Nguyễn Vạn Phú's Blog, page 4

March 17, 2021

Tương lai các thành phố lớn

 Tương lai các thành phố lớn

 (Đã đăng báo, lưu làm tài liệu)

Sự thăng trầm của các nền văn minh thường được đánh dấu bởi sự trỗi dậy và tàn lụi của các đại đô thị. Khảo sát các nền văn minh từng hưng thịnh trên trái đất này người ta cũng dựa vào các công trình khảo cổ các đô thị mà những nền văn minh này từng dựng lên.

Đại dịch Covid-19 đánh dấu một cột mốc suy tàn những nơi hiện nay đang là thành phố lớn của thế giới và mặc dù xu hướng này đã bắt đầu từ trước khi xảy ra dịch bệnh, cơn lốc corona virus đã quét qua các thành phố lớn khắp thế giới, thúc đẩy xu hướng rời bỏ thành phố đến nhanh hơn cả chục năm. Ngược lại, cũng có thành phố tận dụng các cơ hội mới để khoác cho mình một diện mạo “hậu Covid” thân thiện với môi trường hơn.

Xu hướng này khó thấy ở nước ta vì dịch được khống chế nhưng cũng đã xuất hiện các căn nhà mặt tiền bỏ hoang vài ba tháng ở nhiều con phố lớn, những khu phố đóng cửa im lìm không người thuê. Đại dịch buộc mọi người chuyển nhiều hơn qua mua sắm trên mạng, gọi thức ăn giao tận nhà chứ không còn ra tiệm hay vào các cửa hàng dọc phố nữa. Khách du lịch vắng bóng cũng làm nhiều cửa tiệm khác từng nhắm đến loại khách hàng này phải tạm thời đóng cửa. Và một khi xu hướng đã bắt đầu, ắt mọi người sẽ nhanh chóng nhận ra trả một khoản tiền rất lớn hàng tháng để đón vài ba vị khách mỗi ngày là cực kỳ phi lý trong khi họ có thể duy trì một mặt bằng phong phú hơn, dễ dẫn dụ khách hơn trên các không gian chợ ảo với chi phí rất thấp, khách vào ra tấp nập. Có thể dự báo sẽ còn nhiều đoạn đường đầy các biển rao cho thuê nhà dọc các con phố lớn. Những ngọn đèn màu chớp tắt thu hút khách sẽ chuyển vào hẻm sâu và trực tuyến. Một diện mạo quen thuộc của thành phố đã đổi khác.

Còn ở các nước xu hướng rời xa các thành phố mạnh hơn nhiều lần bởi hầu như các nước phương Tây đều có những tháng ròng áp dụng phương thức làm việc từ nhà. Thoạt tiên đó là một sự sắp xếp do nhu cầu phòng chống dịch nhưng dần dần rất nhiều công ty mới nhận ra, để nhân viên làm việc từ nhà có nhiều điểm lợi. Công ty vừa không tốn tiền duy trì một không gian làm việc tốn kém, từ tiền điện nước đến bảo vệ, kỹ thuật; nếu lâu dài họ có thể cắt luôn hợp đồng thuê mặt bằng để tiết kiệm một khoản chi khá lớn. Nhân viên làm từ nhà vẫn có thể họp hành qua các ứng dụng video; chỉ cần thay đổi cách đánh giá hiệu quả là vẫn có thể duy trì năng suất, thậm chí năng suất còn cao hơn trước. Được làm từ nhà ai mà không thích vì có thể chăm con, làm việc nhà bất kỳ khi nào thu xếp được. Khỏi thức dậy sớm và về muộn, khỏi tiêu tốn nhiều giờ ngồi trên xe hay tàu điện là một điều người làm việc văn phòng mơ tưởng từ lâu.

Hiệu ứng của phương thức làm việc từ nhà lên diện mạo thành phố là một hiệu ứng kiểu domino. Đầu tiên là vắng bóng xe cộ trên đường phố, hàng quán phục vụ ăn trưa ăn tối mất khách. Các dịch vụ đi quanh các tòa nhà văn phòng sụt giảm nhu cầu. Những nhân viên dịch vụ mất việc do mất khách này sẽ phải sớm rời thành phố để kiếm việc làm nơi khác. Đến nay phương thức làm việc từ nhà tiến đến một mốc mới, nhiều công ty cho phép nhân viên làm việc từ bất kỳ địa phương nào. Chắc chắn khi điều này xảy ra, nhiều người sẽ dọn ngay ra khỏi các thành phố đắt đỏ để dọn về các khu ngoại ô hay xa hơn nữa. Như thế, ngoài các cửa tiệm đóng cửa im lìm, chủ nhà treo biển tìm khách thuê mới như ở nước ta, các thành phố lớn ở nước khác còn đang chứng kiến các tòa nhà văn phòng dần vắng khách; các hàng quán quanh đó đóng cửa. Chẳng mấy chốc sự điêu tàn, hoang vắng ở nhiều khu tại nhiều thành phố sẽ dần hiện rõ.

*                           *                           *

Đôi lúc chúng ta có cảm giác các phim khoa học viễn tưởng nói quá về tương lai các đại đô thị, kiểu như bầu trời ngập chìm trong một màn sương đục do ô nhiễm không khí, các trung tâm thương mại bỏ hoang, cầu thang còn đôi ba ánh đèn sáng lóe vài chớp rồi tắt ngúm. Đường phố hoang vắng, chỉ còn những tên tội phạm mang súng đi lùng sục con mồi. Thế nhưng với tình cảnh chênh lệch giàu nghèo ngày càng nghiệt ngã ở nhiều nước, rất có thể các thành phố sẽ chia làm hai khu; khu nhà giàu cố thủ trong các tòa nhà cao tầng, canh phòng cẩn mật bằng drone và robot – khu nhà nghèo gồm các đường phố bỏ hoang nay chỉ còn các căn lều của người vô gia cư. An ninh thành phố được duy trì bằng một mạng lưới các camera quan sát khắp nơi cộng với các máy bay không người lái dò xét khắp nơi. Một tình cảnh như thế đã diễn ra ít nhất ở một số khu vực của một số thành phố lớn của Mỹ.

Tất cả những chuyện này không phải là chuyện viễn tưởng. Nhiều thành phố lớn ở Mỹ giờ đã bắt đầu đối diện với một số vấn đề cấp bách nhưng sẽ định hình các thành phố này trong tương lai. Thành phố New York bắt đầu lên kế hoạch cắt giảm các phương tiện giao thông công cộng vì vắng khách, có thể đến 40% lượng xe buýt và xe điện ngầm vào năm 2022. Các thành phố khác như Washington DC, Boston cũng tính chuyện tương tự, đóng cửa nhiều trạm xe điện ngầm, trạm xe buýt, cắt giảm nhân viên… Thiếu phương tiện đi làm, các hãng sẽ phải buộc chuyển sang làm việc từ xa dù chưa tham gia xu hướng ngay bây giờ. Ba nơi sử dụng mặt bằng nhiều nhất thành phố New York là JPMorgan Chase, Barclays và Morgan Stanley đều đã tuyên bố chắc chắn không phải tất cả nhân viên của họ sẽ trở về làm việc trong các tòa cao ốc ở Manhattan nữa. Google hủy kế hoạch mua thêm 2 triệu feet vuông diện tích văn phòng ở các đô thị. Twitter cho phép nhân viên làm việc từ xa vĩnh viễn.

Nói cho có căn cứ thì các đô thị lớn thu hút người vào ở và làm việc nhờ hai yếu tố. Yếu tố đầu tiên là các nhân viên trẻ, làm việc bằng chất xám, là lực lượng lao động chính của thời kỳ toàn cầu hóa trước đây và công nghệ thông tin hiện nay. Trước đây họ làm việc ở các văn phòng tập trung tại các đô thị lớn vì tận dụng nguồn thông tin, cách làm việc nhóm, cùng nhau động não để giải quyết các bài toán mới. Nay chỉ cần chiếc laptop, đường truyền Internet tốc độ cao, và các ứng dụng gọi video, họ có thể duy trì cách làm việc cũ nhưng bản thân họ thì đóng đô ở một góc hẻo lánh nào đó. Yếu tố thứ nhì là tính chất giải trí cao của đô thị gồm các cửa hàng, rạp chiếu bóng, quán bar, hộp đêm, tiệm ăn, quán café… Đại dịch Covid-19 và yêu cầu giãn cách xã hội làm các hoạt động này biến mất trong một thời gian dài. Dần dần khi các đô thị không còn sức hấp dẫn như trước mà cư dân lại phải đối diện với các thách thức như sống giãn cách, co cụm thành từng nhóm, cơ sở hạ tầng ngày càng xuống cấp thì các đô thị dần hoang vắng là một xu hướng khó tránh.

*                           *                           *

Tuy nhiên chưa hẳn mọi sự đã an bày cho các thành phố lớn. Một số thành phố lợi dụng xe cộ vắng bóng đã mở thêm đường dành riêng cho xe đạp; khơi lại phong trào đi xe đạp ở nhiều thành phố châu Âu, Canada. Một số nơi khác ngăn đường để cho hàng quán mở rộng không gian ăn uống bên ngoài, cũng nhằm bảo đảm giãn cách xã hội. Đại dịch cũng buộc nhiều nơi thiết kế lại không gian làm việc để tích hợp nhiều dịch vụ vào chung một chỗ. Một khi đại dịch chấm dứt, cuộc sống quay về như cũ, nếu các thành phố này duy trì được không gian thân thiện với môi trường hơn như đi lại bằng xe đạp, cấm xe hơi ở nhiều khu vực, dành khoảng không cho các sinh hoạt chung, biết đâu chúng sẽ trở thành những điểm thu hút giới trẻ. Đã có những khảo sát cho thấy cư dân hoan nghênh việc cấm hẳn xe hơi ở nhiều khu phố, biến chúng thành phố đi bộ, chạy xe đạp, xe đẩy. Các hoạt động thể thao như chạy bộ, các hoạt động văn hóa nghệ thuật trở lại đường phố biết đâu sẽ hút hút du khách trở lại một khi dịch bệnh đi qua.

Như thế diện mạo các thành phố lớn chắc chắn sẽ thay đổi, theo hướng bi quan hay theo hướng lạc quan còn tùy vào cư dân. Sẽ có những thành phố suy tàn, hoang phế nhưng cũng sẽ có những thành phố xanh, phát triển theo hướng mới. Có thể người ta sẽ phải bỏ những nỗ lực xây dựng thành phố thông minh dựa vào công nghệ vì một mình công nghệ không thể cứu lấy số phận một thành phố bị bỏ hoang. Nay các ưu tiên trong phát triển thành phố phải là giảm ô nhiễm, cả ô nhiễm không khí lẫn tiếng ồn; có những cơ sở hạ tầng giúp cải thiện sức khỏe, kể cả sức khỏe tinh thần.

Làm được điều này, chúng ta sẽ có những thành phố chỉ còn lại xe đạp hay xe chạy bằng điện, vắng bóng hẳn xe chạy bằng xăng dầu. Lúc đó, dù nhiều công ty cho nhân viên làm ở nhà, vẫn sẽ có những công ty phải duy trì cách làm việc trực tiếp do phải tiếp xúc với khách hàng và lúc đó do chi phí mặt bằng giảm mạnh, do yêu cầu giãn cách, họ sẽ tăng thuê mặt bằng, tăng không gian làm việc. Dòng tiền đầu cơ địa ốc chấm dứt, giá nhà trở về mức bình thường, nằm trong tầm với của giới trẻ. Cuộc sống ở đô thị sẽ trở về khung cảnh thời trước, khi mọi người ăn uống trên vỉa hè, ca hát nhảy múa ngoài trời. Đó có thể là một ước mơ viễn vông nhưng cũng có thể là xu hướng phát triển theo hướng tự nhiên, bằng không cuộc sống đô thị sẽ sụp đổ.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 17, 2021 19:39

Công nghệ và điều tra hình sự

 Công nghệ và điều tra hình sự

 (Đã đăng báo, lưu làm tài liệu)

Cô X. là một y tá chừng 30 tuổi, đang lái xe về nhà sau ca tối thì có kẻ chận xe dùng dao uy hiếp cô, bắt qua một chiếc xe bán tải, cưỡng hiếp cô trong khi tên đồng phạm vẫn lái tiếp. Câu chuyện mới nghe qua cũng như nhiều vụ phụ nữ đi làm về khuy bị bọn xấu tấn công, hãm hiếp rồi vất bỏ bên vệ đường. Thế nhưng trong các chi tiết nạn nhân là một y tá chừng 30 tuổi khai với cảnh sát, có một chi tiết nổi lên. Trong ánh đèn mờ khi xe chạy qua sân bay General Mitchell, cô thoáng thấy màn hình một chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy đang chạy ứng dụng tìm đường Google Maps!

Viên cảnh sát hình sự Eric Draeger của đồn cảnh sát Milwaukee chuyên về các vụ án có dính líu đến công nghệ cao. Lời khai của cô X. về loại xe bọn xấu dùng, miêu tả nhân dạng của kẻ cưỡng hiếp cô không giúp gì bao nhiêu. Nhưng Draeger từng có kinh nghiệm phá án bằng cách rà soát dữ liệu của các trạm phát sóng để từ đó xác định các điện thoại di động hiện diện gần hiện trường khi xảy ra vụ án. Nay với lời khai của cô X., rất có thể anh sẽ tìm đúng ngay chiếc điện thoại anh cần tìm nếu tập trung vào một nguồn cung cấp vị trí người dùng với độ chính xác cao: Google Maps.

Lúc đó Draeger không biết Google có chịu hợp tác không nhưng vẫn thuyết phục sếp anh cứ thử xem sao. Đầu tiên anh cần một trát đòi dữ liệu sau khi ghi nhận lời khai chi tiết của cô X., cùng cô đi lại lộ trình bọn xấu chở cô, ghi nhận chính xác từng địa điểm. Trong khi đó, đồng nghiệp của anh vẫn tiến hành điều tra theo các phương cách cũ: phát hành hình vẽ phác thảo bọn xấu dựa vào lời khai, rà soát các camera an ninh ở khu vực lân cận, tìm dấu vân tay bọn xấu có thể để lại ở chiếc xe của nạn nhân… Họ tập trung vào vụ án này vì có dấu hiệu cho thấy bọn xấu sẽ lại ra tay. Đó là bởi trước vụ bắt cóc cô X. mấy giờ, một cô gái 18 tuổi trình báo bị hai kẻ xấu đi theo một quãng đường dài, chúng nhiều lần cố tình hất xe cô lên vệ đường, có lần có một kẻ cầm gậy bóng chày tiến đến xe cô nhưng cô kịp nhấn ga thoát thân.

Samsung Galaxy là điện thoại di động chạy hệ điều hành Android, người dùng muốn sử dụng phải đăng nhập tài khoản Google; điện thoại lại đủ các ứng dụng cài sẵn như Google Maps có chức năng xác định vị trí người dùng bằng cả Wifi, GPS và Bluetooth. Vụ án cô X. xảy ra vào tháng 6 năm 2017 và trước đó Google chỉ mới nhận yêu cầu cung cấp dữ liệu theo cách này lần đầu tiên vào năm 2016. Với trát do tòa án ký, Draeger gởi email cho Google nhưng thực lòng không tin tưởng Google chịu hợp tác, thậm chí sẽ trả lời sớm.

Hai mươi phút sau điện thoại của Draeger đổ chuông; một nhân viên bộ phận pháp lý Google gọi. “Tôi không biết có rà soát dữ liệu theo yêu cầu của ông hay không nhưng chúng tôi muốn hỗ trợ vì đây là ác mộng cho mọi người” – cô nhân viên nói với Draeger. Sau đó nhân viên Google giúp Draeger cập nhật trát tòa để mở rộng phạm vi tìm kiếm ra ngoài khu vực sân bay bởi lúc đó tại sân bay có hàng trăm điện thoại sử dụng ứng dụng Google Maps để tìm xem ở các địa điểm bổ sung có điện thoại nào có những đặc điểm như mô tả. Bốn ngày sau, đại diện Google gọi điện cho Draeger và thông báo, chỉ có 1 số điện thoại duy nhất đáp ứng các điều kiện đặt ra trong yêu cầu tìm kiếm.

Draeger nhớ lại: “Bỗng nhiên lá thư này xuất hiện trong hộp thư của tôi, mở thư đọc xong, tôi cứ nhìn sững sờ vào màn hình. Cái tay tội phạm mình tìm 5 ngày nay không chút manh mối, nay tên tuổi và số điện thoại của hắn có ngay sờ sờ đó”. Cảnh sát bắt ngay 2 tên tội phạm ngay sau đó.

*                           *                           *

 Câu chuyện trên do NBCNews kể lại, hé lộ cho thấy tầm ảnh hưởng lớn lao của các ứng dụng chúng ta dùng hàng ngày mà không hề hay biết. Nhìn từ phía các cơ quan công lực như cảnh sát hình sự, dữ liệu người dùng mà các công ty công nghệ như Google thu thập từng giây từng phút là kho tàng chưa được khai thác đúng mức. Từ năm 2016 đến nay các yêu cầu cung cấp dữ liệu như kiểu vụ án nói trên tăng vọt. Năm ngoái Google tiết lộ yêu cầu từ phía cảnh sát đã tăng hơn 1.500% từ năm 2017 sang 2018 và tăng 500% từ năm 2018 sang 2019.

Vì khối lượng yêu cầu tăng nhanh như thế nên hiện nay Google cần vài ba tháng mới đáp ứng một yêu cầu dữ liệu. Phía điều tra hình sự cũng giảm dần việc dựa dẫm vào công nghệ này vì quá mất thời gian, chỉ xem nó như biện pháp cuối cùng khi các phương pháp điều tra cũ đi vào ngõ cụt. Cả Google lẫn cơ quan công lực đều nói quá trình yêu cầu và cung cấp dữ liệu xác định vị trí là hợp pháp vì người dùng cho phép Google ghi nhận vị trí của họ. Yêu cầu bảo vệ sự riêng tư của người dùng là ưu tiên hàng đầu nên khi cung cấp dữ liệu các thiết bị gần hiện trường, Google đều để nặc danh và chỉ sau khi xác định kẻ tình nghi, tên tuổi và chi tiết khác mới được tiết lộ.

Tuy nhiên, việc sử dụng trát tòa yêu cầu công ty công nghệ cung cấp thông tin người dùng một cách vô tội vạ như thế là vi phạm quyền riêng tư của nhiều người, do tình cờ đã đến gần hiện trường một vụ án nào đó đúng thời điểm gây án. Có vụ án, cảnh sát đưa một người vô tội vào diện tình nghi chỉ vì ông này đạp xe ngang qua ngôi nhà bị trộm đúng lúc bọn trộm đột nhập. Nhiều người lập luận công nghệ này có thể dễ dàng bị lạm dụng để theo dõi những ai đi phá thai, đi dự lễ ở một nhà thờ, tham gia vào các cuộc tuần hành… Vào thời điểm nước Mỹ bị chia rẽ nặng nề như bây giờ, công nghệ ghi nhận vị trí người dùng càng dễ bị phản đối hay nhận được sự đồng tình, cần áp dụng nhiều hơn, tùy vào quan điểm hay vụ việc. Chẳng hạn, sẽ có nhiều người muốn dùng dữ liệu vị trí người dùng để phát hiện xem ai từng đột nhập tòa nhà Quốc hội Mỹ.

Hiện nay quan điểm về việc sử dụng trát đòi dữ liệu người dùng cũng rất khác biệt. Nếu chỉ nghe kể về các vụ án tàn khốc được phá án nhờ dữ liệu người dùng, sẽ rất dễ đồng tình với việc ứng dụng công nghệ này vào công tác điều tra hình sự. Nhưng để phát hiện 1 kẻ tội phạm, sẽ có 10 người vô tội bị kéo vào vòng phiền phức, có khả năng bị oan chỉ vì công nghệ không phân biệt được gian-ngay. Nhiều quan tòa từ chối ký trát do cảnh sát yêu cầu.

Với Google, họ có sẵn những lời tuyên bố để phát cho báo chí mỗi khi có ai yêu cầu họ bình luận. Một trong những lời tuyên bố như thế viết: “Chúng tôi làm hết sức mình để bảo vệ quyền riêng tư của người dùng dịch vụ của chúng tôi trong khi hỗ trợ hoạt động rất quan trọng của giới thi hành công vụ. Chúng tôi đã phát triển một quy trình cụ thể cho các yêu cầu hỗ trợ như thế, được thiết kế để tôn trọng nghĩa vụ pháp lý của chúng tôi trong khi hạn chế quy mô dữ liệu được tiết lộ”. Dù sao những lời nói rập khuôn này cũng cho thấy quy mô thu thập dữ liệu người dùng của các công ty công nghệ như Google.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 17, 2021 19:37

Trong vũng lầy của văn hóa xóa sổ

 

Trong vũng lầy của văn hóa xóa sổ Da trắng quá, không được dịch thơ Gorman!

Nếu cần dịch một bài thơ từ tiếng nước ngoài cho độc giả trong nước, người ta sẽ đi tìm phẩm chất gì ở người dịch? Có lẽ quan trọng nhất là khả năng sử dụng thành thạo cả hai ngôn ngữ và nếu người dịch cũng là nhà thơ, đó sẽ là lựa chọn tối ưu.

Nhưng không. Khi nhà thơ nổi tiếng Marieke Lucas Rijneveld của Hà Lan được chọn để dịch tuyển tập thơ của Amanda Gorman sang tiếng Hà Lan, thiên hạ phản đối chỉ vì Rijneveld da trắng. 

Theo họ, để “xứng đáng” dịch thơ Gorman, một thi sĩ trẻ tuổi người Mỹ da đen, người vừa nổi lên sau khi đọc bài The Hill We Climb tại lễ nhậm chức của Tổng thống Joe Biden, thì người dịch cũng phải là da đen!

Lập luận cực đoan này bất kể nhiều tình tiết hợp tình hợp lý: Marieke Lucas Rijneveld vừa đoạt giải International Booker danh tiếng và chính Gordon, 22 tuổi, đã chọn Rijneveld, 29 tuổi, như một người viết cùng thế hệ, nổi tiếng khi còn rất trẻ.

Nhà văn, nhà thơ thì rất nhạy cảm, ngay lập tức Rijneveld từ chối việc dịch và tuyên bố một cách rất độc đáo: “Tôi đã từng vui vẻ cống hiến sức lực để dịch tác phẩm của Amanda, xem nó như một nhiệm vụ to lớn để duy trì sức mạnh, giọng điệu và văn phong của cô. Tuy nhiên, dù tôi biết tôi ở một vị trí để suy nghĩ và cảm nhận điều này, nhiều người khác lại không như thế. Tôi vẫn ước mong ý tưởng của cô vươn tới càng nhiều độc giả càng tốt, mở rộng trái tim cho mọi người”.

Thập niên 1960, phong trào đấu tranh bất bạo động của Martin Luther King Jr. là nhằm xóa bỏ tình trạng phân chia chủng tộc trong xã hội Mỹ. Người da đen lúc đó đấu tranh để xóa các nhà vệ sinh, xe buýt, tiệm ăn bắt người da màu chỉ được dùng một khu dành riêng cho họ. 

Nay, cái hàng rào phân biệt chủng tộc tệ hại đó trở lại trong địa hạt văn hóa: thơ da đen chỉ có người da đen được dịch, và sẽ đến nhạc da đen chỉ có người da đen được hát, truyện da đen chỉ có người da đen thưởng thức.

Và điều tệ nhất là nhà xuất bản tập thơ đã đầu hàng trước áp lực của dư luận, hoan nghênh quyết định rút lui của Rijneveld và hứa hẹn “sẽ rút bài học” từ chuyện này.

Khi Colin Firth không đồng tình, anh ấy gặp rắc rối

Đặc điểm phân biệt đối xử theo một hướng cực đoan mới như thế đang nổi lên tại các nước phương Tây và ngày càng gây chia rẽ nước Mỹ. 

Russell T Davies, nhà viết kịch bản và nhà sản xuất chương trình truyền hình người Anh vừa gây xôn xao dư luận khi tuyên bố chỉ có người đồng tính mới được đóng vai đồng tính: “Tôi sẽ gây chiến. Tôi sẽ làm những người như Colin Firth xấu hổ vì vai diễn của mình”. (Colin Firth không phải là người đồng tính nhưng cùng Stanley Tucci đóng cặp vợ chồng đồng tính trong bộ phim mới Supernova; trước đó Firth từng giành được giải Oscar năm 2009 nhờ đóng vai đồng tính trong phim A Single Man).

 Điều mỉa mai nằm ở chỗ, nguyên tắc cơ bản của phong trào LGBTQ là bình đẳng giới, không ai bị phân biệt đối xử dựa vào giới tính của họ và giới tính bạn đời của họ. Đề xuất của Davies là sự phân biệt, chống lại người dị tính muốn hành nghề diễn viên và đảm nhận các vai đồng tính.

Và luật lệ chống phân biệt đối xử ở Anh cũng như ở Mỹ đã tiến đến chỗ rất có thể Davies bị kiện đến trắng tay nếu trong vai trò nhà sản xuất mà từ chối một diễn viên chỉ vì anh ta không phải là người đồng tính.

Mặc dù khiêu chiến với Colin Firth như vậy nhưng chính Davies trong quá khứ từng sử dụng diễn viên “thẳng” cho các vai “gay” nổi bật là Hugh Grant trong bộ phim A Very English Scandal, thủ vai một chính trị gia đồng tính.

1.271 lần dùng từ "nigger" của The New York Times

Nếu từng nghe nhạc rap, bạn đã thấy trong ca từ của nhiều bài có từ nigger - một từ hiện nay thuộc loại đại cấm kỵ vì bị cho là xúc phạm dân da đen. Trong âm nhạc, phim ảnh, từ này mà do người da đen nói thì bình thường. Mọi việc chỉ trở thành lớn chuyện khi nó do dân da trắng thốt lên, dù chỉ để trích dẫn lời nói của người khác.

Donald McNeil Jr. là một nhà báo kỳ cựu làm cho The New York Times (NYT) đã 45 năm nay. Mùa hè năm 2019, ông làm người hướng dẫn cho một đoàn học sinh trung học Mỹ đi tham quan Peru do báo ông bảo trợ. Trong một buổi ăn tối, một học sinh hỏi ông liệu có nên cho nghỉ học một học sinh từng làm một cái video lúc 12 tuổi nay mới bị phát hiện, trong đó cô học sinh này dùng từ nigger.

Để hiểu bối cảnh video nói chuyện gì, McNeil hỏi cho rõ rằng học sinh kia dùng từ miệt thị đó với học sinh khác hay chỉ đang hát nhạc rap hoặc trích dẫn tựa một cuốn sách. Vấn đề là khi hỏi lại cho rõ vấn đề, McNeil đã dùng nguyên văn từ nigger chứ không nói tránh đi. 

Chuyện chỉ có thế, nhưng đầu năm nay báo chí khui lại và mặc dù trước đó tờ NYT đã kỷ luật McNeil, nhân viên NYT viết thư phản ứng, đòi điều tra lại, đòi McNeil phải công khai xin lỗi. Cuối cùng NYT gây sức ép để McNeil viết đơn xin nghỉ việc. 

 Tổng biên tập Dean Baquet nhanh nhẩu tuyên bố: “Chúng tôi không chấp nhận ngôn ngữ phân biệt chủng tộc bất kể chủ đích là gì”.

Một loạt nhà báo đã lên tiếng trên khắp các báo nước Mỹ, phản đối cách ứng xử của tờ NYT với nhà báo của mình; họ khẳng định miêu tả một từ miệt thị là khác với sử dụng nó, và nếu không cho nhà báo quyền tự do sử dụng từ ngữ thì còn gì là báo chí.

 Đáng chú ý, một cây bút bình luận của chính tờ NYT là Bret Stephens đã viết một bài muốn đăng trên báo nhà, phản đối lãnh đạo NYT, đặc biệt là tuyên bố “bất kể chủ đích như thế nào” của tổng biên tập. 

Tuy nhiên, trong một email gởi bạn bè kèm bản thảo bài báo được các báo khác trích dẫn, Stephens cho biết bài viết đã bị chủ bút vất vào ngăn kéo. Bài báo có đoạn: “Có một sự khác biệt sơ đẳng giữa trích dẫn một từ vì mục đích kiến thức hay thông hiểu với việc sử dụng cùng từ đó vì mục đích lăng mạ hay gây thương tổn. Đánh mất sự phân biệt này, chúng ta sẽ đánh mất luôn khả năng hiểu những điều chúng ta được giáo dục để chống lại”.

Lục tìm các ví dụ ngay trên tờ NYT, Bret Stephens trích dẫn nhiều bài viết trong đó từ nigger xuất hiện nhiều lần với mục đích minh họa cho sự thay đổi trong cảm nhận của xã hội để chứng minh trong quá khứ, NYT không hề ngần ngại dùng từ này nhưng với mục đích thông tin. 

Ông viết: “Một nền báo chí biến “từ ngữ” thành “vật để sùng bái” - rồi từ “vật để sùng bái” thành “nỗi sợ” - sẽ ngăn trở tư duy mạch lạc và sự thông hiểu đúng đắn”.

Ông kết luận: “Vai trò của một nền báo chí tốt đẹp phải dẫn dắt chúng ta ra khỏi vũng lầy đen tối (của nền văn hóa xóa sổ, sa thải, hạ nhục công cộng và phán xét ngày càng không dung thứ). (Thế mà) Tuần trước chúng ta lại dấn sâu hơn vào chốn đó”. Đúng là NYT đã dùng từ nigger đến 1.271 lần kể từ năm 1969, lần gần nhất chỉ cách đó một tuần.

Dr Seuss gặp tai vạ

Sự việc mới nhất liên quan đến các cuốn sách của một nhà văn nổi tiếng chuyên viết cho trẻ em, Theodor Seuss Geisel, dưới bút danh Dr. Seuss. 

Nhiều cuốn của ông đã được dịch sang tiếng Việt như Gờ-Rinh đánh cắp Giáng sinh!Nếu tớ mở sở thú; nhiều cuốn được in lại nguyên bản tiếng Anh để trẻ em Việt Nam dùng làm sách học tiếng Anh. 

Ông viết các cuốn sách này hơn nửa thế kỷ rồi và đã qua đời cách đây 30 năm nhưng sách của ông vẫn đang bán chạy, năm 2020 thu về cho những người thừa kế của ông đến 33 triệu đôla, có cuốn năm ngoái bán đến nửa triệu bản.

Đùng một cái, đầu năm nay, nhân sinh nhật lần thứ 117 của Dr. Seuss, người ta tuyên bố sẽ ngưng xuất bản 6 cuốn của ông vì các hình ảnh mang tính phân biệt chủng tộc và nhạy cảm. 

Trước đó sách của ông được đánh giá cao vì các giá trị nhân bản, khơi gợi ở trẻ tình yêu thiên nhiên, bảo vệ môi trường và lòng khoan dung. Người thân của ông nói, không hề có một mảy may phân biệt chủng tộc nào trong máu của ông. Nhưng rồi họ buồn rầu thừa nhận, thời đại ngày nay là thời đại khó khăn, nhạy cảm nên phải theo thời.

 

Trong hoài niệm của những ai từng đọc sách của Dr. Seuss, những cuốn sách ấy toát lên sự ấm áp, song than ôi, nay họ buộc phải nhìn các cuốn sách này với cáo buộc chúng gây tổn thương.

Có lẽ độc giả sẽ là người quyết định sau cùng xem có nên mua sách của Dr. Seuss hay không. Ngay sau tuyên bố loại bỏ một số sách của ông trong danh mục xuất bản, 9 trong 10 cuốn sách bán chạy nhất trên Amazon lại là sách của Dr. Seuss, trong đó có cuốn The Cat in the Hat được viết ra cách đây 64 năm!

Và rồi, khi con mắt chống phân biệt chủng tộc cực đoan ấy tiếp tục soi xét cực đoan, e rằng sẽ còn rất nhiều tác phẩm kinh điển bị loại bỏ. Hiện đang có ý kiến đòi bỏ tác phẩm Odyssey của Homer ra khỏi chương trình vì phân biệt giới tính, bỏ cuốn Giết con chim nhại (To Kill a Mockingbird) vì vinh danh người anh hùng da trắng, bỏ Chúa Ruồi (Lord of the Flies) vì toàn là nam sinh nhà giàu, nhiều đặc quyền...


Sự nhạy cảm chủng tộc đang dâng cao hơn bao giờ hết ở Mỹ. Chẳng hạn, TP San Francisco có kế hoạch đổi tên 44 trường chỉ vì tên của nhân vật được đặt có dính líu đến nô lệ hay tỏ vẻ coi thường phụ nữ. 

Trong số các tên đòi đổi có cả các trường Abraham Lincoln, George Washington, Thomas Jefferson... Mặc dù Tổng thống Lincoln có công giải phóng nô lệ nhưng ông bị xem là không có phản ứng thích đáng khi tiểu bang Minnesota tuyên bố tử hình 300 người da đỏ nổi dậy, còn hai vị tổng thống Washington và Jefferson đều từng sở hữu nô lệ.




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 17, 2021 05:17

March 12, 2021

Khi nhà báo “phạm húy”

 Khi nhà báo “phạm húy”

 

Donald McNeil Jr. là một nhà báo kỳ cựu từng làm cho tờ New York Times đã 45 năm nay. Mùa hè năm 2019 ông tham gia làm người hướng dẫn cho một đoàn học sinh trung học Mỹ đi tham quan Peru do báo ông bảo trợ. Trong một buổi ăn tối có một học sinh hỏi ông liệu có nên cho nghỉ học một học sinh từng làm một cái video lúc 12 tuổi nay mới bị phát hiện, trong đó cô học sinh này dùng từ mang tính miệt thị người da đen (các báo lúc tường thuật đến chỗ này tránh lập lại từ này bằng cách viết tắt “N-word”, ý nói đến từ “nigger”).

McNeil kể, để hiểu bối cảnh video nói chuyện gì, ông bèn hỏi lại cô học sinh dùng từ miệt thị này với học sinh khác hay cô đang hát nhạc rap hay trích dẫn tựa một cuốn sách. Vấn đề là McNeil khi hỏi lại, đã dùng nguyên văn từ đó chứ không nói tránh đi. Chuyện chỉ có chừng đó nhưng suốt mấy tuần qua đã gây sóng gió tại tờ New York Times.

Đầu tiên là tờ Daily Beast khui lại chuyện này vào cuối tháng 1 năm nay, phỏng vấn nhiều phụ huynh và học sinh trong chuyến đi lên án McNeil “phân biệt chủng tộc”. Bài báo không kể đầu đuôi câu chuyện mà chỉ nói khơi khơi: “Hai học sinh cáo buộc nhà báo này dùng từ “n-word” rồi còn bảo ông ta không tin vào khái niệm đặc quyền da trắng; ba học sinh khác cho rằng McNeil có những nhận xét phân biệt chủng tộc”. New York Times phải ra một bản tuyên bố cho biết năm ngoái họ đã điều tra kỹ lưỡng và đã kỷ luật ông này. Bản tuyên bố có đoạn viết: “Chúng tôi thấy ông ấy đã có phán đoán sai lầm khi lập lại từ miệt thị chủng tộc trong bối cảnh đối thoại về ngôn ngữ mang tính phân biệt chủng tộc”. Lúc đó tổng biên tập báo Dean Baquet cũng có thư ngỏ gởi phóng viên cho biết ông ta phẫn nộ vì hành vi của McNeil và thoạt tiên có ý sa thải ông này nhưng sau đó kết luận “chủ đích của McNeil không mang tính thù hằn hay xấu xa gì”. McNeil bị khiển trách, biên bản giải quyết vụ việc được kèm vào hồ sơ cá nhân ông này.  

*                           *                           *

Câu chuyện tưởng đâu đến đây khép lại là vừa; thế nhưng một tuần sau đó, 150 phóng viên, biên tập viên tờ New York Timesgởi một lá thư cho chủ bút đòi phải điều tra thêm về chuyến đi Peru, yêu cầu McNeil phải công khai xin lỗi. Thư viết: “Cộng đồng chúng tôi phẫn nộ và đau đớn. Mặc dù tờ Times có vẻ cam kết tôn trọng sự đa dạng và bao trùm, chúng ta đã trao một diễn đàn nổi bật – một lãnh vực quan trọng bao quát trận đại dịch đang ảnh hưởng một cách bất xứng với người da màu – cho một người chọn cách dùng ngôn ngữ xúc phạm và không thể chấp nhận được theo bất kỳ chuẩn mực báo chí nào. Ông ta đã làm vậy khi đại diện cho tờ Times, trước mặt các học sinh trung học”. Tờ New York Times hiện có trên 1.700 nhân viên.

Sở dĩ lá thư này ví von như thế là vì suốt năm 2020, Donald McNeil là cây bút chủ lực chuyên đưa tin viết bài về dịch Covid-19. Ông còn xuất hiện trên chương trình phát thanh The Dailycủa báo để cảnh báo về đại dịch từ rất sớm, khi mọi người còn chưa nhận ra quy mô toàn cầu của Covid-19. Gần đây nhất là bài McNeil phỏng vấn bác sĩ Anthony Fauci, lần đầu tiên cởi mở nói hết về mối quan hệ khó khăn giữa ông và Tổng thống Donald Trump. New York Times đã chuẩn bị gom các bài của McNeil để nộp tranh giải Pulitzer năm nay.

Hai ngày sau khi nhận được lá thư, sau nhiều cuộc họp, trực tiếp có, qua Zoom cũng có, tổng biên tập Baquet và thư ký tòa soạn Joe Kahn gởi một thư nội bộ cho biết McNeil sẽ rời tờ báo; tức không bị sa thải trực tiếp nhưng chịu sức ép phải nghỉ việc. Trong thông báo nội bộ này có một câu mà sau đó Baquet phải rút lại, xin lỗi: “Chúng tôi không chấp nhận ngôn ngữ phân biệt chủng tộc bất kể chủ đích là gì”! Thế là McNeil phải nộp đơn xin nghỉ việc, kèm theo một lá thư xin lỗi thống thiết. Thư có đoạn: “Thoạt tiên, tôi cứ nghĩ bối cảnh khi tôi dùng cái từ xấu xa này là có thể biện hộ. Giờ tôi mới nhận ra là không thể. Nó thật sự xúc phạm và gây thương tổn. Ngay cả chuyện tôi cứ tưởng mình có thể biện hộ cũng cho thấy một sự phán đoán cực kỳ tệ hại”.

*                           *                           *

Trích dẫn lại một từ chỉ để làm rõ từ đó được dùng trong bối cảnh nào mà dẫn tới sự đấm ngực, vò tóc nhận tội về mình như thế là một điều thật khó hiểu. Nhà báo Andrew Sullivan viết trên Twitter rằng thư của McNeil đọc y như lời thú tội do Khmer Đỏ ép viết, “vừa buồn cười vừa thật đáng sợ”. Đồng nghiệp của McNeil ở nhiều tờ báo khác đã lên tiếng với nhiều góc nhìn và mức độ khác nhau. Cây bút Erik Wemple viết trên tờ Washington Post rằng hiến pháp nước Mỹ bảo vệ con người không bị kết án hai lần về cùng một tội; thỏa thuận lao động ở các nơi như báo New York Times cũng có khái niệm này để tránh chuyện một người bị kỷ luật nhiều lần vì cùng một sự việc. McNeil đã bị báo của ông kỷ luật sau chuyến đi Peru thì nay chỉ vì tờ Daily Beast khui lại chuyện cũ mà đem ông ta ra kỷ luật một lần nữa thì quá kỳ lạ.

Bài viết của Wemple cũng làm rõ ngoài chuyện nhắc lại từ miệt thị để hỏi cho rõ thì McNeil chỉ bày tỏ quan điểm của ông về một số đề tài gây tranh cãi. Chẳng hạn, với tỷ lệ người da đen bị tù cao hơn, ông cho rằng nếu họ tham gia hoạt động tội phạm thì đó là lỗi của họ chứ không phải vì một cấu trúc quyền lực mang tính phân biệt và áp bức. Tuy nhiên ngay chính học sinh kể lại câu chuyện này cũng nói ý kiến của McNeil không hề coi thường người Mỹ gốc Phi.

Jonathan Chait viết trên tờ New York Magazine rằng miêu tả một từ miệt thị là khác với sử dụng nó. Nhắc lại hai phát biểu mâu thuẫn nhau của chính tổng biên tập Baquet (lần đầu nói “chủ đích của McNeil không mang tính thù hằn hay xấu xa gì”; lần sau khẳng định “Chúng tôi không chấp nhận ngôn ngữ phân biệt chủng tộc bất kể chủ đích là gì”), nhà báo này nhận xét chính sách của tờ New York Times với một từ mang tính miệt thị thì miêu tả nó, tường thuật nó so với sử dụng nó cũng không khác gì nhau là một bước ngoặc rất quan trọng.

Đáng chú ý là một câu bút bình luận khác của tờ New York Times là Bret Stephens đã viết một bài để đăng trên báo nhà, phản đối cách ứng xử của lãnh đạo tờ báo về vụ McNeil, đặc biệt là tuyên bố “bất kể chủ đích như thế nào” của tổng biên tập. Tuy nhiên bài viết này không được New York Times xuất bản. Trong một email gởi bạn bè kèm bản thảo bài báo được các báo khác trích dẫn, Stephens cho biết bài viết đã bị chủ bút vất vào ngăn kéo, không cho đăng. Bản thảo đăng trên các báo khác có đoạn viết: “Có một sự khác biệt sơ đẳng giữa trích dẫn một từ vì mục đích kiến thức hay thông hiểu với việc sử dụng cùng từ đó vì mục đích lăng mạ hay gây thương tổn. Đánh mất sự phân biệt này, chúng ta sẽ đánh mất luôn khả năng hiểu những điều chúng ta được giáo dục để chống lại”.

Lấy ngay các ví dụ trên tờ New York Times, Bret Stephens trích dẫn nhiều bài viết trong đó từ “nigger” xuất hiện nhiều lần với mục đích minh họa cho sự thay đổi trong cảm nhận của xã hội để cho thấy New York Times không hề ngần ngại dùng từ mang tính miệt thị này nhưng với mục đích thông tin. Ông viết: “Một nền báo chí biến “từ ngữ” thành “vật để sùng bái” – rồi từ “vật để sùng bái” thành “nỗi sợ” – sẽ ngăn trở tư duy mạch lạc và sự thông hiểu đúng đắn” và kết luận: “Vai trò của một nền báo chí tốt đẹp phải dẫn dắt chúng ta ra khỏi vũng lầy đen tối (của nền văn hóa xóa sổ, sa thải, hạ nhục công cộng và phán xét ngày càng không dung thứ). (Thế mà) Tuần trước chúng ta lại dấn sâu hơn vào chốn đó”. Đúng là tờ New York Times đã từng dùng từ “nigger” đến 1.271 lần kể từ năm 1969 và lần gần đây nhất chỉ cách đó một tuần.

Phản ứng của các báo khác đậm đặc đến nỗi ông Baquet phải rút lại nhận định “bất kể chủ đích là gì”, thừa nhận nói thế là “đe dọa đến nền báo chí”, là “một sai lầm chết người” và xin lỗi mọi người. Hiện nay nhận xét chung của nhiều nhà báo trên các tờ báo chính thức và cả mạng xã hội, sự đảo chiều liên tục của lãnh đạo báo New York Times cho thấy một vấn đề sâu xa hơn câu chuyện “phạm húy” của McNeil nhiều lần. Như nhận định của tổ chức PEN America, một nhà báo kỳ cựu mất việc chỉ vì một từ trích dẫn đã là một thông điệp lạnh gáy, đáng lo ngại hơn là khi một tờ báo thay đổi lập trường dưới sức ép của đám đông. Một số nhà báo đi xa hơn khi nhận định đây là dấu hiệu cho thấy làng báo đang xuất hiện xu hướng bước vào một thời kỳ tạm gọi là “hậu báo chí” khi một số báo từ bỏ tính khách quan để nhấn mạnh đến chuyện đúng sai theo cảm quan của người viết phù hợp với lượng độc giả riêng của từng tờ báo.

Riêng nhà báo McNeil, trong một email gởi những người quan tâm đến vụ việc trấn an mọi người: “Tôi sẽ ổn. Năm nay tôi 67 tuổi và đã nhiều năm nay ước mơ của tôi là mua chiếc xe bán tải kéo theo một căn nhà lưu động rồi biến mất vào rặng Rockies cùng một chiếc cần câu”. Có lẽ ông sẽ ổn thật nhưng sóng gió với New York Times và cả làng báo vẫn chưa qua.

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 12, 2021 16:53

Có hay không – “hậu báo chí”?

 Có hay không – “hậu báo chí”?

 

Hết “hậu sự thật” nay người ta đang nói về “hậu báo chí”. Có hay không cái khái niệm lạ đời này và vì sao nhiều nhà báo đòi từ bỏ các nguyên tắc khách quan, đa chiều của báo chí để đòi hỏi một loại báo chí đem lại công bằng, nhà báo phải là chiến binh thập tự chinh cho những điều họ tin là lẽ phải?

Theo Andrey Mir tác giả cuốn “Hậu báo chí và cái chết của báo” (2020), báo chí ngày xưa bán độc giả cho nhà quảng cáo thì nay các báo trong thời kỳ “hậu báo chí” bán độc giả cho công chúng. Báo chí truyền thống cố gắng tìm sự khách quan; cố gắng miêu tả thế giới như nó “đang là”. “Hậu báo chí” cố tình theo chủ quan; cố tình diễn tả thế giới như nó “phải là”. Một tờ báo theo mô hình “hậu báo chí” sẽ dựng tường lửa để dụ khách trả tiền và bước vào thế giới sau bức tường - trong thế giới này cái được bày biện không phải là tin tức mà chủ kiến, đúng sai đã phân định; phóng viên là nhà hoạt động cho một niềm tin nào đó. Báo chí ngày trước cần có những khách hàng hài lòng, vui vẻ, sẵn sàng mua sắm; báo chí ngày nay, theo Andrey Mir, cần tạo ra những người dân giận dữ, bất bình.

Nói cách khác, khi khóa bài buộc người đọc trả tiền mới được vào đọc, các báo không thể cạnh tranh bằng tin tức vì lượng thông tin trên thế giới là vô hạn, cung vượt xa cầu nên tin tức chạy theo người đọc chứ không phải người đọc chạy theo tin. Vì thế các báo phải bán một thứ khác – là niềm tin, là một sự đeo đuổi cho một cộng đồng những người cùng chia sẻ niềm tin này, sự đeo đuổi này. Andrey Mir nhận xét báo chí truyền thống mất 500 năm để xây dựng hoàn chỉnh mô hình bán độc giả cho nhà quảng cáo; Internet phá hủy mô hình đó trong vòng 20 năm nên “hậu báo chí” vẫn ở những bước sơ khai. Sự xung đột ở các báo, sự tranh cãi giữa các thế hệ làm báo, những xì-căng-đan sa thải nhà báo… tất cả đều là hệ quả của việc chuyển đổi mô hình trong giai đoạn ban đầu, tranh tối, tranh sáng.

*                           *                           *

Martin Gurri, trong một bài viết dài trên tờ City Journal đã dùng tờ New York Times như một ca điển hình chuyển đổi sang “hậu báo chí”. Tuy nhiên phân tích rất hấp dẫn của ông dựa vào cách New York Times đưa tin, viết bài về tổng thống Trump trong suốt 4 năm dài nên có thể không khách quan với nhiều người. Ở đây chỉ kể lại một chuyện mà lúc đó cũng có nhiều báo khác đưa tin đầy đủ: Tháng 8-2019, sau vụ nổ súng giết người hàng loạt làm 31 người chết, New York Times rút tít trên trang nhất: “Trump kêu gọi đoàn kết chống lại phân biệt chủng tộc” – một cái tít đưa tin bình thường, dù rất khuôn sáo nhưng không sai vì tin nhấn mạnh vào thông điệp trong bài phát biểu của Tổng thống Trump. Thế nhưng độc giả New York Times phẫn nộ, nhiều phóng viên lên mạng xã hội chê trách, nhiều giới trí thức buông lời “không tin được” và đòi hủy mua báo dài hạn. Cuối cùng New York Times phải đổi tít thành “Lên án sự thù hằn nhưng không lên án súng đạn”! Tức tường thuật phát biểu của Trump nhưng phải tìm ra một góc độ “phản kháng” cho đúng mong muốn của giới độc giả NYT thu tiền.

Lúc đó sự phản đối của giới phóng viên chịu ảnh hưởng của “hậu báo chí” dữ dội đến nỗi Tổng biên tập NYT là Dean Baquet phải tổ chức họp nhân viên, biên bản cuộc họp được tờ Slateđăng nguyên văn. Đây là cuộc họp đặt ra ranh giới diễn đạt – đâu là chuyện nói được, đâu là chuyện cấm kỵ trong một thời đại hậu khách quan, hậu sự thật, hậu báo chí. Tuy nhiên giới nhà báo kỳ cựu theo mô hình cũ của NYT vẫn còn nguyên đó và với họ mục ý kiến phải được miễn nhiễm, phải đặt bên ngoài vòng kềm tỏa của mô hình mới. Thế là bài “Đã đến lúc đưa quân đội vào” của Thượng nghị sĩ Tom Cotton xuất hiện, kêu gọi phải dùng biện pháp mạnh để vãn hồi trật tự sau các cuộc bạo loạn, đốt phá nhân cái chết của một người da đen dưới chân cảnh sát. Ngay lập tức, các phóng viên trẻ nổi loạn, viết thư ngỏ phản đối việc đăng bài ý kiến này và sau đó trưởng ban mục ý kiến, James Bennet phải ra đi.

*                           *                          *

Phân tích sự thăng trầm của mô hình kinh doanh mới của tờ New York Times thường xoáy vào hai chuyện: trước tiên tờ báo này đã thành công khi chuyển đổi từ chỗ dựa vào quảng cáo sang dựa vào lượng độc giả có trả tiền. Tính đến hết năm 2020, New York Times có 7,5 triệu người mua báo điện tử dài hạn, một kỷ lục chưa báo nào trên thế giới đạt được; con số này đã tăng gấp 7 lần so với 4 năm trước đó.  Chỉ tính riêng năm 2020, New York Times có thêm 2,3 triệu người mua báo điện tử dài hạn. Doanh thu bán báo điện tử năm 2020 là gần 600 triệu đô-la, bằng doanh thu bán báo giấy trong khi doanh thu từ quảng cáo sụt giảm mạnh còn gần 400 triệu đô-la.

Chuyện thứ nhì là sự thay đổi quan niệm làm báo. Trong một bài viết trên tờ Wall Street Journal mang tựa đề “Bi kịch của tờ Times”, Holman W. Jenkins, Jr. tóm tắt các phát biểu của tổng biên tập Baquet rằng ngày nay chính độc giả là người gây áp lực buộc báo phải đi theo một con đường nào đó; rằng các chủ bút hoài niệm cái thời doanh thu quảng cáo bảo vệ họ khỏi những áp lực như thế. Tác giả cho rằng có một nỗi hoài nghi ngày càng lan rộng rằng tờ Timesxem nhiệm vụ của họ là áp đặt một “tự sự” cho thế giới chứ không phải lắng nghe xem thế giới kể chuyện gì. Một bài viết khác trên tờ New York Magazine cũng cho rằng mấy năm qua tờ Times ngày càng ít vô tư, trong khi ngày càng tung hoành như đang ở trong một cuộc thập tự chinh.

Khách quan hơn là tiếng nói của người trong cuộc – các phóng viên NYT viết ngay trên tờ báo của họ. Từ năm 2016, Jim Rutenberg đã phải viết: “Nếu bạn là phóng viên hành nghề và tin rằng Donald Trump là kẻ mị dân, kích động xu hướng phân biệt chủng tộc và dân tộc chủ nghĩa tệ hại nhất của đất nước… bạn biết đưa tin về ông ta như thế nào đây? Bởi nếu bạn tin như thế, bạn sẽ phải ném hết sách giáo khoa mà báo chí Mỹ đã sử dụng trong suốt nửa thế kỷ qua… Nếu bạn xem nhiệm kỳ tổng thống của Trump là một thứ có tiềm năng gây nguy hiểm, bài viết của bạn phải phản ánh chuyện đó. Bạn sẽ tiến gần hơn bao giờ hết thành một người đối lập”. Có lẽ tâm thế này giải thích cách NYT và nhiều tờ báo khác đưa tin về ông Trump trong suốt nhiệm kỳ.

Rõ hơn nữa là bài viết của Wesley Lowery vào giữa năm 2020 khẳng định các biên tập viên của báo không còn nắm giữ độc quyền xuất bản nữa trong bài “Định lại tính khách quan, do các nhà báo da đen dẫn dắt” đăng trên NYT. Anh này cho rằng lâu nay cái gì là sự thật khách quan chủ yếu do các phóng viên da trắng và các sếp da trắng quyết định. Nay anh kêu gọi hãy từ bỏ cái làm ra vẻ khách quan đó; phóng viên phải tập trung vào sự công bằng và nói lên sự thật, đến hết sức mình, dựa vào bối cảnh cho phép và các dữ kiện có sẵn. Bằng không từng phóng viên đều có khối lượng người đọc theo dõi trên mạng xã hội, cho phép họ nói chuyện thẳng với công chúng! Ngay chính tổng biên tập Baquet trong một bài trả lời phỏng vấn đã cho rằng tính khách quan “đã trở thành một bức biếm họa” – tốt hơn nên hướng đến các giá trị khác như sự công bằng, tính độc lập và sự đồng cảm.

*                           *                           *

Tuy nhiên để chứng minh có sự tồn tại của mô hình “hậu báo chí”, không thể chỉ dựa một mình vào tờ New York Times. Về đề tài này, tờ Economist đã nhắc đến nhiều tờ báo khác trong bài viết mang tựa đề “Vì sao tính khách quan trong báo chí trở thành vấn đề ý kiến”. Mới nhìn qua, tờ này viết, nguyên nhân trực tiếp là do vấn đề chủng tộc như hơn 150 nhân viên tờ Wall Street Journalký lá thư ngỏ cho rằng họ thấy cách tờ báo của họ tường thuật đề tài chủng tộc là “có vấn đề”. Hơn 500 nhân sự tại tờ Washington Postủng hộ yêu cầu “chiến đấu chống lại phân biệt chủng tộc và phân biệt đối xử”. Nhưng sâu xa hơn, cốt lõi của các cuộc tranh cãi này vẫn là về bản chất và mục đích của báo chí.

Một thế hệ nhà báo mới đang đặt câu hỏi, liệu khách quan có cần thiết không trong thế giới này. Lowery, nhà báo trẻ 30 tuổi đã có trong tay giải Pulitzer nay chuyển sang làm cho CBS News viết trên Twiter: “Báo chí ám ảnh bởi tính khách quan, nhìn cả hai phía là một thí nghiệm thất bại”. Hiệu trưởng trường đại học báo chí Columbia nói với sinh viên tính khách quan là một khẩu hiệu xưa cũ được thừa hưởng từ thế hệ trước.

Theo Economist, có bốn lý do giải thích cho việc báo chí từ bỏ tính khách quan, trong đó có lý do chìu lòng độc giả trả tiền như đã nói ở trên và sự xuất hiện của một nhân vật độc đáo Donald Trump làm mọi cách thức đưa tin cổ điển không còn hợp thời nữa. Lý do thứ ba là sự thay đổi thành phần của đội ngũ nhà báo, ngày càng có thêm người da màu và phụ nữ mà đi kèm với họ thường là các đề tài nóng như nữ quyền, tố cáo việc quấy rối tình dục, phân biệt chủng tộc, phân biệt đối xử. Cuối cùng là sự phổ biến lan truyền các mạng xã hội đã trao cho nhiều người chiếc micro không nằm trong sự kiểm soát của giới chủ bút nữa. Người đọc đắm mình trong mạng xã hội dày đặc ý kiến của phe này phe kia khi đọc báo cũng đòi hỏi tờ báo của mình phải như thế hoặc đi tìm các tờ báo cùng tiếng nói sôi nổi như thế.

Nhìn một cách khách quan (lại khách quan!), không nên gán các khái niệm đao to búa lớn kiểu “hậu sự thật”, “hậu báo chí” cho một xu hướng mới trong làng báo. Thế nhưng việc chuyển đổi sang làm hài lòng người đọc để giữ chân họ lại là có thật ở nhiều mức độ khác nhau. Với những tờ chưa thu được tiền từ người đọc mà chỉ có thể đếm “click” để thu tiền quảng cáo do Google Adsense bán hộ, đó có thể là các tít “treo đầu dê bán thịt chó” câu view, các loại tin bài đánh vào thị hiếu bản năng của con người như tình, tù, tội, tiền. Với các tờ đang dựng tường lửa bắt người đọc trả tiền, có tờ khai thác thế mạnh “độc quyền thông tin” như các tờ chuyên ngành Wall Street Journal, Financial Times, Economist; có tờ kêu gọi sự đóng góp của độc giả như The Guardian, Vox. Với các tờ đại chúng như New York Times, áp lực viết theo kỳ vọng của độc giả để họ tiếp tục trả tiền thay cho nhà quảng cáo là có thật và họ đang phải trả giá.

Chỉ mong sau những năm đầy biến động như vừa qua, giới làm báo sẽ quay về giá trị truyền thống như nhà báo Tom Rosenstiel viết: “Nếu nhà báo thay thế việc hiểu sai về tính khách quan bằng cách trốn vào chốn chủ quan rồi nghĩ ý kiến của họ có sự công chính đạo đức cao hơn mọi sự tìm hiểu thật sự thì nền báo chí sẽ bị đánh mất”.

(Bài đã đăng tại đây


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 12, 2021 16:49

March 7, 2021

Mua bán NFT là mua bán cái gì?

 Mua bán NFT là mua bán cái gì?

 

Với những nhà sưu tập các tác phẩm mỹ thuật, có lẽ niềm vui lớn nhất của họ là có quyền thoải mái nhìn ngắm, thậm chí sờ mó các bức danh họa, các bức tượng điêu khắc đang thuộc quyền sở hữu của họ. Thế nhưng với các tác phẩm kỹ thuật số như một bức tranh vẽ trên máy tính, một video clip quay bằng điện thoại, một đoạn phim hoạt hình châm biếm chỉ tồn tại trên không gian ảo thì sao?

Beeple là một họa sĩ kỹ thuật số như thế. Các bức biếm họa của anh hiện rất được ưa chuộng. Tài khoản Instagram của anh nơi anh thường công bố các tác phẩm mới có đến 1,8 triệu người theo dõi. Các bức vẽ của anh được chia sẻ rộng rãi, ai cũng có thể nhìn ngắm dù chỉ trên màn hình. Cứ tưởng anh này bó tay, không thể làm giàu nhờ tác phẩm của mình như các họa sĩ bình thường khác. Nhưng không, gần đây, anh nhờ tổ chức bán đấu giá, thu về 3,5 triệu đô-la, trong đó tác phẩm có giá cao nhất là 777.777 đô-la mang tên “Bộ sưu tập MF” là một file MP4 lần lượt trình chiếu mọi tác phẩm Beeple từng vẽ!





Bức Fix Kanye của Beeple.

Để hiểu được Beeple bán cái gì, chúng ta phải quay về đồng Bitcoin và công nghệ chuỗi khối (blockchain). Blockchain nói đơn giản là một cuốn sổ cái ghi lại mọi giao dịch, ai dùng bao nhiêu bitcoin mua gì, tiền bitcoin đó chuyển cho ai, đã ghi rồi thì không ai sửa được – mục đích sau cùng là để tránh chuyện một người có 1 đồng bitcoin mà cứ đem đi mua ở 100 nơi khác nhau. Cuốn sổ cái blockchain còn có thể dùng làm một cơ sở dữ liệu ghi nhận ai đang sở hữu tác phẩm mỹ thuật gì, sau đó tác phẩm này bán cho ai khác, giá bao nhiêu… Trong chức năng đầu, đồng bitcoin nào cũng như nhau, có thể thay thế cho nhau được nên gọi là “fungible token” còn trong chức năng sau, tác phẩm mỹ thuật là không thể thay thế, chỉ có duy nhất 1 cái nên được gọi là “non-fungible token” – thường được viết tắt là NFT. Người mua tác phẩm mỹ thuật của Beeple chính là mua cái NFT này, một dãy mã số mà nếu truy cập vào sẽ thấy một trang sổ cái y như một tờ giấy chứng nhận họ đang sở hữu tác phẩm tên gì đó của Beeple.

Đến đây ắt có người bảo thiên hạ điên cả rồi sao – tại sao bỏ những món tiền lớn mua về một cái vô nghĩa, thậm chí không phải là bản thân cái tác phẩm mỹ thuật kỹ thuật số kia mà chỉ là một loại giấy chứng nhận rằng anh ta đang sở hữu nó? Bất kỳ ai khác đều có thể có trong tay một tác phẩm y chang, không phải là tranh sao chép mà là bản sao không sai lệch cái bức tranh có thể có giá vài trăm ngàn đô-la. Biết làm sao được với tâm lý con người hiện đại sống trong thời đại kỹ thuật số; có thể đó là niềm vui, niềm hãnh diện được ghi nhận là người sở hữu tranh; cũng có thể đó là nhà đầu tư nhìn xa trông rộng, mua tranh khi giá còn thấp để chờ tranh lên giá bán lấy lời.

Mấy tháng qua, thị trường mua bán NFT rất nhộp nhịp. Một hình động vẽ con mèo đang bay, thân hình y như các nhân vật trong các trò chơi điện tử giai đoạn sơ khai bán được 580.000 đô-la. Điều đáng nói hình ảnh con mèo này đã phổ biến gần 10 năm nay cho đến khi tác giả quyết định đem bán trên chợ Foundation, một nơi chuyên mua bán hàng hóa kỹ thuật số, thu về một khoản tiền không tin nổi. Nên nhớ người mua không phải mua bản quyền hình ảnh động này, cũng không mua cái quyền sử dụng nó làm thương hiệu, nhãn hiệu gì cả – tất cả các quyền này vẫn còn thuộc về tác giả. Người mua chỉ mua được cái quyền tuyên bố anh ta là chủ sở hữu và phiên bản anh ta đang nắm giữ là phiên bản “gốc”.

Các món hàng NFT được báo chí đưa tin có thể kể một clip ngắn ngủn ghi cảnh cầu thủ bóng rổ LeBron James chặn thành công một cú bóng suýt vào rổ, giá 100.000 đô-la; một mẩu viết trên Tweeter của tỷ phú Mark Cuban, giá 952 đô-la; diễn viên Lindsay Lohan bán hình chụp khuôn mặt của cô giá 17.000 đô-la, người mua sau đó bán lại với giá 57.000 đô-la. Theo số liệu của tờ New York Times đưa ra, năm 2020 có tổng cộng 222.000 người tham gia mua bán các NFT với tổng trị giá 250 triệu đô-la, tăng gấp 4 lần so với năm 2019. Xin nhắc lại, người mua tranh, mua nhạc, mua video clip dạng NFT không phải là mua được bản quyền sử dụng nó; chẳng hạn mua một bản nhạc NFT về chỉ để nghe chứ không thể khai thác thương mại hóa nó, quyền này vẫn do tác giả nắm giữ.

Đánh hơi thấy tiềm năng to lớn của thị trường mua bán tác phẩm ảo này, nhà đấu giá Christie’s đã vào cuộc. Họ tổ chức bán tác phẩm NFT đầu tiên vào tháng 10-2020 và đang chào bán bức “Everydays: The First 5000 Days” của Beeple trong một cuộc đấu giá qua mạng kéo dài từ ngày 25-2 đến 11-3. Các nghệ sĩ tự họ cũng không thể tổ chức mua bán tác phẩm theo công nghệ blockchain này nên phải nhờ các chợ trung gian. Nổi bật có Nifty Gateway và MakersPlace trong đó Nifty Gateway được anh em nhà Winklevoss mua lại vào năm 2019. Hai anh em sinh đôi này nổi tiếng nhờ bộ phim The Social Network kể lại chuyện họ kiện Mark Zuckerberg mà họ cáo buộc đã đánh cắp ý tưởng làm Facebook của họ như thế nào.

Mua bán các tác phẩm mang tính sáng tạo cao như các bức tranh của Beeple thì lấy đâu ra nhiều hàng hóa để bán. Thế là người ta nghĩ ra các chiêu trò bán NFT rất kỳ lạ như CryptoPunks, bộ sưu tập 10.000 hình đầu người đủ cách đủ kiểu, không nhân vật nào giống nhân vật nào, vẽ như thời kỳ đầu của máy tính, như các loại game Mario hái nấm. Một người vừa trả 20.000 đô-la để mua một hình CryptoPunks như thế và theo CNBC, trong vòng 7 ngày qua thị trường mua bán hình CryptoPunks đạt mức 45,2 triệu đô-la. Bộ sưu tập CryptoKitties trong tuần qua tạo ra doanh thu gần nửa triệu đô-la. Người ta còn tạo ra các chợ độc đáo như NBA Top Shot, chuyên mua bán các video clip quay các cú bóng đẹp trong làng bóng rổ, tuần qua doanh thu lên đến 147,8 triệu đô-la.

 






Một số hình Cryptopunks, mỗi hình như thế đang được bán với giá trên 30.000 đô-la.

Độ nóng của thị trường mua bán NFT làm nhiều người lo ngại hiện tượng bong bóng đầu cơ đang tái diễn. Năm 2017 độ nóng của các đồng tiền mã hóa lúc đó đã dẫn tới hàng loạt vụ phát hành đồng tiền mã hóa lần đầu ra công chúng – ICO gây xôn xao báo chí và dư luận một thời gian dài. Đến nay hầu như tất cả các ICO này đã biến mất; nhiều dự án đã lừa đảo hàng chục triệu đô-la từ người nhẹ dạ. Nay cũng có nhiều dấu hiệu tương tự, như sự tham gia của nhiều nhân vật nổi tiếng tạo đà cho việc bơm giá.

Tuy nhiên cũng có người cho rằng công nghệ NFT sẽ giúp những nhà sáng tạo trong không gian ảo có phương tiện thương mại hóa sản phẩm sáng tạo của họ. NFT cho phép chuẩn hóa việc chứng nhận sở hữu số làm cho quyền sở hữu này vượt qua số phận của một công ty, một nhân vật hay một nền tảng. Một khi quyền sở hữu đã được ghi nhận vào blockchain, nó sẽ vĩnh viễn, không ai có thể giả mạo, chiếm đoạt hay tranh giành trừ phi người sở hữu bán lại cho người khác.

   

 



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 07, 2021 18:37

Ai chớp mắt trước?

 Ai chớp mắt trước?

 

Cuộc đối đầu giữa nước Úc và Facebook chẳng khác gì một cuộc thi xem ai chớp mắt trước và cuối cùng cả hai đều ngoảnh mặt quay đi cùng lúc, xoay về khán giả để cùng tuyên bố thắng trận. Chính phủ Úc thì bảo Facebook phải tiếp tục để người dùng chia sẻ tin bài từ báo chí Úc và đồng ý sẽ trả tiền cho các báo; Facebook khoe Úc phải sửa luật để đáp ứng yêu cầu của họ. Nhìn qua ai nấy đều vui vẻ nhưng bản chất vấn đề vẫn chưa được giải quyết.

Cuộc đối đầu giữa các hãng công nghệ lớn như Facebook hay Google với chính phủ các nước đòi hỏi quyền lợi cho giới báo chí nước họ không hẳn vì tiền. Facebook và Google với doanh thu năm 2020 lần lượt là 86 tỷ đô-la và 182 tỷ đô-la dư sức bỏ ra mỗi hãng 1 tỷ đô-la trong vòng 3 năm tới để “hỗ trợ” báo chí các nước như họ tuyên bố. “Hỗ trợ” dù gấp mấy lần khoản đó hay chi trả cho từng báo cụ thể trong các hợp đồng cụ thể thì Facebook sẵn sàng nhưng bảo họ, về nguyên tắc, phải chi trả cho nội dung tin tức hiển thị trên Facebook, chắc chắn họ sẽ phản đối đến cùng.

Đó là bởi họ xem mô hình kinh doanh của họ xoay quanh chuyện tổ chức để mọi người “tự nguyện” đăng tải nội dung, kể cả tin tức lên trang của họ hoàn toàn “miễn phí”, công việc của họ là sắp xếp nội dung này hiện thị cho từng người dùng, kể cả bán quảng cáo đi kèm. Nếu đồng ý trả tiền cho tin tức, họ sẽ phải trả tiền cho các đòi hỏi tương tự khác, kể cả nội dung của người dùng đưa lên – và mô hình kinh doanh của họ sẽ phá sản. Thử nghĩ nếu Google bị buộc phải trả tiền cho tờ The Australian vì hiển thị một số dòng tin bài trong kết quả tìm kiếm, ắt hẳn họ cũng bị đòi phải trả tiền cho hàng triệu blog, hàng triệu trang web khác!

Nhìn từ góc độ này, Facebook rút lại quyết định không cho người dùng chia sẻ tin tức từ báo chí Úc là bởi chính phủ Úc đã sửa đổi dự thảo điều luật trước khi Quốc hội nước này thông qua theo đúng ý muốn của Facebook. Dự thảo cũ quy định nếu có tranh chấp giữa nền tảng công nghệ và báo chí truyền thông không đạt được thỏa thuận thì một viên chức phân xử của chính quyền sẽ đưa ra quyết định sau cùng với mức chi trả do viên chức này ấn định. Nay điều luật mới không còn cơ chế này nữa, thay vào đó là một khoản thời gian để hai bên tiếp tục thương lượng nhằm đạt thỏa thuận sau cùng. Quy định không phân biệt, tức buộc nền tảng công nghệ chi trả cho mọi loại báo như nhau cũng đã biến mất trong điều luật mới. Quan trọng nhất, việc có áp dụng điều luật mới thông qua này sẽ xem xét đến chuyện liệu nền tảng công nghệ đó đã “đóng góp đáng kể vào tính bền vững của ngành báo chí Úc thông qua việc đạt được những thỏa thuật thương mại với các doanh nghiệp truyền thông báo chí”. Nói cách khác, nếu Facebook chịu chi ra một khoản tiền cho nền báo chí Úc họ sẽ được miễn trừ trước điều luật mới.

Chính vì lẽ đó mà Facebook ra tuyên bố sẽ đầu tư 1 tỷ đô-la trong vòng 3 năm tới cho ngành báo chí nói chung. Trước đó họ cho biết đã chi 600 triệu đô-la từ năm 2018 cho một số báo cụ thể để tin bài của các nơi này xuất hiện trong mục Facebook News. Google cũng vậy, tuyên bố sẽ chi 1 tỷ đô-la trong 3 năm tới để hợp tác với các báo trong dịch vụ News Showcase mới. Chừng nào họ xác định đây là những khoản chi cụ thể cho từng báo cụ thể để làm một điều gì đó cụ thể, họ sẽ sẵn lòng chi – miễn sao không phá vỡ mô hình kinh doanh của họ, tức bị buộc chịu trách nhiệm cho nội dung người dùng đưa lên (tranh chấp về quyền kiểm duyệt) và trả tiền bản quyền (như tranh chấp ở Úc).

Câu chuyện ở Úc sẽ lập lại ở nhiều nước khác như Canada, Đức, Pháp. Liệu Facebook “hủy kết bạn” như từng làm với báo chí Úc ở quy mô hàng chục nước được không? Liệu các nước có đồng ý nhượng bộ như Úc miễn sao Facebook chịu mở hầu bao thương lượng với từng tờ báo? Câu trả lời là chưa rõ nhưng có một số điều đã rõ: trong cuộc đối đầu này, các tờ báo nhỏ, không nằm trong các tập đoàn báo chí lớn sẽ chịu nhiều thiệt thòi vì sức nặng thương lượng của họ không cao bằng. Thậm chí trong tuần lễ Facebook không cho người dùng chia sẻ tin tức từ báo chí Úc, có nhiều tờ báo nhỏ, nhiều trang web bình thường bảo họ không cần Facebook trả tiền cho họ, họ chỉ muốn sử dụng nó như một kênh truyền bá tin bài rộng ra cho độc giả – trong trường hợp này tại sao lại cấm cửa họ?

 

 

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 07, 2021 18:23

Mua café bằng Bitcoin?

 Mua café bằng Bitcoin?

 

Tạm thời gác sang một bên những tranh cãi chưa ai khẳng định được đúng sai về tương lai hay giá trị thật của đồng tiền mã hóa Bitcoin, chúng ta thử trả lời những câu hỏi đơn giản nhất: có thể xài Bitcoin để mua ly café hay không?

Câu trả lời là không trừ phi người mua người bán cố tình biểu diễn chơi cho vui bởi chi phí cho một giao dịch dùng đồng Bitcoin vào ngày 25-2 là 26,16 đô-la. Mua một tách café giá 5 đô-la mà phải chi thêm 26,16 đô-la tiền phí giao dịch thì hỏng to. Chi phí giao dịch này thay đổi từng ngày, hiện đang tăng mạnh vì vào ngày 25-1 chỉ có 7,4 đô-la. Chưa hết, tính từ khi trả tiền cho tách café bằng Bitcoin đến khi cuộc giao dịch được xác nhận là hợp lệ phải mất chừng 10 phút, đủ để tách café chưa kịp uống đã nguội ngắt.

Các tin bài về Bitcoin thường được minh họa bằng một đồng xu màu vàng có chữ B to tướng. Đây chỉ là một hình vẽ tượng trưng còn Bitcoin thật sự chỉ là một dãy gồm số và chữ. Khi dùng Bitcoin để mua một món hàng, thông tin về giao dịch này được cập nhật vào một cuốn sổ cái ghi lại tất tần tật mọi giao dịch mua bán như thế từ ngày Bitcoin ra đời cho đến nay. Chẳng lạ gì đến ngày 21-2 kích cỡ tập tin này đã lên đến 321 GB, cứ vài ba ngày tăng thêm 1 GB. Ổ cứng một chiếc laptop thông thường chỉ chừng 500 GB.

Nếu bất kỳ ai cũng được quyền ghi vào sổ cái này thì còn gì là giá trị của Bitcoin. Trước khi một giao dịch được xác nhận để ghi vào sổ cái, những thợ đào với những giàn máy tính cực mạnh tranh nhau giải những bài toán ngày càng phức tạp để giành quyền cập nhật – khi cập nhật thành công họ được thưởng Bitcoin - là động lực để họ ngày đêm miệt mài đào. Chính cái cơ chế kỳ lạ này đẻ ra những hiện tượng kỳ lạ: mua tách café bằng Bitcoin nhưng không muốn chờ lâu, người mua cứ trả tiền phí giao dịch thật nhiều, giao dịch của họ sẽ được thợ đào ưu tiên xử lý trước.

Chỉ chừng đó cũng đã có thể kết luận những người chủ xướng Bitcoin đã không thành thật khi rao giảng Bitcoin giúp chi phí sử dụng đồng tiền giảm mạnh như lúc nó vừa mới ra đời. Họ cũng không thành thật khi khoe Bitcoin sẽ đối xử với mọi người bình đẳng như nhau chứ không phân biệt khách hàng xộp, khách hàng nghèo. Chưa từng thấy một dịch vụ thanh toán nào cho người trả thêm tiền được chen ngang, lấn ra đầu hàng như Bitcoin. Vì cơ chế phí càng cao, càng sớm được xử lý nên có nhiều giao dịch phải chờ đến 16 giờ hay hơn nữa mới được xác nhận.

*                           *                           *

Các “thợ đào” Bitcoin đang sử dụng một lượng điện lớn kinh khủng. Theo một nghiên cứu của đại học Cambridge, tổng năng lượng Bitcoin đang tiêu thụ mỗi năm ước tính chừng 120 terawatt giờ, còn cao hơn lượng điện nhiều nước như Hà Lan, Philippine, Bỉ, Áo hay Israel đang tiêu thụ. Tính theo khí phát thải, hàng năm Bitcoin sản sinh ra 36,95 triệu tấn CO2, tương đương với nguyên cả nước New Zealand. Mỗi giao dịch bằng Bitcoin gây hại cho môi trường tương đương 680.000 giao dịch bằng thẻ Visa hay bằng 51.210 giờ xem YouTube. Ước gì những nhà hoạt động cho môi trường đang cổ xúy việc cấm dùng bao bì nylon, ống hút nhựa cũng vận động cấm giao dịch bằng Bitcoin bằng những phong trào mạnh mẽ tương tự.

Thử tưởng tượng toàn bộ năng lực tính toán dùng để đào Bitcoin được chuyển qua để xử lý các bài toán cần kíp của nhân loại; thử tưởng tượng lượng điện khổng lồ đó dùng để biến nước biển thành nước ngọt cho dân ở các vùng khan nước. Việc lãng phí năng lượng cho hoạt động tính toán để đào Bitcoin có thể dẫn tới những hệ lụy không thể thấy hết. Chẳng hạn, theo nhiều báo cáo, Trung Quốc có lượng thợ đào Bitcoin nhiều nhất thế giới và họ đang tận dụng nguồn thủy điện giá rẻ của nước này. Liệu việc đó có tác động gì đến dòng chảy của các con sông có hạ nguồn ở các nước Đông Nam Á là điều không thể loại trừ.

Còn thêm một lãng phí của Bitcoin nữa chưa thấy báo chí đề cập. Theo nguyên tắc cứ 10 phút, các giao dịch bằng Bitcoin sẽ được gom thành một khối (block) để xử lý. Để tránh việc ai cũng có thể tùy tiện chỉnh sửa các block này, người ta quy định mỗi block mới khi thêm vào sổ cái sẽ có một đoạn mã kết nối nó với block trước – từ đó mới có khái niệm blockchain (chuỗi khối kết nối nhau). Thợ đào dùng máy tính để tìm ra đoạn mã này và sẽ được thưởng 6,25 Bitcoin cho mỗi block xử lý xong; nếu nhiều máy xử lý xong cùng lúc, việc trao Bitcoin sẽ như kiểu xổ số. Nếu thợ đào cứ tính toán cho block cũ đã xử lý xong, kết quả không được mạng lưới chấp nhận và xem như công sức bị lãng phí. Vì thế thợ đào phải mất chừng 1 phút để tiếp nhận block mới – xem như 10% năng lực của cả mạng lưới bị hoang phí vào việc chờ.  

Có lẽ ít ai biết hiện thế giới đã đào được hơn 18,6 triệu đồng Bitcoin trong khi con số Bitcoin tối đa có thể tạo ra là 21 triệu. Đó là bởi số Bitcoin được thưởng bị cắt còn một nửa cứ sau 210.000 lần thưởng; ngày xưa cứ 10 phút có 50 Bitcoin được tạo ra đến năm 2017 còn 12,5 Bitcoin và nay chỉ còn 6,25 Bitcoin. Hiện nay mỗi ngày có 900 Bitcoin được tạo ra. Người ta tính toán thợ đào ngày càng vất vả, chi phí đào ngày càng cao nên lượng điện tiêu thụ, lượng khí thải CO2 ngày càng tăng bởi mức thưởng cuối cùng bị cắt giảm chỉ còn 0,000000011641532 Bitcoin. Lúc đó, đồng Bitcoin cuối cùng, thứ 21 triệu, sẽ được đào vào năm 2140 và sau đó chuyện đào không nhằm để được thưởng Bitcoin nữa mà có lẽ để nhận phí giao dịch. Vì thế phí giao dịch cũng sẽ tăng chứ không giảm theo quy mô như nhiều người tưởng. Tất cả những yếu tố khách quan này có thể giúp chúng ta kết luận Bitcoin là sản phẩm gây hại cho môi trường lớn nhất từ trước tới nay; nó là sản phẩm đầu cơ chờ lên giá chứ không thể dùng vào các giao dịch thông thường nên sẽ không bao giờ trở thành một đồng tiền đúng nghĩa.

 

 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 07, 2021 18:22

June 22, 2020

Khi chủ nghĩa “phải đạo” lên ngôi

Khi chủ nghĩa “phải đạo” lên ngôiNước Mỹ đang vào một đợt cao trào “phải đạo” - nghĩa là ăn nói phải biết lựa lời cho khéo, cho hợp tình hợp cảnh, hợp với trào lưu. Bằng không, nhẹ thì bị tấn công trên mạng xã hội, báo chí; nặng có thể mất việc như chơi.
(Bài đăng trên TTCT)
Link: https://cuoituan.tuoitre.vn/tin/20200621/khi-chu-nghia-phai-dao-len-ngoi/1560347.html
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 22, 2020 05:38

June 18, 2020

Làm báo thời biểu tình vì màu da


Làm báo thời biểu tình vì màu da
Tờ New York Times (NYT) đối diện với một tình huống gay cấn. Thoạt tiên ban biên tập tờ báo này cứ nghĩ quyết định cho đăng bài viết của Thượng nghị sĩ Tom Cotton vào thứ Tư tuần trước là làm phong phú, đa dạng mục ý kiến. Ông này lập luận nên phân biệt đa số người dân biểu tình ôn hòa để phản đối cái chết của một người da đen dưới chân một cảnh sát da trắng với những kẻ bạo loạn, cướp phá, hôi của, những người theo Cotton cần phải bị quân đội trấn áp để bảo vệ cuộc sống của những người dân bình thường.
Đây là một cách làm khá thông dụng của báo chí thế giới: đăng tải các ý kiến khác nhau, có lúc đối chọi nhau chan chát để cung cấp cái nhìn khách quan, đa chiều cho độc giả tự rút ra kết luận. Chỉ có điều NYT phạm phải hai sai lầm như họ thừa nhận sau đó; một là viết lại tít bài báo thành: “Tim Cotton: Hãy cho quân đội vào cuộc”; hai là không có lời tòa soạn nêu rõ bối cảnh, chủ trương của báo và mong muốn đưa ý kiến nhiều chiều.
Bài báo ngay lập tức nhận lấy phản ứng giận dữ của độc giả. Hàng ngàn nhận xét bên dưới bài viết phản bác lập luận của tác giả; tờ báo phải khóa chức năng nhận xét. Tòa soạn nhận hàng trăm cuộc điện thoại đòi cắt không mua báo dài hạn nữa. Độc giả phản ứng là chuyện bình thường; đó cũng là mục đích của mục ý kiến khi càng tranh cãi, càng dễ làm rõ đúng sai và nhất là nhờ đó báo thu hút thêm người đọc. Điều lạ cần tìm hiểu là vì sao phóng viên, biên tập viên NYT lại phản đối việc đăng ý kiến đa dạng, bởi đòi hỏi như thế chẳng khác nào yêu cầu NYT tự kiểm duyệt, không cho giới bảo thủ lên tiếng trên báo mình.
Nguyên ngày thứ Tư sau khi bài báo của Tom Cotton xuất hiện, nhiều phóng viên NYT lên Twitter bày tỏ sự bất bình của họ. Họ viết “cho đăng bài này đã gây nguy hiểm cho người da đen, kể cả nhân viên da đen của NYT”. Lên mạng xã hội phản ứng như thế là họ biết họ vi phạm nội quy của NYT cấm phóng viên mình bày tỏ ý kiến theo phe này hay phe kia, cổ vũ cho quan điểm chính trị này hay quan điểm chính trị khác trên mạng xã hội. Trước đó Tổng biên tập NYT Dean Baquet từng nặng lời phê phán phóng viên chỉ vì bấm “like” một tweet vi phạm nội quy. Nhiều người khác làm đơn xin nghỉ ốm như một cách phản kháng. Trên mạng thông tin nội bộ của báo, có người viết: “Tôi chưa bao giờ nghĩ mọi bài viết trên NYT sẽ đúng theo thế giới quan của tôi. Nhưng tôi cũng chưa bao giờ nghĩ NYT có ngày sẽ đăng một bài ý kiến kêu gọi bạo lực nhà nước trong đó sử dụng nhiều thông tin sai lạc, gây hiểu nhầm để lập luận”.
Xin trích hai mẩu trong nhiều tweet của phóng viên NYTtrong ngày hôm đó:
Có lẽ tôi sẽ gặp rắc rối khi viết như thế này nhưng không nói gì cả là vô đạo đức. Là một phụ nữ da đen, là một nhà báo, là một người Mỹ, tôi rất xấu hổ báo mình đăng bài này.
Vâng, tôi muốn mục ý kiến đăng bài viết mà tôi không đồng ý. Tôi yêu quý NYT và rất tự hào đang làm việc cho báo. [Nhưng] chạy một bài kêu gọi quân đội dập tắt sự phản đối chống lại chủ nghĩa chủng tộc nguy hiểm là gây tổn thương cho tờ báo và các đồng nghiệp mà tôi tự hào sát cánh hàng ngày.
Một nhóm nhà báo họp lại, cùng viết một lá thư gởi ban biên tập yêu cầu xử lý bằng cách thêm một lời tòa soạn, một bài khác, hay tốt nhất là cho phóng viên viết bài điều tra về các điểm sai lệch trong bài viết của Tom Cotton dùng như chứng cứ cho lập luận của ông ta. Đến trưa thứ Năm lá thư này đã có hơn 800 chữ ký của nhân viên NYT.
Thoạt tiên ban biên tập NYT giữ nguyên lập trường, cho rằng quyết định của họ là đúng đắn. Chủ bút NYT là A.G. Sulzberger viết thư cho nhân viên, nói: “Tôi tin vào nguyên tắc cởi mở cho nhiều loại ý kiến, ngay cả của những người chúng ta bất đồng quan điểm. Bài này được xuất bản trên tinh thần đó”. Trưởng ban phụ trách mục ý kiến, James Bennet viết trên Twitter: “Mục Ý kiến của NYT có nghĩa vụ với độc giả trưng bày cho họ thấy các quan điểm trái ngược”. Ông này cho rằng dù hiểu rõ nhiều độc giả sẽ thấy lập luận của Cotton là gây đau đớn, thậm chí là nguy hiểm nhưng ông lại tin chính vì thế mà quan điểm của Cotton cần được công chúng biết và tranh luận. Phần nhận xét dưới bài của Cotton bị khóa lại rồi mở ra, rồi khóa lại nhiều lần do độc giả phản ứng gay gắt.
Đến chiều tối hôm sau thì ban biên tập NYT thay đổi quan điểm, đưa ra một tuyên bố cho rằng bài viết của Cotton “không đáp ứng tiêu chuẩn của chúng tôi”. James Bennet xin lỗi, thừa nhận chưa đọc bản thảo mà chỉ đọc sau khi báo đã đăng. Nay trên website của NYT vẫn còn đăng bài viết của Tom Cotton nhưng đã bổ sung thêm một ghi chú của chủ bút, trong đó nhấn mạnh ngay từ câu đầu là lẽ ra không nên đăng bài này. Phía tòa soạn nhận lỗi là quá trình biên tập bị đẩy nhanh, để lại nhiều sai sót rồi dẫn ra các sai sót này như lời khẳng định của tác giả về vai trò của các phần tử cực đoan cánh tả như antifa xâm nhập đoàn biểu tình, như về việc cảnh sát gánh chịu làn sóng bạo lực, như tít bài viết do tòa soạn đặt chứ không phải của Tom Cotton lại rất kích động và lẽ ra không được dùng... Đến đầu tuần này James Bennet từ chức ra đi; người phó của ông, Jim Dao trực tiếp tổ chức việc biên tập và đăng tải bài của Cotton cũng từ chức, chuyển sang ban tin  
Lỗi của NYT xử lý bài không kỹ thì đã rõ (từ thừa nhận của chính tờ báo) nhưng câu hỏi vẫn còn đó: báo chí có nên và có được quyền đăng ý kiến đi ngược với ý kiến của số đông hay không?
Ngẫu nhiên là cùng trong tuần đó, tờ Philadelphia Inquirer cũng gặp trường hợp tương tự khi đăng ý kiến của một người chuyên nhận xét về kiến trúc, Inga Saffron với tựa đề “Các tòa nhà cũng quan trọng” (Buildings matter, too). Đây là tít dựa vào phong trào “Black Lives Matter” (Sinh mệnh người da đen là quan trọng) để nói lên thực trạng nhiều đám hôi của nhân biểu tình đã đập phá nhiều tòa nhà.
Phóng viên tờ Philadelphia Inquirer phản ứng, cho rằng so sánh sinh mệnh của con người với các tòa nhà là rất khập khiễng, đánh mất niềm tin của độc giả vào tờ báo có bề dày 190 năm lịch sử. Có 44 phóng viên gọi điện cáo ốm để ở nhà sau khi cùng viết một lá thư ngỏ phản đối gởi ban biên tập. Ngay sau đó, ban biên tập tờ báo phải xuất bản một lời xin lỗi gởi phóng viên và độc giả, thừa nhận “một nỗ lực biên tập để nắm bắt lập luận tinh tế của một cây bút bình luận cô đọng thành vài chữ đã đi sai đường; rõ ràng nó đã gây ra thương tổn và giận dữ”. Tít báo được sửa lại, kèm lời tòa soạn cho biết tít cũ mang tính xúc phạm, không phù hợp và lẽ ra không được sử dụng… Tổng biên tập tờ Philadelphia Inquirer là Stan Wischnowski, từng có 20 năm thâm niên tại tờ báo này cũng từ chức.
Nói về nghệ thuật viết tít (thường do tòa soạn đặt chứ không phải của người viết bài), rút gọn thành ba từ (Building matters, too) là rất tài vì nó vẫn gợi ở người đọc toàn bộ những gì người viết muốn nói. Chỉ có điều trong bối cảnh cả nước Mỹ sôi sục vì sinh mạng người da đen bị cảnh sát Mỹ cướp đoạn thì đặt tít như thế là không tế nhị.
Trong bài viết giải thích vì sao họ quyết định đăng bài của Tom Cotton, trưởng ban mục ý kiến James Bennet viết ông không đồng tình với ý kiến của Cotton nhưng vẫn tin rằng cần xuất bản các ý kiến trái ngược. “Sẽ có hại cho tính công chính và sự độc lập của NYT nếu chúng tôi chỉ xuất bản các ý kiến mà biên tập viên như tôi đồng tình. Sẽ là bội phản những gì tôi nghĩ là mục đích cơ bản của chúng tôi – không phải nói cho bạn nghe những gì cần suy nghĩ mà giúp bạn suy nghĩ cho chính mình”.
Điều đáng nói là trên các mạng xã hội khi báo chí đưa tin hai vụ từ chức do đăng bài “không phải đạo”, đa số các nhận xét bên dưới của độc giả là bày tỏ sự ngạc nhiên, kiểu như “thế thì đâu còn tự do báo chí?”; “không lẽ chỉ đăng ý kiến được đa số đồng tình?”.
Chỉ biết hy vọng các tờ báo uy tín hiếm hoi còn sót lại trong thời báo chí gặp nhiều khó khăn như hiện nay như NYT không vì vụ này mà từ bỏ nguyên tắc tôn trọng ý kiến khác biệt như chủ bút Sulzberger khẳng định trong lá thư gởi nhân viên: “Trang ý kiến tồn tại để cho thấy nhiều quan điểm với những nhãn quan khác nhau, đặc biệt chú ý đến những ý kiến thách thức lập trường của ban biên tập. Chúng ta xem đó là nguồn sức mạnh, cho phép chúng ta cung cấp cho độc giả sự phong phú về góc nhìn rất hiếm hoi trong truyền thông hiện đại”. Trong cơn giận dữ của nhiều nhà báo NYT vẫn có những tiếng nói tỉnh táo như của David Brooks khi viết: “Tôi tin vào dân chủ. Tôi tin vào nền báo chí tự do. Tôi tin vào sự tranh luận cởi mở. Tôi thích báo tôi in bài tôi bất đồng ý kiến. Nó buộc tôi phải suy nghĩ”.

Trích đoạn một bài khác của Bret Stephens cũng đăng trên NYT, cho rằng cách hành xử của NYT là sai lầm:

Quyết định vào tuần trước của tờ báo này chối bỏ bài ý kiến của Thượng nghị sĩ Tom Cotton là một món quà cho kẻ thù của tự do báo chí – tự do theo nghĩa không run sợ và chùn bước khi đứng trước đám đông đang giận dữ. Nó vi phạm những nguyên tắc làm nền tảng cho nghề báo, đặc biệt nghĩa vụ cung cấp cho độc giả bức tranh thật của thế giới. Và khi tờ báo sa thải những nhà báo giỏi, gạt bỏ những ý kiến gây tranh cãi, đây là lời mời cho sự đớn hèn trí tuệ nảy sinh.  

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 18, 2020 19:05

Nguyễn Vạn Phú's Blog

Nguyễn Vạn Phú
Nguyễn Vạn Phú isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Nguyễn Vạn Phú's blog with rss.