Nguyễn Vạn Phú's Blog, page 11
March 24, 2016
Luật báo chí, nhà báo và người dân
Nói thêm: Có một bài mới (“Tư nhân và báo chí”) nhưng để TTCT bán báo giấy vài hôm, tuần sau sẽ đưa lên đây. Tạm thời mời đọc một bài cũ, cũng về Luật Báo chí:
Đôi lúc chúng ta tò mò về Luật báo chí khi gặp chuyện phiền phức với một tờ báo nào đó. Một bác sĩ bị trích lời sai lệch, một ca sĩ bị báo bịa chuyện phỏng vấn trong khi chưa hề gặp phóng viên nào, một nhà nghiên cứu bị gán cho những phát biểu gây sốc trên báo… Có lẽ lúc đó mà có Luật báo chí ngay trước mắt để đọc xem luật quy định như thế nào thì hay quá. Ngoài ra, dường như chẳng ai quan tâm đến đạo luật này, trừ giới nhà báo! Nhưng có đúng vậy chăng?
Luật Báo chí và người dân
Có lẽ ít người biết Luật báo chí trao cho người dân những quyền rất lớn để bảo vệ họ trước sự lạm quyền, nếu có, của báo chí. Luật hiện hành (sửa đổi năm 1999) cho phép bất kỳ ai có căn cứ cho rằng báo đăng sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm đến mình thì hồi đáp và báo phải có nghĩa vụ đăng tải hồi đáp đó. Luật sửa đổi (Quốc hội sắp bàn để thông qua) còn tiến thêm một bước nữa khi khẳng định dù báo không đồng tình với phản hồi đó thì cũng vẫn phải đăng rồi mới được tiếp tục thông tin làm rõ quan điểm của báo.
Thực tế nhiều người bị báo nói sai cũng im lặng cho qua vì không muốn dây dưa với báo chí. Trừ một số ít trường hợp đem nhau ra tòa, nhiều người dùng biện pháp nhờ cơ quan quản lý báo chí can thiệp, nhất là giới có quan hệ tốt như chính quyền địa phương, doanh nghiệp nhà nước hay có đầy đủ phương tiện để vận động can thiệp.
Chính điều này đã làm méo mó quan hệ giữa người dân và báo chí, phá hỏng một quá trình xây dựng trách nhiệm giải trình của báo chí trước công luận để khỏi rơi vào bế tắc “ai giám sát người đi giám sát”.
Vì vậy, điều nhiều người mong muốn ở Luật báo chí sửa đổi lần này là một sự chế tài, kể cả quy định chi tiết cách kiện ra tòa, để báo chí phải tuân thủ tính chuyên nghiệp, tính nghiêm túc trong đưa tin có ảnh hưởng đến người khác.
Sự chế tài đó hiện thiếu vắng ở dự thảo đang lưu hành vì, ví dụ trong trường hợp nói trên, luật quy định sau ba lần đăng phản hồi qua lại giữa tổ chức, cá nhân và cơ quan báo chí mà không đạt được sự nhất trí thì… thôi, báo có quyền im lặng! Hoặc nghĩa vụ đăng tải phản hồi lại bị vô hiệu hóa bởi một điều luật khác: “Cơ quan báo chí có quyền không đăng, phát ý kiến phản hồi của tổ chức, cá nhân nếu ý kiến đó vi phạm pháp luật, xúc phạm đến uy tín, danh dự của cơ quan báo chí, của tác giả”.
Nói đi thì cũng phải nói lại, cũng may là người dân ít để ý đến Luật báo chí và văn bản dưới luật có liên quan. Hình như ít ai biết có một quy chế, đặt ra quy định “nếu người được phỏng vấn yêu cầu xem lại nội dung trước khi đăng, phát, cơ quan báo chí và người phỏng vấn không được từ chối yêu cầu đó”. Nếu ai cũng biết và đòi hỏi thực hiện yêu cầu này thì xem như báo chí bó tay, không còn những bài phỏng vấn góc cạnh, bất ngờ và độc đáo nữa. Và cũng may, yêu cầu này không có trong dự thảo Luật báo chí sửa đổi.
Như thế, mong muốn của người làm luật để Luật báo chí thể hiện quyền tự do báo chí của công dân, một điểm mới so với luật hiện hành, đã được hiểu một cách rất giản lược. Chẳng hạn đó chỉ là quy định công dân được quyền cung cấp thông tin cho báo chí, được phát biểu trên báo chí, góp ý, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí…
Vì quy định này mà sau đó có những điều luật chắc chắn không khả thi trong thực tế như bắt báo chí phải tiếp nhận và đăng các tin, bài, ảnh của công dân gửi tới, nếu không đăng thì phải có trách nhiệm trả lời. Thực tế không hề đơn giản như thế và tự do báo chí của công dân không chỉ là chuyện viết và đòi báo phải đăng.
Trong khi đó, một biểu hiện của quyền tự do báo chí của công dân là sự tự do biểu đạt suy nghĩ của họ dưới bất kỳ hình thức và phương tiện nào lại không được luật đề cập.
Với sự phức tạp và nhạy cảm của đề tài báo chí như một lãnh đạo trong ngành phát biểu, ít nhất cũng nên nhìn mối quan hệ giữa báo chí và công dân như nói ở phần đầu - tạo ra một hành lang pháp lý mạnh, có chế tài đầy đủ để công dân có mối quan hệ bình đẳng, hai bên cùng tôn trọng nhau, hợp tác với nhau vì sự lành mạnh của xã hội.
Luật Báo chí và nhà báo
Giả định chẳng ai quan tâm đến Luật báo chí, trừ giới nhà báo, hóa ra lại trật lất. Một cuộc thăm dò bỏ túi cho thấy trong mười nhà báo được hỏi, chỉ có hai người đã đọc dự thảo Luật báo chí sửa đổi. Dù số người đã đọc Luật báo chí hiện hành có cao hơn - đến sáu người - nhưng chỉ một người cho biết có tham khảo lại luật khi hành nghề bởi đa số nói luật không liên quan gì đến công việc làm báo của họ cả.
Nhà báo mà lại ít quan tâm đến Luật báo chí có lẽ vì ngoài phần quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận của công dân như đã nói thì đây là “luật quản lý báo chí” đúng hơn là “Luật báo chí”. Đúng là các phần liên quan đến quản lý nhà nước như cấp giấy phép, cấp thẻ nhà báo, cách tổ chức cơ quan báo chí… chiếm phần lớn nội dung của dự thảo.
Mà lạ một điều, dự thảo Luật báo chí sửa đổi có những điều khoản sẽ tác động rất lớn đến cách tổ chức cơ quan báo chí như người đứng đầu nay sẽ là tổng giám đốc, giám đốc chứ không phải là tổng biên tập nữa và mỗi cơ quan báo chí sẽ có nhiều tổng biên tập chịu trách nhiệm cho các ấn phẩm khác nhau. Các quy định này cần được thảo luận rộng rãi và sâu sắc để có cách tiếp cận phù hợp và công bằng.
Đó là bởi những điều thực chất hơn, thiết thân hơn trong hoạt động nghề nghiệp không được luật nhắc đến hay nhắc đến một cách sơ sài. Chẳng hạn, hiện nay giới báo chí rất phiền bực chuyện hàng ngàn trang “thông tin điện tử tổng hợp” cứ sao chép nguyên xi các bài viết trên báo đem về làm như của họ. Cứ nghĩ mà xem, một trang tổng hợp như thế, chép từ hàng chục tờ báo chắc chắn sẽ hấp dẫn hơn bản thân từng tờ báo riêng lẻ.
Vậy là báo chí chỉ biết ngồi nhìn người khác cướp tài sản trên tay về để kinh doanh mà không làm sao ngăn được. Thế nhưng Luật báo chí sửa đổi có giải quyết được việc này không? Không hề. Thậm chí còn khuyến khích các trang thông tin điện tử tổng hợp “trích dẫn nguyên văn, chính xác nguồn tin báo chí”!
Ở đây xin bàn thêm một điểm. Luật báo chí nguyên thủy năm 1989 nói nhiệm vụ của báo chí là “thông tin trung thực về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới”. Đến khi sửa luật vào năm 1999, điều này được sửa thành “thông tin trung thực về tình hình trong nước và thế giới phù hợp với lợi ích của đất nước và của nhân dân” và đến dự thảo lần này cũng gần như giữ nguyên so với năm 1999 (“thông tin trung thực về tình hình đất nước và thế giới phù hợp với lợi ích của đất nước và của nhân dân”).
Với nội dung này, một ông chủ tịch tỉnh hoàn toàn có thể ra lệnh cho báo tỉnh và các văn phòng đại diện báo khác ở tỉnh này không được đăng chuyện ông ra công văn yêu cầu công chức trong tỉnh phải uống bia sản xuất tại tỉnh này. Bởi đăng như thế là có hại đến lợi ích của tỉnh cũng như dân trong tỉnh!
Đã từng có những yêu cầu không đưa chuyện nông dân bị ép giá mua lúa vì sợ nhà nhập khẩu nước ngoài biết, ép thêm; hay chuyện không đưa tin có nơi có lúc bỏ tạp chất vào nông sản xuất khẩu - tất cả đều dưới lý do không phù hợp với lợi ích của đất nước và của nhân dân. Trong cái nhìn dài hạn, đấu tranh để dứt khoát loại bỏ các tật xấu này đòi hỏi báo chí phải lên tiếng một cách đều đặn, bền bỉ và kịp thời để cái xấu không lan ra.
Trong cuộc sống có hàng ngàn ví dụ như thế mà nhà báo phải đương đầu, cân nhắc hằng ngày. Luật cần giúp cho quá trình này diễn ra bình thường và lành mạnh, khoa học, để luật thật sự đi vào cuộc sống.
Published on March 24, 2016 19:13
March 23, 2016
Donald Trump - 3
Donald Trump và báo chí Mỹ
Đối với ứng cử viên tổng thống Donald Trump, báo chí Mỹ đi từ chỗ cười cợt xem chuyện ông này tuyên bố tranh cử như trò đùa đến chỗ chế diễu, mạt sát, cãi nhau rồi lên án các tuyên bố của Trump và cuối cùng là lo sợ viễn cảnh Trump thắng cử. Rất ít có các bài viết đi tìm nguyên nhân từ phía một bộ phận không nhỏ cử tri thuộc đảng Cộng Hòa đang hết lòng ủng hộ ông ta.
Mãi đến đầu tuần này mới thấy bài mang tính bình luận của cây bỉnh bút báo New York Times, David Brooks thú nhận: “Cần phải tôn trọng [cử tri Cộng Hòa đã bầu cho Donald Trump]. Những cử tri của Trump là một liên minh những người bị truất hữu. Họ chịu cảnh mất việc làm, mất lương bổng, mất ước mơ. Hệ thống Mỹ không hiệu quả đối với họ, cho nên đương nhiên họ phải đi tìm một thứ khác”.
Quan trọng hơn, Brooks thừa nhận trong chuyện đó có phần lỗi của báo chí: “Nhiều người trong giới truyền thông, đặc biệt là tôi, đã không hiểu được cách họ [tức các cử tri chọn Trump] muốn biểu đạt sự ghẻ lạnh của họ. Chúng tôi cứ trông chờ Trump thất bại bởi chúng tôi không hòa nhập xã hội với những người ủng hộ ông ta và không chịu lắng nghe kỹ. Với tôi, đây là bài học buộc phải thay đổi cách hành nghề nếu muốn tiếp tục viết đúng về đất nước này”.
Thế nhưng dường như đã muộn, vì với Brooks, phần còn lại của bài báo vẫn là cách tác giả chứng minh Trump không xứng đáng làm tổng thống như thế nào. Tác giả vẫn chưa chịu lắng nghe xem thử những người ủng hộ Trump muốn gì chứ bản thân Trump dù thắng cử hay không cũng đã đóng trọn vai trò – buộc chính giới nước Mỹ phải lắng nghe ít nhất là một phần cử tri đang bất mãn để điều chỉnh quan điểm và chính sách.
Nói một cách ngắn gọn nhất thì làn sóng toàn cầu hóa và số hóa đã biến nhiều người thành tỉ phú trong chớp mắt nhưng cũng đã tước đoạt công ăn việc làm của hàng triệu công nhân Mỹ, ép lương của hàng triệu người khác không tăng trong hàng chục năm liền, rồi khủng hoảng tài chính tước mất những khoản tiền dành dụm của hàng triệu người khác. Cái đánh mất lớn nhất của giới thua thiệt này là lòng tự trọng nên giờ phản ứng của họ, kể cả ủng hộ Trump chống dân nhập cư là có thể hiểu được.
Nhưng ở đây điều muốn nói là báo chí đã đánh mất vai trò làm thành trì bảo vệ cho các giá trị dân chủ một cách vừa chủ quan vừa khách quan.
Khách quan mà nói, ví dụ tờ New York Times có chừng 2 triệu độc giả trong khi tài khoản Twitter của Donald Trump có đến 6,7 triệu người theo dõi. Mỗi ngày Trump hay bộ máy phụ việc cho ông viết chừng 20 mẩu tin ngắn, tạo ra một dòng chảy thông tin khá liên tục mà các báo khác lại phải trích dẫn, càng mở rộng độ phủ sóng của Trump. Vậy thì Trump cần gì đến báo chí và thực tế Trump đã xung đột với báo chí Mỹ ngay từ những ngày đầu tranh cử.
Với Twitter và Facebook, báo chí không còn độc quyền vai trò làm cầu nối chuyển tải thông tin. Giờ bất kỳ ứng cử viên nào cũng có thể tiếp xúc trực tiếp với cử tri qua các kênh truyền thông xã hội.
Trong khi thông tin trên mạng xã hội đầy thiên kiến, chủ quan và phiến diện người ta trông chờ báo chí như một bộ lọc giúp họ gạn đục khơi trong, phân định đâu là sự thật thì trong lúc theo chiến dịch tranh cử của Trump, nhiều báo chỉ việc lập lại những thông tin trước đó đã lan truyền trên Twitter hay Facebook chẳng khác gì một cánh tay nối dài cho mạng xã hội chứ không phải đối trọng với mạng xã hội.
Vì thế về mặt chủ quan, lẽ ra báo chí phải là kênh thông tin đáng tin cậy cho quần chúng nhờ tính khách quan, kiểm chứng thông tin, dày công phỏng vấn, điều tra, tìm hiểu ngọn nguồn. Đằng này trong một thời gian dài, chỉ thấy những bài chọc quê Trump hay theo sát chân ông này để tường thuật mọi câu nói, mọi hành vi mang tính câu khách của ông ta cũng vì báo chí hớn hở đăng những tin câu khách như thế. Nhiều tờ báo lớn ở Mỹ, nhất là các đài truyền hình xem Trump như một hiện tượng giải trí hơn là chính trị nghiêm túc.
Chính cây bút bình luận của tờ Washington Post Kathleen Parker từng viết vào những ngày đầu khi Trump ra tranh cử, "Ngắm Donald Trump thiệt hết sức thú vị, chúng ta không chỉ chờ từng lời. Chúng ta ngồi ở mép ghế, chờ lời kế tiếp. Gã này sắp nói gì nữa đây?"
Tờ New York Times tính toán và cho biết Donald Trump được báo chí tặng không 1,9 tỉ đô-la giá trị quảng bá miễn phí khi bất kỳ những gì ông ta nói đều được tường thuật đầy đủ bất kể chúng không có giá trị thông tin gì cả.
Chẳng lạ gì trưởng đại diện tờ Der Spiegel tại Washington, nhà báo Holger Stark trong bài viết“Donald Trump và thất bại của truyền thông Mỹ” đã phải than: Nếu Trump thật sự trở thành ứng cử viên của đảng Cộng Hòa hay, tệ hơn, trở thành tổng thống kế tiếp của nước Mỹ, sự tổn hại cho nền dân chủ sẽ là đáng kể, không chỉ bởi vì nó biến nước Mỹ thành một nước chuyên quyền nhưng nó còn có nghĩa trong cuộc bầu cử này, nguyên tắc giám sát công [thông qua báo chí] và vì thế cả nền dân chủ đã thất bại”.
Đối với ứng cử viên tổng thống Donald Trump, báo chí Mỹ đi từ chỗ cười cợt xem chuyện ông này tuyên bố tranh cử như trò đùa đến chỗ chế diễu, mạt sát, cãi nhau rồi lên án các tuyên bố của Trump và cuối cùng là lo sợ viễn cảnh Trump thắng cử. Rất ít có các bài viết đi tìm nguyên nhân từ phía một bộ phận không nhỏ cử tri thuộc đảng Cộng Hòa đang hết lòng ủng hộ ông ta.
Mãi đến đầu tuần này mới thấy bài mang tính bình luận của cây bỉnh bút báo New York Times, David Brooks thú nhận: “Cần phải tôn trọng [cử tri Cộng Hòa đã bầu cho Donald Trump]. Những cử tri của Trump là một liên minh những người bị truất hữu. Họ chịu cảnh mất việc làm, mất lương bổng, mất ước mơ. Hệ thống Mỹ không hiệu quả đối với họ, cho nên đương nhiên họ phải đi tìm một thứ khác”.
Quan trọng hơn, Brooks thừa nhận trong chuyện đó có phần lỗi của báo chí: “Nhiều người trong giới truyền thông, đặc biệt là tôi, đã không hiểu được cách họ [tức các cử tri chọn Trump] muốn biểu đạt sự ghẻ lạnh của họ. Chúng tôi cứ trông chờ Trump thất bại bởi chúng tôi không hòa nhập xã hội với những người ủng hộ ông ta và không chịu lắng nghe kỹ. Với tôi, đây là bài học buộc phải thay đổi cách hành nghề nếu muốn tiếp tục viết đúng về đất nước này”.
Thế nhưng dường như đã muộn, vì với Brooks, phần còn lại của bài báo vẫn là cách tác giả chứng minh Trump không xứng đáng làm tổng thống như thế nào. Tác giả vẫn chưa chịu lắng nghe xem thử những người ủng hộ Trump muốn gì chứ bản thân Trump dù thắng cử hay không cũng đã đóng trọn vai trò – buộc chính giới nước Mỹ phải lắng nghe ít nhất là một phần cử tri đang bất mãn để điều chỉnh quan điểm và chính sách.
Nói một cách ngắn gọn nhất thì làn sóng toàn cầu hóa và số hóa đã biến nhiều người thành tỉ phú trong chớp mắt nhưng cũng đã tước đoạt công ăn việc làm của hàng triệu công nhân Mỹ, ép lương của hàng triệu người khác không tăng trong hàng chục năm liền, rồi khủng hoảng tài chính tước mất những khoản tiền dành dụm của hàng triệu người khác. Cái đánh mất lớn nhất của giới thua thiệt này là lòng tự trọng nên giờ phản ứng của họ, kể cả ủng hộ Trump chống dân nhập cư là có thể hiểu được.
Nhưng ở đây điều muốn nói là báo chí đã đánh mất vai trò làm thành trì bảo vệ cho các giá trị dân chủ một cách vừa chủ quan vừa khách quan.
Khách quan mà nói, ví dụ tờ New York Times có chừng 2 triệu độc giả trong khi tài khoản Twitter của Donald Trump có đến 6,7 triệu người theo dõi. Mỗi ngày Trump hay bộ máy phụ việc cho ông viết chừng 20 mẩu tin ngắn, tạo ra một dòng chảy thông tin khá liên tục mà các báo khác lại phải trích dẫn, càng mở rộng độ phủ sóng của Trump. Vậy thì Trump cần gì đến báo chí và thực tế Trump đã xung đột với báo chí Mỹ ngay từ những ngày đầu tranh cử.
Với Twitter và Facebook, báo chí không còn độc quyền vai trò làm cầu nối chuyển tải thông tin. Giờ bất kỳ ứng cử viên nào cũng có thể tiếp xúc trực tiếp với cử tri qua các kênh truyền thông xã hội.
Trong khi thông tin trên mạng xã hội đầy thiên kiến, chủ quan và phiến diện người ta trông chờ báo chí như một bộ lọc giúp họ gạn đục khơi trong, phân định đâu là sự thật thì trong lúc theo chiến dịch tranh cử của Trump, nhiều báo chỉ việc lập lại những thông tin trước đó đã lan truyền trên Twitter hay Facebook chẳng khác gì một cánh tay nối dài cho mạng xã hội chứ không phải đối trọng với mạng xã hội.
Vì thế về mặt chủ quan, lẽ ra báo chí phải là kênh thông tin đáng tin cậy cho quần chúng nhờ tính khách quan, kiểm chứng thông tin, dày công phỏng vấn, điều tra, tìm hiểu ngọn nguồn. Đằng này trong một thời gian dài, chỉ thấy những bài chọc quê Trump hay theo sát chân ông này để tường thuật mọi câu nói, mọi hành vi mang tính câu khách của ông ta cũng vì báo chí hớn hở đăng những tin câu khách như thế. Nhiều tờ báo lớn ở Mỹ, nhất là các đài truyền hình xem Trump như một hiện tượng giải trí hơn là chính trị nghiêm túc.
Chính cây bút bình luận của tờ Washington Post Kathleen Parker từng viết vào những ngày đầu khi Trump ra tranh cử, "Ngắm Donald Trump thiệt hết sức thú vị, chúng ta không chỉ chờ từng lời. Chúng ta ngồi ở mép ghế, chờ lời kế tiếp. Gã này sắp nói gì nữa đây?"
Tờ New York Times tính toán và cho biết Donald Trump được báo chí tặng không 1,9 tỉ đô-la giá trị quảng bá miễn phí khi bất kỳ những gì ông ta nói đều được tường thuật đầy đủ bất kể chúng không có giá trị thông tin gì cả.
Chẳng lạ gì trưởng đại diện tờ Der Spiegel tại Washington, nhà báo Holger Stark trong bài viết“Donald Trump và thất bại của truyền thông Mỹ” đã phải than: Nếu Trump thật sự trở thành ứng cử viên của đảng Cộng Hòa hay, tệ hơn, trở thành tổng thống kế tiếp của nước Mỹ, sự tổn hại cho nền dân chủ sẽ là đáng kể, không chỉ bởi vì nó biến nước Mỹ thành một nước chuyên quyền nhưng nó còn có nghĩa trong cuộc bầu cử này, nguyên tắc giám sát công [thông qua báo chí] và vì thế cả nền dân chủ đã thất bại”.
Published on March 23, 2016 06:18
March 22, 2016
Donald Trump - 2
Hiện tượng Donald Trump
Để hiểu vì sao ứng cử viên Tổng thống Donald Trump lại gây sóng gió cho chính trường Mỹ, nhất là đảng Cộng Hòa của ông ta đến thế, không thể trông chờ vào các bài phân tích trên báo chí dòng chính của Mỹ. Ngay cả các tờ báo lớn cũng viết về Donald Trump với vẻ coi thường, như đang tả một gã hề trên sân khấu của Shakespeare, hoàn toàn không có cơ may thắng cử. Mà lạ một điều, coi thường như thế nhưng tin tức về Donald Trump cứ tràn ngập mặt báo như thể ai nấy đều bị ông này ám ảnh, vừa ghét vừa mê.
Chính cây bút bình luận của tờ Washington Post Kathleen Parker viết, "Ngắm Donald Trump thiệt hết sức thú vị, chúng ta không chỉ chờ từng lời. Chúng ta ngồi ở mép ghế, chờ lời kế tiếp. Gã này sắp nói gì nữa đây?"
Cũng không thể tìm hiểu ở chính những hành động hay phát ngôn của Donald Trump bởi người như ông thời nào cũng có, nước nào cũng có, không nhiều thì ít. Thật ra, gạt các phát ngôn gây sốc của ông ta sang một bên, quan điểm của Donald Trump cũng từng được các ứng cử viên khác của đảng Cộng Hòa phát biểu, từ chính sách chống người nhập cư, chống Obamacare đến chống hôn nhân đồng tính, chống phá thai, chống Trung Quốc – không có gì khác nhau cho lắm.
Nói cách khác, hiện tượng Donald Trump không nằm ở bản thân ông ta – nó nằm ở hàng chục triệu người đang nhiệt tình ủng hộ ông ta – và nếu cuộc bỏ phiếu bầu Tổng thống Mỹ diễn ra ngay bây giờ, nào ai dám chắc Donald Trump không thắng cử? Hiện nay trong các cuộc thăm dò, Donald Trump dẫn đầu cách xa các ứng cử viên khác của đảng Cộng Hòa.
Vì sao hàng chục triệu người tin vào Trump bất kể nền tảng dân chủ và trí thức của nước Mỹ? Đó mới là vấn đề.
Ví dụ, Donald Trump từng tuyên bố tỷ lệ thất nghiệp "thật sự" của nước Mỹ lên đến 42%. Báo chính thống chỉ cười giễu nhưng vẫn có người dân Mỹ tin Trump mặc dù số liệu chính thức cho thấy tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ đã giảm từ 10% vào năm 2009 xuống 5,3% vào năm 2015. Đó là bởi Trump biết cách đánh vào tâm lý tò mò của người thiếu thông tin, lại dễ bị cuốn vào "thuyết âm mưu" một khi có một khe hở nào đó. Khe hở ở đây là con số 5,3% nói trên không tính những người "thiếu việc làm", tức chỉ làm bán thời gian hay bỏ cuộc, không cố tình tìm việc làm nữa. Tính hết như thế, cộng với những người không đi làm vì nhiều lý do khác nhau như đang đi học, ở nhà làm nội trợ thì có đến 37% người Mỹ trên 16 tuổi (đến 93 triệu người) không tham gia lực lượng lao động của nước này – không xa con số của Trump đưa ra là mấy. Vấn đề là không ai tính tỷ lệ thất nghiệp theo kiểu của Trump cả.
Có lẽ người Mỹ đã chán cách nói "phải đạo" mà chính khách "tử tế" nào cũng phải học cho thuộc. Vì thế trong một khảo sát gần đây nhất khi cử tri được yêu cầu dùng một từ để miêu tả các ứng cử viên, từ được dùng nhiều nhất cho bà Hillary Clinton là "nói dối". Ví dụ, có lẽ nhiều người Mỹ bất mãn thấy dân nhập cư trái phép từ Mexico vào lấy hết việc làm của họ, sẽ thấy không ăn thua gì các biện pháp hạn chế mà các ứng cử viên khác đưa ra. Họ ngược lại sẽ vỗ tay hoan hô khi Trump "chửi" giùm họ rằng dân Mễ vào đây trái phép, đem theo ma túy và hãm hiếp. Cách nói của Trump khác nào khơi đúng nguồn bực tức và giận dữ của người dân mà do nền tảng giáo dục, tôn giáo, văn hóa, lại không dám bày tỏ bộc tuệch như thế.
Trong một cuộc trả lời phỏng vấn của báo New York Times, Donald Trump tiết lộ: Các ứng cử viên khác, họ thuê người mỗi tháng trả cả 200.000 đô-la chỉ để tư vấn, không nên nói cái này, không nên nói điều kia. Ông dùng sai từ rồi, đừng bỏ dấu phẩy ở đây… Tôi không muốn điều đó. Không ai bày tôi nên nói điều gì cả.
Thế là ông ta hết chê John McCain đến lăng mạ phụ nữ; hết ba hoa về quan hệ quốc tế kiểu như tôi quen hết mọi nhà thương thảo quốc tế nổi tiếng đến khoe mức độ giàu có của mình. Ví dụ về Trung Quốc ông này nói trong bài diễn văn tuyên bố ứng cử của mình: "Tôi không nói họ ngốc. Tôi thích Trung Quốc. Tôi vừa mới bán một căn hộ giá 15 triệu. Làm sao ghét họ được chứ?... Nhưng lãnh đạo của họ thông minh hơn lãnh đạo của chúng ta nhiều…" Hay khi nói về các đối thủ cùng đảng Cộng Hòa của ông ta: "Các ứng cử viên khác – họ bước vào, họ không biết máy lạnh không chạy. Họ đổ mồ hôi như các chú cẩu… Làm sao họ đánh thắng ISIS được. Tôi không nghĩ sẽ có chuyện đó".
Donald Trump là như thế, tuyên bố nào phát ra cũng gây sốc cho báo chí nhưng với những người Mỹ bảo thủ bình thường lại là điều họ đang suy nghĩ, kiểu như "biến đổi khí hậu là đồ giả", "bọn ngu đang thương thảo các hiệp định thương mại cho nước ta, thương mại mà làm gì"; "thuế doanh nghiệp 0% sẽ tạo ra hàng triệu việc làm"…
Bất kể sự tự tin, có lẽ dựa vào sự phi lý của các phát ngôn từ của ông ta, của báo chí chính thống Mỹ rằng Donald Trump sẽ là hiện tượng sớm nở tối tàn, rõ ràng ông ta đang có những ảnh hưởng sâu đậm lên chính trường Mỹ. Một khi đã có một tỷ lệ lớn cử tri Cộng Hòa tán thưởng cách suy nghĩ của Trump, các ứng cử viên khác không còn con đường nào khác là… bắt chước. Sự bắt chước đó có thể có hại cho nền văn hóa Mỹ một khi người ta bắt đầu khai thác sự phẫn nộ của người dân để đi theo con đường mị dân, khép kín, thậm chí như kiểu phát xít trong ứng xử với dân tộc khác. Châu Âu đã và đang đi theo con đường này; nhiều người sợ tương lai nước Mỹ cũng sẽ theo chân.
Hiện nay người ta đang sợ một khi Donald Trump không được đảng Cộng Hòa cử làm ứng cử viên, ông ta sẽ tiếp tục tranh cử như một ứng cử viên độc lập, lấy theo ông ta một lượng không nhỏ đảng viên Cộng Hòa kỳ cựu và như thế bất kỳ ai được đề cử phải chia phiếu cho ông ta. Mà có lẽ diễn biến những tháng sắp tới sẽ là như thế; đảng Cộng Hòa khó lòng nhượng vị trí ứng cử viên được đảng này đề cử cho Donald Trump được vì nỗi xấu hổ ông này đang đem lại hay ít nhất là nhiều người lãnh đạo đảng Cộng Hòa đang nghĩ như thế. Và nếu Donald Trump ra tranh cử với tư cách ứng cử viên độc lập, cán cân chính trị nước Mỹ sẽ thay đổi như thế nào vì diễn tiến này, chưa ai dám nói trước được. Đó chính là sức hút bất ngờ không cưỡng được của Trump.
Để hiểu vì sao ứng cử viên Tổng thống Donald Trump lại gây sóng gió cho chính trường Mỹ, nhất là đảng Cộng Hòa của ông ta đến thế, không thể trông chờ vào các bài phân tích trên báo chí dòng chính của Mỹ. Ngay cả các tờ báo lớn cũng viết về Donald Trump với vẻ coi thường, như đang tả một gã hề trên sân khấu của Shakespeare, hoàn toàn không có cơ may thắng cử. Mà lạ một điều, coi thường như thế nhưng tin tức về Donald Trump cứ tràn ngập mặt báo như thể ai nấy đều bị ông này ám ảnh, vừa ghét vừa mê.
Chính cây bút bình luận của tờ Washington Post Kathleen Parker viết, "Ngắm Donald Trump thiệt hết sức thú vị, chúng ta không chỉ chờ từng lời. Chúng ta ngồi ở mép ghế, chờ lời kế tiếp. Gã này sắp nói gì nữa đây?"
Cũng không thể tìm hiểu ở chính những hành động hay phát ngôn của Donald Trump bởi người như ông thời nào cũng có, nước nào cũng có, không nhiều thì ít. Thật ra, gạt các phát ngôn gây sốc của ông ta sang một bên, quan điểm của Donald Trump cũng từng được các ứng cử viên khác của đảng Cộng Hòa phát biểu, từ chính sách chống người nhập cư, chống Obamacare đến chống hôn nhân đồng tính, chống phá thai, chống Trung Quốc – không có gì khác nhau cho lắm.
Nói cách khác, hiện tượng Donald Trump không nằm ở bản thân ông ta – nó nằm ở hàng chục triệu người đang nhiệt tình ủng hộ ông ta – và nếu cuộc bỏ phiếu bầu Tổng thống Mỹ diễn ra ngay bây giờ, nào ai dám chắc Donald Trump không thắng cử? Hiện nay trong các cuộc thăm dò, Donald Trump dẫn đầu cách xa các ứng cử viên khác của đảng Cộng Hòa.
Vì sao hàng chục triệu người tin vào Trump bất kể nền tảng dân chủ và trí thức của nước Mỹ? Đó mới là vấn đề.
Ví dụ, Donald Trump từng tuyên bố tỷ lệ thất nghiệp "thật sự" của nước Mỹ lên đến 42%. Báo chính thống chỉ cười giễu nhưng vẫn có người dân Mỹ tin Trump mặc dù số liệu chính thức cho thấy tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ đã giảm từ 10% vào năm 2009 xuống 5,3% vào năm 2015. Đó là bởi Trump biết cách đánh vào tâm lý tò mò của người thiếu thông tin, lại dễ bị cuốn vào "thuyết âm mưu" một khi có một khe hở nào đó. Khe hở ở đây là con số 5,3% nói trên không tính những người "thiếu việc làm", tức chỉ làm bán thời gian hay bỏ cuộc, không cố tình tìm việc làm nữa. Tính hết như thế, cộng với những người không đi làm vì nhiều lý do khác nhau như đang đi học, ở nhà làm nội trợ thì có đến 37% người Mỹ trên 16 tuổi (đến 93 triệu người) không tham gia lực lượng lao động của nước này – không xa con số của Trump đưa ra là mấy. Vấn đề là không ai tính tỷ lệ thất nghiệp theo kiểu của Trump cả.
Có lẽ người Mỹ đã chán cách nói "phải đạo" mà chính khách "tử tế" nào cũng phải học cho thuộc. Vì thế trong một khảo sát gần đây nhất khi cử tri được yêu cầu dùng một từ để miêu tả các ứng cử viên, từ được dùng nhiều nhất cho bà Hillary Clinton là "nói dối". Ví dụ, có lẽ nhiều người Mỹ bất mãn thấy dân nhập cư trái phép từ Mexico vào lấy hết việc làm của họ, sẽ thấy không ăn thua gì các biện pháp hạn chế mà các ứng cử viên khác đưa ra. Họ ngược lại sẽ vỗ tay hoan hô khi Trump "chửi" giùm họ rằng dân Mễ vào đây trái phép, đem theo ma túy và hãm hiếp. Cách nói của Trump khác nào khơi đúng nguồn bực tức và giận dữ của người dân mà do nền tảng giáo dục, tôn giáo, văn hóa, lại không dám bày tỏ bộc tuệch như thế.
Trong một cuộc trả lời phỏng vấn của báo New York Times, Donald Trump tiết lộ: Các ứng cử viên khác, họ thuê người mỗi tháng trả cả 200.000 đô-la chỉ để tư vấn, không nên nói cái này, không nên nói điều kia. Ông dùng sai từ rồi, đừng bỏ dấu phẩy ở đây… Tôi không muốn điều đó. Không ai bày tôi nên nói điều gì cả.
Thế là ông ta hết chê John McCain đến lăng mạ phụ nữ; hết ba hoa về quan hệ quốc tế kiểu như tôi quen hết mọi nhà thương thảo quốc tế nổi tiếng đến khoe mức độ giàu có của mình. Ví dụ về Trung Quốc ông này nói trong bài diễn văn tuyên bố ứng cử của mình: "Tôi không nói họ ngốc. Tôi thích Trung Quốc. Tôi vừa mới bán một căn hộ giá 15 triệu. Làm sao ghét họ được chứ?... Nhưng lãnh đạo của họ thông minh hơn lãnh đạo của chúng ta nhiều…" Hay khi nói về các đối thủ cùng đảng Cộng Hòa của ông ta: "Các ứng cử viên khác – họ bước vào, họ không biết máy lạnh không chạy. Họ đổ mồ hôi như các chú cẩu… Làm sao họ đánh thắng ISIS được. Tôi không nghĩ sẽ có chuyện đó".
Donald Trump là như thế, tuyên bố nào phát ra cũng gây sốc cho báo chí nhưng với những người Mỹ bảo thủ bình thường lại là điều họ đang suy nghĩ, kiểu như "biến đổi khí hậu là đồ giả", "bọn ngu đang thương thảo các hiệp định thương mại cho nước ta, thương mại mà làm gì"; "thuế doanh nghiệp 0% sẽ tạo ra hàng triệu việc làm"…
Bất kể sự tự tin, có lẽ dựa vào sự phi lý của các phát ngôn từ của ông ta, của báo chí chính thống Mỹ rằng Donald Trump sẽ là hiện tượng sớm nở tối tàn, rõ ràng ông ta đang có những ảnh hưởng sâu đậm lên chính trường Mỹ. Một khi đã có một tỷ lệ lớn cử tri Cộng Hòa tán thưởng cách suy nghĩ của Trump, các ứng cử viên khác không còn con đường nào khác là… bắt chước. Sự bắt chước đó có thể có hại cho nền văn hóa Mỹ một khi người ta bắt đầu khai thác sự phẫn nộ của người dân để đi theo con đường mị dân, khép kín, thậm chí như kiểu phát xít trong ứng xử với dân tộc khác. Châu Âu đã và đang đi theo con đường này; nhiều người sợ tương lai nước Mỹ cũng sẽ theo chân.
Hiện nay người ta đang sợ một khi Donald Trump không được đảng Cộng Hòa cử làm ứng cử viên, ông ta sẽ tiếp tục tranh cử như một ứng cử viên độc lập, lấy theo ông ta một lượng không nhỏ đảng viên Cộng Hòa kỳ cựu và như thế bất kỳ ai được đề cử phải chia phiếu cho ông ta. Mà có lẽ diễn biến những tháng sắp tới sẽ là như thế; đảng Cộng Hòa khó lòng nhượng vị trí ứng cử viên được đảng này đề cử cho Donald Trump được vì nỗi xấu hổ ông này đang đem lại hay ít nhất là nhiều người lãnh đạo đảng Cộng Hòa đang nghĩ như thế. Và nếu Donald Trump ra tranh cử với tư cách ứng cử viên độc lập, cán cân chính trị nước Mỹ sẽ thay đổi như thế nào vì diễn tiến này, chưa ai dám nói trước được. Đó chính là sức hút bất ngờ không cưỡng được của Trump.
Published on March 22, 2016 06:26
Donald Trump - 1
Ẩn dụ sống ký sinh
Một hình ảnh được sử dụng thường xuyên trong các câu chuyện khoa học viễn tưởng: trong tương lai, loài người chia làm đôi - sống ở trên thong dong, thoải mái nhưng mềm yếu, dễ bị tổn thương, mất phương hướng cũng như mục đích sống là một nhóm; nhóm còn lại sống đâu đó dưới lòng trái đất, đen đủi, mạnh và dữ, luôn muốn đập phá như kiểu đang bị xiềng xích vô hình.
Chỉ là chuyện viễn tưởng nhưng đây là ẩn dụ có thể giúp chúng ta hiểu những gì đang xảy ra trên thế giới toàn cầu hóa đầy biến động, âm ỉ xung đột hiện nay.
Trong một xã hội bình thường luôn có sự tự nguyện phân công lao động, người chấp nhận làm công nhân lắp ráp máy móc, người chịu làm thợ may vá, người quét dọn và nhiều người khác làm đủ nghề xã hội cần như thầy giáo, bác sĩ, chuyên viên thị trường…
Làn sóng toàn cầu hóa do các công ty đa quốc gia thúc đẩy đã lấy đi nhiều công việc sản xuất tay chân bình thường từ nhiều nước phương Tây chuyển sang các nước khác, chủ yếu là các nước ở thế giới thứ ba. Bỗng chốc trong một giai đoạn tương đối ngắn, hàng loạt người tự nhiên thấy công việc của mình làm từ xưa tới nay một hôm biến mất. Hàng loạt thành phố trù phú phát triển quanh một nhà máy sản xuất ô tô hay một loại máy móc gia dụng nào đó qua một đêm hóa ra hoang phế vì ông chủ các nhà máy này thấy chuyển chúng qua Trung Quốc thì tiết kiệm chi phí nhân công hơn nhiều.
Các mỹ từ mà các nhà hoạch định chính sách, kể cả các nhà nghiên cứu không xoa dịu được nỗi lo của những người bị tước đoạt công việc: họ đâu thể "tiến lên trên nấc thang giá trị", họ đâu thể chuyển qua làm thiết kế, tiếp thị, nghiên cứu. Khi làm công nhân lắp ráp chiếc ô tô mặc dù chỉ là con ốc trong chuỗi sản xuất tự động hóa, người công nhân mệt mỏi ra về vào cuối ngày nhưng vẫn tự hào về đồng lương anh ta lãnh vì anh ta nghĩ mình đang tạo ra một giá trị nào đó.
Tương tự, có thể vợ anh ta mất đi công việc may quần áo, em anh ta mất đi công việc đóng giày… Và thế là xảy ra cuộc cạnh tranh hoặc xuống đáy, làm những công việc tay chân chưa thể "đóng gói xuất khẩu" hay ganh đua lên nấc thang kế. Cả hai hướng đều có tác dụng lên quy luật cung cầu theo nghĩa một số lượng người nhiều hơn tranh nhau lượng công việc như trước: dĩ nhiên hệ quả là lương sẽ bị ép giảm, sức lực càng bị vắt kiệt, ai không chịu nỗi sẽ có kẻ khác sẵn sàng nhảy vào thay.
Các nhà kinh tế có một ảo tưởng, rằng toàn cầu hóa với việc dịch chuyển công ăn việc làm như thế là hợp quy luật, tận dụng được nguồn lực tốt nhất của xã hội, rằng các nước phương Tây sẽ dần dần thích ứng với vai trò mới: ngồi vẽ ra các sản phẩm, lo chuyện quảng bá chúng còn sản xuất cứ để các nước đang phát triển đảm trách. Ai cũng có phần bánh ngon hơn, to hơn trước.
Thực tế cho thấy không phải tất cả người dân các nước phương Tây đều thích nghi được với vai trò "ngồi vẽ" như thế. Và cho dù các nước này giàu, đủ sức lo chuyện an sinh xã hội để người không "ngồi vẽ" được vẫn hưởng một khoản trợ cấp nhất định. Nhưng một khi họ đánh mất sự tự tin, sự tự trọng, niềm tin rằng họ đang làm ra một cái gì đó có giá trị cho xã hội, con người sẽ bị bần cùng hóa, ít nhất về mặt suy nghĩ. Và đó là căn nguyên của cuộc khủng hoảng xã hội đang diễn ra ở nhiều nước.
Có thể tìm thấy những số liệu, những hình ảnh minh họa cho bức tranh nói trên một cách dễ dàng trên báo chí khi họ chạm đến một mảng nào đó, ví dụ, sự điêu tàng của những thành phố bị bỏ hoang hay vì sao nền tảng giáo dục ở Mỹ tăng mạnh so với trước mà thất nghiệp vẫn cao và lương vẫn hầu như không đổi. Các cuộc biểu tình chống đối toàn cầu hóa trong nhiều năm qua cũng cho thấy người ta biết rõ thủ phạm. Và thỉnh thoảng báo chí Mỹ có những bài viết lay động lòng người như cái chết của một nhân viên Amazon, mỗi giờ phải đi lại trong một kho hàng rộng bằng 18 sân bóng đá để lấy ít nhất 100 món hàng giao cho khách. Giả dụ sau này Amazon làm ra con rô-bốt lo được chuyện đó, công việc nhàm chán, nặng nhọc và mất sức của anh này rồi cũng sẽ biến mất. Để cuối cùng xã hội được gì? Khách hàng Amazon mua đồ rẻ hơn vài xu còn ông chủ Amazon giàu thêm vài tỷ đô la chăng?
Thật ra câu chuyện này không có gì mới – cái mới là hệ hụy chúng gây ra đang tạo những xung lực ngầm gây tác động lên mọi mặt của cuộc sống.
Có thể kể đến những xu hướng như xung đột nhìn bên ngoài là vì màu da nhưng thực chất bên trong là sự bất mãn đang rộ lên ở một số thành phố bên Mỹ; các vụ bùng phát vì tức giận ở chỗ làm dẫn tới thảm sát; thất nghiệp trong giới trẻ ở nhiều nước châu Âu; góc nhìn cực hữu về dân nhập cư lại được tán tưởng ở một số giới…
Nhưng đáng chú ý nhất vẫn là sự xuất hiện của các chính khách "sống ký sinh" trên nền tảng câu chuyện này mà nổi bậc nhất vẫn là ứng cử viên Tổng thống Mỹ - Donald Trump.
Ở một thời khắc khác, một bối cảnh khác, người như Donald Trump không thể tồn tại trên chính trường Mỹ quá một ngày. Bởi ông ta quá cực đoan, quá khích, kích động lòng thù hận, không xem báo chí hay công luận ra gì, mạt sát các sắc dân thiểu số, hạ nhục phụ nữ, phỉ báng tôn giáo… Thế nhưng cho đến nay ông ta vẫn là ứng cử viên dẫn đầu của đảng Cộng Hòa trong thăm dò dư luận và thậm chí một số nhà quan sát không loại trừ khả năng ông ta giành được sự đề cử chính thức của đảng này để ra tranh cử chức vụ Tổng thống Mỹ vào năm sau.
Tờ New Yorker liệt kê một số phát ngôn gây sốc gần đây của Donald Trump. Kiểu như ở một cuộc diễn thuyết tại Iowa, Trump đưa ra một giải pháp đối với các mỏ dầu mà lực lượng ISIS đang nắm: "Tôi sẽ ném bom cho tiệt chúng đi. Tôi sẽ phá tan các đường ống dẫn dầu. Tôi sẽ cho nổ banh các nhà máy lọc dầu. Rồi chẳng còn gì và các bạn biết không, lúc đó Exxon sẽ nhảy vào và trong vòng hai tháng họ sẽ xây dựng lại hết thảy mới toanh. Lúc đó tôi sẽ lấy dầu này". Câu dịch này đã lượt bỏ các cụm từ chửi thề và tiếng đệm. Ở một ví dụ khác, tờ này trích lời Trump cho thấy ông ta tin rằng tra tấn là thứ vũ khí hữu hiệu: "Chỉ có kẻ dốt mới nói nó không hữu hiệu. Nếu không đi nữa thì chúng cũng đáng đời vì những gì chúng gây ra cho chúng ta". Tờ báo nói thêm "chúng" là ai thì họ cũng không biết.
Nói sao thì nói, dù giận dữ, bất mãn và hoang mang, dân Mỹ với nền tảng văn hóa thường phải tỏ ra "nói đúng đường hướng" – tức bản thân họ không thể công khai phân biệt chủng tộc, thù ghét dân nhập cư, lánh xa dân Hồi giáo. Bỗng nhiên có một gã thay họ nói toạt ra những điều thâm tâm họ cũng nghĩ như thế, biểu sao tỷ lệ ủng hộ Donald Trump không cao cho được.
Khi Donald Trump chủ xướng bắt những người theo đạo Hồi ở Mỹ phải đăng ký vào một cơ sở dữ liệu thì các báo la làng cảnh báo một Hitler đời mới nhưng biết đâu trong thâm tâm nhiều người dân Mỹ muốn chuyện đó mà không dám nói ra?
Những người như Donald Trump sẽ là dòng chảy chính của giới chính khách sẽ nổi lên ở các nước phương Tây: đánh vào nỗi sợ của những người dân từng mất công việc ổn định lâu đời, từng bị thua thiệt mà không hiểu vì sao, từng phẫn nộ vì bị nghèo đi nhưng lại không thể trút nỗi giận vào những tỷ phú mới như Bill Gates hay Mark Zuckerberg. Vì thế họ tìm những vật thế thân như người da đen, người Hồi giáo, dân tỵ nạn Syria. Ví dụ Trump đăng lại trên mạng xã hội của ông ta rằng năm 2015 đến 81% nạn nhân da trắng bị giết ở Mỹ là do người da đen gây ra (số liệu chính thức đúng đắn của FBI cho năm 2014 là 15%). Hay ông ta cứ khẳng định ông ta thấy hàng ngàn người đổ ra đường ăn mừng lúc xảy ra vụ 9/11 tại khu có nhiều người Ả Rập sinh sống ở New Jersey bất kể thực tế không có chuyện đó.
Báo chí Mỹ đang "bó tay" với Donald Trump. Mà đúng là như vậy. Ông ta là sản phẩm của một thời đại nên không thể giải quyết ông ta cùng các vấn đề của xã hội nếu không giải quyết căn nguyên. Và để giải quyết căn nguyên này, có lẽ sẽ phải quay trở lại đề tài "giải toàn cầu hóa" – trả thế giới này về lại với quy luật phát triển tự nhiên của nó. Đừng ép người nông dân bỏ làng xóm ra thành thị làm công nhân bằng công việc tướt từ tay người dân nước khác. Các ông chủ "tối ưu hóa" qui trình sản xuất đã quá giàu; nguồn tài nguyên của trái đất đã bị tận dụng cho qui trình này sắp cạn kiệt, kể cả hậu quả ô nhiễm môi trường còn để lại khắp nơi. Đã đến lúc phải tự hỏi, không lẽ chúng ta đang xây dựng một thế giới méo mó và đang dùng máy điện thoại di động để làm phẳng nó được sao?
Một hình ảnh được sử dụng thường xuyên trong các câu chuyện khoa học viễn tưởng: trong tương lai, loài người chia làm đôi - sống ở trên thong dong, thoải mái nhưng mềm yếu, dễ bị tổn thương, mất phương hướng cũng như mục đích sống là một nhóm; nhóm còn lại sống đâu đó dưới lòng trái đất, đen đủi, mạnh và dữ, luôn muốn đập phá như kiểu đang bị xiềng xích vô hình.
Chỉ là chuyện viễn tưởng nhưng đây là ẩn dụ có thể giúp chúng ta hiểu những gì đang xảy ra trên thế giới toàn cầu hóa đầy biến động, âm ỉ xung đột hiện nay.
Trong một xã hội bình thường luôn có sự tự nguyện phân công lao động, người chấp nhận làm công nhân lắp ráp máy móc, người chịu làm thợ may vá, người quét dọn và nhiều người khác làm đủ nghề xã hội cần như thầy giáo, bác sĩ, chuyên viên thị trường…
Làn sóng toàn cầu hóa do các công ty đa quốc gia thúc đẩy đã lấy đi nhiều công việc sản xuất tay chân bình thường từ nhiều nước phương Tây chuyển sang các nước khác, chủ yếu là các nước ở thế giới thứ ba. Bỗng chốc trong một giai đoạn tương đối ngắn, hàng loạt người tự nhiên thấy công việc của mình làm từ xưa tới nay một hôm biến mất. Hàng loạt thành phố trù phú phát triển quanh một nhà máy sản xuất ô tô hay một loại máy móc gia dụng nào đó qua một đêm hóa ra hoang phế vì ông chủ các nhà máy này thấy chuyển chúng qua Trung Quốc thì tiết kiệm chi phí nhân công hơn nhiều.
Các mỹ từ mà các nhà hoạch định chính sách, kể cả các nhà nghiên cứu không xoa dịu được nỗi lo của những người bị tước đoạt công việc: họ đâu thể "tiến lên trên nấc thang giá trị", họ đâu thể chuyển qua làm thiết kế, tiếp thị, nghiên cứu. Khi làm công nhân lắp ráp chiếc ô tô mặc dù chỉ là con ốc trong chuỗi sản xuất tự động hóa, người công nhân mệt mỏi ra về vào cuối ngày nhưng vẫn tự hào về đồng lương anh ta lãnh vì anh ta nghĩ mình đang tạo ra một giá trị nào đó.
Tương tự, có thể vợ anh ta mất đi công việc may quần áo, em anh ta mất đi công việc đóng giày… Và thế là xảy ra cuộc cạnh tranh hoặc xuống đáy, làm những công việc tay chân chưa thể "đóng gói xuất khẩu" hay ganh đua lên nấc thang kế. Cả hai hướng đều có tác dụng lên quy luật cung cầu theo nghĩa một số lượng người nhiều hơn tranh nhau lượng công việc như trước: dĩ nhiên hệ quả là lương sẽ bị ép giảm, sức lực càng bị vắt kiệt, ai không chịu nỗi sẽ có kẻ khác sẵn sàng nhảy vào thay.
Các nhà kinh tế có một ảo tưởng, rằng toàn cầu hóa với việc dịch chuyển công ăn việc làm như thế là hợp quy luật, tận dụng được nguồn lực tốt nhất của xã hội, rằng các nước phương Tây sẽ dần dần thích ứng với vai trò mới: ngồi vẽ ra các sản phẩm, lo chuyện quảng bá chúng còn sản xuất cứ để các nước đang phát triển đảm trách. Ai cũng có phần bánh ngon hơn, to hơn trước.
Thực tế cho thấy không phải tất cả người dân các nước phương Tây đều thích nghi được với vai trò "ngồi vẽ" như thế. Và cho dù các nước này giàu, đủ sức lo chuyện an sinh xã hội để người không "ngồi vẽ" được vẫn hưởng một khoản trợ cấp nhất định. Nhưng một khi họ đánh mất sự tự tin, sự tự trọng, niềm tin rằng họ đang làm ra một cái gì đó có giá trị cho xã hội, con người sẽ bị bần cùng hóa, ít nhất về mặt suy nghĩ. Và đó là căn nguyên của cuộc khủng hoảng xã hội đang diễn ra ở nhiều nước.
Có thể tìm thấy những số liệu, những hình ảnh minh họa cho bức tranh nói trên một cách dễ dàng trên báo chí khi họ chạm đến một mảng nào đó, ví dụ, sự điêu tàng của những thành phố bị bỏ hoang hay vì sao nền tảng giáo dục ở Mỹ tăng mạnh so với trước mà thất nghiệp vẫn cao và lương vẫn hầu như không đổi. Các cuộc biểu tình chống đối toàn cầu hóa trong nhiều năm qua cũng cho thấy người ta biết rõ thủ phạm. Và thỉnh thoảng báo chí Mỹ có những bài viết lay động lòng người như cái chết của một nhân viên Amazon, mỗi giờ phải đi lại trong một kho hàng rộng bằng 18 sân bóng đá để lấy ít nhất 100 món hàng giao cho khách. Giả dụ sau này Amazon làm ra con rô-bốt lo được chuyện đó, công việc nhàm chán, nặng nhọc và mất sức của anh này rồi cũng sẽ biến mất. Để cuối cùng xã hội được gì? Khách hàng Amazon mua đồ rẻ hơn vài xu còn ông chủ Amazon giàu thêm vài tỷ đô la chăng?
Thật ra câu chuyện này không có gì mới – cái mới là hệ hụy chúng gây ra đang tạo những xung lực ngầm gây tác động lên mọi mặt của cuộc sống.
Có thể kể đến những xu hướng như xung đột nhìn bên ngoài là vì màu da nhưng thực chất bên trong là sự bất mãn đang rộ lên ở một số thành phố bên Mỹ; các vụ bùng phát vì tức giận ở chỗ làm dẫn tới thảm sát; thất nghiệp trong giới trẻ ở nhiều nước châu Âu; góc nhìn cực hữu về dân nhập cư lại được tán tưởng ở một số giới…
Nhưng đáng chú ý nhất vẫn là sự xuất hiện của các chính khách "sống ký sinh" trên nền tảng câu chuyện này mà nổi bậc nhất vẫn là ứng cử viên Tổng thống Mỹ - Donald Trump.
Ở một thời khắc khác, một bối cảnh khác, người như Donald Trump không thể tồn tại trên chính trường Mỹ quá một ngày. Bởi ông ta quá cực đoan, quá khích, kích động lòng thù hận, không xem báo chí hay công luận ra gì, mạt sát các sắc dân thiểu số, hạ nhục phụ nữ, phỉ báng tôn giáo… Thế nhưng cho đến nay ông ta vẫn là ứng cử viên dẫn đầu của đảng Cộng Hòa trong thăm dò dư luận và thậm chí một số nhà quan sát không loại trừ khả năng ông ta giành được sự đề cử chính thức của đảng này để ra tranh cử chức vụ Tổng thống Mỹ vào năm sau.
Tờ New Yorker liệt kê một số phát ngôn gây sốc gần đây của Donald Trump. Kiểu như ở một cuộc diễn thuyết tại Iowa, Trump đưa ra một giải pháp đối với các mỏ dầu mà lực lượng ISIS đang nắm: "Tôi sẽ ném bom cho tiệt chúng đi. Tôi sẽ phá tan các đường ống dẫn dầu. Tôi sẽ cho nổ banh các nhà máy lọc dầu. Rồi chẳng còn gì và các bạn biết không, lúc đó Exxon sẽ nhảy vào và trong vòng hai tháng họ sẽ xây dựng lại hết thảy mới toanh. Lúc đó tôi sẽ lấy dầu này". Câu dịch này đã lượt bỏ các cụm từ chửi thề và tiếng đệm. Ở một ví dụ khác, tờ này trích lời Trump cho thấy ông ta tin rằng tra tấn là thứ vũ khí hữu hiệu: "Chỉ có kẻ dốt mới nói nó không hữu hiệu. Nếu không đi nữa thì chúng cũng đáng đời vì những gì chúng gây ra cho chúng ta". Tờ báo nói thêm "chúng" là ai thì họ cũng không biết.
Nói sao thì nói, dù giận dữ, bất mãn và hoang mang, dân Mỹ với nền tảng văn hóa thường phải tỏ ra "nói đúng đường hướng" – tức bản thân họ không thể công khai phân biệt chủng tộc, thù ghét dân nhập cư, lánh xa dân Hồi giáo. Bỗng nhiên có một gã thay họ nói toạt ra những điều thâm tâm họ cũng nghĩ như thế, biểu sao tỷ lệ ủng hộ Donald Trump không cao cho được.
Khi Donald Trump chủ xướng bắt những người theo đạo Hồi ở Mỹ phải đăng ký vào một cơ sở dữ liệu thì các báo la làng cảnh báo một Hitler đời mới nhưng biết đâu trong thâm tâm nhiều người dân Mỹ muốn chuyện đó mà không dám nói ra?
Những người như Donald Trump sẽ là dòng chảy chính của giới chính khách sẽ nổi lên ở các nước phương Tây: đánh vào nỗi sợ của những người dân từng mất công việc ổn định lâu đời, từng bị thua thiệt mà không hiểu vì sao, từng phẫn nộ vì bị nghèo đi nhưng lại không thể trút nỗi giận vào những tỷ phú mới như Bill Gates hay Mark Zuckerberg. Vì thế họ tìm những vật thế thân như người da đen, người Hồi giáo, dân tỵ nạn Syria. Ví dụ Trump đăng lại trên mạng xã hội của ông ta rằng năm 2015 đến 81% nạn nhân da trắng bị giết ở Mỹ là do người da đen gây ra (số liệu chính thức đúng đắn của FBI cho năm 2014 là 15%). Hay ông ta cứ khẳng định ông ta thấy hàng ngàn người đổ ra đường ăn mừng lúc xảy ra vụ 9/11 tại khu có nhiều người Ả Rập sinh sống ở New Jersey bất kể thực tế không có chuyện đó.
Báo chí Mỹ đang "bó tay" với Donald Trump. Mà đúng là như vậy. Ông ta là sản phẩm của một thời đại nên không thể giải quyết ông ta cùng các vấn đề của xã hội nếu không giải quyết căn nguyên. Và để giải quyết căn nguyên này, có lẽ sẽ phải quay trở lại đề tài "giải toàn cầu hóa" – trả thế giới này về lại với quy luật phát triển tự nhiên của nó. Đừng ép người nông dân bỏ làng xóm ra thành thị làm công nhân bằng công việc tướt từ tay người dân nước khác. Các ông chủ "tối ưu hóa" qui trình sản xuất đã quá giàu; nguồn tài nguyên của trái đất đã bị tận dụng cho qui trình này sắp cạn kiệt, kể cả hậu quả ô nhiễm môi trường còn để lại khắp nơi. Đã đến lúc phải tự hỏi, không lẽ chúng ta đang xây dựng một thế giới méo mó và đang dùng máy điện thoại di động để làm phẳng nó được sao?
Published on March 22, 2016 06:25
December 19, 2014
“Social Capital” là “Xã hội tử hình”?
“Social Capital” là “Xã hội tử hình”?
Chuyện khó tin nhưng có thật, mới xảy ra hồi cuối tháng 10-2014. Một công ty giáo dục muốn đổi tên thành Công ty Cổ phần Social Capital. Chuyện công ty Việt Nam mà lại muốn đặt tên tiếng Anh như thế - đúng sai thế nào, xin nói ở phần dưới. Vấn đề là cơ quan cấp phép ở địa phương đã từ chối cái tên này vì lý do, dịch ra tiếng Việt thành “Xã hội tử hình”, là “vi phạm truyền thống văn hóa, đạo đức”!
Tin nổi không cán bộ nhà nước tùy tiện diễn dịch một cụm từ rất bình thường “Vốn xã hội” thành chuyện tày trời có cả hình phạt tử hình ở trong nữa.
Thật ra đây chỉ là một ví dụ trong muôn ngàn ví dụ “cười ra nước mắt” liên quan đến việc đặt tên doanh nghiệp. Các bạn có tin có công ty mang tên “Bay Bổng Đầu Óc”, “Nam Yến Đại Cát”, “Én Sa Yến Sa”, “Người Lái Xe Mặt Trời”…
Có lẽ ít ai trong chúng ta nghe đến các tên này bởi ngay chính người làm trong các doanh nghiệp này cũng ít khi sử dụng chúng. Họ chỉ đặt tên như vậy rồi ngay sau đó sử dụng tên doanh nghiệp viết tắt hay tên giao dịch bằng tiếng Anh. Hóa ra đó mới là tên chính, tên quen thuộc nhưng không dịch ra tiếng Việt được. “Bay Bổng Đầu Óc” là BBDO – một doanh nghiệp quảng cáo lớn của thế giới (BBDO là viết tắt tên của những người sáng lập). Có lẽ trong 289 văn phòng của tập đoàn này tại 80 nước, không nơi nào bắt phải đặt lại tên theo kiểu “Bay Bổng Đầu Óc”!
Còn “Nam Yến Đại Cát” là NYDC – tên chuỗi nhà hàng có trụ sở chính ở Singapore; “Én Sa Yến Sa” là eSys – nhà phân phối các sản phẩm tin học và “Người Lái Xe Mặt Trời” – một công ty phân phối sản phẩm thảo dược theo kiểu đa cấp, với công ty mẹ là… Sunrider.
Trước đây doanh nghiệp không được đặt tên bằng tiếng Anh mà phải đặt tên “thuần Việt” cho nên một người khởi nghiệp trong ngành công nghệ thông tin muốn dùng từ NET đưa vào tên không được đồng ý bèn phải viết thành NÉT; một công ty khác phải mang tên Việt Cốm Bồ.
Nói cụ thể, Nghị định 88 năm 2006 quy định: “Tên doanh nghiệp phải viết được bằng tiếng Việt, có thể kèm theo chữ số và ký hiệu, phát âm được”. “Riêng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể sử dụng tên riêng bằng tiếng nước ngoài đã đăng ký để cấu thành một phần hoặc toàn bộ tên riêng của doanh nghiệp”.
Như vậy các doanh nghiệp nước ngoài như Honda, Samsung, Toyota vào làm ăn ở Việt Nam vẫn được giữ nguyên tên chứ không cần dịch sang tiếng Việt. Thế nhưng có một số trường hợp, mặc dù thực chất là công ty con của một tập đoàn nước ngoài nào đó nhưng lại muốn thành lập dưới dạng công ty trong nước, do người trong nước đứng tên. Thế là nảy sinh các tình huống “dở cười, dở khóc”. Cũng có một số công ty muốn đặt tên bằng tiếng Anh để dễ làm ăn, dễ giao dịch như kiểu Net Lab cũng không được.
Cái quy định cứng nhắc này đã được sửa đổi. Đến Nghị định 43 ban hành năm 2010 thì “Tên doanh nghiệp phải viết được bằng các chữ cái trong Bảng chữ cái tiếng Việt, có thể kèm theo các chữ cái F, J, Z, W, chữ số và ký hiệu, phát âm được”.
Như vậy về nguyên tắc, doanh nghiệp có quyền đặt tên bằng tiếng Anh. Thực tế đã có những cái tên tiếng Anh được đăng ký như “Công ty Cổ phần Hospi Tech”, “Công ty Cổ phần Thép Sunrise”, “Công ty Cổ phần Good Day Hospitality”. Thậm chí có những tên rất “dung dị” như “Công ty Cổ phần Good & Great”, “Công ty TNHH Good Morning Korea”.
Chính vì thế nên cái công ty Social Capital nói ở đầu bài cuối cùng cũng được cấp phép đổi tên!
Thế nhưng dường như cảm nhận của nhiều doanh nghiệp vẫn là không được đặt tên bằng tiếng nước ngoài, một số nơi tư vấn vẫn bày theo kiểu dùng một từ tiếng Việt sao cho đến khi dịch sang tiếng Anh làm tên giao dịch thì ra lại đúng cái tên muốn đặt. Chẳng hạn chuỗi bán bánh mì khá nổi tiếng Subway khi sang Việt Nam đã có một “đại diện” là “Công ty TNHH Đường Hầm” mặc dù bản thân từ Subway chẳng phải là đường hầm gì cả.
Thực tế, việc đồng ý cho đặt tên “không thuần Việt” hay không còn tùy từng Sở Kế hoạch Đầu tư, tùy từng cán bộ thụ lý hồ sơ. Nếu thấy lấn cấn thì viện lý do “Xã hội tử hình” như ở đầu bài là mắc vào lỗi “Không được sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc, tên danh nhân để đặt tên riêng cho doanh nghiệp” của Nghị định 43.
Nói cho cùng vẫn còn nhiều người cho rằng, đã là công ty Việt Nam tại sao lại đặt tên “Social Capital” làm chi, tại sao không gọi “Vốn Xã Hội” cho khỏe? Nhiều người khác cũng dị ứng với các tên công ty toàn tiếng Anh như “Good Food – Good Life”, “Fast Care”, “Think Great”…
Chỉ cần nhìn ra bên ngoài một chút, chúng ta sẽ thấy nếu các nước không cho doanh nghiệp của mình đặt tên bằng tiếng nước ngoài hay tên thuần theo ngôn ngữ của nước họ thì làm gì có các thương hiệu như Sony của Nhật Bản, Lenovo (Trung Quốc), Ikea (Thụy Điển)…
Cứ cứng nhắc “thuần Mỹ” thì hàng loạt doanh nghiệp Mỹ nhưng của người gốc Việt thành lập làm sao đặt tên như Phở Hòa, Thẩm mỹ viện Hạnh Phước, Địa ốc Thần Tài…
Cho nên tên doanh nghiệp thì cứ để doanh nghiệp toàn quyết quyết định, luật pháp không nên can thiệp vào làm gì. Nếu doanh nghiệp chỉ giao dịch với nông dân mà đặt tên Tây khách hàng không hiểu, không gọi được thì cứ ráng mà chịu. Nếu doanh nghiệp đặt tên phản cảm bị khách hàng tẩy chay thì họ chỉ còn biết trách chính họ mà thôi. Xét cho cùng tên doanh nghiệp là tài sản của họ, họ phải lo chứ không ai khác.
Chuyện khó tin nhưng có thật, mới xảy ra hồi cuối tháng 10-2014. Một công ty giáo dục muốn đổi tên thành Công ty Cổ phần Social Capital. Chuyện công ty Việt Nam mà lại muốn đặt tên tiếng Anh như thế - đúng sai thế nào, xin nói ở phần dưới. Vấn đề là cơ quan cấp phép ở địa phương đã từ chối cái tên này vì lý do, dịch ra tiếng Việt thành “Xã hội tử hình”, là “vi phạm truyền thống văn hóa, đạo đức”!
Tin nổi không cán bộ nhà nước tùy tiện diễn dịch một cụm từ rất bình thường “Vốn xã hội” thành chuyện tày trời có cả hình phạt tử hình ở trong nữa.
Thật ra đây chỉ là một ví dụ trong muôn ngàn ví dụ “cười ra nước mắt” liên quan đến việc đặt tên doanh nghiệp. Các bạn có tin có công ty mang tên “Bay Bổng Đầu Óc”, “Nam Yến Đại Cát”, “Én Sa Yến Sa”, “Người Lái Xe Mặt Trời”…
Có lẽ ít ai trong chúng ta nghe đến các tên này bởi ngay chính người làm trong các doanh nghiệp này cũng ít khi sử dụng chúng. Họ chỉ đặt tên như vậy rồi ngay sau đó sử dụng tên doanh nghiệp viết tắt hay tên giao dịch bằng tiếng Anh. Hóa ra đó mới là tên chính, tên quen thuộc nhưng không dịch ra tiếng Việt được. “Bay Bổng Đầu Óc” là BBDO – một doanh nghiệp quảng cáo lớn của thế giới (BBDO là viết tắt tên của những người sáng lập). Có lẽ trong 289 văn phòng của tập đoàn này tại 80 nước, không nơi nào bắt phải đặt lại tên theo kiểu “Bay Bổng Đầu Óc”!
Còn “Nam Yến Đại Cát” là NYDC – tên chuỗi nhà hàng có trụ sở chính ở Singapore; “Én Sa Yến Sa” là eSys – nhà phân phối các sản phẩm tin học và “Người Lái Xe Mặt Trời” – một công ty phân phối sản phẩm thảo dược theo kiểu đa cấp, với công ty mẹ là… Sunrider.
Trước đây doanh nghiệp không được đặt tên bằng tiếng Anh mà phải đặt tên “thuần Việt” cho nên một người khởi nghiệp trong ngành công nghệ thông tin muốn dùng từ NET đưa vào tên không được đồng ý bèn phải viết thành NÉT; một công ty khác phải mang tên Việt Cốm Bồ.
Nói cụ thể, Nghị định 88 năm 2006 quy định: “Tên doanh nghiệp phải viết được bằng tiếng Việt, có thể kèm theo chữ số và ký hiệu, phát âm được”. “Riêng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể sử dụng tên riêng bằng tiếng nước ngoài đã đăng ký để cấu thành một phần hoặc toàn bộ tên riêng của doanh nghiệp”.
Như vậy các doanh nghiệp nước ngoài như Honda, Samsung, Toyota vào làm ăn ở Việt Nam vẫn được giữ nguyên tên chứ không cần dịch sang tiếng Việt. Thế nhưng có một số trường hợp, mặc dù thực chất là công ty con của một tập đoàn nước ngoài nào đó nhưng lại muốn thành lập dưới dạng công ty trong nước, do người trong nước đứng tên. Thế là nảy sinh các tình huống “dở cười, dở khóc”. Cũng có một số công ty muốn đặt tên bằng tiếng Anh để dễ làm ăn, dễ giao dịch như kiểu Net Lab cũng không được.
Cái quy định cứng nhắc này đã được sửa đổi. Đến Nghị định 43 ban hành năm 2010 thì “Tên doanh nghiệp phải viết được bằng các chữ cái trong Bảng chữ cái tiếng Việt, có thể kèm theo các chữ cái F, J, Z, W, chữ số và ký hiệu, phát âm được”.
Như vậy về nguyên tắc, doanh nghiệp có quyền đặt tên bằng tiếng Anh. Thực tế đã có những cái tên tiếng Anh được đăng ký như “Công ty Cổ phần Hospi Tech”, “Công ty Cổ phần Thép Sunrise”, “Công ty Cổ phần Good Day Hospitality”. Thậm chí có những tên rất “dung dị” như “Công ty Cổ phần Good & Great”, “Công ty TNHH Good Morning Korea”.
Chính vì thế nên cái công ty Social Capital nói ở đầu bài cuối cùng cũng được cấp phép đổi tên!
Thế nhưng dường như cảm nhận của nhiều doanh nghiệp vẫn là không được đặt tên bằng tiếng nước ngoài, một số nơi tư vấn vẫn bày theo kiểu dùng một từ tiếng Việt sao cho đến khi dịch sang tiếng Anh làm tên giao dịch thì ra lại đúng cái tên muốn đặt. Chẳng hạn chuỗi bán bánh mì khá nổi tiếng Subway khi sang Việt Nam đã có một “đại diện” là “Công ty TNHH Đường Hầm” mặc dù bản thân từ Subway chẳng phải là đường hầm gì cả.
Thực tế, việc đồng ý cho đặt tên “không thuần Việt” hay không còn tùy từng Sở Kế hoạch Đầu tư, tùy từng cán bộ thụ lý hồ sơ. Nếu thấy lấn cấn thì viện lý do “Xã hội tử hình” như ở đầu bài là mắc vào lỗi “Không được sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc, tên danh nhân để đặt tên riêng cho doanh nghiệp” của Nghị định 43.
Nói cho cùng vẫn còn nhiều người cho rằng, đã là công ty Việt Nam tại sao lại đặt tên “Social Capital” làm chi, tại sao không gọi “Vốn Xã Hội” cho khỏe? Nhiều người khác cũng dị ứng với các tên công ty toàn tiếng Anh như “Good Food – Good Life”, “Fast Care”, “Think Great”…
Chỉ cần nhìn ra bên ngoài một chút, chúng ta sẽ thấy nếu các nước không cho doanh nghiệp của mình đặt tên bằng tiếng nước ngoài hay tên thuần theo ngôn ngữ của nước họ thì làm gì có các thương hiệu như Sony của Nhật Bản, Lenovo (Trung Quốc), Ikea (Thụy Điển)…
Cứ cứng nhắc “thuần Mỹ” thì hàng loạt doanh nghiệp Mỹ nhưng của người gốc Việt thành lập làm sao đặt tên như Phở Hòa, Thẩm mỹ viện Hạnh Phước, Địa ốc Thần Tài…
Cho nên tên doanh nghiệp thì cứ để doanh nghiệp toàn quyết quyết định, luật pháp không nên can thiệp vào làm gì. Nếu doanh nghiệp chỉ giao dịch với nông dân mà đặt tên Tây khách hàng không hiểu, không gọi được thì cứ ráng mà chịu. Nếu doanh nghiệp đặt tên phản cảm bị khách hàng tẩy chay thì họ chỉ còn biết trách chính họ mà thôi. Xét cho cùng tên doanh nghiệp là tài sản của họ, họ phải lo chứ không ai khác.
Published on December 19, 2014 02:37
Do no evil – really?
Do no evil – really?
By Nguyen Van Phu
When I was a small boy, I was obsessed with robots. Reading sci-fi novels, I just dreamed of the day when I have a small robot to be my all-powerful friend. I would ask and he would effortlessly answer all questions I had: How far away is the Moon? When did the first World War break out? What’s the weather like in Paris right now? Just imagine having a friend like that in your classroom, you don’t have to avoid your teacher’s eyes any more.
That dream gradually faded away as I grew older until recently when I realized all of a sudden that all these wildest - and at times weirdest - sci-fi ideas have long become reality. You only have to watch Amazon’s latest video introducing Echo to know what’s in the offer. Today's applications expand the definition of “robot” to a magnitude unimaginable a decade ago. Even an application like Facebook, for instance, is essentially a robot connecting you with friends and relatives in real time.
Believe it or not, the novelty of a smart phone answering your questions tirelessly can wear out quite fast. There is only a lingering bad taste in my mouth after uttering the wake word, “OK, Google” repeatedly. Maybe because of my wife’s disdainful look at her husband's non-stop blabbering to a machine. Maybe because of the horrifying possibility that I will say “OK, Google” more often than greeting friends or neighbors.
I still remember Isaac Asimov's Three Laws of Robotics: A robot may not injure a human being or, through inaction, allow a human being to come to harm; A robot must obey the orders given to it by human beings, except where such orders would conflict with the First Law; and a robot must protect its own existence as long as such protection does not conflict with the First or Second Laws.
As a boy I took these laws for granted and enjoyed the sci-fi novels without worrying too much about the well-being of mankind. Anyway, the human race always triumphs in the long run, doesn’t it?
Now that robots, or some forms of robotic intelligence are available, I wonder if the inventors ever thought of these laws when they built them. Facebook, if we agree that it is a robot of some sort, obviously does not observe the first law.
Someone hacked your Facebook account, post on your timeline a moving story aimed at squeezing tears and some money from your friends. Would Facebook know that it is a hacker behind the status and not you? Certainly. Would Facebook somehow alert your friend list of a possible scam? Absolutely nothing.
I was duly impressed with Photomath, an app that uses your smart phone’s camera to solve mathematical expressions until I realized that it does eventual harm to any student abusing this app and not learn math skills he is supposed to learn. Does the maker of Photomath stop the app from harming users? Absolutely not.
I have no idea who will be held responsible if a driverless car causes an accident but I know drones have been used to kill people remotely. That is a chilling realization that somehow someday drones don’t need remote controllers; they can make on the spot decisions based on criteria set by human beings.
I also remember how sci-fi novels described the total destruction machines would bring to humankind. You have at least four Terminator films to drive home the possibility, however remote it is. But nobody seems to care that machines have in fact destroyed, or radically changed a lot of industries, including newspapers, music or publishing.
The destruction might continue as new business models take over such as Uber or Airbnb.
Here I want to add an ironic touch: it seems a sharing economy is what an ideal socialist society should strive for. But Vietnam, as a communist country, might find Uber or Airbnb too disruptive and might ban these services on the local corporate lobbying efforts.
Old-school sci-fi novels usually start with the assumption that technological advances affect everybody equally. The fact is, today, digital divide means a lot of people are marginalized as far as technological advances are concerned. Whether it is a curse or a blessing in disguise for them remains to be seen. But that’s why on the one hand, we see Amazon Echo and on the other hand, we see barbarian acts of beheading still being practiced.
That’s why my sci-fi dreams remain a dream.
By Nguyen Van Phu
When I was a small boy, I was obsessed with robots. Reading sci-fi novels, I just dreamed of the day when I have a small robot to be my all-powerful friend. I would ask and he would effortlessly answer all questions I had: How far away is the Moon? When did the first World War break out? What’s the weather like in Paris right now? Just imagine having a friend like that in your classroom, you don’t have to avoid your teacher’s eyes any more.
That dream gradually faded away as I grew older until recently when I realized all of a sudden that all these wildest - and at times weirdest - sci-fi ideas have long become reality. You only have to watch Amazon’s latest video introducing Echo to know what’s in the offer. Today's applications expand the definition of “robot” to a magnitude unimaginable a decade ago. Even an application like Facebook, for instance, is essentially a robot connecting you with friends and relatives in real time.
Believe it or not, the novelty of a smart phone answering your questions tirelessly can wear out quite fast. There is only a lingering bad taste in my mouth after uttering the wake word, “OK, Google” repeatedly. Maybe because of my wife’s disdainful look at her husband's non-stop blabbering to a machine. Maybe because of the horrifying possibility that I will say “OK, Google” more often than greeting friends or neighbors.
I still remember Isaac Asimov's Three Laws of Robotics: A robot may not injure a human being or, through inaction, allow a human being to come to harm; A robot must obey the orders given to it by human beings, except where such orders would conflict with the First Law; and a robot must protect its own existence as long as such protection does not conflict with the First or Second Laws.
As a boy I took these laws for granted and enjoyed the sci-fi novels without worrying too much about the well-being of mankind. Anyway, the human race always triumphs in the long run, doesn’t it?
Now that robots, or some forms of robotic intelligence are available, I wonder if the inventors ever thought of these laws when they built them. Facebook, if we agree that it is a robot of some sort, obviously does not observe the first law.
Someone hacked your Facebook account, post on your timeline a moving story aimed at squeezing tears and some money from your friends. Would Facebook know that it is a hacker behind the status and not you? Certainly. Would Facebook somehow alert your friend list of a possible scam? Absolutely nothing.
I was duly impressed with Photomath, an app that uses your smart phone’s camera to solve mathematical expressions until I realized that it does eventual harm to any student abusing this app and not learn math skills he is supposed to learn. Does the maker of Photomath stop the app from harming users? Absolutely not.
I have no idea who will be held responsible if a driverless car causes an accident but I know drones have been used to kill people remotely. That is a chilling realization that somehow someday drones don’t need remote controllers; they can make on the spot decisions based on criteria set by human beings.
I also remember how sci-fi novels described the total destruction machines would bring to humankind. You have at least four Terminator films to drive home the possibility, however remote it is. But nobody seems to care that machines have in fact destroyed, or radically changed a lot of industries, including newspapers, music or publishing.
The destruction might continue as new business models take over such as Uber or Airbnb.
Here I want to add an ironic touch: it seems a sharing economy is what an ideal socialist society should strive for. But Vietnam, as a communist country, might find Uber or Airbnb too disruptive and might ban these services on the local corporate lobbying efforts.
Old-school sci-fi novels usually start with the assumption that technological advances affect everybody equally. The fact is, today, digital divide means a lot of people are marginalized as far as technological advances are concerned. Whether it is a curse or a blessing in disguise for them remains to be seen. But that’s why on the one hand, we see Amazon Echo and on the other hand, we see barbarian acts of beheading still being practiced.
That’s why my sci-fi dreams remain a dream.
Published on December 19, 2014 02:36
Dạy kinh tế ở trường phổ thông
Kinh tế như một môn học phổ thông – tại sao không?
Giả thử có hai chọn lựa cho một học sinh lớp 11, chọn lựa thứ nhất là học các khái niệm như “thế nào là sản xuất của cải vật chất” hay “cơ cấu kinh tế là gì”; chọn lựa thứ hai là học cách tính tổng số tiền sẽ nhận được sau 10 năm nếu bây giờ đem 1 triệu đồng đầu tư vào một nơi sẽ sinh lời 8% mỗi năm trong bài “Giá trị thời gian của tiền bạc”.
Chọn lựa thứ nhất hiện đã diễn ra – đó là hai trong số nhiều khái niệm về kinh tế mà học sinh lớp 11 phải học trong môn “Giáo dục công dân”.
Chọn lựa thứ hai chưa diễn ra – đó là ước mong của người viết thấy học sinh cấp ba được chọn môn Kinh tế như một trong các môn tự chọn và nội dung các em được học sẽ rất gần gũi với cuộc sống, sẽ giúp các em ứng xử với những tình huống có thật hay ít nhất cũng hiểu được những gì đang diễn ra quanh em.
Bộ Giáo dục & Đào tạo đang chuẩn bị cho việc biên soạn lại chương trình và sách giáo khoa cho học sinh phổ thông. Không biết chương trình và sách mới sẽ như thế nào nhưng đọc thử sách giáo khoa hiện nay, có cảm tưởng như người lớn đã hình thành một số định kiến rằng học sinh phải học cái này hay cái kia để thành người hữu dụng. Kiến thức phải được sắp xếp, ấn xuống cho học sinh theo kiểu phải đi theo bài bản như thế này mới thành kiến thức. Lấy lại ví dụ cuốn “Giáo dục công dân” lớp 11, trong Phần 1 – “Công dân với kinh tế”, có cảm tưởng người soạn sách cứ nghĩ khi nói đến kinh tế thì một công dân điển hình phải biết “quy luật giá trị trong sản xuất và lưu thông hàng hóa”, phải nắm “nền kinh tế nhiều thành phần và vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước”.
Chưa nói đến đúng sai trong kiến thức, thử tưởng tượng làm sao khơi gợi được lòng yêu thích kinh tế của học sinh bằng những khái niệm khô khan, mơ hồ và không gắn một chút gì với trải nghiệm của học sinh.
Trong khi đó, thử nhìn vào chương trình môn Kinh tế tự chọn của học sinh cấp 3 ở các nước như Singapore, các em được học những gì? Các em sẽ được học về “chi phí cơ hội” để nhìn lại những chọn lựa các em phải đưa ra hàng ngày với con mắt của “nhà kinh tế” – ví dụ, xem thử đi coi phim với bạn thay vì ở nhà làm bài tập thì “chi phí cơ hội” có phải chỉ là tiền vé hay hơn thế? Các em sẽ được học về “lợi thế so sánh” để biết vì sao sản xuất gạo ở Nhật đắt gấp chục lần nhập khẩu gạo từ nước khác, thế mà chính phủ Nhật vẫn phải bỏ tiền trợ cấp cho nông dân Nhật trồng lúa và dùng thuế cao cản trở hàng nhập khẩu.
Các em sẽ được học qua lạm phát, thất nghiệp, chu kỳ kinh tế, tăng trưởng. Các em sẽ được biết tiền được tạo ra như thế nào, ngân hàng hoạt động ra sao, chính phủ phát hành trái phiếu để vay nợ bằng cách nào…
Nhìn vào chương trình học này, ước gì các quan chức hay đại biểu Quốc hội cũng được học qua dù chỉ một hay hai học kỳ cũng giúp tránh những hiểu nhầm tai hại từng được phát biểu trên báo chí như kiểu tốc độ tăng trưởng phải cao hơn lạm phát bằng không lạm phát sẽ ăn hết tăng trưởng!
Thế nên việc biên soạn chương trình và sách giáo khoa xin đừng rơi vào chỗ tranh luận mông lung, tốn công sức vào các khái niệm mơ hồ như “triết lý giáo dục”, “tinh thần tích hợp và phân hóa”, “phát triển phẩm chất và năng lực”…
Nên đi theo con đường mà mọi nước đã đi: đó là xuất phát từ thực tiễn cuộc sống, xem các em cần những kiến thức nền tảng gì, cần các công cụ nào để tự tìm hiểu, tự học hỏi suốt đời. Vai trò của giáo dục bao giờ cũng là chuẩn bị cho người học bước vào đời cho nên thời Trung Cổ học sinh mới học tiếng La Tinh, đánh kiếm, cỡi ngựa, kể cả thuật giả kim…
Ngày nay để bước vào đời thành công cần rất nhiều kỹ năng mà nhà trường phổ thông không thể nào cung cấp trọn vẹn cho tất cả học sinh. Bởi thế điều đầu tiên chương trình có thể làm là xác định một số - ít thôi – các môn học bắt buộc mà bất kỳ học sinh nào cũng phải theo học như Toán Văn… Còn lại là các môn tự chọn kể cả Lý Hóa hay Âm nhạc, Hội họa… Mỗi học sinh thoải mái chọn môn mà các em ham thích, miễn sao hoàn tất đủ số môn bắt buộc và số môn tự chọn là được tốt nghiệp. Lúc đó không cần phân ban, không cần phân luồng gì nữa cả.
Nếu xác định được một chương trình giảng dạy như thế, vai trò của ngành giáo dục là khuyến khích việc giới thiệu càng nhiều môn tự chọn càng tốt; trường nào có các môn như Lập trình, Kiến trúc, Mỹ thuật, Ẩm thực, Du lịch, Viết báo… càng dễ thu hút học sinh và xây dựng uy tín riêng cho mình.
Và tinh thần biên soạn chương trình và sách giáo khoa cho từng môn không phải là ấn từ trên xuống những kiến thức áp đặt mà xuất phát từ nhu cầu quay trở ngược lại thành kiến thức cần thiết. Lấy ví dụ môn Tin học, báo chí từng viết về chuyện nhà trường vẫn đang dạy những nội dung lạc hậu như lập trình bằng ngôn ngữ Pascal. Cũng không cần dạy quá cụ thể như cách sử dụng Windows XP, Office 2003 vì các kiến thức loại này nhanh chóng lỗi thời. Nếu được quyền biên soạn chương trình, nội dung đầu tiên mà người viết muốn học sinh nắm được là kỹ năng tìm kiếm thông tin trên Internet – đó là kỹ năng nền tảng cho các kiến thức khác.
Quay trở lại môn Kinh tế như một môn tự chọn, một học sinh đã học qua nhập môn kinh tế học ắt sẽ có đủ kiến thức để khuyên ông anh không nên chạy theo món mồi bán hàng đa cấp, bảo bà chị thận trọng với khoản vay tính lãi theo ngày vì lãi mẹ đẻ lãi con, tính dùm ông bố thực chất món hàng mua trả góp đó giá bao nhiêu, kiểm tra lại giúp bà mẹ cái hợp đồng bảo hiểm xem có hợp lý không.
Điều đó sẽ khơi gợi ở học sinh niềm thích thú tìm hiểu sức mạnh của kiến thức kinh tế để biết đâu em sẽ trở thành một nhà kinh tế hay một doanh nhân thành công trong tương lai. Hay ít ra em cũng chọn cho mình một lập trường đúng đắn trước các vấn đề thời sự như đầu tư xây dựng sân bay Long Thành hay thôi.
Giả thử có hai chọn lựa cho một học sinh lớp 11, chọn lựa thứ nhất là học các khái niệm như “thế nào là sản xuất của cải vật chất” hay “cơ cấu kinh tế là gì”; chọn lựa thứ hai là học cách tính tổng số tiền sẽ nhận được sau 10 năm nếu bây giờ đem 1 triệu đồng đầu tư vào một nơi sẽ sinh lời 8% mỗi năm trong bài “Giá trị thời gian của tiền bạc”.
Chọn lựa thứ nhất hiện đã diễn ra – đó là hai trong số nhiều khái niệm về kinh tế mà học sinh lớp 11 phải học trong môn “Giáo dục công dân”.
Chọn lựa thứ hai chưa diễn ra – đó là ước mong của người viết thấy học sinh cấp ba được chọn môn Kinh tế như một trong các môn tự chọn và nội dung các em được học sẽ rất gần gũi với cuộc sống, sẽ giúp các em ứng xử với những tình huống có thật hay ít nhất cũng hiểu được những gì đang diễn ra quanh em.
Bộ Giáo dục & Đào tạo đang chuẩn bị cho việc biên soạn lại chương trình và sách giáo khoa cho học sinh phổ thông. Không biết chương trình và sách mới sẽ như thế nào nhưng đọc thử sách giáo khoa hiện nay, có cảm tưởng như người lớn đã hình thành một số định kiến rằng học sinh phải học cái này hay cái kia để thành người hữu dụng. Kiến thức phải được sắp xếp, ấn xuống cho học sinh theo kiểu phải đi theo bài bản như thế này mới thành kiến thức. Lấy lại ví dụ cuốn “Giáo dục công dân” lớp 11, trong Phần 1 – “Công dân với kinh tế”, có cảm tưởng người soạn sách cứ nghĩ khi nói đến kinh tế thì một công dân điển hình phải biết “quy luật giá trị trong sản xuất và lưu thông hàng hóa”, phải nắm “nền kinh tế nhiều thành phần và vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước”.
Chưa nói đến đúng sai trong kiến thức, thử tưởng tượng làm sao khơi gợi được lòng yêu thích kinh tế của học sinh bằng những khái niệm khô khan, mơ hồ và không gắn một chút gì với trải nghiệm của học sinh.
Trong khi đó, thử nhìn vào chương trình môn Kinh tế tự chọn của học sinh cấp 3 ở các nước như Singapore, các em được học những gì? Các em sẽ được học về “chi phí cơ hội” để nhìn lại những chọn lựa các em phải đưa ra hàng ngày với con mắt của “nhà kinh tế” – ví dụ, xem thử đi coi phim với bạn thay vì ở nhà làm bài tập thì “chi phí cơ hội” có phải chỉ là tiền vé hay hơn thế? Các em sẽ được học về “lợi thế so sánh” để biết vì sao sản xuất gạo ở Nhật đắt gấp chục lần nhập khẩu gạo từ nước khác, thế mà chính phủ Nhật vẫn phải bỏ tiền trợ cấp cho nông dân Nhật trồng lúa và dùng thuế cao cản trở hàng nhập khẩu.
Các em sẽ được học qua lạm phát, thất nghiệp, chu kỳ kinh tế, tăng trưởng. Các em sẽ được biết tiền được tạo ra như thế nào, ngân hàng hoạt động ra sao, chính phủ phát hành trái phiếu để vay nợ bằng cách nào…
Nhìn vào chương trình học này, ước gì các quan chức hay đại biểu Quốc hội cũng được học qua dù chỉ một hay hai học kỳ cũng giúp tránh những hiểu nhầm tai hại từng được phát biểu trên báo chí như kiểu tốc độ tăng trưởng phải cao hơn lạm phát bằng không lạm phát sẽ ăn hết tăng trưởng!
Thế nên việc biên soạn chương trình và sách giáo khoa xin đừng rơi vào chỗ tranh luận mông lung, tốn công sức vào các khái niệm mơ hồ như “triết lý giáo dục”, “tinh thần tích hợp và phân hóa”, “phát triển phẩm chất và năng lực”…
Nên đi theo con đường mà mọi nước đã đi: đó là xuất phát từ thực tiễn cuộc sống, xem các em cần những kiến thức nền tảng gì, cần các công cụ nào để tự tìm hiểu, tự học hỏi suốt đời. Vai trò của giáo dục bao giờ cũng là chuẩn bị cho người học bước vào đời cho nên thời Trung Cổ học sinh mới học tiếng La Tinh, đánh kiếm, cỡi ngựa, kể cả thuật giả kim…
Ngày nay để bước vào đời thành công cần rất nhiều kỹ năng mà nhà trường phổ thông không thể nào cung cấp trọn vẹn cho tất cả học sinh. Bởi thế điều đầu tiên chương trình có thể làm là xác định một số - ít thôi – các môn học bắt buộc mà bất kỳ học sinh nào cũng phải theo học như Toán Văn… Còn lại là các môn tự chọn kể cả Lý Hóa hay Âm nhạc, Hội họa… Mỗi học sinh thoải mái chọn môn mà các em ham thích, miễn sao hoàn tất đủ số môn bắt buộc và số môn tự chọn là được tốt nghiệp. Lúc đó không cần phân ban, không cần phân luồng gì nữa cả.
Nếu xác định được một chương trình giảng dạy như thế, vai trò của ngành giáo dục là khuyến khích việc giới thiệu càng nhiều môn tự chọn càng tốt; trường nào có các môn như Lập trình, Kiến trúc, Mỹ thuật, Ẩm thực, Du lịch, Viết báo… càng dễ thu hút học sinh và xây dựng uy tín riêng cho mình.
Và tinh thần biên soạn chương trình và sách giáo khoa cho từng môn không phải là ấn từ trên xuống những kiến thức áp đặt mà xuất phát từ nhu cầu quay trở ngược lại thành kiến thức cần thiết. Lấy ví dụ môn Tin học, báo chí từng viết về chuyện nhà trường vẫn đang dạy những nội dung lạc hậu như lập trình bằng ngôn ngữ Pascal. Cũng không cần dạy quá cụ thể như cách sử dụng Windows XP, Office 2003 vì các kiến thức loại này nhanh chóng lỗi thời. Nếu được quyền biên soạn chương trình, nội dung đầu tiên mà người viết muốn học sinh nắm được là kỹ năng tìm kiếm thông tin trên Internet – đó là kỹ năng nền tảng cho các kiến thức khác.
Quay trở lại môn Kinh tế như một môn tự chọn, một học sinh đã học qua nhập môn kinh tế học ắt sẽ có đủ kiến thức để khuyên ông anh không nên chạy theo món mồi bán hàng đa cấp, bảo bà chị thận trọng với khoản vay tính lãi theo ngày vì lãi mẹ đẻ lãi con, tính dùm ông bố thực chất món hàng mua trả góp đó giá bao nhiêu, kiểm tra lại giúp bà mẹ cái hợp đồng bảo hiểm xem có hợp lý không.
Điều đó sẽ khơi gợi ở học sinh niềm thích thú tìm hiểu sức mạnh của kiến thức kinh tế để biết đâu em sẽ trở thành một nhà kinh tế hay một doanh nhân thành công trong tương lai. Hay ít ra em cũng chọn cho mình một lập trường đúng đắn trước các vấn đề thời sự như đầu tư xây dựng sân bay Long Thành hay thôi.
Published on December 19, 2014 02:33
November 18, 2014
Vốn xã hội ở Việt Nam
Vốn xã hội ở Việt Nam
(Bài này viết lâu rồi từ năm 2006, đăng trên báo Tia Sáng, giờ lưu lại ở đây để làm tài liệu. Lý do là có người hỏi Sở Kế hoạch Đầu tư một địa phương từ chối cấp phép cho một doanh nghiệp mang tên “Social Capital” vì theo họ cụm từ này dịch ra thành “xã hội tử hình”, vậy có đúng không. Haha. Sở giải thích tiếu lâm thiệt).
Lý giải hiện tượng hai cộng đồng dân cư có tài sản như nhau, nguồn lực bằng nhau, ở một mức xuất phát giống nhau nhưng một bên phát triển mạnh trở nên giàu có, một bên lụi tàn đến chỗ nghèo đói, người ta bắt đầu viện đến khái niệm vốn xã hội. Nếu có một thứ vốn như thế, tài sản vốn xã hội ở Việt Nam cao hay thấp, có đóng góp gì cho quá trình phát triển đất nước?
Nói một cách đơn giản nhất, vốn xã hội là những mạng lưới kết nối con người lại với nhau, cùng nhau giải quyết các vấn đề chung. Một ngôi làng bị bão tàn phá – nếu dân làng góp sức cùng nhau xây dựng lại nhà cửa thì kết quả sẽ cao hơn nhiều lần so với khi từng người đơn độc tự làm lấy.
Vốn xã hội ở đây không phải tự dưng mà có. Nó phải xuất phát từ một quá trình trải nghiệm chuyện “có đi, có lại”, trải nghiệm mức độ “chơi được” của người khác và kỳ vọng ở kết quả nhờ thành công ở những lần hợp tác trước. Cũng như người Việt Nam từng hiểu “Một cây làm chẳng nên non/Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, vốn xã hội là một thực tế từ xưa nhưng chỉ trở thành đề tài thời thượng ở phương Tây vào cuối thập niên 1990.
Ở đây, cần lưu ý một số điểm trước khi nhìn lại vốn xã hội ở Việt Nam. Trước hết, vốn xã hội không chỉ là động lực thúc đẩy tiến bộ của xã hội bên cạnh vốn tài sản và vốn con người như các ví dụ ở trên. Nó còn có thể có tác động xấu.
Năm khu phố có năm tay lưu manh thì mọi người dù sao còn chịu được vì từng tên riêng lẻ không gây hại nhiều lắm, lại dễ bị khống chế. Nhưng nếu năm tay này liên kết với nhau thành một băng đảng thì hậu họa chúng gây ra tăng gấp hàng trăm lần cho cả một thành phố. Mafia, xã hội đen tồn tại đến bây giờ cũng nhờ biết “tận dụng”vốn xã hội của chúng.
Thứ nữa, các mạng lưới hình thành vốn xã hội thay đổi nhanh chóng. Ngày xưa lối sống khép kín của các cộng đồng dân cư nhỏ, như làng quê Việt Nam là môi trường xây dựng một loại vốn xã hội khác. Ngày nay, Internet, email, điện thoại di động lại là công cụ tạo dựng một loại vốn xã hội hoàn toàn khác. Tuy môi trường tác động lên vốn xã hội nhưng không thể kêu gọi chung chung rồi hy vọng nhờ vào “nhiệt huyết” mà vốn xã hội bỗng tăng lên theo kỳ vọng. Có thể nó sẽ tăng trong thời gian ngắn như trên thị trường vốn tài chính nhưng cũng sẽ nhanh chóng xẹp xuống một khi con người, qua trải nghiệm thực tế, không tìm thấy điều họ cần tìm.
Vốn xã hội phát huy tác dụng tích cực mạnh nhất ở một xã hội dân chủ nơi mọi người được tự do và tự nguyện tham gia các mạng lưới gắn kết cộng đồng và ngược lại nền dân chủ của một xã hội càng được củng cố một khi vốn xã hội ở đó mạnh lên. Cuối cùng, từ “vốn” có thể gây hiểu nhầm vì qua quan sát, người ta nhận ra một điều: vốn xã hội càng sử dụng càng tăng chứ không giảm như các loại vốn khác; thậm chí nếu không sử dụng, vốn xã hội sẽ dần dần triệt tiêu.
Cho dù những nhà nghiên cứu đang bất đồng về định nghĩa vốn xã hội sao cho trọn vẹn và chính xác, có thể thấy đa số đồng ý ở điểm vốn xã hội chỉ xuất hiện khi các cá nhân trong cộng đồng cùng chia sẻ một số chuẩn mực và giá trị làm cơ sở cho sự hợp tác. Vì thế có lẽ một khía cạnh quan trọng trong nền văn hóa của một xã hội có thể được dùng để đo lường mức vốn xã hội của cộng đồng. Đó là tính tập thể đối chọi với tính cá nhân.
Chính Robert Putnam, tác giả cuốn Bowling Alone (2000) nổi tiếng về vốn xã hội than phiền vốn xã hội nước Mỹ đang giảm thấp vì người Mỹ hiện đại sống mang tính cá nhân hơn trước nhiều.
Thế nhưng, khái niệm tính tập thể thường không được hiểu đầy đủ. Chúng ta thường gán cho tính tập thể những điều tốt đẹp, là sức mạnh của “ba cây chụm lại” và chê bai tính cá nhân. Điều đó đúng nhưng chưa đủ. Tính tập thể đúng là mối quan hệ chặt chẽ ở một xã hội nơi con người gắn kết nhau, sống dựa vào nhau. Và một khi đã dựa vào nhau như thế, cá nhân trong tập thể thường phải tôn trọng sự đồng thuận, ít thích va chạm, không muốn đối đầu, không muốn làm người khác mất mặt – một khái niệm rất quan trọng trong xã hội phương Đông.
Xét ở góc độ này người Việt Nam có tính tập thể cao. Nhưng điều đó chưa hẳn đưa đến kết luận vốn xã hội ở Việt Nam cao. Nó rất cao trong khuôn khổ gia đình khi cha mẹ có thể hy sinh tất cả cho việc học của con cái, trong bình diện cả nước khi có chiến tranh, lúc đó cá nhân sẵn sàng hy sinh thân mình vì lợi ích chung của cả đất nước. Nó cũng rất cao vì người dân Việt Nam rất tôn trọng tình làng nghĩa xóm, sẵn sàng chia sẻ cho người gặp bất hạnh.
Nhưng cũng như vốn tài chính, vốn xã hội sinh ra không chỉ để phục vụ cho nó – nó phải có tác dụng lên sự thịnh vượng của cộng đồng. Và ở đây, tính tập thể - nhìn ở góc cạnh tránh va chạm, muốn có đồng thuận, có thể làm thui chột sự đột phá của cá nhân, có thể có tác dụng nhân vốn xã hội lên gấp bội. Mạng lưới kết nối xã hội suy cho cùng là để nhằm thực hiện một mục tiêu chung nào đó, nếu tất cả chỉ chú trọng đến xây dựng quan hệ hòa đồng thì có nguy cơ quên mất mục tiêu ban đầu cho sự ra đời mạng lưới xã hội ấy.
Hơn nữa, vai trò cá nhân rất cần thiết để làm người tiên phong, vượt ra khỏi tập thể quen thuộc của mình, tiếp thu ý tưởng của tập thể khác để xây dựng mạng lưới liên kết mới. Các nhà nghiên cứu về vốn xã hội cũng nêu lên hiện tượng cá nhân lẩn tránh đằng sau một tập thể để giảm bớt sự đóng góp và tăng mức hưởng lợi từ tập thể. Chỉ có thể tránh hiện tượng này bằng một tập thể với những quy ước rõ ràng, minh bạch, tính chịu trách nhiệm cao của từng cá nhân. Một ông thứ trưởng quản lý như thế nào để các bộ phận bên dưới nhũng lạm với quy mô chưa từng thấy lại có thể dùng màn che tập thể để lẩn tránh trách nhiệm – ấy chính là chỗ yếu của tính tập thể trong tính toán vốn xã hội của chúng ta.
Ở bình diện lớn hơn, tính tập thể của xã hội có nguy cơ ngăn cản xã hội đó vươn ra bên ngoài vì chắc chắn họ sẽ gặp phải những giá trị khác, những chuẩn mực khác khó lòng chấp nhận đối với họ. Lúc đó, vốn xã hội hạn hẹp này sẽ đẩy xã hội đó đến chỗ bế tắc và trở nên trì trệ.
Mặt tốt và mặt xấu của tính tập thể hay, nói cách khác, tính tích cực và tính tiêu cực của vốn xã hội thể hiện rõ nhất trong thế giới làm ăn. Nếu sử dụng mối quan hệ giữa quyền lực và tiền bạc thành một liên kết riêng, mang tính loại trừ người khác để hưởng lợi cho riêng mình, thì đấy là một loại vốn xã hội nguy hại cho xã hội nói chung. Nó cũng giống mối quan hệ bên trong các băng đảng hay các nhóm khủng bố cuồng tín. Còn xây dựng một mối quan hệ mở, hướng ra bên ngoài, trên cơ sở mọi người tham gia cùng chia sẻ, cùng hưởng lợi, là cầu nối cho mọi cá nhân lúc đó tính tập thể mới biến vốn xã hội thành nguồn lực lớn cho phát triển.
(Bài này viết lâu rồi từ năm 2006, đăng trên báo Tia Sáng, giờ lưu lại ở đây để làm tài liệu. Lý do là có người hỏi Sở Kế hoạch Đầu tư một địa phương từ chối cấp phép cho một doanh nghiệp mang tên “Social Capital” vì theo họ cụm từ này dịch ra thành “xã hội tử hình”, vậy có đúng không. Haha. Sở giải thích tiếu lâm thiệt).
Lý giải hiện tượng hai cộng đồng dân cư có tài sản như nhau, nguồn lực bằng nhau, ở một mức xuất phát giống nhau nhưng một bên phát triển mạnh trở nên giàu có, một bên lụi tàn đến chỗ nghèo đói, người ta bắt đầu viện đến khái niệm vốn xã hội. Nếu có một thứ vốn như thế, tài sản vốn xã hội ở Việt Nam cao hay thấp, có đóng góp gì cho quá trình phát triển đất nước?
Nói một cách đơn giản nhất, vốn xã hội là những mạng lưới kết nối con người lại với nhau, cùng nhau giải quyết các vấn đề chung. Một ngôi làng bị bão tàn phá – nếu dân làng góp sức cùng nhau xây dựng lại nhà cửa thì kết quả sẽ cao hơn nhiều lần so với khi từng người đơn độc tự làm lấy.
Vốn xã hội ở đây không phải tự dưng mà có. Nó phải xuất phát từ một quá trình trải nghiệm chuyện “có đi, có lại”, trải nghiệm mức độ “chơi được” của người khác và kỳ vọng ở kết quả nhờ thành công ở những lần hợp tác trước. Cũng như người Việt Nam từng hiểu “Một cây làm chẳng nên non/Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, vốn xã hội là một thực tế từ xưa nhưng chỉ trở thành đề tài thời thượng ở phương Tây vào cuối thập niên 1990.
Ở đây, cần lưu ý một số điểm trước khi nhìn lại vốn xã hội ở Việt Nam. Trước hết, vốn xã hội không chỉ là động lực thúc đẩy tiến bộ của xã hội bên cạnh vốn tài sản và vốn con người như các ví dụ ở trên. Nó còn có thể có tác động xấu.
Năm khu phố có năm tay lưu manh thì mọi người dù sao còn chịu được vì từng tên riêng lẻ không gây hại nhiều lắm, lại dễ bị khống chế. Nhưng nếu năm tay này liên kết với nhau thành một băng đảng thì hậu họa chúng gây ra tăng gấp hàng trăm lần cho cả một thành phố. Mafia, xã hội đen tồn tại đến bây giờ cũng nhờ biết “tận dụng”vốn xã hội của chúng.
Thứ nữa, các mạng lưới hình thành vốn xã hội thay đổi nhanh chóng. Ngày xưa lối sống khép kín của các cộng đồng dân cư nhỏ, như làng quê Việt Nam là môi trường xây dựng một loại vốn xã hội khác. Ngày nay, Internet, email, điện thoại di động lại là công cụ tạo dựng một loại vốn xã hội hoàn toàn khác. Tuy môi trường tác động lên vốn xã hội nhưng không thể kêu gọi chung chung rồi hy vọng nhờ vào “nhiệt huyết” mà vốn xã hội bỗng tăng lên theo kỳ vọng. Có thể nó sẽ tăng trong thời gian ngắn như trên thị trường vốn tài chính nhưng cũng sẽ nhanh chóng xẹp xuống một khi con người, qua trải nghiệm thực tế, không tìm thấy điều họ cần tìm.
Vốn xã hội phát huy tác dụng tích cực mạnh nhất ở một xã hội dân chủ nơi mọi người được tự do và tự nguyện tham gia các mạng lưới gắn kết cộng đồng và ngược lại nền dân chủ của một xã hội càng được củng cố một khi vốn xã hội ở đó mạnh lên. Cuối cùng, từ “vốn” có thể gây hiểu nhầm vì qua quan sát, người ta nhận ra một điều: vốn xã hội càng sử dụng càng tăng chứ không giảm như các loại vốn khác; thậm chí nếu không sử dụng, vốn xã hội sẽ dần dần triệt tiêu.
Cho dù những nhà nghiên cứu đang bất đồng về định nghĩa vốn xã hội sao cho trọn vẹn và chính xác, có thể thấy đa số đồng ý ở điểm vốn xã hội chỉ xuất hiện khi các cá nhân trong cộng đồng cùng chia sẻ một số chuẩn mực và giá trị làm cơ sở cho sự hợp tác. Vì thế có lẽ một khía cạnh quan trọng trong nền văn hóa của một xã hội có thể được dùng để đo lường mức vốn xã hội của cộng đồng. Đó là tính tập thể đối chọi với tính cá nhân.
Chính Robert Putnam, tác giả cuốn Bowling Alone (2000) nổi tiếng về vốn xã hội than phiền vốn xã hội nước Mỹ đang giảm thấp vì người Mỹ hiện đại sống mang tính cá nhân hơn trước nhiều.
Thế nhưng, khái niệm tính tập thể thường không được hiểu đầy đủ. Chúng ta thường gán cho tính tập thể những điều tốt đẹp, là sức mạnh của “ba cây chụm lại” và chê bai tính cá nhân. Điều đó đúng nhưng chưa đủ. Tính tập thể đúng là mối quan hệ chặt chẽ ở một xã hội nơi con người gắn kết nhau, sống dựa vào nhau. Và một khi đã dựa vào nhau như thế, cá nhân trong tập thể thường phải tôn trọng sự đồng thuận, ít thích va chạm, không muốn đối đầu, không muốn làm người khác mất mặt – một khái niệm rất quan trọng trong xã hội phương Đông.
Xét ở góc độ này người Việt Nam có tính tập thể cao. Nhưng điều đó chưa hẳn đưa đến kết luận vốn xã hội ở Việt Nam cao. Nó rất cao trong khuôn khổ gia đình khi cha mẹ có thể hy sinh tất cả cho việc học của con cái, trong bình diện cả nước khi có chiến tranh, lúc đó cá nhân sẵn sàng hy sinh thân mình vì lợi ích chung của cả đất nước. Nó cũng rất cao vì người dân Việt Nam rất tôn trọng tình làng nghĩa xóm, sẵn sàng chia sẻ cho người gặp bất hạnh.
Nhưng cũng như vốn tài chính, vốn xã hội sinh ra không chỉ để phục vụ cho nó – nó phải có tác dụng lên sự thịnh vượng của cộng đồng. Và ở đây, tính tập thể - nhìn ở góc cạnh tránh va chạm, muốn có đồng thuận, có thể làm thui chột sự đột phá của cá nhân, có thể có tác dụng nhân vốn xã hội lên gấp bội. Mạng lưới kết nối xã hội suy cho cùng là để nhằm thực hiện một mục tiêu chung nào đó, nếu tất cả chỉ chú trọng đến xây dựng quan hệ hòa đồng thì có nguy cơ quên mất mục tiêu ban đầu cho sự ra đời mạng lưới xã hội ấy.
Hơn nữa, vai trò cá nhân rất cần thiết để làm người tiên phong, vượt ra khỏi tập thể quen thuộc của mình, tiếp thu ý tưởng của tập thể khác để xây dựng mạng lưới liên kết mới. Các nhà nghiên cứu về vốn xã hội cũng nêu lên hiện tượng cá nhân lẩn tránh đằng sau một tập thể để giảm bớt sự đóng góp và tăng mức hưởng lợi từ tập thể. Chỉ có thể tránh hiện tượng này bằng một tập thể với những quy ước rõ ràng, minh bạch, tính chịu trách nhiệm cao của từng cá nhân. Một ông thứ trưởng quản lý như thế nào để các bộ phận bên dưới nhũng lạm với quy mô chưa từng thấy lại có thể dùng màn che tập thể để lẩn tránh trách nhiệm – ấy chính là chỗ yếu của tính tập thể trong tính toán vốn xã hội của chúng ta.
Ở bình diện lớn hơn, tính tập thể của xã hội có nguy cơ ngăn cản xã hội đó vươn ra bên ngoài vì chắc chắn họ sẽ gặp phải những giá trị khác, những chuẩn mực khác khó lòng chấp nhận đối với họ. Lúc đó, vốn xã hội hạn hẹp này sẽ đẩy xã hội đó đến chỗ bế tắc và trở nên trì trệ.
Mặt tốt và mặt xấu của tính tập thể hay, nói cách khác, tính tích cực và tính tiêu cực của vốn xã hội thể hiện rõ nhất trong thế giới làm ăn. Nếu sử dụng mối quan hệ giữa quyền lực và tiền bạc thành một liên kết riêng, mang tính loại trừ người khác để hưởng lợi cho riêng mình, thì đấy là một loại vốn xã hội nguy hại cho xã hội nói chung. Nó cũng giống mối quan hệ bên trong các băng đảng hay các nhóm khủng bố cuồng tín. Còn xây dựng một mối quan hệ mở, hướng ra bên ngoài, trên cơ sở mọi người tham gia cùng chia sẻ, cùng hưởng lợi, là cầu nối cho mọi cá nhân lúc đó tính tập thể mới biến vốn xã hội thành nguồn lực lớn cho phát triển.
Published on November 18, 2014 20:54
November 16, 2014
Kinh tế chia sẻ
Chia sẻ cũng không phải dễ
Bạn có nguyên một tầng lầu bỏ không nhưng không muốn cho thuê dài hạn vì những phiền toái khi cho thuê nhà. Bạn ước gì liên lạc được với du khách toàn thế giới, ai ghé lại Sài Gòn muốn ở nhà bình thường chứ không thích ở khách sạn thì cứ đến thuê nhà của bạn.
Ngày xưa ước muốn đó khó mà thực hiện; giỏi lắm bạn chỉ đủ tiền quảng cáo ở một vài tờ báo chứ làm sao đưa thông tin về căn nhà của bạn ra cho toàn thế giới.
Nhưng nay chuyện dàn xếp để người có nhu cầu thuê nhà với người có nhà cho thuê ngắn hạn đã dễ như trở bàn tay. Hàng loạt trang web ra đời mà nổi bật nhất là trang airbnb.com, hiện đang làm trung gian cho gần một triệu chỗ ở ngắn ngày tại 33.000 thành phố ở 192 nước. Số liệu năm ngoái cho thấy mỗi ngày trang này mai mối thành công cho gần 50.000 lượt thuê nhà ngắn hạn như thế ở khắp thế giới, kể cả ở Việt Nam. Gõ thử “Hanoi, Vietnam” vào trang airbnb.com, thấy có vài trăm chỗ chào cho thuê, từ hai ba chục đến cả trăm đô-la mỗi ngày.
Câu hỏi đầu tiên nảy sinh là làm sao chủ nhà tin tưởng cho một người lạ mặt vào nhà mình ở; làm sao du khách dám xách vali đến ở tại một nơi xa lạ lại không đăng ký kinh doanh như khách sạn. Airbnb xây dựng lòng tin nhờ vào nhận xét của cộng đồng, vào quy luật có đi có lại… Thậm chí các mạng xã hội khác như Facebook cung cấp ứng dụng xác minh người dùng cho Airbnb.
Bùng nổ nền kinh tế chia sẻ
Có lẽ đến giờ nhiều người ở Việt Nam đã nghe nói đến Uber, dịch vụ chia sẻ phương tiện đi lại theo mô hình taxi tư nhân.
Tuy nhiên ở đây phải nói ngay một nhầm lẫn giữa hai loại hình dịch vụ. Một bên là ứng dụng công nghệ thông tin để phục vụ cho các mô hình kinh doanh sẵn có. Ví dụ thay vì dung tổng đài để gọi taxi, người ta có thể dung các ứng dụng trên điện thoại thông minh như GrabTaxi, EasyTaxi, MoobiTaxi… để biết ngay chiếc taxi nào đang ở gần mình, đặt chỗ rồi gọi xe… Bên kia lại là kết nối giữa người có nhu cầu đi xe và người có xe sẵn sàng chở khách kiếm thêm tiền chứ không phải dân chạy taxi chuyên nghiệp. Cái sau chính là Uber.
Như vậy các dịch vụ như Uber hay Airbnb đang gây xáo trộn những ngành truyền thống đang hoạt động bấy lâu nay – thay vì hỗ trợ chủ khách sạn tiếp cận khách hàng, tài xế taxi kiếm khách nhanh hơn, chúng bỏ qua các nơi cung ứng dịch vụ theo con đường chính thống mà kết nối người dùng với nơi cung ứng dịch vụ phi truyền thống như người muốn cho thuê nhà theo kiểu tài tử, người dùng xe nhà chạy vài cuốc kiếm thêm ít tiền.
Nền kinh tế chia sẻ theo kiểu ấy không chỉ dừng lại ở Uber hay Airbnb, nó đang mở rộng ra nhiều lãnh vực khác nhau. Từ chia sẻ chiếc xe hơi, nhà mở rộng ra chia sẻ máy móc đắt tiền, chăm sóc thú cưng dùm cho người đi du lịch, làm việc nhà, thậm chí cho vay ngắn hạn… Có những dịch vụ mới nghe qua tưởng đâu chỉ có trong phim khoa học viễn tưởng như Auto Share của Verizon, người dùng chỉ cần quét chiếc điện thoại di động lên kính xe hơi đang đỗ ngoài phố để xác minh, nếu đúng là nhân vật đã đăng ký thì xe sẽ mở cửa và sẵn sàng cho sử dụng. Có cái nghe thật xa vời như cho thuê nguyên hòn đảo, cánh đồng, chỗ cắm trại hay thật vặt vãnh như cho thuê cái máy giặt trong hai giờ.
Phản đối cũng ầm ĩ không kém
Phản ứng lại các dịch vụ chia sẻ nói trên đầu tiên là các nơi cung cấp dịch vụ truyền thống. Chắc chắn các hãng xe taxi sẽ không muốn bị cạnh tranh hớt khách trên tay bởi hàng ngàn hãng xe taxi không tên tuổi, mỗi ông chủ chỉ một chiếc xe lại sẵn sàng phục vụ bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu. Chắc chắn các khách sạn không vui vẻ gì khi một tỷ lệ ngày càng lớn du khách dùng Airbnb, bỏ qua hệ thống khách sạn truyền thống.
Mới đây nhất là chuyện Sở Giao thông vận tải TPHCM đề nghị Bộ Giao thông vận tải có chỉ đạo để làm rõ tính pháp lý đối với dịch vụ xe Uber. Uber cũng bị giới taxi nhiều nước phản đối vì theo họ đã cạnh tranh không lành mạnh như một dạng hoạt động chui, không đóng thuế. Những người tham gia vào mạng lưới cho thuê nhà kiểu Airbnb chắc chắn sẽ gặp khó khăn nếu giới khách sạn kêu cứu vì chỉ cần siết lại chuyện đăng ký tạm trú hay đăng ký kinh doanh là coi như bị phá vỡ hợp đồng.
Phản đối thì phản đối, vấn đề quan trọng là các nhà quản lý nghĩ sao về các loại hình kinh tế hoàn toàn mới này.
Phản ứng từ các doanh nghiệp chắc không đủ để nhà làm chính sách phải ra tay hạn chế nền kinh tế chia sẻ vì doanh nghiệp truyền thống bị thua thiệt thì người tiêu dùng và hàng loạt “doanh nghiệp” tí hon sẽ hưởng lợi – cái lợi chung của nền kinh tế ắt sẽ lớn hơn thiệt hại mà nó gây ra.
Điều then chốt là nhà nước có thể thu thuế dễ dàng từ doanh nghiệp đã đăng ký hoạt động như hãng xe taxi hay chuỗi khách sạn; ngược lại họ sẽ không thu được đồng thuế nào từ các “doanh nghiệp bất đắc dĩ” trong nền kinh tế chia sẻ. Và đây mới chính là động lực để nhà nước “quản” các loại hình dịch vụ như Uber hay Airbnb.
Tuy nhiên ở các nước phát triển, nếu cá nhân hưởng lợi từ việc cho thuê nhà, thuê xe, ắt thu nhập của họ sẽ tăng lên và nhà nước sẽ thu thuế từ đó. Tức thay vì thu thuế thu nhập doanh nghiệp, nhà nước sẽ thu thuế thu nhập cá nhân chứ không mất đi đâu cả.
Một phản đối lớn hơn là tính bất ổn của nền kinh tế chia sẻ gây ra. Thử hỏi có chính quyền nào dám công khai cho phép một loại hình kinh doanh hoạt động mà họ không kiểm soát được. Giả thử xảy ra vài vụ án mạng hay cướp bóc từ việc chia sẻ phòng ngủ, cho đi xe nhờ thì áp lực dư luận bắt kiểm soát loại hình này sẽ lên cao đến đâu.
Tương lai sẽ như thế nào?
Nói gì thì nói, ở những nước như Việt Nam, tư duy “quản không được thì cấm” vẫn còn rất mạnh. Cho nên có thể tiên đoán sẽ sớm có những quy định hạn chế các dịch vụ chia sẻ như Uber hay cấm hẳn Airbnb bằng cách cấm cho người nước ngoài thuê nhà tư nhân.
Tuy nhiên, trong thời đại công nghệ và mô hình kinh doanh thay đổi như chong chóng ngày nay, cứ cấm đoán theo kiểu cũ trước sau gì cũng thất bại.
Giả dụ người dùng Airbnb cứ tiến hành giao dịch, không màng đến giới quản lý thì sao? Quan trọng hơn, nếu không hiểu và thích nghi với các mô hình phát triển mới, chúng ta sẽ đánh mất tính sáng tạo và năng động của nền kinh tế. Chính vì thế mà thành phố San Francisco vừa sửa luật để tạo điều kiện cho mọi người chia sẻ nhà hay phòng ở qua Airbnb dễ dàng hơn.
Bản chất của các mô hình thành công mới là đóng vai trò trung gian. Ví dụ Facebook là nơi trung gian cho hàng triệu triệu con người trao đổi thông tin với nhau, Facebook không thu phí mà tìm lợi nhuận từ quảng cáo cho chính hàng triệu triệu con người đó xem. Nhiều trang tương tự ở nước ngoài dùng khái niệm “user-generated content” (nội dung do người dùng tạo ra) để hoạt động, vừa khỏi tốn chi phí sản xuất nội dung vừa thu hút số lượng người đông đảo. Chính những thành công của các trang mang tính diễn đàn như thế như Tinh Tế ở Việt Nam làm chúng ta phải suy nghĩ về cách thức quản lý.
Nhìn rộng ra, hiện nay đã có những mô hình kinh doanh hoàn toàn mới trước đây chưa ai nghĩ là có thể tồn tại. Ví dụ gọi vốn cho những sản phẩm chỉ mới là ý tưởng, bán sách chưa viết xong, tự xuất bản, tự phát hành qua mạng…
Thử tượng tượng đến một ngày đẹp trời nào đó, mọi thứ chúng ta đang sở hữu đều có thể được rao để chia sẻ, bất kỳ ai mong muốn “mượn” đồ của chúng ta đều có thể tham gia, phần mềm trên chiếc điện thoại sẽ lo hết mọi thứ để cuối cùng thu xếp cho cung cầu gặp nhau. Phần còn lại chỉ là vấn đề hậu cần.
Cái hay là Việt Nam và người dân Việt Nam hoàn toàn có thể tham gia vào nền kinh tế chia sẻ ngang bằng với các nước khác, không ngại trình độ công nghệ hay cơ sở hạ tầng. Có lẽ quan niệm “trình độ quản lý phải tiến kịp với trình độ phát triển” ngày càng đúng hơn bao giờ hết.
Bạn có nguyên một tầng lầu bỏ không nhưng không muốn cho thuê dài hạn vì những phiền toái khi cho thuê nhà. Bạn ước gì liên lạc được với du khách toàn thế giới, ai ghé lại Sài Gòn muốn ở nhà bình thường chứ không thích ở khách sạn thì cứ đến thuê nhà của bạn.
Ngày xưa ước muốn đó khó mà thực hiện; giỏi lắm bạn chỉ đủ tiền quảng cáo ở một vài tờ báo chứ làm sao đưa thông tin về căn nhà của bạn ra cho toàn thế giới.
Nhưng nay chuyện dàn xếp để người có nhu cầu thuê nhà với người có nhà cho thuê ngắn hạn đã dễ như trở bàn tay. Hàng loạt trang web ra đời mà nổi bật nhất là trang airbnb.com, hiện đang làm trung gian cho gần một triệu chỗ ở ngắn ngày tại 33.000 thành phố ở 192 nước. Số liệu năm ngoái cho thấy mỗi ngày trang này mai mối thành công cho gần 50.000 lượt thuê nhà ngắn hạn như thế ở khắp thế giới, kể cả ở Việt Nam. Gõ thử “Hanoi, Vietnam” vào trang airbnb.com, thấy có vài trăm chỗ chào cho thuê, từ hai ba chục đến cả trăm đô-la mỗi ngày.
Câu hỏi đầu tiên nảy sinh là làm sao chủ nhà tin tưởng cho một người lạ mặt vào nhà mình ở; làm sao du khách dám xách vali đến ở tại một nơi xa lạ lại không đăng ký kinh doanh như khách sạn. Airbnb xây dựng lòng tin nhờ vào nhận xét của cộng đồng, vào quy luật có đi có lại… Thậm chí các mạng xã hội khác như Facebook cung cấp ứng dụng xác minh người dùng cho Airbnb.
Bùng nổ nền kinh tế chia sẻ
Có lẽ đến giờ nhiều người ở Việt Nam đã nghe nói đến Uber, dịch vụ chia sẻ phương tiện đi lại theo mô hình taxi tư nhân.
Tuy nhiên ở đây phải nói ngay một nhầm lẫn giữa hai loại hình dịch vụ. Một bên là ứng dụng công nghệ thông tin để phục vụ cho các mô hình kinh doanh sẵn có. Ví dụ thay vì dung tổng đài để gọi taxi, người ta có thể dung các ứng dụng trên điện thoại thông minh như GrabTaxi, EasyTaxi, MoobiTaxi… để biết ngay chiếc taxi nào đang ở gần mình, đặt chỗ rồi gọi xe… Bên kia lại là kết nối giữa người có nhu cầu đi xe và người có xe sẵn sàng chở khách kiếm thêm tiền chứ không phải dân chạy taxi chuyên nghiệp. Cái sau chính là Uber.
Như vậy các dịch vụ như Uber hay Airbnb đang gây xáo trộn những ngành truyền thống đang hoạt động bấy lâu nay – thay vì hỗ trợ chủ khách sạn tiếp cận khách hàng, tài xế taxi kiếm khách nhanh hơn, chúng bỏ qua các nơi cung ứng dịch vụ theo con đường chính thống mà kết nối người dùng với nơi cung ứng dịch vụ phi truyền thống như người muốn cho thuê nhà theo kiểu tài tử, người dùng xe nhà chạy vài cuốc kiếm thêm ít tiền.
Nền kinh tế chia sẻ theo kiểu ấy không chỉ dừng lại ở Uber hay Airbnb, nó đang mở rộng ra nhiều lãnh vực khác nhau. Từ chia sẻ chiếc xe hơi, nhà mở rộng ra chia sẻ máy móc đắt tiền, chăm sóc thú cưng dùm cho người đi du lịch, làm việc nhà, thậm chí cho vay ngắn hạn… Có những dịch vụ mới nghe qua tưởng đâu chỉ có trong phim khoa học viễn tưởng như Auto Share của Verizon, người dùng chỉ cần quét chiếc điện thoại di động lên kính xe hơi đang đỗ ngoài phố để xác minh, nếu đúng là nhân vật đã đăng ký thì xe sẽ mở cửa và sẵn sàng cho sử dụng. Có cái nghe thật xa vời như cho thuê nguyên hòn đảo, cánh đồng, chỗ cắm trại hay thật vặt vãnh như cho thuê cái máy giặt trong hai giờ.
Phản đối cũng ầm ĩ không kém
Phản ứng lại các dịch vụ chia sẻ nói trên đầu tiên là các nơi cung cấp dịch vụ truyền thống. Chắc chắn các hãng xe taxi sẽ không muốn bị cạnh tranh hớt khách trên tay bởi hàng ngàn hãng xe taxi không tên tuổi, mỗi ông chủ chỉ một chiếc xe lại sẵn sàng phục vụ bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu. Chắc chắn các khách sạn không vui vẻ gì khi một tỷ lệ ngày càng lớn du khách dùng Airbnb, bỏ qua hệ thống khách sạn truyền thống.
Mới đây nhất là chuyện Sở Giao thông vận tải TPHCM đề nghị Bộ Giao thông vận tải có chỉ đạo để làm rõ tính pháp lý đối với dịch vụ xe Uber. Uber cũng bị giới taxi nhiều nước phản đối vì theo họ đã cạnh tranh không lành mạnh như một dạng hoạt động chui, không đóng thuế. Những người tham gia vào mạng lưới cho thuê nhà kiểu Airbnb chắc chắn sẽ gặp khó khăn nếu giới khách sạn kêu cứu vì chỉ cần siết lại chuyện đăng ký tạm trú hay đăng ký kinh doanh là coi như bị phá vỡ hợp đồng.
Phản đối thì phản đối, vấn đề quan trọng là các nhà quản lý nghĩ sao về các loại hình kinh tế hoàn toàn mới này.
Phản ứng từ các doanh nghiệp chắc không đủ để nhà làm chính sách phải ra tay hạn chế nền kinh tế chia sẻ vì doanh nghiệp truyền thống bị thua thiệt thì người tiêu dùng và hàng loạt “doanh nghiệp” tí hon sẽ hưởng lợi – cái lợi chung của nền kinh tế ắt sẽ lớn hơn thiệt hại mà nó gây ra.
Điều then chốt là nhà nước có thể thu thuế dễ dàng từ doanh nghiệp đã đăng ký hoạt động như hãng xe taxi hay chuỗi khách sạn; ngược lại họ sẽ không thu được đồng thuế nào từ các “doanh nghiệp bất đắc dĩ” trong nền kinh tế chia sẻ. Và đây mới chính là động lực để nhà nước “quản” các loại hình dịch vụ như Uber hay Airbnb.
Tuy nhiên ở các nước phát triển, nếu cá nhân hưởng lợi từ việc cho thuê nhà, thuê xe, ắt thu nhập của họ sẽ tăng lên và nhà nước sẽ thu thuế từ đó. Tức thay vì thu thuế thu nhập doanh nghiệp, nhà nước sẽ thu thuế thu nhập cá nhân chứ không mất đi đâu cả.
Một phản đối lớn hơn là tính bất ổn của nền kinh tế chia sẻ gây ra. Thử hỏi có chính quyền nào dám công khai cho phép một loại hình kinh doanh hoạt động mà họ không kiểm soát được. Giả thử xảy ra vài vụ án mạng hay cướp bóc từ việc chia sẻ phòng ngủ, cho đi xe nhờ thì áp lực dư luận bắt kiểm soát loại hình này sẽ lên cao đến đâu.
Tương lai sẽ như thế nào?
Nói gì thì nói, ở những nước như Việt Nam, tư duy “quản không được thì cấm” vẫn còn rất mạnh. Cho nên có thể tiên đoán sẽ sớm có những quy định hạn chế các dịch vụ chia sẻ như Uber hay cấm hẳn Airbnb bằng cách cấm cho người nước ngoài thuê nhà tư nhân.
Tuy nhiên, trong thời đại công nghệ và mô hình kinh doanh thay đổi như chong chóng ngày nay, cứ cấm đoán theo kiểu cũ trước sau gì cũng thất bại.
Giả dụ người dùng Airbnb cứ tiến hành giao dịch, không màng đến giới quản lý thì sao? Quan trọng hơn, nếu không hiểu và thích nghi với các mô hình phát triển mới, chúng ta sẽ đánh mất tính sáng tạo và năng động của nền kinh tế. Chính vì thế mà thành phố San Francisco vừa sửa luật để tạo điều kiện cho mọi người chia sẻ nhà hay phòng ở qua Airbnb dễ dàng hơn.
Bản chất của các mô hình thành công mới là đóng vai trò trung gian. Ví dụ Facebook là nơi trung gian cho hàng triệu triệu con người trao đổi thông tin với nhau, Facebook không thu phí mà tìm lợi nhuận từ quảng cáo cho chính hàng triệu triệu con người đó xem. Nhiều trang tương tự ở nước ngoài dùng khái niệm “user-generated content” (nội dung do người dùng tạo ra) để hoạt động, vừa khỏi tốn chi phí sản xuất nội dung vừa thu hút số lượng người đông đảo. Chính những thành công của các trang mang tính diễn đàn như thế như Tinh Tế ở Việt Nam làm chúng ta phải suy nghĩ về cách thức quản lý.
Nhìn rộng ra, hiện nay đã có những mô hình kinh doanh hoàn toàn mới trước đây chưa ai nghĩ là có thể tồn tại. Ví dụ gọi vốn cho những sản phẩm chỉ mới là ý tưởng, bán sách chưa viết xong, tự xuất bản, tự phát hành qua mạng…
Thử tượng tượng đến một ngày đẹp trời nào đó, mọi thứ chúng ta đang sở hữu đều có thể được rao để chia sẻ, bất kỳ ai mong muốn “mượn” đồ của chúng ta đều có thể tham gia, phần mềm trên chiếc điện thoại sẽ lo hết mọi thứ để cuối cùng thu xếp cho cung cầu gặp nhau. Phần còn lại chỉ là vấn đề hậu cần.
Cái hay là Việt Nam và người dân Việt Nam hoàn toàn có thể tham gia vào nền kinh tế chia sẻ ngang bằng với các nước khác, không ngại trình độ công nghệ hay cơ sở hạ tầng. Có lẽ quan niệm “trình độ quản lý phải tiến kịp với trình độ phát triển” ngày càng đúng hơn bao giờ hết.
Published on November 16, 2014 00:45
November 15, 2014
Giá dầu biến động - do đâu?
Giá dầu biến động - do đâu?
Giá dầu đang giảm mạnh, tính từ giữa tháng 6-2014 đến giữa tháng 10-2014 đã giảm trên 25 đô la/thùng.
Chỉ đến khi giá dầu xuống mức xấp xỉ 80 đô la Mỹ/thùng, người ta mới sực nghĩ đến cuộc cách mạng dầu đá phiến đang diễn ra, có tiềm năng thay đổi tận gốc rễ tình hình địa chính trị, kinh tế cũng như cán cân quyền lực trên toàn thế giới.
Thế nhưng cuộc cách mạng dầu khí đá phiến là gì? Và nó có ảnh hưởng thế nào đến giá dầu thô trên thế giới?
Một chút lịch sử
Xưa nay nói đến dầu, người ta chỉ nghĩ đến dầu thô khai thác từ những giếng dầu truyền thống trên đất liền hay ngoài biển. Và nói đến dầu thô, nhiều người cũng nhớ ngay đến dự báo của King Hubbert từ năm 1956 rằng lượng dầu khai thác được sẽ đạt đỉnh vào thập niên 1970 rồi giảm dần đến chỗ cạn kiệt. Trong nhiều năm người ta tin vào tiên đoán này, nhất là khi giá dầu ngày càng tăng vì chi phí khai thác cao, xung đột tranh giành ảnh hưởng lên các vùng nhiều dầu làm dầu mang tính địa chính trị đậm nét. Chỉ mới cách đây một thập niên, người Mỹ cũng nghĩ rằng nguồn cung dầu thô của họ sẽ cạn kiệt dần nên mọi chính sách đối ngoại dường như tập trung vào “lợi ích của Hoa Kỳ” mà nói trắng ra là các giếng dầu ở Trung Đông.
Thế rồi mọi chuyện thay đổi khi Mỹ hoàn thiện công nghệ khai thác dầu khí đá phiến trong đầu thập niên 2000. Nói ngắn gọn, nhờ vào sự phát triển của hai công nghệ ép vỉa thủy lực (hydraulic fracturing, còn được dịch thành nứt vỡ thủy lực) và khoan ngang, Mỹ đã vượt qua các nước khác, đi tiên phong trong lĩnh vực khai thác dầu khí đá phiến. (Xem thêm bài Cuộc cách mạng dầu khí đá phiến).
Trong khi trữ lượng dầu thô truyền thống của Mỹ là 164 tỉ thùng thì trữ lượng dầu đá phiến cũng lên đến 58 tỉ thùng, nâng tổng trữ lượng dầu thô của Mỹ vào khoảng 222 tỉ thùng. Để so sánh, các con số này của toàn thế giới lần lượt là 3.012 tỉ thùng dầu truyền thống, 345 tỉ thùng dầu đá phiến và tổng trữ lượng là 3.357 tỉ thùng. Tính ra thì trữ lượng dầu đá phiến của Mỹ chiếm đến một phần tư tổng trữ lượng dầu mỏ của nước này; trong khi trên thế giới, dầu đá phiến chỉ chiếm một phần mười tổng trữ lượng.
Từ năm 2005-2013, sản lượng khai thác dầu và khí đá phiến ở Mỹ tăng từ 5% lên đến 35% tổng lượng dầu khí khai thác ở nước này. Hiện Mỹ đã vượt Nga, trở thành nước sản xuất khí đốt lớn nhất thế giới. Còn dầu thì từ năm 2008 đến nay, sản lượng Mỹ khai thác đã tăng đến 70%, lên mức 8,7 triệu thùng/ngày. Theo nhiều dự đoán đáng tin cậy, trong vòng vài năm tới lượng dầu thô khai thác ở Mỹ sẽ vượt mức đỉnh 10 triệu thùng/ngày từng đạt được vào thập niên 1970, và tiếp tục có cơ qua mặt cả Nga và Ảrập Saudi thành nước sản xuất dầu thô lớn nhất thế giới. Còn nếu tính tổng sản lượng dầu thô quy đổi - bao gồm dầu thô và các loại khí thiên nhiên dạng lỏng (natural gas liquids - NGL) - thì Mỹ đã đạt mức 11,5 triệu thùng/ngày và đã vượt qua cả Nga lẫn Ảrập Saudi lên hàng đầu thế giới vào tháng 7-2014 vừa qua, theo thống kê chính thức của Cơ quan Năng lượng quốc tế IEA.
Tại sao giá dầu thô giảm mạnh
Gần như ngay tức thì khi cuộc cách mạng dầu khí đá phiến bùng nổ, nhu cầu nhập khẩu dầu thô của Mỹ giảm xuống rõ rệt. Nên nhớ cách đây khoảng 10 năm Mỹ còn phải nhập gần 11 triệu thùng dầu thô mỗi ngày để đáp ứng nhu cầu trong nước và chỉ xuất khẩu khoảng 1,5 triệu thùng dầu thành phẩm (mà ta có thể gọi nôm na là xăng dầu). Nhưng tính đến cuối năm 2013, Mỹ chỉ còn phải nhập 7 triệu thùng dầu thô mỗi ngày và xuất khẩu đến gần 4 triệu thùng dầu thành phẩm. Ở quốc gia tiêu thụ dầu hàng đầu thế giới mà cầu giảm trong khi cung lại tăng nên chẳng lạ gì giá dầu thế giới có thể coi là bình ổn trong vài năm gần đây và giảm mạnh trong thời gian mấy tháng vừa qua. Bất kể các cuộc khủng hoảng xung đột xảy ra tại các khu vực xuất khẩu dầu thô như Libya (vụ chính quyền Tổng thống Gaddafi bị lật đổ), tại Trung Đông (với việc Nhà nước Hồi giáo (IS) tuyên bố thành lập), hay vụ xung đột giữa Nga và Ukraine, giá dầu thô trên thế giới không hề tăng như xưa nữa.
Khi giá dầu giảm dưới mức 80 đô la/thùng, nhiều nước sản xuất dầu thô nếu tính toán không khéo sẽ bị lỗ nặng. Thế nhưng chi phí sản xuất dầu đá phiến thì ngày càng giảm. Nhờ liên tục cải tiến công nghệ và sự cạnh tranh giữa các công ty cung cấp dịch vụ khoan, chi phí khai thác mỗi thùng dầu đá phiến ở nhiều nơi trên nước Mỹ chỉ còn khoảng 30 đô la/thùng từ năm 2012, theo một báo cáo của Morgan Stanley. Như vậy nhiều nhà sản xuất dầu ở Mỹ còn có thể chịu được dù giá rớt xuống mức 50 đô la/thùng.
Tất cả những yếu tố đề cập trên đang được đặt lên bàn cân của các nước trong một ván cờ hoàn toàn mới lạ so với trước.
Kẻ cười người khóc
Hiện tượng giá dầu giảm lần này không phải do biến động chính trị mà do cung tăng bền vững, đều đặn nên chắc chắn mức giá giảm sẽ còn tiếp tục cho đến chừng nào các nước sản xuất dầu thô truyền thống như Ảrập Saudi (đại diện tiêu biểu của khối OPEC) hay Nga chịu không nổi phải giảm sản lượng để giữ giá dầu, tránh sự thâm hụt ngân sách thêm trầm trọng. Có vẻ như Ảrập Saudi và cả Nga đang muốn chơi trò “cù cưa” với Mỹ nhằm đo lường xem Mỹ trụ lại được bao lâu khi giá dầu giảm. Tuy nhiên, có thể thấy ngay là “trò chơi nguy hiểm” này cũng sẽ chẳng làm Mỹ suy yếu đi bao nhiêu mà ngược lại, có thể rơi vào trường hợp “gậy ông đập lưng ông”.
Lý do dự đoán Mỹ không suy yếu bao nhiêu là vì: Mỹ vẫn chưa bỏ lệnh cấm xuất khẩu dầu thô cho nên sản lượng dầu đá phiến tăng đều đặn hoàn toàn được cung cấp cho thị trường nội địa. Giá dầu giảm có chăng sẽ làm giảm mức tăng sản lượng dầu thô của quốc gia này (vì nguồn đầu tư vào hoạt động khai thác dầu sẽ giảm) chứ không thể ảnh hưởng tiêu cực lên nền kinh tế đa dạng và đang trên đà hồi phục. Đó là chưa kể nguồn cung khí đốt khai thác từ đá phiến dồi dào dẫn đến giá khí đốt tại Mỹ vẫn rất rẻ so với bình diện chung kéo theo hàng loạt ngành công nghiệp khác phát triển và thu hút nhiều đầu tư từ nước ngoài. Giá khí đốt tại Mỹ hiện nay vào khoảng 4 đô la trên một đơn vị năng lượng BTU so với 11-12 đô la ở thị trường châu Âu và 16-17 đô la tại thị trường châu Á.
Một vấn đề nữa cần chú ý là loại dầu khai thác từ đá phiến là dầu ngọt và nhẹ trong khi dầu của Ảrập Saudi là loại nặng và chua (vì chứa nhiều lưu huỳnh) nên dù Ảrập Saudi có “đổi ý” muốn giảm sản lượng hòng bình ổn giá dầu cũng không thay đổi được mức cung ngày càng tăng cao của loại dầu ngọt và nhẹ. Nghĩa là họ cũng chẳng còn khả năng xoay chuyển, thao túng tình hình như những thập kỷ trước.
Nền kinh tế thế giới cũng chưa có biến chuyển gì mới nên phía cầu xem như sẽ không tăng mạnh như những năm trước cuộc khủng hoảng tài chính 2008.
Trước mắt những nước nhập khẩu dầu nhiều như Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc sẽ có lợi; các nước xuất khẩu dầu mạnh như Nga và Trung Đông thì đang rầu thúi ruột bởi những khía cạnh vừa được phân tích. Chính vì giá dầu giảm mạnh đã đẩy nền kinh tế Nga rơi vào khó khăn, đồng rúp mất giá chứ chưa hẳn là kết quả của lệnh cấm vận do Mỹ và châu Âu áp đặt. Và chính giá dầu làm xung đột ở Trung Đông, bất kể các tít báo IS chặt đầu, đốt phá khắp nơi, đã không bùng phát lên dữ dội như ngày xưa. Vai trò Trung Đông như một nguồn cung dầu quan trọng cho thế giới vẫn còn đó nhưng một khi giá dầu không còn bị giữ làm con tin để mặc cả nữa thì nơi này không còn là điểm nóng địa chính trị.
Nếu giá dầu Brent rơi xuống mức 80 đô la/thùng thì theo tính toán của tờ Financial Times, các nước OPEC sẽ hụt mất 200 tỉ đô la trong 1.000 tỉ đô la doanh thu từ dầu thô.
Trên bình diện cả thế giới thì giá dầu giảm như hiện nay là một cú hích theo dạng kích cầu quan trọng, trị giá chừng 1,8 tỉ đô la mỗi ngày, hay 600 tỉ đô la tính theo năm. Ví dụ, mỗi gia đình Mỹ hiện đang xài bình quân 2.900 đô la/năm tiền xăng dầu và khí đốt thì mức giảm tương đương khoản tiền tiết kiệm chừng 600 đô la để chi tiêu vào việc khác.
Tóm lại, nhờ vào cuộc cách mạng dầu khí đá phiến đang diễn ra mạnh mẽ tại Hoa Kỳ mà các nước OPEC không còn có thể thao túng thị trường dầu mỏ của thế giới như trước đây. Cuộc diện địa chính trị thế giới có thể còn nhiều biến đổi trong thời gian tới.
Giá dầu đang giảm mạnh, tính từ giữa tháng 6-2014 đến giữa tháng 10-2014 đã giảm trên 25 đô la/thùng.
Chỉ đến khi giá dầu xuống mức xấp xỉ 80 đô la Mỹ/thùng, người ta mới sực nghĩ đến cuộc cách mạng dầu đá phiến đang diễn ra, có tiềm năng thay đổi tận gốc rễ tình hình địa chính trị, kinh tế cũng như cán cân quyền lực trên toàn thế giới.
Thế nhưng cuộc cách mạng dầu khí đá phiến là gì? Và nó có ảnh hưởng thế nào đến giá dầu thô trên thế giới?
Một chút lịch sử
Xưa nay nói đến dầu, người ta chỉ nghĩ đến dầu thô khai thác từ những giếng dầu truyền thống trên đất liền hay ngoài biển. Và nói đến dầu thô, nhiều người cũng nhớ ngay đến dự báo của King Hubbert từ năm 1956 rằng lượng dầu khai thác được sẽ đạt đỉnh vào thập niên 1970 rồi giảm dần đến chỗ cạn kiệt. Trong nhiều năm người ta tin vào tiên đoán này, nhất là khi giá dầu ngày càng tăng vì chi phí khai thác cao, xung đột tranh giành ảnh hưởng lên các vùng nhiều dầu làm dầu mang tính địa chính trị đậm nét. Chỉ mới cách đây một thập niên, người Mỹ cũng nghĩ rằng nguồn cung dầu thô của họ sẽ cạn kiệt dần nên mọi chính sách đối ngoại dường như tập trung vào “lợi ích của Hoa Kỳ” mà nói trắng ra là các giếng dầu ở Trung Đông.
Thế rồi mọi chuyện thay đổi khi Mỹ hoàn thiện công nghệ khai thác dầu khí đá phiến trong đầu thập niên 2000. Nói ngắn gọn, nhờ vào sự phát triển của hai công nghệ ép vỉa thủy lực (hydraulic fracturing, còn được dịch thành nứt vỡ thủy lực) và khoan ngang, Mỹ đã vượt qua các nước khác, đi tiên phong trong lĩnh vực khai thác dầu khí đá phiến. (Xem thêm bài Cuộc cách mạng dầu khí đá phiến).
Trong khi trữ lượng dầu thô truyền thống của Mỹ là 164 tỉ thùng thì trữ lượng dầu đá phiến cũng lên đến 58 tỉ thùng, nâng tổng trữ lượng dầu thô của Mỹ vào khoảng 222 tỉ thùng. Để so sánh, các con số này của toàn thế giới lần lượt là 3.012 tỉ thùng dầu truyền thống, 345 tỉ thùng dầu đá phiến và tổng trữ lượng là 3.357 tỉ thùng. Tính ra thì trữ lượng dầu đá phiến của Mỹ chiếm đến một phần tư tổng trữ lượng dầu mỏ của nước này; trong khi trên thế giới, dầu đá phiến chỉ chiếm một phần mười tổng trữ lượng.
Từ năm 2005-2013, sản lượng khai thác dầu và khí đá phiến ở Mỹ tăng từ 5% lên đến 35% tổng lượng dầu khí khai thác ở nước này. Hiện Mỹ đã vượt Nga, trở thành nước sản xuất khí đốt lớn nhất thế giới. Còn dầu thì từ năm 2008 đến nay, sản lượng Mỹ khai thác đã tăng đến 70%, lên mức 8,7 triệu thùng/ngày. Theo nhiều dự đoán đáng tin cậy, trong vòng vài năm tới lượng dầu thô khai thác ở Mỹ sẽ vượt mức đỉnh 10 triệu thùng/ngày từng đạt được vào thập niên 1970, và tiếp tục có cơ qua mặt cả Nga và Ảrập Saudi thành nước sản xuất dầu thô lớn nhất thế giới. Còn nếu tính tổng sản lượng dầu thô quy đổi - bao gồm dầu thô và các loại khí thiên nhiên dạng lỏng (natural gas liquids - NGL) - thì Mỹ đã đạt mức 11,5 triệu thùng/ngày và đã vượt qua cả Nga lẫn Ảrập Saudi lên hàng đầu thế giới vào tháng 7-2014 vừa qua, theo thống kê chính thức của Cơ quan Năng lượng quốc tế IEA.
Tại sao giá dầu thô giảm mạnh
Gần như ngay tức thì khi cuộc cách mạng dầu khí đá phiến bùng nổ, nhu cầu nhập khẩu dầu thô của Mỹ giảm xuống rõ rệt. Nên nhớ cách đây khoảng 10 năm Mỹ còn phải nhập gần 11 triệu thùng dầu thô mỗi ngày để đáp ứng nhu cầu trong nước và chỉ xuất khẩu khoảng 1,5 triệu thùng dầu thành phẩm (mà ta có thể gọi nôm na là xăng dầu). Nhưng tính đến cuối năm 2013, Mỹ chỉ còn phải nhập 7 triệu thùng dầu thô mỗi ngày và xuất khẩu đến gần 4 triệu thùng dầu thành phẩm. Ở quốc gia tiêu thụ dầu hàng đầu thế giới mà cầu giảm trong khi cung lại tăng nên chẳng lạ gì giá dầu thế giới có thể coi là bình ổn trong vài năm gần đây và giảm mạnh trong thời gian mấy tháng vừa qua. Bất kể các cuộc khủng hoảng xung đột xảy ra tại các khu vực xuất khẩu dầu thô như Libya (vụ chính quyền Tổng thống Gaddafi bị lật đổ), tại Trung Đông (với việc Nhà nước Hồi giáo (IS) tuyên bố thành lập), hay vụ xung đột giữa Nga và Ukraine, giá dầu thô trên thế giới không hề tăng như xưa nữa.
Khi giá dầu giảm dưới mức 80 đô la/thùng, nhiều nước sản xuất dầu thô nếu tính toán không khéo sẽ bị lỗ nặng. Thế nhưng chi phí sản xuất dầu đá phiến thì ngày càng giảm. Nhờ liên tục cải tiến công nghệ và sự cạnh tranh giữa các công ty cung cấp dịch vụ khoan, chi phí khai thác mỗi thùng dầu đá phiến ở nhiều nơi trên nước Mỹ chỉ còn khoảng 30 đô la/thùng từ năm 2012, theo một báo cáo của Morgan Stanley. Như vậy nhiều nhà sản xuất dầu ở Mỹ còn có thể chịu được dù giá rớt xuống mức 50 đô la/thùng.
Tất cả những yếu tố đề cập trên đang được đặt lên bàn cân của các nước trong một ván cờ hoàn toàn mới lạ so với trước.
Kẻ cười người khóc
Hiện tượng giá dầu giảm lần này không phải do biến động chính trị mà do cung tăng bền vững, đều đặn nên chắc chắn mức giá giảm sẽ còn tiếp tục cho đến chừng nào các nước sản xuất dầu thô truyền thống như Ảrập Saudi (đại diện tiêu biểu của khối OPEC) hay Nga chịu không nổi phải giảm sản lượng để giữ giá dầu, tránh sự thâm hụt ngân sách thêm trầm trọng. Có vẻ như Ảrập Saudi và cả Nga đang muốn chơi trò “cù cưa” với Mỹ nhằm đo lường xem Mỹ trụ lại được bao lâu khi giá dầu giảm. Tuy nhiên, có thể thấy ngay là “trò chơi nguy hiểm” này cũng sẽ chẳng làm Mỹ suy yếu đi bao nhiêu mà ngược lại, có thể rơi vào trường hợp “gậy ông đập lưng ông”.
Lý do dự đoán Mỹ không suy yếu bao nhiêu là vì: Mỹ vẫn chưa bỏ lệnh cấm xuất khẩu dầu thô cho nên sản lượng dầu đá phiến tăng đều đặn hoàn toàn được cung cấp cho thị trường nội địa. Giá dầu giảm có chăng sẽ làm giảm mức tăng sản lượng dầu thô của quốc gia này (vì nguồn đầu tư vào hoạt động khai thác dầu sẽ giảm) chứ không thể ảnh hưởng tiêu cực lên nền kinh tế đa dạng và đang trên đà hồi phục. Đó là chưa kể nguồn cung khí đốt khai thác từ đá phiến dồi dào dẫn đến giá khí đốt tại Mỹ vẫn rất rẻ so với bình diện chung kéo theo hàng loạt ngành công nghiệp khác phát triển và thu hút nhiều đầu tư từ nước ngoài. Giá khí đốt tại Mỹ hiện nay vào khoảng 4 đô la trên một đơn vị năng lượng BTU so với 11-12 đô la ở thị trường châu Âu và 16-17 đô la tại thị trường châu Á.
Một vấn đề nữa cần chú ý là loại dầu khai thác từ đá phiến là dầu ngọt và nhẹ trong khi dầu của Ảrập Saudi là loại nặng và chua (vì chứa nhiều lưu huỳnh) nên dù Ảrập Saudi có “đổi ý” muốn giảm sản lượng hòng bình ổn giá dầu cũng không thay đổi được mức cung ngày càng tăng cao của loại dầu ngọt và nhẹ. Nghĩa là họ cũng chẳng còn khả năng xoay chuyển, thao túng tình hình như những thập kỷ trước.
Nền kinh tế thế giới cũng chưa có biến chuyển gì mới nên phía cầu xem như sẽ không tăng mạnh như những năm trước cuộc khủng hoảng tài chính 2008.
Trước mắt những nước nhập khẩu dầu nhiều như Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc sẽ có lợi; các nước xuất khẩu dầu mạnh như Nga và Trung Đông thì đang rầu thúi ruột bởi những khía cạnh vừa được phân tích. Chính vì giá dầu giảm mạnh đã đẩy nền kinh tế Nga rơi vào khó khăn, đồng rúp mất giá chứ chưa hẳn là kết quả của lệnh cấm vận do Mỹ và châu Âu áp đặt. Và chính giá dầu làm xung đột ở Trung Đông, bất kể các tít báo IS chặt đầu, đốt phá khắp nơi, đã không bùng phát lên dữ dội như ngày xưa. Vai trò Trung Đông như một nguồn cung dầu quan trọng cho thế giới vẫn còn đó nhưng một khi giá dầu không còn bị giữ làm con tin để mặc cả nữa thì nơi này không còn là điểm nóng địa chính trị.
Nếu giá dầu Brent rơi xuống mức 80 đô la/thùng thì theo tính toán của tờ Financial Times, các nước OPEC sẽ hụt mất 200 tỉ đô la trong 1.000 tỉ đô la doanh thu từ dầu thô.
Trên bình diện cả thế giới thì giá dầu giảm như hiện nay là một cú hích theo dạng kích cầu quan trọng, trị giá chừng 1,8 tỉ đô la mỗi ngày, hay 600 tỉ đô la tính theo năm. Ví dụ, mỗi gia đình Mỹ hiện đang xài bình quân 2.900 đô la/năm tiền xăng dầu và khí đốt thì mức giảm tương đương khoản tiền tiết kiệm chừng 600 đô la để chi tiêu vào việc khác.
Tóm lại, nhờ vào cuộc cách mạng dầu khí đá phiến đang diễn ra mạnh mẽ tại Hoa Kỳ mà các nước OPEC không còn có thể thao túng thị trường dầu mỏ của thế giới như trước đây. Cuộc diện địa chính trị thế giới có thể còn nhiều biến đổi trong thời gian tới.
Published on November 15, 2014 04:27
Nguyễn Vạn Phú's Blog
- Nguyễn Vạn Phú's profile
- 18 followers
Nguyễn Vạn Phú isn't a Goodreads Author
(yet),
but they
do have a blog,
so here are some recent posts imported from
their feed.
