Có nên đưa vấn đề sự lãnh đạo của Đảng vào Hiến pháp hay không ?
Hồ Anh Hải
NQL: Bài viết này đã đăng ngày hôm qua ( 1/1/2013), nay tác giả gửi lại bản thảo được sửa chữa ” cho logic hơn”. Vậy xin giới thiệu lại với bà con
Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) là đảng cầm quyền duy nhất ở nước ta trong ngót 70 năm qua, từng dẫn dắt nhân dân ta lập bao chiến công hiển hách được cả thế giới biết tới. Hiện nay Đảng đang nhấn mạnh vấn đề sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội. Tại hội nghị phổ biến Nghị quyết IV, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói : « Vào thời điểm này chúng ta càng cần phải khẳng định mạnh mẽ sự lãnh đạo của Đảng và vai trò lãnh đạo của Đảng. »
Để thực hiện mục tiêu đó, Tổng Bí thư nhấn mạnh : « phải xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, phương thức lãnh đạo ». Thiết nghĩ nếu muốn thực sự khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng thì đây chính là biện pháp hiệu quả nhất. Có điều đây lại là một việc vô cùng gian nan vì nó gặp sự chống đối của « một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, trong đó có cả cán bộ cấp cao ». Bộ phận này chỉ muốn giữ chặt lấy cái họ coi là « bảo bối » có thể giúp họ yên vị ở chiếc ghế lãnh đạo, chứ không muốn bị chấn chỉnh, loại bỏ.
Họ cho rằng cứ giữ được Điều 4 Hiến pháp thì sẽ giữ được vai trò lãnh đạo của ĐCSVN. Vì thế khi nghe ai bàn tới Điều 4 là họ nghi ngờ ngay động cơ của người đó. Điều 4 bị coi là rất nhạy cảm, ai cũng tránh động chạm đến vì sợ bị chụp mũ « Chống Đảng, chống nhà nước XHCN ». Ý kiến xây dựng Hiến pháp có động cơ tốt, nội dung tốt nhưng cứ liên quan tới Điều 4 là đều bị xếp xó, chẳng báo chí nào dám đăng vì sợ vạ lây. Rốt cuộc những lời « nghịch nhĩ trung ngôn » không bao giờ tới được những cái tai cần nghe.
Coi nhẹ công tác xây dựng, chấn chỉnh Đảng, nhấn mạnh một chiều việc bám giữ Điều 4 Hiến pháp là suy nghĩ không có lợi cho Đảng và dân tộc. Điều 4 có vị trí cực kỳ quan trọng trong Hiến pháp, có liên quan tới vận mệnh của dân tộc và của ĐCSVN, cho nên chúng ta nhất thiết phải bàn cho ra nhẽ và thống nhất nhận thức về điều này.
Hiến pháp là bộ luật cơ bản có hiệu lực pháp lý cao nhất trong một nước. Mỗi điều văn có đánh số thứ tự trong Hiến pháp đều là một điều luật có tính cưỡng chế chứ tuyệt đối không phải là một sự giải trình vô thưởng vô phạt. Khi Điều 4 Hiến pháp đã nói ĐCSVN là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội, thì điều đó có nghĩa là :
1- Dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, đảng viên đều được giữ vai trò lãnh đạo cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội;
2- Toàn thể bộ máy nhà nước và xã hội, nghĩa là toàn dân tộc, đều nhất thiết phải tuân theo sự lãnh đạo của ĐCSVN, ai không tuân theo là vi hiến và sẽ bị xử lý (Điều 123).
Điều 4 lần đầu tiên được đưa vào Hiến pháp nước ta năm 1980, nhằm xác lập vai trò lãnh đạo của ĐCSVN đối với nhà nước và xã hội. Được biết Điều 4 là học từ Điều 6 Hiến pháp Brê-giơ-nep của Liên Xô. Rất tiếc là chưa thấy Quốc hội có văn bản chính thức giải thích lý do việc làm đó.
Bài này thử tìm hiểu tính hợp hiến của vấn đề đưa vào Hiến pháp các quy định về vai trò lãnh đạo của đảng cầm quyền (đại loại như Điều 4 và Điều 70 Hiến pháp sửa đổi). Đây chỉ là thảo luận về lý thuyết, không nhằm vào bất cứ đảng phái cụ thể nào.
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa « đảng là một nhóm người kết với nhau để hoạt động đối lập với những người hoặc nhóm người khác mục đích với mình. » Từ đây có thể rút ra kết luận :
1- Đảng chỉ là một thiểu số ;
2- Mỗi đảng có mục đích riêng, tức có lợi ích riêng của mình ;
3- Do hoạt động đối lập với các đối tượng khác trong xã hội nên công việc của đảng phải được giữ kín, không thể công khai.
Hiến pháp là sản phẩm đúc kết trí tuệ nền văn minh của dân tộc, nó phải được xây dựng trên nền tảng những đạo lý muôn thủa không ai có thể bác bỏ của nhân loại (như dân chủ, tự do, bình đẳng), có vậy nó mới thiêng liêng và có hiệu quả lâu dài, tốt nhất là mãi mãi, hết sức tránh làm lại và hãn hữu lắm mới có bổ sung. Khi đưa một điều văn vào Hiến pháp, phải xem xét hậu quả có thể xảy ra sau đây vài chục, thậm chí cả trăm năm. Hiến pháp phải phục vụ lợi ích của dân tộc, không được phục vụ lợi ích của một nhóm người. Dân tộc tồn tại mãi mãi cùng đất nước ; nhóm người hoặc đảng phái thì có thể biến đổi và không tồn tại mãi được. Một bản Hiến pháp có thể dùng cho muôn đời là mong muốn cao cả của mọi nhà lập pháp.
Lịch sử thế giới và Việt Nam cho thấy đảng phái nào cũng xử lý công việc đất nước theo lợi ích của mình; lợi ích đó có nhất trí với lợi ích dân tộc hay không thì tùy thuộc vào tính chất của đảng ; nhưng không ai có thể biết trước sự thay đổi tính chất, phẩm chất của các đảng phái. Có nước tự xưng là Đảng Cộng sản (ĐCS) cầm quyền và xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng thực tế lại thi hành chế độ lãnh đạo cha truyền con nối hệt như chế độ phong kiến, thậm chí còn hà khắc hơn, khiến hàng triệu dân chết đói trong khi lãnh đạo vẫn phè phỡn. ĐCS Trung Quốc thời Mao Trạch Đông ra sức giúp Việt Nam còn ĐCS thời Đặng Tiểu Bình thì lại đem quân xâm lược Việt Nam. Tính chất ĐCSTQ thay đổi đến mức ĐCSVN « vừa là đồng chí vừa là anh em » với họ cũng không ngờ tới.
Hầu như đảng nào cũng do một người quyết định. Lãnh tụ khác thì đảng sẽ khác. Thí dụ ĐCS Liên Xô thời Lê-nin, Xta-lin, Brê-giơ-nep rất khác nhau. Chủ tịch ĐCS Trung Quốc Mao Trạch Đông cho phép bắt giam và hành hạ Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ đến chết mà không qua xét xử… Vì thế « đảng trị » chính là « nhân trị », trái với « pháp trị » là xu thế tiến bộ Hiến pháp ta đã áp dụng (Điều 2 : nhà nước pháp quyền).
Trong lịch sử thế giới chưa từng có đảng hoặc lãnh tụ nào mãi mãi không mắc sai lầm, nhất là khi họ cầm quyền, hậu quả chỉ làm khổ nhân dân.
ĐCS Trung Quốc cuối thập niên 50 từng làm hơn 30 triệu dân chết đói nhưng đảng vẫn yên vị lãnh đạo và tiếp tục phát động Cách mạng Văn hóa làm cả xã hội đại loạn, hàng trăm triệu dân bị thiệt hại về mọi mặt. Nhưng Hiến pháp nước này lại quy định nhân dân phải ủng hộ Đảng và lãnh tụ tối cao. Cán bộ ở cơ sở đều biết dân chết đói như rạ nhưng không dám báo cáo lên cấp trên vì sợ làm mất uy tín chính trị của lãnh đạo.
ĐCS Liên Xô sau nhiều năm cầm quyền đã suy thoái nặng nhưng theo Điều 6 Hiến pháp 1977 vẫn được giữ đặc quyền lãnh đạo. Khi nhân dân chán ghét Đảng tới mức Quốc hội sửa Điều 6, xóa bỏ quyền lãnh đạo của ĐCS thì việc đó đã làm Đảng tan rã, nhà nước Xô Viết sụp đổ trong khi đang nắm quyền lực mạnh nhất thế giới của một siêu cường. Hậu quả là đất nước rơi vào vực thẳm rối loạn và đói nghèo, tài sản công do nhân dân lao động làm ra trong hơn 70 năm bị tầng lớp tư bản mới chiếm đoạt. Rốt cuộc, nhân dân bị thiệt hại nhất bởi sự đổ vỡ lẽ ra có thể tránh được nếu sớm thực hiện nhà nước pháp quyền.
Từ những sự thực lịch sử kể trên có thể kết luận :
Việc dùng Hiến pháp cho phép một đảng duy nhất nắm quyền lãnh đạo đất nước vô thời hạn là một sai lầm về pháp lý đi ngược nguyên tắc nhà nước pháp quyền ; sai lầm này tiềm ẩn nguy cơ đem lại kết cục bi thảm cho đất nước.
Hiến pháp có thể dễ dàng trao quyền lãnh đạo đất nước cho một đảng nào đó khi đảng được nhân dân tín nhiệm tuyệt đối, nhưng khi đảng cầm quyền thoái hóa biến chất tới mức đánh mất lòng tin của nhân dân thì Hiến pháp phải làm gì để tước bỏ đặc quyền đã trao ?
Chừng nào chưa trả lời được câu hỏi này thì xin hãy gác lại ý đồ dùng Hiến pháp để khẳng định vai trò lãnh đạo của đảng cầm quyền, mà nên tập trung vào việc nâng cao uy tín của đảng. Pháp quyền phải tách khỏi đảng quyền ; lẫn lộn đảng quyền với pháp quyền là một sai lầm lớn.
Một dân tộc khôn ngoan không thể trao số phận mình vô thời hạn vào tay một nhóm người không do mình định kỳ bầu ra và vì thế không thể nào giám sát được mọi hành vi của họ. Lãnh tụ sáng suốt thường rất hiếm, có khi vài trăm năm mới có một người, còn những kẻ cơ hội, phiêu lưu lại rất sẵn. Cuộc đấu tranh giữa các bè phái trong đảng có thể đưa tới kết cục những kẻ cơ hội lên nắm quyền lãnh đạo đảng và khi đó họ sẽ lợi dụng đặc quyền Hiến pháp trao cho để dẫn dắt dân tộc đi tới một tương lai nguy hiểm khôn lường, có thể phút chốc tiêu hủy toàn bộ thành quả đấu tranh cách mạng mà dân tộc đã giành được với sự trả giá bằng hàng triệu sinh mạng. Người ta có thể nói rất hay về bài học vô cùng đau xót của Liên Xô, nhưng lại chưa biết vận dụng bài học ấy, nhất là bài học về Điều 6 Hiến pháp Brê-giơ-nep.
Xin đừng đi theo vết xe đổ của Liên Xô : dùng Hiến pháp đưa Đảng lên vai trò lãnh đạo rồi lại sửa Hiến pháp hạ bệ vai trò đó, khiến Đảng tan rã, nhà nước sụp đổ, hậu quả làm nhân dân khốn khổ. Đảng nên giành lấy quyền lãnh đạo đất nước bằng uy tín của mình trong lòng dân chứ không nên dựa vào sự áp đặt của Hiến pháp. Như thế dân mới được nhờ ; ngược lại là Đảng làm khổ dân.
Nhân dân có thể giám sát cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội, vì Quốc hội do dân định kỳ bầu ra và có quyền bãi miễn bất cứ đại biểu nào mất lòng dân. Với Chính phủ cũng thế, dân có quyền « đuổi Chính phủ » như Bác Hồ từng nói. Nhưng với đảng cầm quyền thì dân không thể làm được như vậy. Đảng bàn những vấn đề chủ trương chính sách tối mật và vấn đề nhân sự, sao có thể công khai cho « dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra » ; nhân sự trong đảng là việc riêng của từng đảng, nhân dân đều không thể biết và tham gia.
Người Trung Quốc từng nếm bài học vô cùng chua xót về việc đưa vào Hiến pháp những yếu tố bất định như đảng phái và cá nhân. Năm 1970 Trung ương ĐCS Trung Quốc thông qua Dự thảo Hiến pháp mới thay cho Hiến pháp 1954, trong đó có một điều viết « Quyền lợi và nghĩa vụ của công dân là ủng hộ Chủ tịch Mao Trạch Đông và bạn chiến đấu thân thiết của Người là Phó Chủ tịch Đảng Lâm Bưu, ủng hộ ĐCSTQ ». Hiến pháp chưa kịp công bố thì không lâu sau đó Lâm Bưu ám sát Mao bất thành phải trốn ra nước ngoài rồi chết vì máy bay rơi. Kết cục Hiến pháp phải bỏ câu « ủng hộ Chủ tịch Mao và Phó Chủ tịch Lâm » và sau khi Lâm chết 4 năm mới ban hành. Năm 1980, khi làm Hiến pháp mới, Ban lãnh đạo ĐCS Trung Quốc dứt khoát loại ra khỏi các điều khoản thuộc chính văn Hiến pháp tất cả những từ « Đảng cộng sản » và tên bất cứ lãnh tụ nào, quốc tế và trong nước, dù các vị ấy vĩ đại đến đâu.
Trung Quốc và Liên Xô từng có Lâm Bưu, En-xin. Ai dám bảo đảm Việt Nam mãi mãi không thể có những kẻ cơ hội như vậy ? Khi họ giành được quyền lãnh đạo đảng thì số phận dân tộc sẽ ra sao ? Xưa nay có mấy đảng không phát sinh bè phái, tranh giành quyền lãnh đạo đảng ?
Việc soạn thảo Hiến pháp phải cực kỳ thận trọng, phải nhìn xa trông rộng, tiếp thu các bài học quốc tế và trong nước. Lịch sử sẽ lên án những cách làm vô trách nhiệm mà các nhà lập pháp phạm phải. Không thể vì sợ quyền lực mà chấp nhận những thỏa hiệp vô nguyên tắc, đặt lợi ích vĩnh viễn của dân tộc xuống hàng thứ yếu.
Nguyên tắc duy nhất mà các nhà làm Hiến pháp nhất thiết phải tuân theo là đặt lợi ích dân tộc lên trên hết.
Có thể kết luận : việc đưa vào Hiến pháp vai trò của bất cứ đảng cầm quyền nào đều không phù hợp lợi ích lâu dài của dân tộc và do đó không hợp hiến và sẽ không được lòng dân.
Do trình độ tác giả nông cạn, bài viết này khó tránh khỏi sai sót ; mong được mọi người chỉ giáo.
Tác giả gửi cho Quê choa







Nguyễn Quang Lập's Blog
- Nguyễn Quang Lập's profile
- 27 followers
