi cả các Minh gặp nhau trong một buổi họp mặt chung vui. Có lúc cậu đưa tôi đến thăm Minh này Minh khác, với ai cậu cũng có những bài thơ, bức thư viết trên đủ thứ loại giấy từ tờ pelure trang trọng đến một mảnh giấy gói đồ, tờ lịch, đụng đâu viết đó. Tình cảm cậu đối với mọi người như tràn ngập, như bão lũ, làm cho nhiều người choáng ngợp, sợ hãi.
Mợ tôi biết hết. Biết mà không hề ghen. Mợ biết các mối tình lơ mơ của cậu là tình nghệ sĩ, tình điên vì quá dạt dào, không tràn ra thì chắc bệnh sẽ nặng hơn. Mợ thì khoẻ khoắn, can đảm, chịu khó, chấp nhận yêu thương một người tài hoa mà khùng khùng điên điên như cậu, chịu hết trận này đến trận khác, đưa cậu đi hết nhà thương điên này đến nhà thương điên khác, thì mợ xứng đáng cho cậu khen “làm vợ Tú Xương dễ, làm vợ Sào Nam cũng dễ, làm vợ Ngu Í mới thật khó…” Cậu có bài thơ “Kén Vợ” rất tuyệt vời mà tôi không dám viết ra đây, chỉ có mợ tôi là người “thục nữ” dám chấp nhận bài thơ đó (*) Kỷ niệm hai mươi năm ngày cưới cậu làm bài thơ tặng mợ đã sống hai mươi năm “nước lửa” cùng cậu. Cậu than “không có người yêu để gọi em” vì cậu chỉ gọi mợ bằng tên thôi. Và mợ cũng chỉ xưng tên với cậu.(…)
Làm văn, viết báo, cậu có nhiều bút hiệu. Khi thì Trinh Nguiên, để nhớ mối tình đầu với cô Trinh ở quê nhà; Tân Fong Hiệb do ghép địa danh 3 xã Tam Tân, Phong Điền, Hiệp Nghĩa, nơi quê ngoại của cậu và cũng là quê ngoại của tôi. Rồi Ngê Bá Lí, Trần Hồng Hừng, Ki Gob Jó Cì… Viết sử thì Fạm Hoàn Mĩ. Dạy học thì Nguyễn Hữu Ngư. Nhưng nhà báo Nguiễn Ngu Í thì được nhiều người biết đến nhất. Trong danh thiếp, lúc đã nổi tiếng là một ký giả chuyên phỏng vấn các vấn đề văn học nghệ thuật cho tạp chí Bách Khoa thời đó, cậu ghi: Jáo sư, cí jả kông chuiên ngiệb.
Cuộc đời cậu nhiều truân chuyên, tài hoa nhưng mắc bệnh không thể chữa được. Tuổi lớn, cơn điên ngày càng nhặt. Có những đợt cậu nằm Dưỡng trí viện Biên Hoà dài ngày, tưởng đã không qua khỏi. Cậu làm thơ thật nhanh, thật dễ dàng ngay trong lúc lên cơn. Cậu chủ biên tập “Thơ Điên thứ thiệt”, rồi xuất bản tập “Qê hương” để nói về quê mẹ và nơi chôn nhau cắt rún của mình ở Tam Tân. Cậu nhờ tôi viết một bài giới thiệu chung, tôi đã viết bài dẫn nhập cho tập Qê Hương với bút hiệu Giang Hồng Vân. Cậu đã có một vài tác phẩm về sử, đặc biệt là về Quang Trung, về Hồ Quý Ly trong thời gian cậu dạy sử ở trung học. Cậu cũng có vài cuốn tiểu thuyết như “Suối Bùn Reo”, “Khi người chết có mặt” v.v… Nhưng tác phẩm nổi tiếng của cậu là “Sống và Viết với …”, do Ngèi xanh xuất bản, tập hợp các bài phỏng vấn các nhà văn nổi tiếng đương thời mà ai cũng công nhận là tài hoa. Cậu chuẩn bị ra cuốn “Sống và Vẽ với…” phỏng vấn các hoạ sĩ, và “Sống và Đàn với…” phỏng vấn các nhạc sĩ (tất cả đều đã đăng trên báo Bách Khoa). Tiếc thay ý nguyện chưa tròn. Tập thơ tội nghiệp nhất của cậu là tập “Có những bài thơ”, do Trí Đăng xuất bản, in xong ruột, chưa có bìa, không hiểu sao. Rồi tập thơ cũng được cậu tặng bạn bè quen biết mà chẳng cần có bìa như vậy.
Thời cuộc đổi thay, cậu thích nghi cuộc sống một cách khó khăn, khác với mợ dễ dàng thích ứng, cậu như ngày càng ngơ ngác hơn, càng điên hơn. Thế rồi một buổi trưa tháng giêng năm Kỷ Mùi (1979), người nhà mợ báo tin cho tôi biết là cậu đang hấp hối. Tôi vội chạy đến nhà cậu ở Bàu Sen, đường Nguyễn Trãi, chạy lên căn gác ọp ẹp, thấy cậu nằm im như chìm trong giấc ngủ sâu. Mợ đi vắng. Chỉ có con trai cậu, Nguiễn Hữu Nguiên. Tôi làm thủ thuật hồi sinh cấp cứu nhưng vô hiệu. Lần này cậu đi thiệt…
(…) Trước đó, hình như cậu biết trước cái chết của mình, cậu đã viết một bức thư như là một di chúc cho mợ. Cậu ước ao được thả trôi trên một chiếc thuyền nhỏ, đục lủng đáy, nhét nút lại, rồi để thuyền trôi lênh đênh trên biển Thái Bình Dương, để cậu được nhìn trời mây nước cho thỏa thích, rồi rút nút cho thuyền chìm dần và chết trong bụng cá, cho “Ngư về với Cá”. Thế nhưng cậu chết với lửa. Cậu được hỏa táng ở An dưỡng địa Phú Lâm và đưa về đặt kề ông bà và dì Nga ở Ngãnh Tam Tân. Tôi nhớ hai câu thơ từ lâu của cậu:
Bao nhiêu chí trẻ rồi tro bụi
Một thoáng tình xa cũng ngậm ngùi
Và hình như cuộc đời cậu gói ghém vào hai câu đó. Nào chí trẻ, nào tình xa, nào tro bụi. Chí trẻ chắc không ai hơn cậu, muốn vung gươm, muốn dời núi lấp biển đến nỗi hoá điên; tình xa với bạn bè thân thuộc em cháu, với cả những người tình không quen biết, với quê hương Núi Cú Hòn Bà, với quê hương Việt Nam, rồi sau đó là tro bụi. Cậu đã làm câu đối cho mình.
Mấy lượt tung lòng, được gì chăng, hay trong ai ghi uất hận!
Đòi phen nâng bút, còn gì chăng, hay trên cát viết ngu ngơ…
Thế nhưng cậu làm được nhiều hơn cậu tưởng, và những người thân, những bạn bè, em cháu, những người quen biết… không ai không quý mến cậu, không ai không thấy được cái tình của cậu đằm thắm, mênh mông, thành thực, sâu lắng. Những ai gần gũi cậu sẽ cảm nhận được cái tình đó, cái tình vượt lên trên cái tình bình thường. Riêng tôi, tôi luôn nhớ cậu và nhớ những ngày còn thơ, cậu đã thay mẹ tôi, dẫn tôi đến trường học, một ngôi trường tiểu học nhỏ bên bờ sông Cà Ty, Phan Thiết, năm 1952, hiệu trưởng là cô Hồ Thị Tiểu Sính (con Út cụ Hồ Tá Bang).
(Đỗ Hồng Ngọc, 1996)
……………………………………………………………………………..
(*) Tôi được mợ cho phép “công bố” sau khi cậu đã mất 20 năm:
“Ta là người lữ khách không xu
Từ trong bụng mẹ thành thằng ngu
Chí ngốc lỡ làng tan mộng trắng
Ai người thục nữ dám nâng…?
(Bài thơ này được Ông viết trên một mảnh giấy nhỏ rồi lén treo trên cành cây trước nhà Bà mà ông nói là để “Đi hỏi vợ”. Cuối cùng rồi gia đình cũng chấp thuận cho đôi uyên ương!).
Đỗ Hồng Ngọc's Blog
- Đỗ Hồng Ngọc's profile
- 12 followers

