Nguyễn Vạn Phú's Blog, page 5
December 8, 2019
Từ một cách làm từ điển mới…
Từ một cách làm từ điển mới…
Người lớn thường “hù dọa” nhau bằng câu chuyện: đến 80% công việc của năm 2030 nay vẫn chưa xuất hiện, vậy ngay bây giờ phải dạy các em ra đời vào lúc đó, tức nay đang ngồi trên ghế nhà trường chuyện gì, kỹ năng gì, kiến thức nào.
Nói cách khác, có thể vào năm 2030 vẫn là những nghề bác sĩ, kỹ sư, thầy giáo, chuyên viên tiếp thị, nhân viên ngân hàng… nhưng nội dung công việc phải làm hàng ngày sẽ hoàn toàn khác bây giờ, sẽ phải vận dụng những kiến thức, kỹ năng nay chưa tồn tại. Nền giáo dục sẽ phải dạy gì bây giờ?
Một nghề lụi tàn
Hãy cùng nhau nhìn vào chuyện làm từ điển như một minh họa. Nghề làm và in từ điển trên giấy đang ngày càng mai một. Bây giờ không ai chịu lật cuốn từ điển dày cộp cả ngàn trang, mày mò đến đúng từ cần tra cứu; họ sẽ lên mạng hay mở ứng dụng gõ từ cần tìm để có ngay kết quả. Nhưng cũng như nghề báo, từ điển đưa lên mạng không thể bán để thu tiền ngoài một ít ô quảng cáo. Chính vì thế các cuốn từ điển Anh Việt, Việt Anh hiện nay, là nền tảng cho các cuốn từ điển trực tuyến đều lạc hậu ít nhất vài chục năm. Sự lạc hậu, đôi lúc dẫn tới sai sót có thể là nguyên nhân của nhiều trường hợp “thảm họa dịch thuật” vì người dịch chỉ biết bám vào nghĩa ghi trên từ điển.
Dĩ nhiên các từ mới phổ biến như “meme” làm sao kỳ vọng các từ điển Anh Việt đưa vào kịp thời nhưng ngay cả các từ đã trở nên quen thuộc trong hai chục năm qua cũng vắng bóng trong các cuốn từ điển này hoặc chỉ ghi nhận nghĩa cũ của chúng. Từ “swipe” có thời rất phổ biến với nghĩa quẹt thẻ, nay “swipe” còn là quét ngón tay qua màn hình điện thoại và giới trẻ giờ nói “swipe right” là hiểu ngay đang dùng ứng dụng hẹn hò Tinder và đã “chấm” được một ai đó.
Các từ điển trực tuyến người viết có điều kiện truy cập và dùng thử đều không có các nghĩa này (chỉ liệt kê các nghĩa “cú đánh mạnh và liều”, “vụt, đập” một cách máy móc, sao chép của nhau). Đó là một ví dụ chọn ngẫu nhiên; hầu như có thể nêu hàng ngàn ví dụ như thế; hỏi sao người học tiếng Anh không bối rối lúng túng vì câu nào họ dùng từ điển hòng hiểu cho trọn vẹn đều trở nên mơ hồ hơn.
Nguyên nhân là do không ai bỏ công ra ngồi biên soạn từ điển một cách công phu như ngày xưa nữa. Làm từ điển không phải là chuyện dễ, bộ máy biên soạn các cuốn từ điển nổi tiếng trên thế giới có cả một bộ máy đồ sộ đứng đằng sau. Một khi không còn động lực tài chính, rất khó tổ chức được một bộ máy như thế, bắt đầu bằng nguồn dữ liệu thô, thu gom hết mọi từ có nghĩa mới, cách chúng xuất hiện trên các văn bản, sàng lọc, tinh chỉnh và chọn những điều lắng đọng lại để liên tục cập nhật vào một cuốn từ điển ngày càng dày. Công sức một người không làm nổi chuyện này; còn hợp tác biên soạn từ điển hầu như chưa thấy tổ chức nào đứng ra làm một cách nghiêm túc.
Cách làm từ điển “nhân dân”, vừa hay vừa còn sai sót
May mắn thay thế giới công nghệ làm nảy một phương cách khác – tận dụng công nghệ và trí tuệ đám đông để biên soạn từ điển. Đó chính là cách tiếp cận của dự án từ điển trực tuyến Glosbe (glosbe.com cho mọi ngôn ngữ hay vào ngay từ điển Anh Việt tại vi.glosbe.com). Có thể xem đây là một dạng từ điển bách khoa Wikipedia nhưng chuyên về dịch qua lại giữa hàng chục ngôn ngữ, trong đó có Anh Việt và Việt Anh. Vì được tổ chức theo dạng Wikipedia nên Glosbe có những điểm mạnh đi kèm với những điểm yếu y như Wiki vậy.
Điểm mạnh đầu tiên là Glosbe đã biết tận dụng khái niệm “translation memory” (bộ nhớ dịch) để trình bày mọi câu ví dụ có từ đang được tra cứu. Họ tải vào bộ nhớ của họ cả triệu trang dữ liệu đã từng được dịch nên mỗi khi có ai tra vấn nghĩa của một từ, họ trích từ bộ nhớ này mọi lần từ đó xuất hiện trong ngôn ngữ nguồn, kèm theo là câu dịch theo ngôn ngữ đích.
Với một người làm nghề biên dịch có gì sướng hơn là đang băn khoăn cách dịch một từ lại được cung cấp hàng chục ví dụ người ta từng dịch từ đó như thế nào. Còn gì thích thú hơn khi đi truy tìm nghĩa của một từ mà các từ điển trên mạng không có lại được bày biện đủ cả nghĩa lẫn cách dùng, lẫn cách dịch.
Theo giới thiệu của Glosbe, dự án này bắt đầu từ giữa năm 2011, bộ khung và phần mềm chạy ẩn đằng sau là do hai nhà lập trình người Ba Lan làm ra còn nội dung là do đóng góp của cả một cộng đồng to lớn. Glosbe là từ điển đa ngôn ngữ (đến nay đã có 7.000 ngôn ngữ được hỗ trợ), dữ liệu thô lấy từ các nguồn mở, các cơ sở dữ liệu miễn phí và do người dùng đóng góp (hiện đã có hơn 1 tỷ câu được dịch). Riêng từ điển Anh Việt đã có hơn 100.000 cụm từ và gần 3 triệu câu được dịch. Người dùng có thể đăng ký tài khoản để đóng góp câu dịch mới hay tải lên cả cuốn sách hay tài liệu mình từng dịch để đưa vào bộ nhớ chung; họ cũng có thể chỉnh sửa các câu dịch sai.
Glosbe đặc biệt hữu dụng khi chúng ta muốn dịch luôn cả cụm từ, điều mà các từ điển trực tuyến hiện nay còn rất yếu. Thử lấy hú họa câu trong một bài báo của Paul Krugman đăng trên New York Times, ví dụ câu: “What still hangs in the balance is the outcome”. Thử tra các từ điển thông thường, không thể nào tìm ra nghĩa của cụm từ “hang in the balance” tất cả đều báo không tìm ra. Glosbe cho ngay hàng chục câu có cụm từ này, với cách dịch khác nhau; nhờ nghĩa tiếng Anh tương đương “To be in a precarious situation, unsure of the future”, người dùng sẽ chọn được cách dịch khá tốt là “treo lơ lửng”, “bất phân định”.
Với văn nói hay các lời thoại trong phim ảnh, từ điển Anh Việt bình thường hiện nay bó tay trong nhiều trường hợp. “It’s your call” – gõ nguyên cụm này thì từ điển báo không tìm thấy, gõ từ “call” thì ra hàng chục nghĩa tìm mãi cũng không biết nên áp nghĩa nào. Với Glosbe, bạn sẽ được cung cấp ngay cách dịch “Tùy anh thôi”, “Cậu quyết định đi”, “Quyết định là ở bạn”… tùy bạn muốn chọn câu nào cũng được.
Dĩ nhiên, như đã nói ở trên, thu gom cả thượng vàng hạ cám ắt sẽ có câu dịch sai xuất hiện. Ví dụ “She’s got a point” bên cạnh câu dịch đúng là “Bà ấy có lý đấy” vẫn có những câu tào lao nổi lên, kiểu “Cô ấy có một điểm”! Nói cách khác những thảm họa dịch thuật từng xuất hiện ngoài đời thì cũng xuất hiện trong bộ nhớ của từ điển Glosbe. Glosbe thu gom rất tốt nhưng thiếu sàng lọc, tinh chỉnh nên vẫn còn nhiều hạt sạn lớn. Thế mạnh cũng chính là điểm yếu của cách làm từ điển theo kiểu Globse: đầu vào bị lỗi thì ắt đầu ra cũng bị lỗi theo. Kho bộ nhớ dịch Anh Việt bên cạnh những câu dịch hoàn chỉnh, tuyệt vời cũng có những câu dịch cẩu thả, bỏ sót và dịch sai nữa. Điều này phản ánh khá đúng tình hình dịch thuật của nước nhà.
Vấn đề là tìm cách sống với nền kinh tế kỹ thuật số
Kỹ năng của một người sống trong thời đại hiện nay là biết làm công việc sàng lọc, gạn đục khơi trong cho rất nhiều dịch vụ, sản phẩm chứ không riêng gì chỉ khi sử dụng từ điển Glosbe. Thuê nhà Airbnb rất thuận tiện, nhiều nơi có cả căn bếp để người thuê nấu ăn chứ không chỉ là căn phòng lạnh lẽo như ở khách sạn. Thế nhưng nếu không rà soát cẩn thận, rất dễ rơi vào tình huống bị lừa vào giờ phút chót. Đi xe Grab còn gì hiện đại hơn khi chỉ cần bấm nút, xe đến tận nơi nhưng cũng nhiều người gặp phải chuyện bực mình, phiền toái vì tài xế Grab. Mua hàng qua mạng giúp khỏi chạy ngoài đường phố vừa kẹt xe vừa bụi bặm nhưng mua qua mạng cũng dễ mua nhằm hàng dỏm, hàng không đúng như quảng cáo.
Tính hai mặt của thế giới mạng rất rõ: chẳng hạn mạng xã hội giúp kết nối, giúp biết được mọi ngóc ngách của cuộc sống nhưng người dùng cũng dễ bị tác động, tin sái cổ vào tin giả, tin bịa. Không thể tự cô lập, không dùng những sản phẩm của thời đại công nghệ đem lại nhưng cũng không thể ngây thơ tin hết vào sự hào nhoáng, hiện đại của công nghệ. Nếu có cách tiếp cận như thế, người dùng sẽ an tâm mở từ điển Glosbe ra xài, biết cái nào tin được, cái nào cần kiểm chứng, đối chiếu với nguồn khác.
Từ câu chuyện từ điển lạc hậu và cách tiếp cận hoàn toàn mới của dự án Glosbe, người viết bỗng nghĩ nếu sau này các kỹ năng hành nghề sẽ biến đổi; bác sĩ sẽ không còn chẩn bệnh, cho toa điều trị mà chỉ còn đóng vai trò giao tiếp với bệnh nhân, việc chẩn đoán đã có máy làm; nhân viên ngân hàng không còn ngồi sau quầy để giải quyết từng khách đến rút tiền, chuyển tiền vì tất cả giao dịch thực hiện qua ứng dụng… con người của tương lai cần nhất là một tư duy độc lập, biết nhận định đúng sai, khả năng phản biện hết mọi dữ liệu đầu vào, khả năng phân tích, tổng hợp và chọn lọc dữ liệu cần cho mình.
Khi đó môn toán giúp học sinh học tư duy lô-gich, môn văn giúp các em đọc hiểu giữa hai hàng chữ, môn đạo đức giúp xây dựng lòng bao dung, sự trung thực… tất cả các môn nhắm tới đào tạo một con người có óc sáng tạo, trí tưởng tượng và sự miễn nhiễm trước các cạm bẫy của thế giới công nghệ mà dù muốn dù không các em phải tiếp xúc.
Published on December 08, 2019 22:04
February 13, 2019
Bãi giữ xe 4.0
Bãi giữ xe 4.0
Trong chuyến đi Đà Nẵng vừa rồi, người viết có ấn tượng mạnh bởi hai hình ảnh: một là biển cấm màu đỏ chói ở nhiều tuyến đường Đà Nẵng, “cấm đánh giày, bán hàng rong, bán sách báo dạo…” – hình ảnh kia là một trang quảng cáo ấn tượng trên tờ báo thời trang của ngành hàng không quảng cáo cho một dự án địa ốc, có “căn hộ thượng lưu thời đại 4.0”, có cả “bãi giữ xe 4.0”.
Không biết do đâu xuất hiện một hiện tượng ngôn ngữ thú vị: từ “4.0” đang được dùng theo nghĩa khác với cách hiểu chính thống, khác với cách hiểu của các nước. Nay “4.0” được gán vào bất kỳ thứ gì có chút ứng dụng tân kỳ của công nghệ thông tin cho nên rất có thể “bãi giữ xe 4.0” chỉ là bãi giữ xe tự động, dùng thẻ quét để vô ra, khỏi có người coi sóc.
Tương tự, giáo dục 4.0 được dùng để nói đến việc sử dụng giáo án điện tử, sách điện tử, các phương tiện nghe nhìn, học từ xa qua mạng, thầy giáo ảo… Nông nghiệp 4.0 là ứng dụng các đột phá trong công nghệ thông tin vào nông nghiệp như điều khiển tưới nước bằng hệ thống tự động, dùng Internet để biết tình hình trang trại… Chính quyền 4.0 là ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý.
Thôi, ngôn ngữ là phải chấp nhận – hiểu vậy cũng không chết ai, miễn sao cả người nói lẫn người nghe hiểu đúng thông điệp muốn trao đổi. Chỉ có điều đi kèm với hiện tượng ngôn ngữ này là hàm ý hoàn toàn tích cực cho những cái được mệnh danh 4.0; tức một khi nói điều gì đó 4.0 tức cả người nói lẫn người nghe đều có hàm ý đây là điều tốt đẹp cần hướng đến, là mục tiêu cần đạt được. Và đó là điều cần cảnh báo.
Các ứng dụng mới nhất của công nghệ thông tin, tự động hóa chưa hẳn đã đem lại toàn điều tốt đẹp cho cuộc sống. Điều này có lẽ ai trong chúng ta cũng dần nhận ra, như kiểu cùng vào quán café hàn huyên tâm sự nhưng ít nhất một nửa bàn là đang chúi đầu vào màn hình điện thoại di động, một vài người chụp hình, hí hoáy viết nhanh rồi đưa lên Facebook. Một số bài báo nhận xét, chỉ có người giàu mới đủ điều kiện hạn chế con cái nhìn suốt ngày vào màn hình; con người nghèo bị phó mặc. Có lẽ cũng có người từng dùng YouTube để dỗ con cháu ăn, đưa điện thoại hay máy tính bảng cho con để khỏi bị quấy rầy…
Đó chỉ là mặt tiêu cực dễ thấy; các tác động xấu khác lên mọi mặt của xã hội của xu hướng “số hóa” khó thấy hơn. Chẳng hạn, mấy ai ngờ, “xe tự lái sẽ thành thiên đường mại dâm” như tít một bài báo viết về một nghiên cứu gần đây cho thấy. Công nhân trong nền kinh tế chia sẻ không có sếp trực tiếp nhưng vẫn sẽ phải làm việc quần quật với đồng lương thấp dưới sự điều hành của các thuật toán vô hồn. Drone (các loại máy bay không người lái) đang ném bom giết người một cách vô tư. Thử hỏi nếu việc điều khiển chúng, nay vẫn do con người đảm nhiệm, trong tương lai được giao cho trí tuệ thông minh nhân tạo quyết định giết ai, truy sát ai thì viễn cảnh đó có đáng sợ không? Chúng ta sẽ nghĩ sao khi đi tuần tra trên đường phố là các con robot được lập trình sẵn, có thể bắt cướp nhưng cũng rất có thể nhận dạng nhầm bạn là một tên khủng bố nên cứ bắt giam về đồn cái đã. Nói đâu xa bãi giữ xe 4.0 sẽ làm mất cơ hội việc làm của vài ba người bảo vệ.
Trở lại cái biển cấm ở Đà Nẵng, vẫn biết thành phố có quyền quy định đường phố nào cấm bán hàng rong nhưng thử nhìn lệnh cấm này như một điều kiện kinh doanh thì sao nhỉ? Gán điều kiện kinh doanh cho các ngành nghề lớn như nhập xe hơi, xuất khẩu gạo, bán rượu bia… thì có thể báo chí, công luận lên tiếng đòi bỏ. Nhưng người bán hàng rong, kể cả sách báo, bị cấm hành nghề ở một số tuyến đường – đó cũng là một điều kiện kinh doanh chứ gì nữa, đã có ai đặt câu hỏi về tính hợp lý, hợp tình của nó chưa? Vì sao cấm? Vì sao không cấm hẳn hành vi như lôi kéo, quấy rối khách du lịch mà cấm chuyện bán hàng rong, là một cách mưu sinh chính đáng, được luật pháp bảo vệ?
Sự chia cắt giữa tầng lớp mưu sinh bằng đôi quang gánh với các cửa hàng bóng loáng sang trọng cũng chẳng khác gì sự chia cắt trong tương lai một thiểu số được tiếp cận 4.0 tích cực còn đa phần người dân phải chịu hưởng cái 4.0 nhọc nhằn. Trong tâm thế của đa phần chúng ta khi dùng cụm từ “4.0” đều nghĩ đến cái tiện nghi, cái thoải mái chứ ít ai băn khoăn chuyện “tách biệt kỹ thuật số”, chuyện sản sinh ra một “giai tầng vô tích sự” không theo kịp các xu hướng 4.0 đó.
Đến lúc ngỡ ngành tình yêu 4.0 chỉ là các cú trượt màn hình về trái hay về phải, tìm bạn đồng hành nhưng chỉ qua đêm qua các ứng dụng như Tinder, có lẽ đã muộn khi muốn quay về đường phố có bóng dáng người quẩy đôi gánh chè ngồi bán vệ đường, đi bên cạnh là người bạn tri kỷ. Vì lúc đó người bán chè rong đã biến mất mà những người bạn thật, trong đời thật cũng đã tan biến vào khoảng không.
Published on February 13, 2019 17:31
January 12, 2019
Một thế giới đầy nghịch lý
Một thế giới đầy nghịch lý
Các mâu thuẩn nổi lên trong năm tới sẽ định hình cho dòng chảy thời sự của cả năm.
Toàn cầu hóa 4.0 cho ai?
Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) thường niên tại Davos năm tới (từ 22-25/1/2019) chọn chủ đề “Toàn cầu hóa 4.0”. Điều này không lạ vì nhà sáng lập và giám đốc điều hành WEF, ông Klaus Schwab là người thường xuyên nói về cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Điều lạ là thay vì ca tụng tiềm năng “đổi đời” của cuộc cách mạng công nghiệp này, nhiều người gắn khái niệm “Toàn cầu hóa 4.0” với những thử thách to lớn mà nhân loại đang phải đối diện và tìm cách giải quyết.
Viết trên tờ Project Syndicate, bà Winnie Byanyima, giám đốc điều hành Oxfam International hỏi thẳng: “Toàn cầu hóa 4.0 cho ai?” Một mặt thừa nhận những lợi ích to lớn mà cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 có thể đem lại cho mọi người, mặt khác, bà lo sợ đây là một cuộc đua xuống đáy mới, làm bùng nổ bất bình đẳng và gieo rắc sự bất mãn khắp nơi. Đúng là mô hình phát triển kinh tế trong mấy chục năm qua đẩy thế giới vào một sự chênh lệch giàu nghèo khó tưởng tượng nổi: năm ngoái 1% người giàu nhất lấy hết 82% thu nhập toàn cầu; gần như một nửa nhân loại chỉ cần đột ngột mắc bệnh hay mất mùa là sẽ rơi ngay vào cảnh cùng cực. Trong khi đó các vấn đề dai dẳng như biến đổi khí hậu, phân biệt chủng tộc, phân biệt nam nữ hầu như không có chút tiến triển nào. Thế nên các đột phá trong công nghệ, kiểu như trí tuệ thông minh nhân tạo, tự động hóa, vạn vật kết nối… để làm gì, chúng phục vụ cho ai, ai sở hữu chúng?
Nếu dòng tự sự về toàn cầu hóa giai đoạn mới vẫn do các tay tỷ phú ở Silicon Valley chủ động dẫn dắt nhằm tăng thêm chút giá cổ phiếu, giảm thêm chút thuế; nếu chính phủ các nước ngồi lại với nhau chỉ để tính chuyện giảm thuế cho hàng hóa của nhau rồi rót tiền thuế của dân cho các dự án với tham vọng thống trị thị trường thế giới… thì toàn cầu hóa 4.0 chẳng khác gì toàn cầu hóa của ba bốn thập niên trước.
Thế nhưng kỳ vọng một diễn đàn kinh tế thế giới tổ chức ở khu nghỉ dưỡng sang trọng Davos sẽ giải quyết vấn đề bất bình đẳng toàn cầu là một điều không tưởng. Với Klaus Schwab, “toàn cầu hóa” (globalization) khác với “chủ nghĩa toàn cầu” (globalism). Theo ông, trong khi toàn cầu hóa là một hiện tượng thúc đẩy bởi công nghệ và sự dịch chuyển của ý tưởng, con người và hàng hóa thì chủ nghĩa toàn cầu là hệ tư tưởng ưu tiên một trật tự thế giới tân tự do hơn là các lợi ích quốc gia. Ý ông muốn nói toàn cầu hóa là không thể tránh được còn chủ nghĩa toàn cầu lại là một chọn lựa mang tính chính trị. Thế nhưng chính những người theo chủ nghĩa toàn cầu lại thúc đẩy cho một thế giới toàn cầu hóa thì tính sao?
Rõ ràng những người yếu thế trong cuộc cách mạng công nghiệp hiện nay càng chịu thua thiệt vì mô hình phát triển sắp tới càng dựa vào lợi thế sở hữu vốn, sở hữu trí tuệ và công nghệ, những tài sản giới công nghệ có sẵn còn người thường ngày càng đánh mất. Ngay chính dữ liệu của người dân mà cũng bị đem ra đánh đổi, mua bán nói gì đến thứ khác.
Khó thoát kiếp gia công làm công xưởng cho thế giới
Ba bốn thập niên vừa qua, Trung Quốc học rất thuộc bài “toàn cầu hóa” nên đã trở thành cơ sở sản xuất hàng hóa khổng lồ cho cả thế giới: mở cửa đón làn sóng đầu tư nước ngoài muốn tận dụng lợi thế nhân công giá rẻ, đồng thời cải cách môi trường kinh doanh, khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển để tiếp nhận kinh nghiệm sản xuất, quản lý từ khu vực đầu tư nước ngoài, dần dần tiến lên các bực thang cao hơn trong chuỗi sản xuất toàn cầu.
Thế nhưng một khi Trung Quốc muốn thoát khỏi vai trò này, đề ra chiến lược “Made in China 2025” nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất Trung Quốc vươn lên dẫn đầu các ngành công nghệ mới, họ đã bị Mỹ tìm mọi cách cản trở. Tin tức cả năm 2018 xoay quanh những diễn biến được gọi là cuộc chiến tranh thương mại Mỹ-Trung hết bên này áp thuế lên hàng nhập khẩu của nước kia đến những cáo buộc thao túng tỷ giá… Tuy nhiên, đằng sau những thông tin này là cả một chiến lược Mỹ muốn triển khai để trói tay Trung Quốc không cho bước lên các bậc thang cao hơn. Nói cách khác, Trung Quốc được hoan nghênh tham gia toàn cầu hóa nhưng muốn có chính sách theo chủ nghĩa toàn cầu lại bị chặn đường.
Đó là bởi Trung Quốc trở thành một chiếc gai nhọn làm Mỹ khó chịu: thâm hụt thương mại ngày càng lớn trong khi công nhân Mỹ mất việc làm về tay Trung Quốc; nước này lại tìm mọi cách để thụ đắc bí kíp công nghệ, kể cả buộc doanh nghiệp Mỹ phải chuyển giao mới được làm ăn ở nước này; nay Trung Quốc lại có tham vọng vượt lên đứng đầu trong những lãnh vực mũi nhọn như viễn thông, tự động hóa, trí tuệ nhân tạo… Các doanh nghiệp viễn thông Trung Quốc đang đi đầu trong công nghệ 5G trong khi doanh nghiệp Mỹ chưa có gì trong tay. Mỹ có gì Trung Quốc cũng có cái tương đương để cạnh tranh như Baidu, Alibaba và Tencent. Trung Quốc lại đang phát triển mạnh những công nghệ vẫn còn ở thời kỳ sơ khai tại Mỹ như xe chạy bằng điện, tự động hóa trong sản xuất, ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong nhiều lãnh vực.
Lý do Mỹ đưa ra là Trung Quốc đã sử dụng các doanh nghiệp nhà nước, nhận tài trợ từ ngân sách nhà nước để tạo ra đột phá trong kế hoạch “Made in China” 2025 nên không công bằng với các doanh nghiệp khác. Các dấu hiệu cho đến nay cho thấy có thể Trung Quốc sẽ phải nhượng bộ Mỹ, giảm bớt tham vọng “Made in China” 2025 để tránh hậu quả tai hại của cuộc chiến thương mại đang diễn ra, nhất là trong lĩnh vực bảo vệ sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ bắt buộc.
Điều hay là Mỹ không “chạy đua vũ trang” bằng cách hậu thuẫn cho các doanh nghiệp lớn của họ để cạnh tranh trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; ngược lại, họ đang hành xác các doanh nghiệp này như liên tục bắt CEO của Google, Facebook ra điều trần. Ngày xưa họ từng ép Microsoft không được dùng thế độc quyền của Windows để chèn ép các ứng dụng duyệt web khác; ngày nay cũng có nhiều ý kiến muốn chẻ nhỏ Google ra để tránh độc quyền. Đó là bởi họ hiểu chỉ có chống độc quyền triệt kể, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh mới làm doanh nghiệp của họ lớn lên thật sự. Và cũng nhờ vậy, ngày trước Google mới thoát khỏi cái bóng của Microsoft để lớn mạnh. Trung Quốc e còn lâu mới học được bài học này.
Published on January 12, 2019 18:50
January 11, 2019
Công nghiệp mấy chấm cũng có mặt trái
Công nghiệp mấy chấm cũng có mặt trái
Cách đây mười lăm, hai chục năm, mọi người hăm hở nói về toàn cầu hóa, về thế giới phẳng tương tự như sự hăm hở chúng ta đang chứng kiến chung quanh khái niệm cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nếu như mặt trái của toàn cầu hóa đã được xác định rõ, mặt trái của công nghiệp 4.0 lại chưa được nhắc đến hoặc bị chìm lấp trong sự hứng khởi mà khái niệm này đem lại.
Kinh tế toàn cầu chỉ còn lại vài tay chơi khổng lồ
Mặt trái đầu tiên của cuộc cách mạng công nghiệp, dù thứ ba hay thứ tư, chính là sự thống trị của một số doanh nghiệp, làm bóp nghẹt tinh thần cạnh tranh, chặn đường tham gia thị trường của các doanh nghiệp khác.
Hiện chúng ta đang lệ thuộc vào Google khi tìm kiếm thông tin, vào Facebook khi tạo dựng các mối quan hệ xã hội ảo, vào Spotify hay Apple Music khi nghe nhạc trực tuyến… Trước đây hàng trăm hàng ngàn doanh nghiệp cạnh tranh để bán hàng cho chúng ta nhưng nay khi nghĩ đến mua hàng trực tuyến chỉ còn lại một số rất ít như Amazon (hay tại Việt Nam, chỉ vài ba tên tuổi như Lazada, Tiki hay Shopee, Sendo). Các khách sạn, muốn bán được phòng cho bên ngoài, ắt phải dựa vào một số dịch vụ đặt phòng trực tuyến và chịu phụ thuộc vào họ như Agoda hay Booking.com.
Thử tưởng tượng chúng ta không khoái cách ứng xử của Facebook, rất muốn ủng hộ một mạng xã hội khác nhưng con đường để một doanh nghiệp nào đó vươn lên xây dựng một hệ sinh thái như Facebook là cực kỳ khó khăn. Chúng ta đã có trải nghiệm trong việc này: khi Uber rút lui khỏi thị trường Đông Nam Á nhường sân chơi lại cho Grab, cứ tưởng viết một chương trình ứng dụng đặt xe rồi kêu gọi lái xe tham gia là chuyện dễ làm nhưng chưa có doanh nghiệp nào trong nước vươn lên kịp thời để thế chỗ Uber.
Cái cách nguồn vốn khởi nghiệp, vốn mạo hiểm đổ vào các doanh nghiệp như Uber hay Grab làm các nơi khởi nghiệp khác khó lòng cạnh tranh. Họ rót vào một số doanh nghiệp những khoản tiền khổng lồ để định hình một dịch vụ mới với kỳ vọng thu được lợi nhuận trong tương lai còn trước mắt là để khỏi tụt hậu trong thời công nghiệp 4.0. Uber hay Grab hay cả GoViet không để tâm đến thu chi sao cho nhanh chóng huề vốn và có lãi. Mục đích của họ chỉ là tăng trưởng nhanh chóng để đem lại giá trị cho phần vốn đầu tư của giới tài chính thì làm sao những doanh nghiệp bình thường với kế hoạch lời lỗ cụ thể cạnh tranh lại nổi.
Tài chính ăn hết
Bạn có biết Jeff Bezos, người sáng lập và hiện là chủ tịch Amazon, năm 2017 chỉ nhận lương chừng 80.000 đô-la nhưng tài sản của ông ta hiện lên đến 163 tỷ đô-la và tài sản này cứ gia tăng từng phút từng giây. So với mức lương trung bình của nhân viên Amazon là 28.000 đô-la/năm thì cứ 10 giây gia sản của ông ta tăng còn hơn mức đó.
Trong nền kinh tế số, tài sản của những người giàu nhất hành tinh ngày càng phình to ra. Trước đây Oxfam nghiên cứu tính toán thấy 1% người giàu nhất thế giới có tài sản nhiều hơn 99% dân số còn lại nhưng đó là vào năm 2015. Giờ chỉ cần 9 người giàu nhất cũng đã có gia sản bằng một nửa số dân của cả hành tinh, tức 4 tỷ người.
Trước đây một người muốn lọt vào danh sách 100 người giàu nhất cần phải tích lũy sản nghiệp qua nhiều thế hệ. Nay Mark Zucerberg, tay sáng lập Facebook, chỉ cần chừng hơn 10 năm để trở thành người giàu thứ 5 toàn thế giới, với tài sản khoảng 71 tỷ đô-la. Các thanh niên khởi nghiệp ngủ một đêm thức dậy trở thành tỷ phú là chuyện không còn hiếm hoi nữa.
Nếu chọn cách nói ngắn gọn nhất, có thể nói cách mạng công nghiệp 4.0 thay con người bằng máy móc, từ sử dụng trí tuệ nhân tạo đến tự động hóa các dây chuyền sản xuất, từ xe tự lái đến vạn vật kết nối, máy móc sẽ đảm nhận nhiều công việc trước đây do con người thực hiện. Như vậy lợi nhuận của nền kinh tế không còn phải chi một phần khá lớn cho lao động nữa mà dồn về cho vốn.
Nói cách khác, toàn cầu hóa là cách giới doanh nghiệp tìm nguồn lao động rẻ nhất để tiết kiệm chi phí; chuyển nhà máy từ Mỹ qua Trung Quốc có thể làm dân lao động Mỹ mất việc làm, lao động Trung Quốc thêm việc làm nhưng phải nhận đồng lương ít hơn, phần chênh lệch rơi vào túi dân tài chính. Nay công nghiệp 4.0 không cần tìm nơi lao động rẻ nhất nữa, giới chủ chỉ cần đầu tư vào máy móc, khấu hao dần và một lần nữa tài chính lại hưởng phần chênh lệch.
Người lao động bị vắt kiệt
Trước đây công nhân còn có sức mạnh thương lượng thông qua số đông và tổ chức kiểu như công đoàn. Nay nền kinh tế số dẫn tới những nghề tự do, tham gia vào thị trường lao động bằng mối liên kết lỏng lẻo hơn nhiều. Vì tham gia với tư cách cá nhân nên người lao động đánh mất sức mạnh thương lượng. Đó là tình cảnh của những công nhân trong nền kinh tế chia sẻ mà có thể là hình thức lao động chủ yếu trong công nghiệp 4.0. Uber rút ra khỏi Đông Nam Á hé lộ cho thấy số phận của những người lái xe trước đó được Uber o bế và khi không cần nữa, đã bị gạt ra rìa như thế nào.
Hãy lấy một ví dụ khác, Google Translate và nhiều ứng dụng dịch thuật khác, dù chưa hoàn chỉnh nhưng đã có những bước tiến đột phá. Người ta có thể dùng Google Translate để dịch nháp một văn bản nhanh như chớp, xong rồi bỏ công ra chỉnh sửa cho khớp với văn bản gốc, viết lại câu cú cho trôi chảy – nói chung là người dịch đã có thể trông cậy vào tiến bộ công nghệ để tăng năng suất lên nhiều lần. Bên cạnh đó, công nghệ cũng giúp việc liên lạc khắp thế giới thuận tiện như ngồi cùng tòa nhà; số lượng người dịch ở các nước đang phát triển gia tăng nhanh chóng. Thị trường dịch thuật bị xáo động khi nguồn cung về người dịch tăng vọt, giá cả bị cạnh tranh đẩy xuống mức thấp chưa từng có. Người dịch phải bỏ công sức gấp nhiều lần so với trước mà chưa chắc đã có thu nhập bằng như cũ vì miếng bánh phải chia cho gấp mấy lần so với trước.
Mặt khác, hàng triệu người trước đây kinh doanh nhỏ lẻ nhưng bị đẩy vào tình cảnh phá sản vì các mô hình mới như Amazon phải trở thành công nhân cho bộ máy đó, thu nhập thấp hơn, làm việc quần quật hơn. Cũng đã có những cảnh báo về việc công nghiệp 4.0 hay tự động hóa sẽ lấy đi nhiều công ăn việc làm nhưng dường như chưa ai hoảng hốt vì các cảnh báo này. Hàng triệu công nhân may mặc sẽ thất nghiệp không ngăn được doanh nghiệp đầu tư vào robot biết cắt may quần áo vì lúc đó biết đâu biên lợi nhuận của họ sẽ tăng cao hơn bây giờ. Người làm chính sách vẫn say sưa với viễn cảnh hàng may mặc chất lượng đều tăm tắp vẫn sẽ được xuất đi các nước vì chưa nghĩ đến hậu quả nặng nề mà hàng triệu công nhân mất việc kia sẽ đè nặng lên xã hội.
Cứ hình dung như thế này sẽ thấy: Năm 1990 ba công ty lớn nhất Detroit có tổng doanh thu 250 tỷ đô-la, thuê mướn 1,2 triệu công nhân; năm 2014, ba công ty lớn nhất Silicon Valley có doanh thu gần tương đương là 247 tỷ đô-la nhưng chỉ tuyển dụng có 137.000 nhân viên. Tiền thu được thay vì trả lương cho công nhân nay được rót cho tư bản tài chính.
Phá vỡ nhiều cơ cấu xã hội
Công nghiệp 4.0 đã và đang tạo ra những thay đổi tận gốc rễ ở nhiều ngành nghề, nhiều lãnh vực. Chỉ cần nhìn vào ngành báo chí sẽ thấy chưa chắc thay đổi như thế là điều tốt đẹp cho xã hội. Trước đây báo chí tồn tại là nhờ quảng cáo và miếng bánh quảng cáo ngày xưa chỉ chia cho các mảng rất rõ như báo in, radio, truyền hình, quảng cáo ngoài trời, cùng lắm là quảng cáo di động in trên thân xe. Nay miếng bánh quảng cáo chia phần lớn cho các mạng đang chiếm hết thời gian của người xem như Facebook, YouTube, Google… Trên không gian của các gã khổng lồ đó, rất nhiều tay chơi mới xuất hiện giành thêm một số khách hàng trước đây của báo chí nữa. Vì thế báo chí suy yếu, co cụm và thu nhỏ lại là điều không thể tránh khỏi.
Ngày nay ai cũng có thể trở thành một nguồn giải trí và nhờ đó được trả công bằng tiền quảng cáo. Còn báo chí với chức năng cung cấp thông tin đã trở thành thứ yếu, không cạnh tranh nổi với các nguồn giải trí kia.
Thế nhưng xã hội thiếu vắng báo chí sẽ bị lấp đầy bởi tin đồn, tin vịt, tin giả… Cơ chế kiểm chứng thông tin trước khi đăng tải của báo chí bị bỏ qua trên các kênh thông tin khác. Con người, hàng ngày bị phơi nhiễm các nguồn thông tin không chính thống chắc chắc sẽ bị tác động để cuối cùng trở thành người để cảm xúc chi phối thay vì tin vào dữ kiện khách quan do báo chí đem lại. Thay thế các định chế lâu đời như báo chí bằng Facebook hay Twitter thì liệu có đáng đánh đổi không?
Nhìn tổng quát, bài toán của nền kinh tế khi bước vào một giai đoạn mới là rất rõ ràng: sẽ có nhiều người hưởng lợi nhiều nhất và cũng sẽ có nhiều người khác chịu thiệt hại nhiều nhất do những thay đổi mà cuộc cách mạng này đem lại. Hăm hở với khái niệm 4.0 một cách chung chung là một sự hăm hở đầy rủi ro. Ngó lơ đi nơi khác cũng đưa xã hội vào tình thế bế quan tỏa cảng ngày xưa. Cả hai thái độ đều có thể dẫn đến sai lầm. Chỉ có hiểu rõ những mặt trái của công nghiệp 4.0 trong khi tiếp nhận nó, sử dụng nó ở mức độ tốt nhất cho xã hội bằng cách lường trước những tác hại có thể xảy ra mới mở ra những giải pháp khả thi.
Published on January 11, 2019 21:06
January 8, 2019
Công nghiệp 4.0 thực ra là gì?
Công nghiệp 4.0 thực ra là gì?
Cụm từ cách mạng công nghiệp lần thứ tư hay công nghiệp 4.0 là một từ thời thượng, nhiều người dùng nó một cách say sưa cho nhiều tình huống và nhiều người khác cười chê ai dùng nó như những kẻ hoang tưởng. Nhưng dường như ít ai bỏ công tìm hiểu nguồn gốc của nó cũng như nói cho cặn kẽ nội dung của nó là gì.
Năm 2011, Liên đoàn nghiên cứu kinh tế và khoa học Đức đưa ra cho Thủ tướng Merkel một đề xuất thực hiện chương trình nghiên cứu sử dụng máy tính vào công nghiệp để duy trì thế mạnh của Đức trong lãnh vực này. Chương trình được đặt tên Cách mạng công nghiệp 4.0 với lập luận thế giới đang bước vào ngưỡng cửa của một cuộc cách mạng công nghiệp mới tiếp nối cuộc cách mạng công nghiệp 3.0 vốn đã là ứng dụng máy tính, công nghệ thông tin, truyền thông và tự động hóa vào sản xuất và mọi mặt của cuộc sống.
Thủ tướng Merkel ủng hộ chương trình nhưng không hài lòng với cái tên vì đời nào chính phủ Đức lại đi tài trợ cho một cuộc cách mạng, dù là trong công nghiệp. Thế là tên được đổi thành Công nghiệp 4.0, trở thành nội dung chính của sáng kiến “Chiến lược Công nghệ cao 2020 cho nước Đức”.
Theo lời kể chuyện của giáo sư Christoph Roser, chuyên ngành quản lý sản xuất tại Đại học Karlsruhe, Đức, ngoài phần giới thiệu ai cũng biết về các cuộc cách mạng công nghiệp trước đó, không ai rõ nội hàm của khái niệm Công nghiệp 4.0 là gì. Nhưng vì chính phủ Đức đồng ý tài trợ đến 400 triệu euro nên nhiều cơ quan, trường đại học và doanh nghiệp nhảy vào cuộc, các đề tài nghiên cứu đẻ ra như nấm mọc sau mưa, chủ yếu xoanh quanh nội dung liên quan đến máy tính dùng trong công nghiệp như dữ liệu lớn, in 3D, nhận diện khuôn mặt, xe tự hành, điện tử đám mây và vạn vật kết nối.
“Bạn có thể đọc những tài liệu rất dài về Công nghiệp 4.0 nhưng trang nào cũng nói một chuyện như nhau chỉ có điều bằng từ khác mà thôi” – GS Roser viết.
Những năm sau đó hàng loạt các nhà nghiên cứu cũng như các chuyên gia về công nghiệp đã dồn về Đức để học hỏi về Công nghiệp 4.0. Các phần mềm hỗ trợ Công nghiệp 4.0 bán chạy như tôm tươi. Nhưng GS Roser thú nhận: “Người Đức chúng ta cũng không biết gì nhiều hơn phần còn lại của thế giới. Cũng như câu chuyện về hoàng đế với bộ quần áo mới, có nhiều bài viết ca tụng chuyện mọi thứ sẽ tuyệt vời hơn như thế nào với Công nghiệp 4.0 nhưng nếu nhìn cho kỹ, nội dung không có gì cả. Tuy thế, vẫn có nhiều người khen bộ quần áo mới của Công nghiệp 4.0!”
Một trong những đề tài thu hút sự chú ý của nhiều người là về các hệ thống vật lý ảo (Cyber-Physical Systems) – ý tưởng ở đây là kết nối máy móc, thậm chí các linh kiện với nhau bằng mạng kỹ thuật số. Nhờ thế thông tin về hiện trạng của hệ thống sẽ dễ có sẵn đó kèm theo là một lượng thông tin khổng lồ giúp phân tích hiện trạng. Từ đó trên báo chí phổ thông mới xuất hiện các hình ảnh, một quản lý nhà máy sáng sớm biết ngay máy nào cần dầu, máy nào cần thay linh kiện, máy nào chạy tốt, máy nào có vấn đề. Thậm chí ông ta không cần ra lệnh nữa mà máy thiếu dầu tự động yêu cầu dầu, máy thiếu linh kiện ra lệnh thay linh kiện. Thật là một hình ảnh hấp dẫn. Người ta tính toán nếu máy móc biết trước được hỏng hóc để tránh, hệ thống biết trước nguyên liệu cần có, chừng đó cũng đã tiết kiệm đến 270 tỷ euro mỗi năm cho nước Đức. Thế là từ đó về sau Công nghiệp 4.0 được gán với nội dung này là chủ yếu.
* * *
Người đưa cụm từ cách mạng công nghiệp lần thứ 4 vào ngôn ngữ hàng ngày, gán cho nó những ý nghĩa rộng hơn, mang tính khái quát hơn chính là Klaus Schwab, nhà sáng lập và hiện đang làm giám đốc điều hành Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF). Theo ông ba cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên được thúc đẩy bởi than đá và hơi nước, đến điện và xe hơi, rồi đến máy tính. Nay loài người, theo ông đang tiến vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 mà động lực là tự động hóa và trí tuệ thông minh nhân tạo. Tại Diễn đàn Kinh tế thế giới năm 2016, Schwab đã chọn cách mạng công nghiệp lần thứ 4 hay nói gọn là công nghiệp 4.0 làm chủ đề, từ đó ý tưởng này lan rộng.
Một số bài viết của các tác giả khác sau đó triển khai về hướng người tiêu dùng nên chú trọng đến vạn vật kết nối, mọi thứ đồ dùng quanh ta đều nói chuyện với nhau và nói chuyện với máy tính để mọi người cũng có thể nắm được thông tin mọi thứ trong đời sống như trong sản xuất. Đây là hướng triển khai của các nước bên ngoài Đức.
Kể từ đó, bất kỳ một xu hướng ứng dụng công nghệ làm thay đổi cuộc sống nào cũng được gán cho cái nhãn công nghiệp 4.0 như robot thông minh, xe tự lái, biên tập bộ gen… Tuy nhiên điều đáng lưu ý là các tác giả khi nói về công nghiệp 4.0 thường dành phần đầu để ca ngợi các đột phá công nghệ làm thay đổi tận gốc rễ cơ cấu xã hội nhưng phần sau đều nhắc đến các thách thức mà loài người phải vượt qua. Chủ đề lớn nhất vẫn là bất bình đẳng gia tăng, xã hội tan rã thành cụm nhỏ, các định chế lâu đời bị phá vỡ trong khi cái thay thế lại chưa định hình. Xã hội có thể tiến tới chỗ có một “giai tầng vô tích sự” gồm hầu hết nhân loại và một số ít những người thuộc giai tầng công nghệ nắm trong tay bí quyết và phương tiện để sống tách biệt với phần còn lại của nhân loại.
Ở Việt Nam, khái niệm công nghiệp 4.0 được đón nhận với một sự nhiệt thành đáng kinh ngạc; có lẽ vì khái niệm này có thể giúp “đi tắt, đón đầu” và có lẽ không ai muốn lập lại sai lầm “bế quan tỏa cảng” ngày xưa. Khát vọng mở cửa “đi tắt, đón đầu” này có tác dụng thúc đẩy các chính sách tiếp nhận cái mới mà làn sóng công nghệ tạo ra. Tuy nhiên gần đây khái niệm công nghiệp 4.0 được gán cho quá nhiều xu hướng nên ý nghĩa của nó gần như bão hòa, không còn mang hàm ý như thế giới hiểu công nghiệp 4.0: một sự tổng hòa khi vạn vật kết nối tạo ra sự thông minh trong quản lý sản xuất, khi trí tuệ thông minh nhân tạo, rô-bốt làm thay cho con người trong nhiều hoạt động và khi dữ liệu lớn đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra các thuật toán ẩn đằng sau sự vận hành của xã hội.
Published on January 08, 2019 00:09
November 8, 2018
Lưu ở đâu không quan trọng bằng xin phép người dùng
Lưu ở đâu không quan trọng bằng xin phép người dùng....
Để bảo vệ người dùng trước các vụ rò rỉ thông tin của nhiều dịch vụ như Facebook, thậm chí lộ cả thông tin thẻ tín dụng ở nhiều trang thương mại điện tử, dự thảo nghị định cần xác lập thêm một nguyên tắc mà nay EU và nhiều nước khác đã luật hóa: doanh nghiệp phải xin phép người dùng trước khi thu thập dữ liệu người dùng, được sự đồng ý rõ ràng mới tiến hành, đồng thời cần nói rõ dữ liệu thu thập nhằm mục đích gì, có trao cho bên thứ ba để kinh doanh, đổi chác hay không. Luật An ninh mạng có nói “Chính phủ quy định chi tiết” việc doanh nghiệp thu thập, khai thác, phân tích, xử lý dữ liệu về thông tin cá nhân nên nghị định hoàn toàn có thể thêm nội dung này.
Quy định bảo vệ dữ liệu chung (GDPR) của EU cấm doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thu thập nhiều loại dữ liệu như dữ liệu sinh trắc học nhằm mục đích nhận dạng một người nào đó, giới tính hay xu hướng tình dục, gốc gác chủng tộc... Các dữ liệu cá nhân khác chỉ được thu thập và xử lý khi có sự đồng ý của người dùng, phải cung cấp thông tin như bên thu thập là ai, thu thập nhằm đáp ứng yêu cầu gì, cơ sở pháp lý của yêu cầu đó là gì, ai sẽ nhận dữ liệu, dữ liệu lưu trong bao lâu... Đáng chú ý, quan điểm của EU là chỉ cho phép doanh nghiệp dịch vụ lưu dữ liệu khi cần xử lý, xử lý xong hay nhu cầu chấm dứt thì phải xóa ngay dữ liệu đó đi. GDPR đặc biệt nghiêm khắc với dữ liệu của trẻ em, khi bên thu thập phải có sự đồng ý của ba mẹ hay người giám hộ trẻ.
Một điểm khác cần nhấn mạnh trong các văn bản liên quan đến an ninh mạng: đó là quyền của người dùng được truy cập dễ dàng thông tin doanh nghiệp đã thu thập về mình và quyền yêu cầu doanh nghiệp xóa thông tin đó đi. Người dùng cũng có quyền yêu cầu nơi thu thập dữ liệu chỉnh sửa thông tin nếu phát hiện không chính xác, chưa hoàn chỉnh. Và một khi doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bị tấn công mạng, bị rò rỉ thông tin thì trách nhiệm của họ là thông báo ngay, đầy đủ đến người dùng, kèm theo là biện pháp khắc phục....Mời đọc toàn bài ở đây:
Để bảo vệ người dùng trước các vụ rò rỉ thông tin của nhiều dịch vụ như Facebook, thậm chí lộ cả thông tin thẻ tín dụng ở nhiều trang thương mại điện tử, dự thảo nghị định cần xác lập thêm một nguyên tắc mà nay EU và nhiều nước khác đã luật hóa: doanh nghiệp phải xin phép người dùng trước khi thu thập dữ liệu người dùng, được sự đồng ý rõ ràng mới tiến hành, đồng thời cần nói rõ dữ liệu thu thập nhằm mục đích gì, có trao cho bên thứ ba để kinh doanh, đổi chác hay không. Luật An ninh mạng có nói “Chính phủ quy định chi tiết” việc doanh nghiệp thu thập, khai thác, phân tích, xử lý dữ liệu về thông tin cá nhân nên nghị định hoàn toàn có thể thêm nội dung này.
Quy định bảo vệ dữ liệu chung (GDPR) của EU cấm doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thu thập nhiều loại dữ liệu như dữ liệu sinh trắc học nhằm mục đích nhận dạng một người nào đó, giới tính hay xu hướng tình dục, gốc gác chủng tộc... Các dữ liệu cá nhân khác chỉ được thu thập và xử lý khi có sự đồng ý của người dùng, phải cung cấp thông tin như bên thu thập là ai, thu thập nhằm đáp ứng yêu cầu gì, cơ sở pháp lý của yêu cầu đó là gì, ai sẽ nhận dữ liệu, dữ liệu lưu trong bao lâu... Đáng chú ý, quan điểm của EU là chỉ cho phép doanh nghiệp dịch vụ lưu dữ liệu khi cần xử lý, xử lý xong hay nhu cầu chấm dứt thì phải xóa ngay dữ liệu đó đi. GDPR đặc biệt nghiêm khắc với dữ liệu của trẻ em, khi bên thu thập phải có sự đồng ý của ba mẹ hay người giám hộ trẻ.
Một điểm khác cần nhấn mạnh trong các văn bản liên quan đến an ninh mạng: đó là quyền của người dùng được truy cập dễ dàng thông tin doanh nghiệp đã thu thập về mình và quyền yêu cầu doanh nghiệp xóa thông tin đó đi. Người dùng cũng có quyền yêu cầu nơi thu thập dữ liệu chỉnh sửa thông tin nếu phát hiện không chính xác, chưa hoàn chỉnh. Và một khi doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bị tấn công mạng, bị rò rỉ thông tin thì trách nhiệm của họ là thông báo ngay, đầy đủ đến người dùng, kèm theo là biện pháp khắc phục....Mời đọc toàn bài ở đây:
Published on November 08, 2018 19:27
November 6, 2018
Xa hơn tranh chấp Vinasun - Grab
Xa hơn tranh chấp Vinasun - Grab
Nếu Vinasun dùng Luật cạnh tranh để kiện Grab, người viết bài này sẽ ủng hộ 100% và tin chắc công lý cũng như công luận sẽ đứng về phía Vinasun. Này nhé, Luật cạnh tranh 2004 cũng như Luật cạnh tranh 2018 đều cấm “Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh”.
Thiết nghĩ chứng minh Grab tính giá cước dưới giá thành là không khó - theo thông tin từ báo chí, doanh nghiệp này đã lỗ tổng cộng hơn 1.700 tỉ đồng trong 4 năm hoạt động, mức lỗ ngày càng tăng. Chứng minh Grab là công ty vận tải chứ không chỉ là công ty công nghệ cũng không khó: Nếu chỉ là công ty công nghệ, vì sao ghi nhận toàn bộ doanh thu từ khách hàng là doanh thu của Grab? Nếu chỉ là công ty công nghệ, vì sao Grab có những khoản lỗ lớn, bao gồm cả tiền trả cho lái xe?
Bán phá giá để dìm chết đối thủ cạnh tranh là lối chơi không đẹp, chẳng khác nào lấy tiền từ các nhà đầu tư, san sẻ cho khách hàng (trợ giá), lái xe (trợ cấp) để chiếm thị phần, đẩy giá trị thị trường của họ lên cao và hưởng lợi từ thị giá cao này!
Thế nhưng lập luận của Vinasun tại phiên tòa chẳng khác nào là lập luận thay cho ông Nhà nước đi soi Grab làm đúng luật hay chưa (vi phạm đề án 24), đóng thuế bao nhiêu, thậm chí lo cả chuyện Grab sẽ “tháo chạy” như Uber(?).
Mời đọc tiếp trên tờ Tuổi Trẻ cuối tuần:
Nếu Vinasun dùng Luật cạnh tranh để kiện Grab, người viết bài này sẽ ủng hộ 100% và tin chắc công lý cũng như công luận sẽ đứng về phía Vinasun. Này nhé, Luật cạnh tranh 2004 cũng như Luật cạnh tranh 2018 đều cấm “Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh”.
Thiết nghĩ chứng minh Grab tính giá cước dưới giá thành là không khó - theo thông tin từ báo chí, doanh nghiệp này đã lỗ tổng cộng hơn 1.700 tỉ đồng trong 4 năm hoạt động, mức lỗ ngày càng tăng. Chứng minh Grab là công ty vận tải chứ không chỉ là công ty công nghệ cũng không khó: Nếu chỉ là công ty công nghệ, vì sao ghi nhận toàn bộ doanh thu từ khách hàng là doanh thu của Grab? Nếu chỉ là công ty công nghệ, vì sao Grab có những khoản lỗ lớn, bao gồm cả tiền trả cho lái xe?
Bán phá giá để dìm chết đối thủ cạnh tranh là lối chơi không đẹp, chẳng khác nào lấy tiền từ các nhà đầu tư, san sẻ cho khách hàng (trợ giá), lái xe (trợ cấp) để chiếm thị phần, đẩy giá trị thị trường của họ lên cao và hưởng lợi từ thị giá cao này!
Thế nhưng lập luận của Vinasun tại phiên tòa chẳng khác nào là lập luận thay cho ông Nhà nước đi soi Grab làm đúng luật hay chưa (vi phạm đề án 24), đóng thuế bao nhiêu, thậm chí lo cả chuyện Grab sẽ “tháo chạy” như Uber(?).
Mời đọc tiếp trên tờ Tuổi Trẻ cuối tuần:
Published on November 06, 2018 02:25
November 3, 2018
Hiểu dự thảo Nghị định về an ninh mạng như thế nào?
Hiểu dự thảo Nghị định về an ninh mạng như thế nào?
Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật An ninh mạng chủ yếu nói đến hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia, chỉ có Chương 5 là liên quan trực tiếp đến doanh nghiệp và người dân.
Điều 25 đặt ra 4 điều kiện mà doanh nghiệp khi hội đủ thì phải lưu trữ dữ liệu và đặt chi nhánh hoặc văn phòng đại diện tại Việt Nam.
Điều kiện thứ nhất hầu như bao quát hết mọi doanh nghiệp nào có dịch vụ trên mạng Internet; chẳng hạn dịch vụ lưu trữ (như Dropbox); Thương mại điện tử (như Amazon); Mạng xã hội (như Facebook); Dịch vụ viễn thông (như Viber); Thư điện tử (như Gmail)…
Điều kiện thứ hai cũng có thể bao quát hết các doanh nghiệp này vì một khi họ có thu thập thông tin về người dùng (dữ liệu về thông tin cá nhân) thì thông thường họ cũng khai thác, phân tích, xử lý các loại dữ liệu này. Tuy nhiên ở đây cần lưu ý các dữ liệu cũng bao gồm thông tin do người dùng tải lên, đồng bộ hoặc nhập từ thiết bị - có nghĩa nội dung đưa lên Facebook, nội dung trao đổi qua Viber, nội dung lưu trên Dropbox hay nội dung thư điện tử trên Gmail cũng bao gồm.
Điều kiện thứ ba loại trừ khá nhiều doanh nghiệp trên (như Amazon; các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ khác như Netflix, Spotify cũng không liên quan), trừ các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ mà người dùng có tương tác, tức người dùng có thể đăng tải nội dung như Facebook, YouTube, Viber, Gmail… vì chỉ cần một hai người dùng trong số hàng triệu người dùng vi phạm những điểm nêu trong Luật An ninh mạng thì đều bị quy trách nhiệm như “Xuyên tạc lịch sử”; “Thông tin sai sự thật gây hoang mang trong nhân dân”... Đó là vì họ đã “Để cho người sử dụng dịch vụ thực hiện hành vi được quy định tại Khoản 1, 2 Điều 8 Luật An ninh mạng”.
Điều kiện thứ tư đặt ra một yêu cầu ngược. Các nơi ví dụ như Facebook phải “cung cấp thông tin người dùng cho lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng thuộc Bộ Công an khi có yêu cầu bằng văn bản để phục vụ điều tra, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về an ninh mạng”. Nếu họ cung cấp xem như không hội đủ điều kiện thứ tư nên khỏi lưu trữ dữ liệu, khỏi mở văn phòng tại Việt Nam. Nếu họ từ chối cung cấp sẽ được xem là “vi phạm quy định tại Khoản 4 Điều 8, điểm a hoặc điểm b khoản 2 Điều 26 Luật An ninh mạng” và như thế là hội đủ cả 4 điều kiện!
Ở đây ngoài việc cung cấp thông tin còn có việc phải xóa nội dung được xem là xấu, độc hại. Xóa thì thôi; không xóa là vi phạm nên xem như hội đủ điều kiện. Xem ra Nghị định được soạn rất khéo, rất thông minh. Doanh nghiệp nước ngoài khó lòng kêu ca gì nữa vì yêu cầu lưu dữ liệu và mở văn phòng ở Việt Nam không phải áp dụng cho tất cả. Chỉ áp dụng yêu cầu này cho doanh nghiệp nào để người dùng vi phạm Luật An ninh mạng và không “hợp tác” để “khắc phục” theo quy định tại Luật An ninh mạng. Nói cách khác dự thảo Nghị định này đúng như tên gọi của nó là “quy định chi tiết một số điều” mà thôi, nó không mở rộng, không làm nặng hơn hay làm nhẹ đi Luật An ninh mạng.
Published on November 03, 2018 01:09
October 29, 2018
Gánh nặng nợ nước ngoài
Gánh nặng nợ nước ngoài
Theo số liệu chính thức, tính đến cuối năm 2017, trong tổng dư nợ Chính phủ vào khoảng 2,593 triệu tỷ đồng thì đến 1,547 triệu tỷ đồng là vay trong nước chủ yếu thông qua phát hành trái phiếu bằng nội tệ. Nợ nước ngoài của Chính phủ chiếm hơn 1 triệu tỷ đồng một chút, chủ yếu là các khoản vay ưu đãi từ các định chế quốc tế.
Tuy nhiên, điều đáng lo nằm ở chỗ khác: Nợ nước ngoài của quốc gia vào thời điểm cuối năm 2017 là 2,451 triệu tỷ đồng bằng 49% GDP; mặc dù nằm trong giới hạn được Quốc hội cho phép (chưa vượt 50% GDP) nhưng đang tăng nhanh.
Ở đây cần lưu ý, nợ nước ngoài của quốc gia bao gồm nợ nước ngoài của Chính phủ, nợ vay nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh và cả nợ của doanh nghiệp vay nước ngoài theo phương thức tự vay tự trả. Có nghĩa doanh nghiệp tư nhân vay nợ nước ngoài, không dính dáng gì đến Chính phủ thì khoản nợ của họ vẫn phải tính vào nợ nước ngoài của quốc gia. Chính vì thế ở trên nói nợ nước ngoài của Chính phủ chỉ hơn 1 triệu tỷ đồng trong khi nợ nước ngoài của quốc gia lại lên đến gần 2,5 triệu tỷ đồng.
Trong tổng nợ nước ngoài vào cuối năm 2017, nợ nước ngoài trung hạn và dài hạn của doanh nghiệp tự vay tự trả cộng với nợ ngắn hạn của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng lên đến 1,158 triệu tỷ đồng, cao hơn cả nợ nước ngoài của Chính phủ.
Nguyên nhân làm cho nợ nước ngoài của quốc gia tăng nhanh nằm ở các khoản tự vay tự trả của doanh nghiệp (các khoản vay trung và dài hạn tăng 22,56%, các khoản vay ngắn hạn tăng 73% so với năm 2016). Doanh nghiệp tự vay tự trả, mặc dù phải báo với Ngân hàng Nhà nước, nhưng nằm ngoài tầm kiểm soát trực tiếp của Chính phủ.
Chẳng hạn trong mức tăng đột biến 73% các khoản vay ngắn hạn của doanh nghiệp có khoản vay nước ngoài của công ty Vietnam Beverage (đăng ký là công ty trong nước) khoảng 5 tỷ đô-la mà trước đó chúng ta cứ tưởng phía Thái Lan trực tiếp rót vào ở dạng đầu tư để mua lại cổ phần của Sabeco.
Liên quan đến nợ nước ngoài, nhiều người cứ nhầm tưởng cuộc khủng hoảng hiện nay của Thổ Nhĩ Kỳ là do tranh chấp với Mỹ hai bên áp thuế lên hàng hóa của nhau.
Thật ra, cũng giống trường hợp Thái Lan vào năm 1997, khủng hoảng nổ ra ở Thổ Nhĩ Kỳ chủ yếu do nợ nước ngoài gây sức ép lên nền kinh tế. Những năm trước đồng vốn giá rẻ thúc đẩy các ngân hàng Thổ Nhĩ Kỳ vay ngoại tệ về cho doanh nghiệp trong nước vay lại. Chỉ cần một hai biến cố làm chủ nợ lo ngại là áp lực thu hồi nợ gia tăng, đồng nội tệ lira mất giá đến 70% từ đầu năm đến nay, khả năng trả nợ khó dần, doanh nghiệp phá sản, hệ thống ngân hàng lung lay… Nói cách khác, đó là cái giá phải trả khi vay nguồn vốn ngoại tệ thay vì dựa vào khả năng tài chính trong nước.
Đã đến lúc Chính phủ phải siết lại các khoản vay nước ngoài của doanh nghiệp dù dưới dạng tự vay tự trả nếu thực chất chúng là các khoản vốn mua lại cổ phần của doanh nghiệp Việt Nam. Nếu cứ để các công ty thực chất là của nước ngoài nhưng đăng ký là doanh nghiệp trong nước thì các khoản vay của họ sẽ thành nợ nước ngoài của quốc gia.
Trước mắt Thủ tướng Chính phủ đã giảm hạn mức vay nước ngoài của doanh nghiệp theo dạng tự vay tự trả xuống còn 5 tỷ đô-la, giảm 0,5 tỷ đô-la so với quyết định trước đó; dư nợ vay nước ngoài ngắn hạn của doanh nghiệp không vượt quá số dư nợ vào cuối năm 2017. Đây là những biện pháp tình thế cần thiết trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động. Vấn đề là giữ vững kỷ cương phép nước để không doanh nghiệp nào được vượt rào vay quá hạn ngạch đã đặt ra, đưa các cơ quan quản lý nhà nước vào thế khó như vụ mua lại Sabeco vừa rồi.
Published on October 29, 2018 04:33
October 24, 2018
Khát vọng 4.0 và thực tế muốn “quản”
Khát vọng 4.0 và thực tế muốn “quản”
Tại buổi lễ khai giảng khóa mới của trường Chính sách công và Quản lý thuộc Đại học Fulbright vào đầu tuần này, TS Vũ Thành Tự Anh đã đưa ra nhận định: “Đa số chúng ta như những cổ động viên, đứng trên bến cảng hò reo và cổ vũ đoàn tầu 4.0 lướt sóng ra khơi, nhưng lại nhất định không chịu lên tàu”. Đó là cách ông đối chọi giữa sự xôn xao của cả nước về cách mạng công nghiệp 4.0 với thói quen của người Việt Nam: nói nhiều hơn làm.
Khác với cách hiểu cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 ở các nước, đặc biệt tại Đức nơi xuất phát khái niệm này chỉ xem đây là cách các nhà máy phải cải tiến để có thể tăng năng suất nhờ vào sự kết nối mọi thành phần trong dây chuyền, Việt Nam hiểu cách mạng công nghiệp 4.0 như một sự tổng hòa khi vạn vật kết nối tạo ra sự thông minh trong quản lý sản xuất, khi trí tuệ thông minh nhân tạo, rô-bốt làm thay cho con người trong nhiều hoạt động và khi dữ liệu lớn đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra các thuật toán ẩn đằng sau sự vận hành của xã hội…
Cách hiểu như vậy cũng có thể tạo ra một khát vọng không chịu tụt hậu một lần nữa như thời ông ta từng tụt hậu vì chính sách “bế quan, tỏa cảng” và nhờ thế khát vọng này tạo ra động lực thiết kế các chính sách thích ứng với thời đại đang có nhiều biến đổi.
Đáng tiếc, khát vọng thì có – dẫn tới sự hò reo và cổ vũ nhưng hành động thì tréo ngoe như những bước chân rụt rè, thối lui, không chịu lên tàu. Sự dằng co đó nhìn ở đâu cũng thấy.
Dự thảo nghị định mới nhất của Bộ Giao thông Vận tải ngó lơ loại hình “taxi điện tử”, bắt Grab, Go-Viet hay Uber nếu doanh nghiệp này còn hiện diện ở đây chịu chung những quy định kinh doanh như taxi truyền thống. Một dự thảo khác của Bộ Thông tin Truyền thông muốn các nơi cung cấp dịch vụ xuyên biên giới như Netflix, Spotify phải chịu các ràng buộc như doanh nghiệp trong nước.
Cả hai dự thảo này đều có xuất phát điểm là bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp trong nước trước nguy cơ bị các loại hình dịch vụ xuyên biên giới đè bẹp. Sự trăn trở của người làm chính sách là có thật nhưng chỉ đáng ghi nhận khi sự trăn trở đó nhằm bảo vệ người tiêu dùng khỏi các sự cố họ từng gặp phải khi sử dụng Uber hay Grab. Ngược lại, nếu chỉ chăm chăm bảo hộ doanh nghiệp trong nước, nỗ lực chính sách như thế chẳng khác nào chuyện “bế quan, tỏa cảng” ngày xưa. Cơn sóng mô hình kinh doanh mới sẽ còn dội vào và xô đẩy nhiều doanh nghiệp khác; phải để họ làm quen với sóng dữ và tự lớn mạnh; càng che chắn chỉ càng làm họ suy yếu mà thôi
Ở những diễn biến khác, khát vọng 4.0 nếu có cũng bị triệt tiêu bởi tầm nhìn ngắn hạn. Những cá nhân khởi nghiệp sử dụng nền tảng của Facebook, Google, YouTube để thu tiền của người dùng khắp thế giới – hãy khoan chăm chăm vào việc thu cho được thuế từ họ. Họ đã và sẽ nộp thuế nhưng họ cần những chính sách động viên để nhiều người có khát vọng như thế làm được điều họ làm. Amazon đang kêu gọi và tạo điều kiện cho người Việt Nam, doanh nghiệp Việt Nam lên nền tảng này bán hàng cho khách khắp thế giới. Chúng ta đã làm được gì để khuyến khích họ ngoại trừ những tính toán thu thuế?
Mô hình kinh doanh mới dựa vào công nghệ không hẳn toàn màu hồng. Tiền ảo chưa được ứng dụng gì nhiều, lừa đảo đã nở rộ; cho vay ngang hàng chưa tiết kiệm cho nền kinh tế bao nhiêu, rất nhiều gia đình tán gia bại sản vì nó; thanh toán qua điện thoại di động chưa thâm nhập được bao nhiêu người thì dân du lịch Trung Quốc đã lợi dụng nó để trốn thuế. Nhưng nên nhớ không vì các mặt trái này mà các nước cấm đoán những mô hình kinh doanh mới. Giới ngân hàng các nước qua Trung Quốc học cách thanh toán không dùng tiền mặt của WeChat và AliPay. Trung Quốc siết cho vay ngang hàng bằng các quy định ngặt nghèo nhưng vẫn để các nền tảng này hoạt động. Chính phủ nhiều nước vẫn bỏ công sức, tiền bạc để nghiên cứu tiền ảo và công nghệ blockchain.
Nếu chỉ reo hò và cổ vũ, chúng ta sẽ không thấy được mặt trái của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Cũng tại buổi lễ khai giảng vào đầu tuần này TS Vũ Thành Tự Anh nhận xét: “Những đột phá có tính cách mạng trong thập kỷ vừa qua về khoa học và công nghệ một mặt đem lại vô vàn cơ hội, song đồng thời cũng tạo ra nhiều thách thức mới như chiến tranh và an ninh mạng, bất bình đẳng trong thời đại kỹ thuật số, hay nguy cơ thất nghiệp trên diện rộng của lao động kỹ năng thấp do những đột phá về tự động hóa và rô-bốt hóa”.
Nhưng nếu rụt chân không chịu lên tàu bằng cách đẻ ra các chính sách như thể chúng ta vô can thì tốt hơn hết là đừng nói gì thêm về cách mạng công nghiệp, kể cả thụt về 3.0.
Published on October 24, 2018 19:20
Nguyễn Vạn Phú's Blog
- Nguyễn Vạn Phú's profile
- 18 followers
Nguyễn Vạn Phú isn't a Goodreads Author
(yet),
but they
do have a blog,
so here are some recent posts imported from
their feed.
