Trong vỏ hạt dẻ (tiếp và hết)

Là con một gia đình dòng dõi ở Chicago, Albert Peter Dewey vào học đại học Yale, tốt nghiệp, đi làm phóng viên thường trú ở Paris cho Chicago Daily News và thực hiện các nhiệm vụ ngầm cho Rockefeller. Thế chiến 2 nổ ra, Dewey đăng lính và cuối cùng ra nhập OSS (cơ quan tiền thân của CIA). Vào tháng 9 năm 1945, Dewey được cử đến Sài Gòn, đứng đầu một toán OSS có 7 thành viên, để đại diện cho quyền lợi Hoa Kỳ. Lúc đó Hoa Kỳ chưa có cơ quan ngoại giao ở Đông Dương thuộc Pháp.


Khoảng một tháng trước khi OSS đến Sài Gòn, quân Nhật bất ngờ đảo chính Pháp ở Đông Dương, bắt giữ tù binh (POW), trong đó hơn 200 người Mỹ. Việt Minh lúc này là lực lượng chống Nhật và được quân đồng Minh (Anh và Mỹ) yểm trợ. Một nhóm OSS khác, toán Con Nai, đi vào vùng rừng núi phía bắc đã huấn luyện nhóm của Võ Nguyên Giáp và cứu Hồ Chí Minh khỏi cơn sốt rét ác tính.


Nhóm của Dewey làm việc với Việt Minh để bảo vệ quyền lợi Hoa Kỳ, cụ thể là khoảng hơn 200 tù nhân POW bị Nhật giam giữ gần Sài Gòn. Chỉ mấy tháng sau tình hình thay đổi, quân đội Anh (20th Indian Division của Douglas David Gracey) vào giải giáp Nhật. Người Anh công nhận lãnh thổ của Pháp ở Indochina và thả tù binh Pháp ra, tái vũ trang để chống lại Việt Minh lúc này đã hiện rõ là cộng sản. Dewey phải đi ra khỏi Sài Gòn. Từ Continental, Dewey lái xe ra sân bay, đón hụt máy bay, lái xe trở về khách sạn. Trên đường về bị lực lượng Thanh Niên Tiền Phong  của Phạm Ngọc Thạch chặn, tưởng nhầm là người Pháp, bắn chết.  Dewey là lính Mỹ đầu tiên chết ở Đông Dương. Lúc đó là tháng 12 năm 1945.


Ở thời điểm này không ai ngờ được rằng sẽ có hai cuộc chiến lớn sẽ xảy ra ở mảnh đất Đông Dương: chiến tranh Pháp- Việt và chiến tranh Mỹ – Việt. Hai cuộc chiến được gọi lần lượt là Chiến tranh Đông Dương lần 1, và Chiến tranh Đông Dương lần 2.


Năm 1950, gần 5 năm sau cái chết của Dewey, Hoa Kỳ mới mở cơ quan ngoại giao của mình ở Sài Gòn. Đó là lúc Anh và Mỹ công nhận Quốc Gia Việt Nam (State of Vietnam) của Quốc trưởng Bảo Đại, như một đối trọng với việc Liên Xô và Trung Quốc công nhận chính phủ Hồ Chí Minh ở vùng rừng núi phía bắc. Cùng một lúc, ở Đông Dương, tự nhiên có hai chính phủ cùng đòi hỏi sư hiện diện hợp pháp của mình trên toàn cõi Việt Nam. một cõi mà phải đến tận năm 1975 mới liền một dải.


Tính chính danh không phải là trò chơi quyền lực xa lạ gì với mảnh đất này. Tây Sơn khởi nghĩa lúc đầu chỉ là hùa theo tính chính danh của hoàng tôn nhà Nguyễn là Nguyễn Phúc Dương để chống lại bọn tham nhũng lộng hành làm khổ dân là Trương Phúc Loan. Rồi Tây Sơn đánh nhau thua quân Trịnh, đầu hàng, rồi hùa theo quân Trịnh để lấy chính danh nhà Lê để đánh nhà Nguyễn tan tác khỏi đất miền nam. Đánh nhà Nguyễn xong, để Nguyễn Nhạc lên làm vua miền trong để lấy chính danh, Nguyễn Huệ bị ép ra mảnh đất hẹp miền trung, một lần nữa phải dương tính chính danh phù Lê để ra bắc làm thịt nhà Trịnh. Nhà Trịnh lúc này tiếm quyền vua Lê đã quá lâu, mà bóc lột nhân dân cũng quá đà. Diệt xong nhà Trịnh, Nguyễn Huệ cướp bóc Bắc Hà, rút về miền trung để lại khoảng trống mênh mông quyền lực và xơ xác vật chất. Lê Chiêu Thống dại dột qua Tàu rước quân ngoại xâm về, để lại khoảng trống chính danh. Nguyễn Huệ nhanh chóng lấp mình vào chỗ chính danh ấy, lên ngôi Hoàng Đế, sử dụng địa phương quân đánh chặn quân Thanh từ biên giới về đến đất Kinh Kỳ. Theo Nguyễn Duy Chính,  từ miền trung Hoàng Đế Quang Trung (đã bí mât lên ngôi) cử một cánh quân đi vòng qua Ai Lao (quân bộ) và  một cánh quân đi đường biển đánh ra bắc. Hai con đường này, quân Chiêm Thành đã từng dùng để đánh Thăng Long. Nguyễn Huệ cầm một đạo quân đi nhanh ra Nghệ An, huy động quân đội và dân công tại chỗ, một know-how quân sự mà chỉ có Việt Minh đánh Điện Biên sau này mới làm nổi, rồi tiến phăng phăng ra bắc. Chiến thắng Kỷ Dậu đưa Quang Trung lên hàng siêu sao về quân sự, thống nhất Trung – Bắc, đồng thời để lại bài học cho quân đội Việt Nam sử dụng địa phương quân đánh 60 vạn quân Đặng Tiểu Bình năm 1979. Chỉ có một điểm khác. Quân Quang Trung truy sát tàn nhẫn quân Thanh khi bọn này rút chạy, khiến cho nhiều năm sau chúng còn khiếp sợ không dám khiêu khích. Quân Việt Nam năm 1979 tuyên bố cho Trung Quốc rút quân (từ 7 đến 18 tháng 3 năm 1979) khiến chúng khinh nhờn mà kéo dài xung đột biên giới đến 1988.


Thế nhưng mải mê chinh chiến mà Quang Trung để lơ là phía nam khiến Nguyễn Ánh có cơ mà nổi lên như bão. Nguyễn Ánh khi trở lại, lại mượn tạm tính chính danh của nhà Lê để bày trò Phục Quốc, bằng cách sử dụng niên hiệu Cảnh Hưng đồng thời sử dụng tâm lý chiến để thu phục lòng dân Bắc Hà (“lạy trời cho cả gió nồm, cho thuyền chúa Nguyễn giong buồm thẳng ra”).


Việt Minh đã học hết các bài học ấy. Bài học nhảy vào chỗ trống quyền lực ở miền bắc xác xơ vì đói phá kho thóc Nhật và cướp chính quyền, họ đã làm hoàn hảo.


Theo Thomas Bass thì Cao Giao, một người bạn của Phạm Xuân Ẩn, là người đã báo tin cho Mười Hương về việc Nhật đảo chính Pháp (ngày 9 tháng 3 năm 1945) để họ chuẩn bị lực lượng. Chỉ 3 ngày sau, ngày 12, TW Đảng đã ra chỉ thị quan trọng “Nhật Pháp đánh nhau và hành động của chúng ta”.


Khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, rất nhanh về mặt thời cơ, Trương Tử Anh của đảng Đại Việt, vốn rất mạnh trong giới đại học và trí thức hồi đó, lại có thành tích yểm trợ Trần Trọng Kim, đã toan cướp chính quyền ở Tonkin (lúc này Đông Dương vẫn chia làm ba vùng tách biệt) ngày 17 tháng 8, khi chính phủ trần Trọng Kim nhân dịp Nhật bật đèn xanh mà mở rộng phạm vi hành pháp ra đất Bắc Bộ. Do chuẩn bị tốt hơn, đội tuyên truyền có vũ trang của Võ Nguyên Giáp từ Tân Trào đã có mặt ở Hà Nội, nhanh chóng dẹp vụ cướp chính quyền này, để hai ngày sau họ có cuộc cướp chính quyền khác hiệu quả hơn, nay được biết với tên gọi Cách Mạng Tháng Tám (ngày 19 tháng 8). Sau khi cướp chính quyền, chỉ trong vài ngày,  Việt Minh dẹp sạch các phần tử có tiềm năng cạnh tranh ở khu vực Hà Nội, rồi Võ Nguyên Giáp lên chiến khu rước Hồ Chí Minh về làm lễ mùng 2-9 trong thanh bình. Đây là lần đầu tiên trong đời Hồ Chí Minh, lúc này khoảng 56 tuổi, đặt chân đến Hà Nội. Ở thời điểm bước ngoặt này, Hồ Chí Minh nổi danh nhiều hơn với tên gọi ông già Tân Trào, sau được biết chính là Nguyễn Ái Quốc.


Theo hồi ký Bùi Diễm (đảng viên Đại Việt dưới quyền Trương Tử Anh, sau là đại sứ của Việt Nam Cộng Hòa ở Hoa Kỳ) và hồi ký Lê Giản (Giám đốc nha công an Việt Minh, nằm trong bộ nội vụ của bộ trưởng nội vụ Võ Nguyên Giáp) cho biết Trương Tử Anh bị bắt và xử chết sau đó nhiều tháng. Theo sách của Hoàng Văn Đào, có một nhân vật cộm cán của VNQDĐ qua làm cho công an Việt Minh nên bắt đảng viên nào của Quốc Dân Đảng là dính bóc đảng viên ấy. Cũng theo hồi ký Bùi Diễm, các cơ sở chính quyền Việt Minh được tổ chức đồng loạt khắp các vùng thôn quê vùng sâu vùng xa, và được tổ chức rất tốt và đặc biệt là rất tàn nhẫn. Theo hồi ký của Thụy Nga (người vợ miền nam của Lê Duẩn), đội Thanh Niên Tiền Phong do bác sỹ Phạm Ngọc Thạch làm thủ lĩnh đã tổ chức các hoạt động tảo thanh (tiễu trừ các đối lập chính trị) rất mạnh, dư âm còn lại rất lâu sau này trong tâm lý người dân. Bản thân Thụy Nga bị đội này bắt nhầm và suýt giết, may mà chỉ huy lúc đó là Phạm Hùng biết tin nên tha chết (Phạm Hùng kể lại với Thụy Nga: không thì chị đi mò tôm rồi).


Nhưng Việt Minh không thực hiện được bài học thứ hai, dù đã nỗ lực hết mình. Sau cách mạng tháng tám chỉ hai năm, người Pháp đã dựng được Quốc gia Đàng Trong (State of Cochinchina) với Nguyễn Văn Thinh làm president (thủ tướng, quốc trưởng?). Và ngay cả khi đã thắng trận Điện Biên Phủ và ký hiệp định Geneva, thì họ đã để cho gần như một tay Edward Lansdale đã tổ chức cả chiến tranh tâm lý lẫn logistic cho cuộc Exodus vĩ đại đưa gần một triệu người “đi ngược gió nồm vào Nam”, trong đó khoảng 1/3 đi bằng tàu của Hải Quân Hoa Kỳ. Theo Thomas Bass, sau hiệp định Geneve, Landsdale huấn luyện biệt kích và thả từ biển (người nhái) đột nhập vào duyên hải Bắc Bộ, mang theo vũ khí và rất nhiều vàng. Người nhái vào đều bị phản gián Bắc Việt bắt sạch, nhưng Landsdale không biết mà vẫn tiếp tục gửi thêm các nhóm khác. Số phận các người nhái này vẫn là bí ẩn, chỉ biết họ còn sống đến sau 1975. Sau này người ta cho rằng Phạm Xuân Ẩn là người làm kế hoạch của Lansdale thất bại.


Rất nhanh sau ngày Độc Lập, sắc lệnh số 8 do Võ Nguyên Giáp ký ngày 5 tháng 9 năm 1945 đã đặt các đảng phái chống Việt Minh ra ngoài vòng pháp luật (Khoản thứ nhất : Nay giải tán “Đại Việt Quốc gia xã hội Đảng” và “Đại Việt Quốc dân Đảng”. Khoản thứ hai : Nếu hai Đảng ấy còn tụ họp và hoạt động thì những người can phạm sẽ phải đem ra Toà án chiểu luật nghiêm trị).


Trong lúc mải mê săn đuổi và triệt hạ các đảng phái này, Việt Minh quên béng Bảo Đại, lúc này đang làm cố vấn cho chính phủ Hồ Chí Minh với cái tên Vĩnh Thụy, khiến ông này đi thoát qua Trung Quốc và rồi tới Hongkong (tháng 3 năm 1946), bắt hụt Ngô Đình Nhu và thả Ngô Đình Diệm ra khỏi nhà ngục. Ngô Đình Diệm lúc đó bị Việt Minh bắt giam trên rừng, được đưa về Hà Nội giam chỗ bây giờ là công an Hoàn Kiếm. Theo hồi ký Lê Giản, chính Lê Giản đưa Hồ Chí Minh vào nhà lao để gặp Ngô Đình Diệm, Lê Giản đứng gác ở ngoài, sau đó Ngô Đình Diệm được thả. Trong thời gian ở Trung Quốc, dù rất nghèo, Bảo Đại vẫn tìm cách bảo trợ cho triển lãm tranh của Nguyễn Tường Lân. Họa sỹ tài năng này chỉ một thời gian ngắn sau đó bị Việt Minh bắt và chết trong tù.


Năm năm sau khi được thả, Ngô Đình Diệm qua Nhật gặp Cường Để và tìm kiếm hỗ trợ từ nước Nhật nhưng thất bại. Rồi qua Bỉ, qua Pháp, cũng thất bại. Rồi qua Mỹ, cũng chưa ăn thua. Cho đến lúc Nhu tìm cách để Bảo Đại bổ nhiệm Diệm làm thủ tướng (thực chất là đứng đầu chính quyền miền nam) và Diệm về Sài Gòn nhận chức chỉ hai tuần trước khi Geneve được ký, và đất nước bị chia làm hai nửa không bằng nhau. Chuyện này lát kể tiếp. Còn bây giờ lần một chút về quá khứ.


Các thế hệ thanh niên tân học, sinh ra và lớn lên ở một nước Pháp viễn đông (Cochinchina) hay một vùng được nước mẹ Đại Pháp bảo hộ (Annam, Tonkin) đã học được từ phương tây tinh thần tự do, và mong muốn một dân tộc độc lập. Tinh thần ấy đi sâu vào các hoạt động xã hội, chính trị, vào báo chí, văn nghệ, vào các chính trị gia, các đảng phái. Độc lập với họ không cần là self-government hay autonomy về mặt hình thức, mà phải ở nội dung: thống nhất Trung Nam Bắc, tự chủ về kinh tế, tiền tệ, ngoại giao và quân sự. Khởi nghĩa Yên Bái và hoạt động của Nguyễn An Ninh là tiêu biểu của thanh niên thời kỳ này.


Chính quyền thuộc địa của Pasquier nhanh chóng phản ứng với xu thế này. Họ lập tức cổ võ truyền thống dân tộc, giá trị cổ điển của nước Annam, và tái lập hình ảnh và vị thế của triều đình Huế. Nhưng ngai vàng lại bất ngờ trống vắng khi vị vua thân Pháp là Khải Định lăn ra chết. Chính quyền thực của Huế, không nằm trong tay vua, mà nằm trong tay các quan lại. Họ chống Pháp theo kiểu của họ, bằng cách đòi hỏi sử dụng hiệp ước 1884. Để làm điều này, quan đại thần Nguyễn Hữu Bài yêu cầu Pháp mang hoàng tử trẻ lúc này đang học ở Pháp trở về. Một vị quan – trí thức khác là Phạm Quỳnh lại đòi xây dựng quân chủ lập hiến. Trí thức tây học thậm chí còn cực đoan hơn, đòi dẹp luôn triều đình mà lập ra cái gì đó mới mẻ hơn hẳn. Kết quả là Bảo Đại quay về Huế năm 1932 khi 20 tuổi. Một năm sau, năm 1933, Nguyễn Hữu Bài, 70 tuổi, bị Pháp lật đổ và thay người thân Pháp là Phạm Quỳnh vào. Cũng trong năm này, Phạm Quỳnh cạnh tranh quan điểm khá mạnh với một quan khác và khiến viên quan này phải từ chức, rồi từ đó mang tư tưởng chống Pháp và có hào quang của một vị quan treo ấn từ quan. Đó là Ngô Đình Diệm.  Năm này Ngô Đình Diệm 32 tuổi và là thượng thư trẻ nhất của triều đình. Sauk hi từ quan, Ngô Đình Diệm tham gia các hoạt động ngầm chống Pháp của hoàng thân Cường Để, do đó bị mật thám Pháp theo dõi rất chặt chẽ .


Đầu những năm 1940, Nhật tiến vào Indochina với thỏa thuận ngoại giao mềm mại với chính quyền Vichy. Kiểm soát của chính quyền Pháp trở nên lỏng lẻo, mật thám Pháp sao nhãng việc giám sát. Hiến binh Nhật bắt đầu các hoạt động ngầm ủng hộ các tổ chức kháng Pháp. Ở phía nam họ hỗ trợ Cao Đài, Hòa Hảo. Năm 1942, lãnh đạo Hòa Hảo là Huỳnh Phú Sổ bị mật thám Pháp vây bắt.  Hiến binh Nhật đã giải thoát rất ngoạn vị lãnh đạo tôn giáo 22 tuổi khỏi tay mật thám Pháp. Nhưng đến năm 1947, ở tuổi 27, Huỳnh Phú Sổ không thoát nổi tay Việt Minh. Cũng năm 1942, giáo chủ Phạm Công Tắc, lúc này 52 tuổi, bị Pháp bắt và đày qua Madagascar. Ở đó Phạm Công Tắc bị giam chung với tù cộng sản, trong đó có Lê Giản. Hồi ký Lê Giản có kể lại chuyện này.


Ở miền trung người Nhật ủng hộ các nhóm Đại Việt thân Nhật và chịu ảnh hưởng của Cường Để, trong đó có nhóm Ngô Đình Diệm. Năm 1944 khi mật thám Pháp vây bắt Ngô Đình Diệm, hiến binh Nhật đã giải cứu rồi mang Ngô Đình Diệm vào Sài Gòn để bảo vệ. Ở miền bắc họ tuyên truyền và lấy tình cảm của trí thức trẻ và học sinh sinh viên trong Đông Dương Học Xá, đặc biệt là với nhóm Đại Việt của Trương Tử Anh và học giả Trần Trọng Kim. Tháng 7 năm 1944 thống sứ Bắc Kỳ ra lệnh bắt Trương Tử Anh, hiến binh Nhật can thiệp không cho bắt. Hồi ký của Bùi Diễm mô tả khá sống động hoạt động ngầm và nổi của người Nhật ở Hà Nội quãng thời gian này. Rất tinh tế, tinh xảo và hiệu quả.


Cùng lúc này, các hội kháng Pháp ở bên kia biên giới, dưới sự bảo kê của cả quân đội Trung Hoa (quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch) và quân đội Trung Quốc (đảng cộng sản của Chu Ân Lai), xuất hiện chi chít: Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (Hồ Học Lãm, du học sinh Đông Du và sau này tham gia hội củaPhan Bội Châu, và là sĩ quan của quốc dân đảng), Việt Nam Giải Phóng Đồng Minh Hội (thỏa hiệp hợp tác giữa VNQDĐ và ĐCS Đông Dương), và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội do chính tướng của Quốc dân đảng là Trương Phát Khuê tổ chức cho người Việt hải ngoại. Trong nhóm của Trương Phát Khuê có Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Hải Thần.


Còn ở ngay Hà Nội thì Trường Chinh tổ chức Hội Văn Hóa Cứu Quốc và thành lập hai đảng Việt Nam Xã Hội Đảng và Việt Nam Dân Chủ Đảng. Đảng Dân chủ chỉ vài năm sau được Việt Minh sử dụng làm công cụ chính danh khi cướp chính quyền ở Hà Nội và thành lập chính phủ. Với sáng kiến này, Trường Chinh đã tỏa sáng rất rực rỡ trong hàng ngũ lý luậns nhìn xa trông rộng của mình. Và phải rất lâu sau mới tỏa sáng thêm lần nữa, cũng ở vai trò Tổng Bí Thư, ở đêm trước Đổi Mới.


Nhật đảo chính Pháp, rất bất ngờ và gọn ghẽ, nhưng không chọn Cường Để, một nhân vật thân Nhật mà vẫn sử dụng Bảo Đại. Người ký tuyên ngôn độc lập cho nước Việt, dưới sự che chở của Nhật, là Vua Bảo Đại cùng sáu vị thượng thư, trong đó có Phạm Quỳnh, vào ngày 11 tháng 3 năm 1945. Tuyên ngôn độc lập này có đoạn: “Cứ tình hình chung trong thiên hạ, tình thế riêng cõi  Đông Á, chính phủ Việt Nam tuyên bố từ ngày này điều ước bảo hộ với nước Pháp bãi bỏ và nước Nam khôi phục quyền độc lập. Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập và theo như lời tuyên ngôn chung của Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vương chung. Vậy Chính Phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc, quyết chí hợp tác với nước Nhật, đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên.”


Bất ngờ hơn nữa, người Nhật không chọn Ngô Đình Diệm, vốn đang được quân đội Nhật che chở ở Sài Gòn làm thủ tướng. Thay vào đó họ chọn Trần Trọng Kim. Chính phủ Trần Trọng Kim ra mắt với tên gọi Đế Quốc Việt Nam (Vua Bảo Đại ký chấp thuận nội các này ngày 7 tháng 4 năm 1945).


Chỉ vài tháng sau,ngày 23 tháng 8, tức 4  ngày sau Cách Mạng Tháng 8, Bảo Đại nhận được yêu cầu của Chính phủ nhân dân cách mạng, do Hồ Chí Minh yêu cầu thoái vị. Tìm hiểu một hồi, Bảo Đại biết Hồ Chí Minh là ai, bèn thoái vị và trở thành công dân nước độc lập, ra Hà Nội làm cố vấn Vĩnh Thụy. Trong hồi ký Một cơn gió bụi của Trần Trọng Kim xuất bản năm 1949 trên báo có nhắc câu nói lừng danh của Bảo Đại về việc này.


Ở Bắc Bộ, Việt Minh làm chủ tình hình nhờ tảo thanh triệt để các phe đối lập. Quân Trung Hoa (Tưởng Giới Thạch, lúc này Hồng Quân của Mao chưa thắng thế, và cũng không phải ở phe Đồng Minh), yểm trợ cho Quốc Dân Đảng và nhùng nhằng với cả Việt Minh lẫn Pháp. Cho đến khi Pháp ký với Tưởng hiệp ước Trùng Khánh, và hải quân Pháp bắn vào quân Tưởng ở Hải Phòng, thì Tưởng mới rút quân. Quốc Dân Đảng và Đại Việt gặp tai nạn nặng khi khi mất hậu thuẫn Trung Hoa, nên bị Pháp và Việt Minh, lúc này chưa chiến tranh, phối hợp tiễu trừ. Các chiến khu của Đại Việt và Quốc Dân Đảng ở dọc sông Hồng bị Việt Minh tấn công và xóa sổ.  Các lãnh đạo Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh), Vũ Hồng Khanh nhanh chân đi thoát qua biên giới.


Ở Nam Bộ tình hình rắc rối hơn nhiều. Ngay sau khi Nhật đầu hàng, Mặt Trận Dân Tộc Thống Nhất bao gồm tất cả các lực lượng khác nhau, bao gồm cả Việt Minh vẫn Cao Đài, Hòa Hảo …nổi lên. Một trong các lãnh đạo của mặt trận này là Ngô Đình Diệm. Lãnh đạo Việt Minh ở Sài Gòn lúc đó là Trần Văn Giàu chỉ tảo thanh được các nhóm đối lập giàu trí thức mà kém vũ trang là nhóm Troskist (Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm) và nhóm Lập Hiến (Bùi Quang Chiêu). Ngô Đình Diệm bị công an Việt Minh bắt và chuyển ra Hà Nội. Các nhóm như Hòa Hảo, Cao Đài súng ống đầy mình do Nhật yểm trợ nên Việt Minh không thể cưỡng được, đành thôi. Tuy nhiên lãnh tụ Hòa Hảo là Huỳnh Phú Sổ bị phục kích chết sau đó hơn một năm. Thanh Niên Tiền Phong rời Sài Gòn đi về nông thôn. Trần Văn Giàu coi như mất giá, phải ra Hà Nội làm nhà nghiên cứu, mở đường cho hai siêu sao là Nguyễn Bình (lãnh đạo các hoạt động quân sự) và Lê Duẩn (lãnh đạo chính trị). Hồi ký Trần Văn Giàu, xuất bản không chính thức từ bản thảo ở Long An, hé lộ một nửa chuyện này.


Ở Nam Bộ, quân Đồng Minh (Anh) rút đi, để lại Đông Dương cho Pháp. Quân Tưởng rút đi khỏi đất liền miền bắc nhưng vẫn chiếm các hải đảo (giải giáp từ quân Nhật) vốn trước do Pháp công nhận thuộc Annam do Pháp bảo hộ (1932), sau Pháp sáp nhập vào  Đông Dương Thuộc Pháp (cũng trong năm 1932). Hải quân Pháp không chịu mất chủ quyền của quốc gia, đánh nhau với quân Tưởng, đến năm 1950 mới xong. Đánh xong bàn giao Trường Sa cho Quốc gia Việt Nam (State of Vietnam) của Bảo Đại. Năm 1951 thủ tướng của Bảo Đại là Trần Văn Hữu tuyên bố Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam ở hội nghị San Francisco là hội nghị giải quyết tài sản của Nhật. Liên Xô to mồm tuyên bố hai quần đảo này là của Trung Quốc (Mao). Thế là bỏ phiếu. 46/51 nước  bỏ phiếu cho Việt Nam. Điều này một lần nữa được hiệp ước Geneva (sau Điện Biên Phủ 1954) công nhận cho chính phủ Bảo Đại ở phía nam vĩ tuyến 17. Công lao của Bảo Đại với Nam Bộ, sau là cả Việt Nam, ở chỗ này không thể không công nhận. Đến năm 1974, thay vì quân Tưởng ở Đảo, lần này quân Mao ở Lục Địa, đánh Hoàng Sa. Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa lúc bấy giờ, dù biết hải quân mình yếu và kém cỏi hơn hẳn, vẫn ra lệnh đánh trả. Đây là quyết định sáng suốt nhất và có tính chiến lược nhất của Nguyễn Văn Thiệu. Đánh trả chính là tuyên bố chủ quyền mạnh mẽ nhất. Nó cũng chuyển tải thông điệp cho đời sau: để lấy lại Hoàng Sa, không cách nào khác là phải dùng biện pháp quân sự.


Pháp quay lại Đông Dương với người đứng đầu cực kỳ quyền lực (Cao Ủy) là đô đốc hải quâncó cái tên dài lòng thòng là George Louis Marie Thierry D’Argenlieu. Ông này chống lại yêu cầu đòi thống nhất Nam Bộ của chính phủ Hồ Chí Minh. Đàm phán giữa hai phe diễn ra ở Đà Lạt nhưng thất bại. Đọc hồi ký Ký vãng Đà Lạt của Hoàng Xuân Hãn sẽ thấy không khí giai đoạn này. D’Argenlieu dựng Cộng Hòa Đàng Trong (Republic of Cochinchina) với Nguyễn Văn Thinh làm president. Nguyễn Văn Thinh có quốc tịch Pháp và thuộc nhóm Lập Hiến của Bùi Quang Chiêu. Chính phủ bù nhìn của Pháp này bị các nhóm chống Pháp có vũ trang, từ Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên đến Việt Minh xúm lại đánh đập. Lực lượng của Việt Minh lúc này do siêu sao Nguyễn Bình, vốn là đảng viên Quốc Dân Đảng cũ, lãnh đạo. Các hoạt động vũ trang trong nội thành của Nguyễn Bình chính là mẫu hình cho các vụ đánh bom của Biệt động Sài Gòn sau này. Ý tưởng về một Liên bang Đông Dương gồm 5 bang (state) bao gồm Lào, Cambodia, Cochinchina, Annam, Tonkin nằm trong Liên hiệp Pháp (French Union) hình thành ở giai đoạn này.


Uy tín và tài năng cá nhân của Nguyễn Bình đã thống lĩnh được các lực lượng vũ trang chống Pháp vốn rất lộn xộn và hiềm khích nhau ở Nam Bộ, xây dựng Vệ quốc đoàn, đánh đập Pháp và chính phủ Cộng Hòa Đàng Trong rất tàn nhẫn. Nhờ đó khi Hồ Chí Minh đi Pháp và có những thỏa thuận (với Marius Moutet, bộ trưởng bộ hải ngoại) có lợi cho chính phủ Việt Minh và hai bên ngừng bắn. Việc này kết liễu luôn nhà nước Cộng Hòa Đàng Trong. Nguyễn Văn Thinh tự sát.


Thương thuyết Pháp Việt dùng dằng mãi rồi thất bại, chiến tranh Pháp Việt (Đông Dương lần thứ nhất) nổ ra.


Sau cái chết của Nguyễn Văn Thinh, chỉ trong thời gian ngắn, để thay thế Pháp lần lượt lắp Lê Văn Hoạch (Cao Đài) rồi Nguyễn Văn Xuân (sĩ quan quốc tịch Pháp) vào chỗ trống. Tất cả các nhân vật miền nam thân Pháp này, lại hùa với nhóm chống Việt Minh đang lưu vong ở Tàu, cùng nhau ủng hộ Bảo Đại. Bảo Đại lúc này ở Hong Kong (1947) và bắt đầu có tín hiệu muốn đàm phán với Pháp. Trong quá trình này, Pháp đổi Republic of Cochinchina thành Provisional  Central Government of Vietnam (Cộng Hòa Tự Trị Nam Kỳ) với tướng Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng. Một vở kịch của Thế Lữ thời kỳ này chế diễu tướng Xuân rất buồn cười với việc “kéo mũi ra cho lõ như Tây”.


Đàm phán Pháp – Việt (Việt của Bảo Đại) đi đến hiệp ước Elysée. Pháp trao trả độc lập (pháp lý) và toàn vẹn lãnh thổ (tương đối) cho Việt Nam. Pháp vẫn nắm ngoại giao, quân đội, kinh tế và tiền tệ. Đồng thời tạo ra khu tự trị cao nguyên. Hiệp ước được quốc hội Pháp thông qua và ký tháng 3 năm 1949. Ba tháng sau Bảo Đại về Sài Gòn nhận chức quốc trưởng của một nhà nước mới toe: Quốc gia Việt Nam (State of Vietnam). Tất nhiên trên thực tế, chính quyền mới này không can thiệp vào được các vùng do chính phủ Việt Minh đang kiểm soát.


Lúc này chính trị thế giới, do ảnh hưởng của Liên Xô và học thuyết của họ lúc đó là học thuyết (chủ nghĩa) Zhdanov (rất thô và đơn giản) đã chia thế giới đơn giản thành hai phe. Phe Đế Quốc do Anh Mỹ đứng đầu, và phe Dân Chủ do Liên Xô đứng đầu. Để phát triển xã hội, học thuyết Zhdanov khuyến khích đấu tranh giai cấp không khoan nhượng. Tiếp đó cách mạng bạo lực của Mao thành công ở Trung Quốc, đuổi được Tưởng Giới Thạch ra Đảo. Trung Quốc và Liên Xô công nhận chính phủ Việt Minh (1949). Mỹ và Anh công nhận chính phủ của Bảo Đại (1950). Đó là lúc thế giới bước vào Chiến tranh lạnh.


Các học thuyết của Mỹ ở thời điểm này bắt đầu cho Đông Dương vào vòng ngắm. Các phái đoàn cố vấn quân sự, kinh tế của Mỹ bắt đầu đến Sài Gòn. Quốc hội Hoa Kỳ và tổng thống Truman bắt đầu chi tiền cho Đông Dương: xây dựng quân đội cho  Quốc gia Viêt Nam, tài trợ cho quân đội Pháp đánh nhau với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở phía bắc. Các hoạt động của Edward Lansdale tốn kém lên tới hàng triệu dollar vẫn được tài trợ.


Từ năm 1950 đến năm 1954, khi tướng Giáp vẫn đánh Pháp ở Bắc Bộ, ở Nam Bộ, Bảo Đại một mặt xây dựng chính quyền của mình, vốn nhiều phe phái không đồng nhất, một mặt tiếp tục đàm phán với Pháp để gia tăng độc lập thực sự của Việt Nam.


Bảo Đại là một ông vua, do đó như Dumas nói, vua là quý tộc của các quý tộc. Bảo Đại có các phẩm chất cao nhất của con người: thông minh, tinh tế, hiểu người, hiểu đời. Bên cạnh đó, Bảo Đại được đào tạo đầy đủ về khoa học chính trị ở Sciences Po bên Pháp. Điểm yếu của Bảo Đại, cũng là tính quý tộc: mê đánh bài, mê gái, mê săn bắn, mê ngao du. Bảo Đại hiểu chính trị và biết dùng chính trị gia. Nhưng bản thân lười lao động, ham chơi, không muốn làm lãnh đạo đất nước. Làm quốc trưởng, Bảo Đại cũng ở Đà Lạt đi săn, mọi việc thả cho Thủ Tướng làm.


Đây là thời kỳ thú vị của Sài Gòn. Không khí chính trị mới mẻ, các lực lượng quân sự hùa về với Bảo Đại, kinh tế ngầm liên quan đến buôn thuốc phiện do mafia đảo Corse nắm. Nhóm này lại thông với lực lượng bảo vệ an ninh đô thành, là nhóm Bình Xuyên. Bình Xuyên lại làm cả bảo kê gái và song bài. Bảo Đại sống bằng tài trợ của Pháp và Bình Xuyên. Sài Gòn như một thành phố quốc tế, đầy buôn lậu và điệp viên. Graham Green qua Sài Gòn vừa làm báo, vừa làm điệp viên, vừa hút thuốc phiện. Phạm Xuân Ẩn làm cho phòng nhì, kiểm soát thư từ của chính Green. Ở ngoại ô, quân Việt Minh do Nguyễn Bình vẫn đánh Pháp. Lê Duẩn nắm Xứ Ủy, và theo KW Taylor, Lê Duẩn còn phải kiềm chế Nguyễn Bình. Một góc của Sài Gòn hồi đấy có thể thấy ở Sound of Silence.


Thủ tướng đầu tiên của Bảo Đại là Nguyễn Phan Long, một người thuộc nhóm Lập Hiến. Nguyễn Phan Long đòi Pháp trả độc lập hoàn toàn và tỏ ra thắm thiết với Mỹ. Ngay lập tức Pháp ép Phan Long nghỉ và thay bằng Trần Văn Hữu nhà giàu quốc tịch Pháp (1950). Không ngờ Trần Văn Hữu ngày càng tỏ ra ái quốc, bỏ ra nhiều tháng đi Pháp (Pau) để tiếp tục tranh luận các điều khoản chưa rõ trong hiệp ước Elyée, đòi các quyền lợi kinh tế, quân sự, ngoại giao. Trần Văn Hữu chính là thủ tướng tuyên bố Hoàng Sa Trường Sa là của Việt Nam như đã nói ở trên. Cuối cùng, tới năm 1952, Trần Văn Hữu làm việc thẳng với Anh Mỹ, khiến Pháp cay quá phải thay bằng Nguyễn Văn Tâm, một công dân Pháp và theo phe ly khai Nam Kỳ ngày trước.


Nguyễn Văn Tâm đến cuối năm 1953 từ chức, và đầu năm 1954 Bảo Đại bổ nhiệm Bửu Lộc, một người họ hàng của mình vào chức thủ tướng. Lúc này Bảo Đại đang ở Pháp để trực tiếp đàm phán về độc lập hoàn toàn cho Việt Nam. Chiến tranh Pháp Việt đang đi đến hồi kết. Quân của Võ Nguyên Giáp bao vây Điện Biên Phủ. Ở vùng mà Việt Minh gọi là vùng tạm chiếm thì Đại Việt rất mạnh, đồng thời xuất hiện và trỗi dậy lực lượng của các linh mục Bùi Chu Phát Diệm.


Cũng trong thời gian này anh em nhà họ Ngô phân công nhau mỗi người một việc. Sau khi được công an Việt Minh phóng thích, Ngô Đình Diệm ở nhà thờ Hàng Bột thêm một thời gian khá dài. Edward Miller lấy tin của mật thám Pháp cho biết: nhằm lôi kéo các nhân vật quan trọng trong chính phủ Việt  Minh, đặc biệt là lôi kéo Nguyễn Bình.  Năm 1950 nhận thấy chính trị nghiêng hẳn về Bảo Đại, Ngô Đình Diệm thoát ly khỏi quê hương cùng anh trai là Ngô Đình Thục. Điểm đầu tiên đến là Nhật và gặp hoàng thân Cường Để. Chuyến đi này thất bại, khi Diệm không tìm kiếm được gì từ nhóm Nhật thân Cường Để. Vả lại Cường Để qua đời sau đó vài tháng. Nhưng rất may cho Diệm, đi Nhật lại gặp nhà khoa học chính trị kiêm tình báo quân sự khu vực viễn đông của Hoa Kỳ tên là Wesley Fishel. Rời Nhật, Diệm Thục đi Mỹ, thất bại trong tìm kiếm hỗ trợ từ chính phủ Hoa Kỳ, lại bay tiếp qua Roma và Paris. Ở Paris chính Bảo Đại từ chối gặp Ngô Đình Diệm. Sau thất bại này, Diệm quay về Hoa Kỳ và ở đây khá lâu. Edward Miller dành một chương để nói về quãng tời gian Ngô Đình Diệm ở Mỹ. Trong thời gian này, Ngô Đình Diệm thông qua các kênh công giáo La Mã và tư vấn của Fisher đã quen thân được thẩm phán Tối cao Pháp viện là William O. Douglas. Douglas tổ chức diner để Ngô Đình Diệm gặp gỡ các nhân vật chính trị trẻ, trong đó có thượng nghị sỹ Mike Mansfield và thượng nghị sỹ John F Kennedy (sau trở thành tổng thống Hoa Kỳ).


Cùng lúc đó ở trong nước, Ngô Đình Nhu, một người lạnh lẽo và đặc biệt thông minh, đã bí mật thành lập Cần Lao Cách Mạng Đảng với chủ thuyết Nhân Vị ở Đà Lạt, thông qua các seminar nhỏ với lượng khách tham dự rất chọn lọc (1949). Edward Miller phàn nàn có quá ít thông tin về Cần Lao, do hoạt động của họ quá kín đáo. Ngay cả các tài liệu của  mật thám Pháp và CIA giải mật gần đây cũng không tiết lộ được nhiều. Chỉ biết rằng Cần Lao bén rễ được vào chính phủ của Bảo Đại, vào quân đội của Quốc gia Việt Nam đang manh nha thành lập, vào các lực lượng công giáo.  Mặt khác, Ngô Đình Nhu xây dựng tờ báo Tinh Thần và đứng sau ngầm chỉ huy để tuyên truyền cho đường lối “cách mạng chính trị kinh tế”. Nhu cũng xây dựng các quan hệ vững chắc và dài lâu với giới lao động thông qua lãnh đạo nghiệp đoàn (Trần Quốc Bửu) và báo của họ (tờ Xã Hội), nắm được giới trí thức elite Bắc Kỳ chạy vào Nam Kỳ (Trần Chánh Thành). Và với quân đội thậm chí ngay khi Trường Võ bị Đà Lạt (Học viện quân sự Đà Lạt) mới được  thành lập, Nhu đã đến phát biểu, qua đó gây ảnh hưởng đến các sỹ quan trẻ sau này. Theo Edward Miller, đến cuối năm 1953, mặc dù hoạt động ngầm nhưng mạng lưới chính trị của Ngô Đình Nhu đã trải khắp Indochina. Từ đó Ngô Đình Nhu lôi kéo được các thủ lĩnh các phe vũ trang chống cộng, ủng hộ Ngô Đình Nhu và rời xa Bảo Đại, lúc này đang ở Pháp.


Chính sự lớn mạnh về lực lượng chính trị của anh em họ Ngô ở trong nước, đã làm Bảo Đại phải cân nhắc về nhân vật vốn chống mình rất dữ dội là Ngô Đình Diệm.


Vào phút cuối cùng, Việt Minh thắng Điện Biên, còn ở Pháp Bảo Đại đạt được thỏa ước tối đa với Pháp Ngày 4 tháng 6 năm 1954, người Pháp, vốn cứng đầu, lèm bèm và ti tiện, đến lúc này mới trả độc lập toàn bộ cho Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại. Bảo Đại, với quyết định vừa lười nhác vừa dũng cảm, vừa sáng suốt, bổ nhiệm Ngô Đình Diệm làm thủ tướng. Bảo Đại biết trước một người tham vọng như Ngô Đình Diệm sẽ làm lãnh đạo quốc gia tốt hơn một ông vua ham chơi, và tất nhiên việc Diệm sẽ phế quốc trưởng Bảo Đại là một điều chắc chắn. Từ đó không bao giờ Bảo Đại quay về trong nước.


Sau khi được bổ nhiệm, Ngô Đình Diệm bay về Sài Gòn và lập chính phủ, ra mắt quốc dân ngày 7 tháng 7 năm 1954.


Hai tuần sau hiệp định Geneva được ký kết (ngày 21 tháng 7), chia đất nước thành hai nửa.


***


Trong vỏ hạt dẻ phần đầu.


Con đường của Rồng


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 13, 2014 22:50
No comments have been added yet.


Nguyễn Phương Văn's Blog

Nguyễn Phương Văn
Nguyễn Phương Văn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Nguyễn Phương Văn's blog with rss.