Quá trình chuyển biến của một phong cách -- Phan Ngọc viết về Nguyễn Tuân
- Tất cả văn bản dưới đây là VTN tôi bệ nguyên si từ một trang fb của Lại Nguyên Ân mà tôi quên ghi ngày tháng -
Nhân một năm ngày mất nhà văn Nguyễn Tuân
● Phan Ngọc
---
Tôi thích Nguyễn Tuân từ ngày đọc Chữ người tử tù. Tôi yêu lối văn như khắc của anh mà các nhà văn Tự lực vănđoàn không viết được. Tôi tập viết theo lối văn ấy trong bài Người bạn mùa hè đăng trên báo Bạn đường số mùa hè năm 1942 với bút danh Ngọc Phan. Dĩ nhiên mộtcậu bé 15 - 16 tuổi chỉ có thể viết kiểu kỹ thuật về mấy chú chuồn chuồn chúhay đuổi bắt các buổi trưa hè.
Tôi gặp anh lần đầu năm 1951 khi làm việc ở HộiVăn nghệ mà anh là Tổng thư ký. Quen sống lặng lẽ, tôi ở đấy 6 tháng không traođổi với anh một lời. Sau khi dịch quyển Sử ký của Tư Mã Thiên tôi được hân hạnhanh nhắc đến bản dịch, một bạn sinh viên có cho tôi biết ý kiến anh để chữa mộtchỗ trong chú thích và có bảo tôi đến gặp anh. Nhưng tôi tìm cớ thoái thác vàmặc dầu sống gần anh, tôi chưa bao giờ trò chuyện với anh cả. Bởi vì lúc đó,năm 1957, tôi đã nghĩ đến việc viết một quyển sách về phong cách Nguyễn Tuân vàtôi chỉ đến yết kiến anh sau khi viết xong sách. Tôi trù tính chỉ mất 6 thángnếu có tiền thuê người chép phích. Còn trước đó, tôi không muốn gặp để cho việcbênh vực một phong cách được khách quan. Cuộc sống vật chất cứ kéo tôi đi,không sao làm được công việc mà tôi thèm khát. Ý tôi chỉ muốn tỏ lòng biết ơnanh trước khi anh mất. Ngày kỷ niệm anh đến gần, lần lữa mãi hóa ra bội bạc.Tôi đành viết vội một chương chưa được kiểm tra bằng số lượng. Mong hương hồnanh tha thứ những điều sơ suất.
Vì muốn tập viết theo văn anh, tôiđã mất công tìm hiểu xem ai đứng sau anh. Hỏi nhà văn thường vô ích vì họthường không thừa nhận. Tôi biết sau Nhất Linh là André Gide, sau Nguyễn CôngHoan là Alphonse Daudet về truyện ngắn, sau Vũ Trọng Phụng là George Anquetil…Kinh nghiệm cho tôi biết, khi đã biết con người đứng sau thì tôi đoán trướcđược phần lớn những điều sẽ gặp.
Xét về câu văn chải chuốt, vị trí của đồ vậtvà sắc thái hoài cổ, cái vẻ cô độc của nhân vật chính, anh khá gần Hướng Minh.Nhưng đọc Hướng Minh tôi thấy ngay được Anatole France, còn đọc anh tôi chịu.Câu văn anh vừa rất quy tắc vừa tìm mọi cách phá quy tắc.
Thái độ khinh bạc ấy không phải củaHồ Xuân Hương, Yên Đổ, Tú Xương, cũng không phải của Tản Đà. Tìm ở châu Âu cũngkhông ra gốc gác.
Đọc Nguyễn không ai biết trước câusau sẽ nói gì. Chữ tùy bút mà anh là ông thầy số một hình như sinh ra để đónđợi anh. Sức thu hút có thể gọi là ma quái của văn anh một phần vì thế. Nhưngcũng có lẽ vì thế mà anh chưa bao giờ là nhà văn của đại chúng.
Xưa cũng như nay, anh chỉ là nhà văn của bạnđọc khó tính. Anh chỉ là tác giả của những bạn đọc có thói quen lao động tríóc, tìm thấy ngay ở đó một nguồn vui. Nhưng mặt khác, anh tự kiếm cho mình mộtchỗ đứng riêng trong lòng bạn đọc và có người mê văn anh trong đó có một số nhàngôn ngữ học.
Với Vang bóng một thời cái gì cũngcổ. Cốt truyện, đề tài, nhân vật, ngay cả câu văn đều mang dáng dấp cổ: −"mà bạch cụ, chúng tôi không hiểu tại sao ngọn đồi này cao mà thủy lạitụ" (Những chiếc ấm đất). Song tính chất cổ ở đây chỉ là nhất thời, do yêucầu của chủ đề, để chiều theo thị hiếu của cái thời của Bút nghiên, Lều chõng.
Muốn tìm cống hiến của nghệ thuật anh, phảitìm cái bất biến.
Trung tâm bài viết là một đồ vật. Có thể nói không quá đáng, đồ vật bao giờ cũng thu hút anhsuốt một cuộc đời văn học ngót sáu chục năm trời. Anh không giấu giếm gì chuyệnđó mà thường đưa ngay lên đầu bài.
Đồ vật ấy phải là một vật có giá trịvà tác phẩm dựng lên là để khẳng định giá trị của nó.
Giá trị ấy được biểu hiện qua những tâmtrạng thường trái ngược nhau. Con người được dựng lên ở đây không phải là vìchính họ mà vì đồ vật, bởi vì chỉ có những con người ấy mới hiểu được giá trịcủa đồ vật. Rồi sau đó mới đến cốt truyện.
Cốt truyện ở các nhà văn khác làchính, nhưng ở anh lại là phương tiện để đưa bạn đọc đến gặp đồ vật thông quanhững tâm trạng.
Trước cách mạng, vật này là một vậtđẹp, hơi kỳ cục, còn con người là những kẻ bơ vơ lạc lõng trong việc chạy theomột cái đẹp chỉ mình họ biết được, chẳng ích lợi gì cho ai, mong manh và nhấtđịnh sẽ tàn lụi.
Họ là những kẻ nửa tỉnh nửa mê trongmột thế giới được tạo nên bởi một ngòi bút, từng chữ một thì rạch ròi, sắc sảonhư khắc vào đá, nhưng lại quần tụ trong một kiến trúc bập bềnh, chơi vơi.
Nói đến đồ vật là chuyện thường. Chúý đến cái đẹp của đồ vật cũng không mới. Nhưng trước Nguyễn, cái đẹp chỉ mớiđược nhìn ở khía cạnh thưởng thức.
Các nhà văn trước anh chỉ nói nó đẹpnhư thế nào. Một thí dụ quen thuộc là tiếng đàn của Kiều.
Trước Nguyễn, đồ vật bao giờ cũng làphương tiện.
Với Nguyễn, lần đầu tiên nó thànhcứu cánh và mỗi con người dù địa vị khác nhau đến đâu, từ anh ăn mày đến ôngquan cũng đều đúc theo một khuôn. Đó là những dân bất đắc chí, ăn gửi nằm nhờ ởthế giới này.
Nhưng dù thất bại trong thực tế họ vẫn khôngchấp nhận thất bại vì họ cho chỉ có mình họ mới tạo ra được cái đẹp, chỉ riênghọ mới nâng được những việc làm bình thường nhất như uống trà, ăn kẹo, đánh cờ…lên mức hoàn hảo.
Nguyễn là người đầu tiên nêu lên cáiđẹp ở khía cạnh kỹ thuật.
Tiếng nói mới của anh mà hầu như không ai đểý, đó là anh nhìn cái đẹp với con mắtcủa thời đại kỹ thuật.
Anh ra sức tìm hiểu chữ tại sao, đivào kỹ thuật tạo ra cái đẹp. Mãi sau này tôi mới hiểu tại sao tôi không thấy aisau lưng anh. Tuy anh đọc rất nhiều và nhớ nhiều nhưng không theo ai cả. Nếuanh sinh là người Nhật, người Đức hay người Mỹ thì tôi tìm được cơ sở giảithích ngay. Đằng này, anh sinh ở một nước nông nghiệp, xuất thân từ gia đìnhNho học, thế mới lạ. Anh là tổ sư một môn phái, cho đến nay ở Việt Nam chưa cómôn đệ. Một trường phái sẽ ra đời ở Pháp với cái tên ầm ĩ là "tiểu thuyếtmới" có nhiều điểm giống phong cách anh, nhưng chỉ là ngẫu nhiên.
Thực tình, anh Nguyễn lên đường một mình vàmột mình đi suốt non sáu mươi năm lữ khách. Nhiều người viết được những câu vănđẹp nhưng chỉ có anh nắm được các bí quyết tạo nên cái đẹp của câu văn đơntiết.
Cho nên để thưởng thức Nguyễn Tuâncần có một sự giải mã bằng phong cách học.
Dĩ nhiên, cái nhìn kỹ thuật không tựnó ra đời được mà phải có một quá trình.
Bài Chữ người tử tù nói đến"cái tài viết chữ tốt" của ông Huấn Cao, nỗi thèm khát xin chữ đẹpcủa viên quản ngục, hai kẻ "chọn nhầm nghề" là viên quản ngục và thầythơ lại, thái độ khinh bạc của Cao Bá Quát, tức là ở đây lần đầu tiên xuất hiệnnhững nét nhạc sẽ tạo thành giai điệu Nguyễn Tuân. Nhưng phần kỹ thuật chỉ thugọn trong câu Cao Bá Quát bảo viên quản ngục ở đoạn kết. Không một chữ nào vềthư pháp nói chung, cũng như về thư pháp Cao Chu Thần.
Con nhà Nho như anh và tôi làm sao không biếtchuyện này? Viên quản ngục phải hiểu nó mới mê chữ họ Cao. Chắc chắn anh chưathấy chữ ông ta tận mắt. Nói "Nét chữ vuông vắn tươi tắn nó nói lên nhữngcái hoài bão tung hoành của một đời con người" -- còn quá chung chung. Bútpháp Cao Chu Thần đâu chỉ tầm thường đến thế? Đây là một thiếu sót chứng tỏ anhđã tìm được cho mình một đường đi nhưng chưa chuẩn bị hành trang cần thiết.
Sang Những chiếc ấm đất anh mớithành quái kiệt. Những đoạn trao đổi giữa cụ Sáu và người khách lạ về trà, ấmtrà, kim hỏa, ngư nhãn, giải nhãn, cái câu kết thần bút về nắp ấm thế nào là ấmTàu là Nguyễn Tuân chính hiệu.
Cái nhìn kỹ thuật, mỹ hóa kỹ thuậtđể văn học tạo nên ở bạn đọc lòng khao khát chế tạo đồ vật hoàn mỹ, đó là giaiđiệu mới lôi cuốn những ai đọc văn anh.
Trước anh, văn học là cuộc đời củanhững con người, những tình huống éo le của những thân phận. Với anh, văn họclà để giáo dục những kiến thức về văn hóa và cách nhìn kỹ thuật để tự mình tạora cái đẹp. Đến Trên đỉnh non Tản, anh viết nổi những câu có thể làm Nguyễn ĐỗCung thỏa mãn: "Những đầu kèo vai và câu đầu đều chạm tứ quý, tứ linh. Bứctrần gỗ thì chạm bát cửu cổ đồ… Họ chia nhau ra mà chạm, người thì tỉa hình thưkiếm, quạt và phất trần, kẻ thì gọt dáng tù và với túi roi hoặc là túi thơ cùngbầu rượu, cái nọ ghép vào cái kia thành những bộ đôi, nét giẻo như tung bayđược".
Tôi nghĩ không ai đọc Nhất Linh, Khái Hưng, VũTrọng Phụng với từ điển trên tay. Đọc Nguyễn Tuân lẽ ra phải có từ điển, loạitừ điển về văn hóa cổ hiện nay chưa xuất bản.
Anh biểu hiện cùng một lúc hai biệt tài tráingược nhau không ai làm được. Biến ngôn từ kỹ thuật thành ngôn ngữ nghệ thuậtvà vẽ lên một bức tranh kỳ ảo, mông lung, nhưng từng chi tiết chính xác và cócái kết thúc tung bay được: "Bên dặm lệ liễu, màu phấn hồng, có đến linhtrăm con chim quyên màu tím hoa cà, đang rỉa những mảng hoa mấy khóm phong lanđen như gỗ mun, làm hương thơm bay tà tà, đè mãi trên giòng Tịch-Mịch".(Trên đỉnh non Tản)
Người ta hay căn cứ vào một vài lờinói của tác giả về mình để đánh giá tác giả. Nếu làm thế không thể nào hiểuđúng Nguyễn được.
Nhiều nhà văn luôn luôn kêu: Tôi chân thực,tôi chung thủy, trung thành, nói toàn lời gan ruột, hãy yêu tôi đi! Nguyễnkhinh độc giả ra mặt, bất cần độc giả: tôi khinh anh đấy, anh làm gì nào?Nguyễn không nể nang ai, cả mình cũng như bạn đọc. Nguyễn không tìm cách tranhthủ cảm tình ai, nhất là với các nhà phê bình thì anh cố ý trêu chọc.
Cho nên dù bắt buộc phải khen anh chỗ này chỗnọ, thế nào nhà phê bình cũng chêm cho được một câu về tính khinh bạc, lập dị,thích ăn chơi của Nguyễn. Kết quả, hiện tượng Nguyễn Tuân thành một bài toánđầy mâu thuẫn không sao lý giải cho ổn được.
Tôi nghĩ khác.
Tôi xét Nguyễn từ góc độ lao động.
Xét ở góc độ này, Nguyễn là ngườiyêu nước và nhân dân tha thiết nên quan tâm hơn ai hết đến ngôn ngữ, văn hóa,lịch sử, phong tục, từng biểu hiện nhỏ của đất nước. Nhưng đất nước bị nô dịch,biến anh thành một chàng bất đắc chí.
Anh thấy cuộc sống của mình là vônghĩa, không biết dùng cái kho kiến thức, cái vốn tình cảm dồi dào và tài nănghiếm có của mình vào việc gì. Anh lại sống vào một thời buổi ăn chơi nên phungphí tuổi trẻ vào hành lạc. Giới nghệ sĩ đương thời là nơi tập trung của tưtưởng yêu tự do cá nhân đến mức ích kỷ, hoài nghi, duy mỹ, tìm khoái cảm, tựphụ tự đắc, nghệ thuật vị nghệ thuật.
Phong trào bình dân đã cứu đượcNguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan… và vô số người khácnhưng không cứu được anh.
Tôi biết nói thế là tàn nhẫn, nhưnglàm sao trong toàn bộ tác phẩm trước cách mạng của anh không có bóng dáng gìcủa những cuộc vận động to lớn do Đảng lãnh đạo? Trái lại, trong những năm sôiđộng của lịch sử, tôi chỉ thấy anh tìm cách thoát ly.
Anh chạy vào quá khứ trong Vang bóngmột thời, vào hành lạc trong Ngọn đèn dầu lạc, Chiếc lư đồng mắt cua, vào nộitâm trong Nguyễn, đi lủi thủi trên đường trong Thiếu quê hương, chạy vào maquái trong Yêu ngôn. Có một xu hướng thoát ly nẩy sinh trong những năm nhốnnháo này là có anh ngay, và anh nổi bật ngay, bởi vì, làm sao phủ nhận điều đóđược, "trời đất cho anh một cái tài". Vào lúc đó, anh mở ra một đườngđi cho mình trong tùy bút. Các nhân vạt vốn đã thấp thoáng giờ lại mờ đi đếnmức biến mất chỉ còn độc anh Nguyễn.
Cốt truyện đã lỏng lẻo giờ bốc hơi. Câu vănđiêu khắc bị giải thể, nhường chỗ cho một sản phẩm mới mang dáng dấp của câuvăn tự hành. Toàn suy nghĩ nội tâm.
Nói miên man còn nhẹ. Bảo đầu Ngômình Sở không oan. Những hình ảnh trong một giấc mơ. Lẽ ra loại câu văn ấy chỉgây cảm giác khó chịu. Thế mà đọc không dứt ra được mới tài. Đọc xong chẳng nhớgì hết. Đọc lại vẫn cứ quên, thế mà đọc không biết chán.
Còn cái nhìn kỹ thuật? Nó vẫn hiệnlên chỗ này chỗ nọ, trong cách đánh trống chầu, đánh cờ của ông Thông Phu, trênchiếc va-ly, trong các ký họa về cảnh vật, đọng lại trong cách làm giấy dó,trên đầu tóc chị Hoài. Vẫn còn, nhưng đã chìm đi. Mải chạy theo cái đẹp tự nó,không những anh quên mất nội dung, mà còn mỹ hóa cả sự trụy lạc. Là người chânthành, anh thấy mình hèn, anh chán cả mình. Anh không viết nữa. Anh không phảilà người ngụy biện để bảo vệ cái xuất.
Suốt cuộc đời anh có một điểm nhất quán: anhkhông cố tình lừa dối ai. Con người như thế khi thất vọng sẽ nghĩ đến chuyện tựsát. Kinh nghiệm này tôi đã thấy ở nhiều nhà văn châu Âu: "Ta sẽ mượn cáisúng của nó, trong một buổi, để bắn vào bóng thằng người này" (Vô đề,1945).
Tôi không cho là Nguyễn nói đùa.
Ngay những người ghét anh nhất cũngphải thừa nhận cuộc đời anh là ngang bằng sổ thẳng, yêu ghét phân minh, khôngcúi luồn cũng không hống hách, thủy chung hết sức, không bao giờ mưu lợi chomình để hại người khác, không có mánh khóe. Đó là gia tài chung của những ngườithừa hưởng một giáo dục gia đình như anh. Với anh nghệ thuật là mục đích, cuộcsống là phương tiện. Khi mục đích đã vô vọng, cuộc sống mất ý nghĩa.
Mãi sau này, khi đi sâu vào phongcách học, tôi mới hiểu được tại sao tôi có thể thích tùy bút của anh. Tại saolối hành văn tùy hứng, nói miên man, tư tưởng lộn xộn như thế lại lôi cuốn đượcngay cả những kẻ duy lý đòi hỏi một kỷ luật chặt chẽ của từng nếp nghĩ. Khôngphải vì văn anh đẹp. Văn Gide phải nói là đẹp nhưng không thu hút họ. Đó là vìtâm hồn của anh. Tôi phục Evtushenko khi gọi anh là "cậu bé 70 tuổi".Tôi đã gọi anh là "thằng cha" với anh Đào Hùng vì không thể nào gọilà "ông Nguyễn Tuân" được.
Anh đã nghe anh Đào Hùng nói lại vàxác nhận chữ này là đúng. Nhưng chữ "thằng cha" nghe nó gây gổ, tôidùng chữ cậu Nguyễn vậy.
Trước cách mạng, cậu Nguyễn bướngbỉnh, không chịu nghe ai, nhưng đó không phải vì bản tính cậu ngoan cố mà vìcậu đòi hỏi bằng chứng chính xác.
Cậu rất yêu bà mẹ là đất nước nhưngcậu không phục mẹ, thấy mẹ yếu đuối, người ta bảo cậu khinh bạc. Nhưng điềuquan trọng hơn là cậu khinh bạc với ai, với cái gì. Cậu khinh bạc đối với mọicái người ta chạy theo: tiền tài, địa vị, chức tước. Cậu khinh hạng độc giả tìmở văn học cái gì giật gân, để thỏa mãn giác quan. Nhưng ở trong văn cậu, tathấy nguyên vẹn cái nhìn ngây thơ, khao khát tìm hiểu, lòng tôn trọng mọi giátrị đạo đức đã giúp cho dân tộc tồn tại: tình chung thủy vợ chồng, nghĩa bạnbè, sự chân thực của người lao động.
Cậu chán đời không phải vì no nê phè phỡn,không phải vì không thể thỏa mãn xác thịt. Cậu chán vì nó không đáp ứng cáiđẹp, cái cao quý mà cậu tìm kiếm.
Thử đưa ra một giả thiết. Nếu khôngcó cách mạng và Nguyễn tự sát thì sao? Địa vị của anh trong văn học sẽ như thếnào? Người ta sẽ nhắc đến một nhà văn tài hoa, có cái nhìn sắc sảo, một cáchhành văn mới mẻ ở đó thể hiện một sự giao thoa (interférence) sâu sắc giữa quákhứ với hiện tại, đặc điểm không thể thiếu ở một nhà văn lớn.
Nhưng không cách nào xem anh là một nhà vănlớn được, ngay về mặt phong cách. Bởi vì cái gì ở anh cũng nửa vời.
Cái nhìn kỹ thuật mới chớm nở ở mộtvài biểu hiện của văn hóa cổ thì đã rơi tõm vào con đường mỹ hóa sự trụy lạc,con đường chẳng có gì mới mẻ và ngay ở đây cũng chưa bằng một nhà thơ khác.
Câu văn điêu khắc chỉ thành côngtrước một vật cụ thể, bước vào lý luận thì văn Nguyễn yếu. Nguyễn không có đượccâu văn tư biện. Tuy các suy tư miên man lôi cuốn bởi cái nhìn ngây thơ nhưnghọc vấn ấy tạp, về nhiều điểm rất sắc sảo nhưng không có mặt nào chu đáo, còn ýkiến thì chắp vá, thiếu tính thống nhất của một tư duy độc lập. Ngay trongnhững bài thành công nhất vẫn có cái gì khập khiễng của một tác phẩm chưa thựcxong xuôi. Tôi sợ hình ảnh anh trong văn học đời sau sẽ là hình ảnh của cụ NghèMóm, ông Thông Phu. Tản Đà chết không trẻ, Vũ Trọng Phung chết thảm, Thạch Lamchết oan. Còn nếu anh tự sát vào lúc này người ta sẽ bảo là tất yếu. Xin hươnghồn anh tha thứ cho cái nhận xét tàn nhẫn này.
Anh đã nói đến sự thay đổi của mìnhnhờ cách mạng trong bài Vô đề sau đổi là Lột xác và trong lời phát biểu sauchỉnh huấn. Tôi muốn nói đến những điều hiển nhiên mà anh không thể ngờ được,bởi vì nhiệm vụ của khoa học là thế. Nếu ai cũng thấy quả đất quay thì thiênvăn học sẽ thừa. Cũng vậy, nếu tác giả hiểu được phong cách của mình thì khoaphong cách học là vô dụng.
Cách mạng trả lại cho cậu tổ quốc.Cậu hiểu được một khái niệm mới từ nay sẽ chỉ đạo bốn mươi năm sáng tác củacuộc đời còn lại: trách nhiệm. Cậu nhận thức được trách nhiệm đối với bà mẹ cậurất thương yêu nhưng giờ đây cậu mới hiểu là hiên ngang, bất khuất. Đứa con bấttrị trở thành đứa con chí hiếu. Cậu tự giằng mình ra khỏi cái cũ. Cậu đã thắngvì cái vẻ kiêu căng, ngỗ ngược chỉ là bên ngoài. Trong thâm tâm cậu Nguyễnchung thủy, ngây thơ, phục thiện, có quyết tâm cao, những đức tính vẫn tiềmtàng trong các tác phẩm trước cách mạng nhưng giờ đây mới bộc lộ rõ ràng. Cáchmạng đã cứu sự nghiệp văn học của cậu không chỉ hôm nay, ngày mai mà cả trướckia nữa. Các tác phẩm ấy được đọc lại dưới ánh sáng mới và cái đẹp của nó mớicó dịp được xác nhận. Nếu không, nó sẽ làm người đọc xót xa như trường hợpnhiều nhà văn, nhà thơ khác, trong đó đâu phải đã thiếu những tài năng thực sự?
Sau khi đối lập hai giai đoạn sángtác của cậu Nguyễn, dùng giai đoạn sau để cắt nghĩa giai đoạn trước, tôi thấycậu là cậu bé ham hiểu biết, yêu cái đẹp, ghét sự giả dối dưới mọi biểu hiện.Cậu chúa ghét ngụy biện, ghét chuyện triết lý suông, khao khát sự chân thành.Trước cách mạng cậu là nhà văn tài hoa, sau cách mạng cậu đốn ngộ (*) thành nhàvăn lớn. Nếu ai bảo tôi tìm một nhà văn chứng minh được tác dụng to lớn củanhân sinh quan cách mạng đối với nghệ thuật, tôi sẽ nói ngay: đó là NguyễnTuân. Tôi biết nói thế nhiều người không chịu, nhưng đây mới là cái kỳ diệu củacách mạng Việt Nam.
Đối với Nguyễn, nghệ thuật là ý nghĩacủa cuộc sống. Muốn có một nghệ thuật có ý nghĩa, phải thực hiện một cuộc sốngcó ý nghĩa. Là người chân thành, mặc dầu ngay từ đầu được đặt vào địa vị lãnhđạo, cậu vẫn không tìm ý nghĩa cuộc sống ở sự lãnh đạo. Cậu có đủ điều kiệnkiếm một chỗ ngồi yên ổn, cách xa mọi gian khổ và giáo dục các nhà văn. Cậu làmthế không ai có thể chê trách được vì Vũ Trọng Phụng chết rồi, rõ ràng cậu lànhà văn cũ lớn nhất. Nguyễn không chờ đợi như nhiều nhà văn, nhà thơ khác. Đốivới Nguyễn, sống nghĩa là viết, dù cho cậu thừa biết bước sang nền văn học mớichẳng phải dễ dàng. Chùa Đàn là một cố gắng. Rồi vác ba-lô lên vai đi công tácsuốt mười năm kháng chiến. Khu Năm, Khu Bốn, Việt Bắc. Đóng kịch, theo bộ độichiến đấu. Có mặt ở khắp nơi, ghi ghi chép chép. Học hỏi mọi người, chan hòavới mọi người. Sống hết mình, sống trách nhiệm. Hình ảnh người Tổng thư ký HộiVăn nghệ mà tôi gặp năm 51 là thế.
Một đường lối đúng dù là đường lốichính trị, quân sự, là ở kết quả đem lại cho đất nước. Đường lối văn nghệ cũngthế. Phải có tác phẩm. Nhưng ở văn học còn cần cả yếu tố con người nữa. Ai làm?Nếu đó là Tố Hữu thì giá trị thuyết phục không cao, bởi vì chẳng phải nhờ cáchmạng thắng lợi thơ anh mới hay. Nếu nó nhờ nội dung thì giá trị thuyết phụcchưa lớn lắm. Người ta sẽ bảo đây là vì đề tài, tư tưởng. Cái đẹp tâm hồn, khíphách, cái lớn của cách mạng, tự nó đủ sức lôi cuốn mọi người Việt Nam vì dướiđáy lòng mỗi người Việt Nam đều có một Trần Bình Trọng. Nếu đây là một nhà vănmới xuất hiện thì tính liên tục của văn học bị tổn thương. Trong mấy năm đầutuy đã có một số tác phẩm nhưng chỉ có tư tưởng, chủ đề, đối tượng thay đổi,chưa có sự thay đổi về bút pháp. Tuổi trẻ của tôi đã sống mười năm thần thoạitrong đó sự thành công, thất bại của một người, là sự thành công, thất bạichung. Tôi đọc Đôi mắt của Nam Cao ràn rụa nước mắt, kêu lên "Thắngrồi!". Tôi đọc Gió Lào, Chân trời Việt Bắc của Nguyễn với niềm sung sướngkhông gì sánh nổi và tự bảo "Nền văn học mới đã ra đời!". Tôi nói ởđây lòng biết ơn của thế hệ hai mươi lúc bấy giờ với những bậc đàn anh đãkhuất. Thế hệ tôi đòi hỏi một nền văn học có trách nhiệm trước cuộc sống nhưnggiản dị như cuộc đời chúng tôi.
Chính nền văn học mới đã được khẳngđịnh bởi các tùy bút của Nguyễn Tuân vì khi cậu Nguyễn viết được những tác phẩmnhư thế thì nó càng được khẳng định hơn bất kỳ ai. Tại sao? Vì ai chẳng biếtanh nổi tiếng bất kham. Con ngựa thường ai cưỡi cũng được. Ngựa thiên lý mãkhông đi tìm cuộc sống mà tìm ý nghĩa của cuộc sống. Ý nghĩa ấy là ở ông chủcủa nó; không có ông chủ ấy kiếp thiên lý mã là kiếp sống nhục nhã. Cho nên nóđã quỳ xuống, nó sẽ chết cho người kỵ mã.
Tôi biết có nhiều nhà phê bình chothái độ dành cho đồ vật địa vị trung tâm là một sự sa đọa trong nghệ thuật. Tôikhông muốn lặp lại ở đây những lời phê phán. Những đồ vật đã từng chiếm địa vịtrung tâm từ lâu trong điêu khắc Babylon, hội họa Trung Quốc, nhạc châu Âu, thơĐường mà có gây tại họa gì đâu? Không lẽ văn học lại tự nó thoát ly ra ngoàicác nghệ thuật khác. Tôi nghĩ câu chuyện không ở đồ vật mà ở chỗ người ta dùngđồ vật để làm gì, để xóa bỏ mọi quan hệ xã hội hay để nêu các quan hệ ấy càngsâu sắc, quyết liệt. Người ta lấy đồ vật để phân chia lịch sử loài người thànhthời đồ đá, thời đồ đồng, thời đồ sắt, thời máy hơi nước, vân vân, mà không aibảo là xuyên tạc lịch sử cả. Chẳng phải vào thế kỷ này cả hành tinh đều đãthành những đồ vật của ta rồi sao? Ngay cả không khí, nước róc rách, cây xanh,chim hót, hoa nở chẳng phải đều đã được ta tổ chức lại theo nhu cầu của ta sao?Cô gái đẹp trước mắt anh là hình ảnh tập trung của nhiều khoa học tạo ra cáiđẹp từ đầu tóc, quần áo đến cả móng chân. Máu trong người cô là sản phẩm củadinh dưỡng học. Con người thời đại này nói đến hạnh phúc thì nghĩ đến cái gì?Tôi cam đoan anh ta không thể bỏ qua đồ vật được: căn hộ, bữa ăn, ti vi, tủlạnh…
Cuộc đời là thế. Thời đại kỹ thuậtđòi hỏi con người phải nghệ thuật hóa kỹ thuật để cải tạo thế giới theo tiêuchuẩn cái đẹp. Giáo dục thưởng thức cái đẹp chưa đủ. Phải bước sang giai đoạngiáo dục kỹ thuật chế tạo cái đẹp qua đồ vật để nối liền nghệ thuật với khoahọc. Con người thời đại này có một nhu cầu mới cần được thỏa mãn: nhu cầu làmkhoa học. Nghệ thuật phải tạo cho người đọc những thói quen mới, − thói quencủa khoa học, bởi vì thời đại an bần, tri mệnh đã qua, con người có trách nhiệmlàm đất nước giàu mạnh bằng khoa học kỹ thuật.
Theo tôi, cậu Nguyễn lớn, vì cậu làngười đầu tiên ở Việt Nam mở ra con đường này. Tôi không bác bỏ mọi thể loại đãcó. Nhưng tôi nghĩ rằng văn học không thể thoát ly khoa học được. Trong vònghai thế kỷ này đã xuất hiện thể loại tiểu thuyết trinh thám, viễn tưởng, tìnhbáo, lịch sử thì việc dùng thao tác khoa học để khảo sát đồ vật, qua đó đưa conngười vào khoa học là hợp lý. Đây là con đường mới ở đấy mà công lao của Nguyễnsẽ trường tồn. Ở Việt Nam. Ở thế giới. Đó là con đường cách mạng đã đưa đến choanh. Nói điều này có vẻ lạ lùng và chính anh cũng không nghĩ thế.
Anh Nguyễn viết tùy bút như một côngtrình khoa học. Nói ra có vẻ vô lý nhưng đây là sự thực hiển nhiên. Tôi xin lấytiêu chuẩn của công trình khoa học để xét tùy bút sau cách mạng của anh.
Đặc điểm đầu tiên của một công trìnhkhoa học chân chính là tính hết kiệt (caractere exhaustif). Tức là khi nó đãxét một đề tài, nó muốn nói kiệt về đề tài. Tất cả mọi kiến thức có giá trị vềđề tài đều được nó dung nạp hết và nó đẩy sự hiểu biết đến tận cùng trong phạmvi thời đại cho phép. Chỉ có làm thế, đời sau mới khỏi làm lại và dựa trên đómà tiến lên nữa. Ta xét Gió Lào, Cây tre bạn đường, Cây Hà Nội. Tôi đã nóitrước cách mạng mọi tác phẩm của anh đều nửa vời. Anh chỉ phác lên đôi nét đủkhoe cái tài khám phá của mình rồi lập tức bao phủ nó bằng một bầu không khí kỳảo, nửa thực nửa hư mà anh là người duy nhất làm được. Sau cách mạng, cái khôngkhí ma quái bao quanh đồ vật biến mất, chết hẳn, không bao giờ ngóc đầu dậynữa. Tôi hiểu anh đã bóp chết một "cố nhân" (chữ của anh) thân thiếtnhất của mình, một sở trường đã làm cho anh thành lỗi lạc theo cả hai nghĩa,nghĩa Hán Việt và nghĩa thuần Việt. Tôi đọc các tác phẩm của anh sau cách mạngbằng hệ thống thao tác tôi đã dựng lên đối với các tác phẩm trước cách mạng thìsửng sốt. Cái này ở đây có thì đó không, ở đây không thì đó có.
Xin giới thiệu vài cặp đối lập: nửavời / hết kiệt; ma quái / thực tế; du khách / cán bộ cách mạng; hành lạc / sảnxuất và chiến đấu; kẻ ngoài lề / kẻ nhập cuộc ; người bất đắc chí / người chiếnsĩ; câu văn tự hành / câu văn tự giác ; nói miên man / quan hệ hóa, v.v…
Tôi hiểu cái câu của anh "bâygiờ chỉ còn kỹ thuật", nó sâu sắc đến thế nào. Nhìn bên ngoài, phong cáchcó vẻ không thay đổi: vẫn đồ vật là trung tâm, vẫn tùy bút, vẫn những chuyếnđi, vẫn không cốt truyện, vẫn những suy nghĩ nội tâm tổ chức lại tất cả. Nhưngcũng một con đường lại rẽ thành hai lối trái ngược vào năm 1945. Thực may choanh là chưa đi đến cùng lối thứ nhất. Từ khi gặp cách mạng, anh rẽ sang lối thứhai và đi một mạch suốt 43 năm còn lại, không ngừng một phút, không để chongoại cảnh chi phối. Giai đoạn 1956-1960 giai đoạn sóng gió nhất của đời anh làgiai đoạn của Sông Đà, kiệt tác. Hỏi mấy ai làm được cái kỳ công như thế?
Đã đi con đường này, chỉ có một cáchlàm: nhảy vào nơi khói lửa của sự kiện. Nhưng trước khi bước vào sự kiện phảivõ trang mình bằng khoa học. Với thời đại kỹ thuật, xuất hiện loại nhà văn nhưthế.
Các bạn hãy đọc công trình Tranh dângian Việt Nam của Thái Bá Vân và Chu Quang Trứ, hai chuyên gia về tranh dângian viết sau đó 27 năm thì sẽ thấy mọi nhận xét của Nguyễn đều chính xác vàthực tế công trình khảo sát không vượt được bài ký của Nguyễn về mặt khoa học.Viết một bài ký mang tính hết kiệt như thế đâu phải là nhờ vào tưởng tượng, tàinăng biến hóa, những điều mà ta biết anh Nguyễn có dồi dào.
Một thí dụ nữa. Nhà ngôn ngữ họcHaudricourt, nguyên là kỹ sư nông học, chuyên về lịch sử cây trồng có bảo tôirằng tiếng Việt có 17 từ để chỉ cây tre và các từ của các nước để chỉ tre làbắt nguồn từ 1 trong 17 chữ này. Đó là bằng chứng ngôn ngữ học chứng minh câytre gốc ở Việt Nam. Anh Nguyễn không đọc Haudricourt, nhưng đây là danh sáchtên tre anh dẫn ra trong bài Cây tre người bạn đường: "Họ hàng cây tređông đúc. Tre lộc ngộc, tre làng ngà, tre Mạnh Tông, tre mỡ, tre đá, tầm vông,lồ ô, tre bông Nam Bộ, mình đẹp như đồi mồi. Trúc xe điếu, trúc chỉ, mai,giang, nứa, hóp, vầu, bương, luồng". Trong một câu văn có vẻ bình thườngnhất có 9 tên tre khác nhau, và 8 tên kép. Anh có thua gì một kỹ sư lâm họcđâu? Viết văn đối với anh là làm việc như thế đấy. Riêng điều này cũng chứngminh vốn từ của anh phong phú như thế nào. Anh đưa ra được từ cười trong trên100 kết hợp. Danh từ anh chính xác đã đành, động từ anh mới là vô địch. Có điềukiện viết một bài về cách dùng động từ của Nguyễn Tuân sẽ rất có ích cho nhữngnhà viết văn trẻ cứ tưởng viết văn là chuyện dễ dàng. Cách mạng thành công,Lênin dạy "Học, học nữa, học mãi". Con người yêu chủ nghĩa xã hội,sống cho nó phải đặt cho mình một kỷ luật "học suốt đời". Nguyễn Tuânđã học suốt đời. Kiến thức anh trước tạp, giờ rất sâu. Đề tài nào anh viết xonglà kiệt đề tài ấy. Riêng về mặt kiến thức, mỗi bài là một luận văn tiến sĩ. Nhàlâm học không thể vượt được anh trong hiểu biết về cây Hà Nội, nhà khí tượnghọc không thể hơn anh về gió lào, nhà thực phẩm học không còn gì để nói sauPhở, Giò lụa. Chưa một nhà địa lý học nào đuổi kịp anh về Sông Đà.
Muốn học được nhiều như thế và sâunhư thế phải khiêm tốn suốt đời. Hãy so sánh từng đề tài một của anh trước vàsau cách mạng, rồi với các nhà văn hiện đại. Ta sẽ tự hào có một nhà văn ở đấynghệ thuật xây dựng trên khoa học và khoa học được mỹ hóa thành nghệ thuật. Aibắt anh học? Cuộc đời. Không phải. Đó là tinh thần trách nhiệm, lòng trungthành với Đảng. Những trang anh viết về gió có thể đưa vào văn học thế giới.Gió Lào, gió Than Uyên, gió Cửa Tùng… Anh nghênh ngang tý chút chẳng qua đểnhắc nhở với đời rằng dù ở địa vị nào ta cũng chỉ là đầy tớ của dân. Vài cốcrượu bằng tiền túi của anh trước mặt mọi người là lối ẩn thân của Đông PhươngSóc. Thực tế, anh là nhà khổ hạnh trong nghệ thuật. Với cái tài sẵn có là baophủ đề tài bằng một bầu không khí hư ảo, anh cần gì phải vất vả đến thế! Mà vấtvả thế làm gì khi chung quanh mấy ai hiểu cho anh? Con người chí tình khôngchấp nhận cái nửa vời. Tôi nhớ Đỗ Phủ "Chữ chửa kinh người chết chẳngthôi". Đây là sự thèm khát do chính nghệ thuật thúc đẩy. Không có dịp đếnCà Mau, anh đọc sách, đi hỏi đến mức tả được bầu trời Cà Mau "ong ong, taitái" làm nhà văn Anh Đức ở ngay đấy phải phục. Khi cái đẹp đồng thời làchính nghĩa nó có thể khiến con người tạo được những kỳ công như thế.
Đặc điểm thứ hai của một công trìnhkhoa học là nó phải biến vô vàn sự kiện mà cái đống tư liệu anh thu thập đượcthành quan hệ là bản chất, rồi dùng quan hệ mà tổ chức lại tài liệu. Trước cáchmạng, không bao giờ anh nghĩ đến chuyện này; trái lại, anh cố tình kéo bạn đọcvào một mê cung trong đó các liên tưởng phóng túng của anh tha hồ làm mưa làmgió. Đây cũng là một cố nhân rất thân thiết của anh mà như anh nói, anh đã bópchết.
Trước kia nghệ thuật của anh cốt kéo người đọc sang một thế giới khác đểthoát ly khỏi cái thế giới này mà anh chán ghét. Khi Đảng trả lại cho anh đôimắt và trí nhớ, anh thấy nhiệm vụ mình là phải giới thiệu cho bạn đọc cái nhìnmới và cái trí nhớ mới này để hành động cho có kết quả. Đây là trách nhiệm. Chonên bài viết từ chỗ là những hình ảnh chập chờn trong giấc mơ của cái cõi vôthức chuyển thành những hình ảnh rõ ràng, vuông thành sắc cạnh của thế giới đãđược nhận thức. Câu văn tự hành bị gạt luôn, ta có câu văn tự giác.
Chỉ cần dẫn thứ tự một bài ký tuyệtxướng phải nằm trong sách giảng văn Người lái đò sông Đà: con người sông Đà, cáchlái đò, các thác, đặc điểm từng thác, kỹ thuật lái đò, sông Đà từ trên máy baynhìn xuống, cái đẹp sông Đà, lịch sử sông Đà thời Tây, thời Nhật, cái vui củasông Đà được giải phóng, từng quan hệ một lại được quan hệ hóa lần nữa đến hếtkiệt mới thôi, chẳng hạn đoạn kỹ thuật lái đò.
Đọc nó, rồi hồi tưởng lại chínhcũng cậu Nguyễn này đã viết Thiếu quê hương. Lúc đó ta khắc hiểu sự đổi mới tolớn của Đảng đem lại trong lòng mỗi người.
Bài Về tiếng ta (1966) của anh viếtnhư một nhà phong cách học cự phách. Anh thì giờ đâu mà học ngôn ngữ học? Thếmà mọi lập luận đều chính xác đến mức một kẻ tự cho mình là người trong nghềphải bái phục. Quan điểm của anh về tính trong sáng của tiếng Việt là tài giỏiđến mức độ không mấy nhà ngôn ngữ học hiểu được. Tôi chỉ muốn lấy bài đó làmbài tựa cho quyển phong cách học của tôi.
Tính chính xác từng chi tiết là họcđược, sự hiểu biết kỹ thuật là có thể đạt được. Quan hệ hóa là thao tác làmđược. Nếu ta bó hẹp đối tượng vào một lĩnh vực hẹp thì ta vẫn đạt được nhữnghiểu biết của Nguyễn.
Cái khó ở chỗ khác. Với một người khác, với chừng nấyhiểu biết, chừng nấy quan hệ sẽ đem đến một bài văn rất dở. Muốn tạo nên mộttác phẩm nghệ thuật phải có câu văn mới, câu văn Nguyễn Tuân, phải có cái nhìnmới, cái nhìn Nguyễn Tuân.
Phạm vi bài này không cho phép nóivề câu văn của Nguyễn, chỉ có thể nói đôi nét về sự chuyển hóa của câu văn. Cáiđẹp trong Vang bóng một thời thuộc về quá khứ. Câu văn điêu khắc ở đấy hợp vớimột thế giới tĩnh, ngưng đọng.
Nghệ thuật của Sông Đà, Tình rừng là hiện đại.Thời đại này cái mới xen lẫn cái cũ ở mọi lĩnh vực. Công việc rối rắm, sự kiệnngập đầu. Mọi cái biến đổi. Cái lổn nhổn là nét mới của hội họa, âm nhạc, thơvà văn xuôi.
Nghệ thuật hóa được cái lổn nhổn ấy mới là tay cự phách. Bỏ nóđi, tính hiện đại mất. Để nó thống trị như nhiều nhà tiểu thuyết trẻ đã mắc,nghệ thuật tan vỡ. Kinh nghiệm của Nguyễn ở đây thực đáng trân trọng. Một cáchlàm quen thuộc của anh là liệt kê, liệt kê cái lổn nhổn ra đến mức độ người taphải khó chịu.
Nghệ thuật là sự cực đoan, không phải là nơi dĩ hòa vi quý. Saukhi tạo nên được cái khó chịu cần thiết, anh tung ra câu văn nhẹ nhàng toàn suynghĩ, hồi tưởng, nhịp nhàng đến mức phổ nhạc được. Đó là một mẹo. Lúc đó do sựtương phản, cái cảm giác khó chịu không những mất đi mà lại chuyển thành sự thúvị. Bằng cách đó, Nguyễn là một thứ Hàn Tín, quân càng nhiều càng tốt, kiếnthức khoa học càng chính xác càng làm cho giá trị nghệ thuật nâng cao.
Một mẹokhác. Quay trở lại câu văn lung linh ngày xưa, trong đó các động từ và các từláy âm dùng đắc thể đã gây cho người đọc một sự say mê gần như ma quái, nhưngphần cuối không bay lên mà xoáy vào lòng người ta như một lưỡi dao. Câu này lấyở Bến Hồ và làng tranh, tổ chức rất gần câu đã dẫn ở Trên đỉnh non Tản:"Nỗi xót xa tiếc nhớ đối với những bản tranh khắc gỗ kia lên tới cái mứctôi ngồi mà hình dung ra được cái tiếng của tội ác giặc đang kêu vù vù trên lửa;nó kêu vù vù đến đâu thì gỗ mộc bản đỏ rực lên; và trên những thớ gỗ co oằn, nổlách tách, trên những mảng tàn than trắng ra, những nét khắc càng hiện rõ, vànhững nét mặt của tố nữ đang méo dần đi, đang tàn úa với đống than vạc".
Tôi đếm được mười hai mẹo nhưng thúthực không biết đã đủ chưa vì chưa có điều kiện lập phích cho toàn bộ sáng tác.Thậm chí, tôi ngờ số mẹo là ít hơn vì rất có thể hai ba mẹo chỉ là một, do ngữcảnh khác nhau mà thôi. Có một điều chắc chắn. Tuy anh là vô địch trong cáinghề đưa ra những liên tưởng để tổ chức câu chuyện nhưng sau cách mạng các liêntưởng đều rất khiêm tốn, vừa đủ để giữ tính chất ký của thể loại chứ không trànra ngoài chủ đề như xưa.
Tôi rất tiếc không có trong tay bàiChân trời Việt Bắc. Đọc bài ấy, tôi bỏ tham vọng viết văn, chạy vào ngôn ngữhọc. Đầu đề rất tẻ nhạt. Nguyễn lên Việt Bắc, núi non che phủ tứ phía gây choanh cái cảm giác thèm khát chân trời. Anh phân tích hết kiệt cái cảm giác ấykhông thua một nhà tâm lý học bậc thầy, để đi đến một kết luận bất tử: Nguyễnđã tìm được một chân trời ngay trong lòng mình! Thực là thiên cổ hùng văn.Trong một câu thâu tóm cả chân lý mới của thời đại. Một đời nghệ sĩ chỉ cầnviết được một câu như thế là đủ. Nhà văn, nhà khoa học Việt Nam không quen tựmình phân tích đối tượng mà quen suy luận theo một mô hình đã chọn, dựa vàocách phân tích của người khác. Anh làm sao đạt được một trình độ phân tích caođến như vậy khi vốn liếng nhà trường cấp cho anh quả thực không nhiều!
Câu văn Nguyễn Tuân đã là mới, nhưngcái nhìn Nguyễn Tuân mới là kỳ tuyệt. Đảng đã cấp cho anh cái nhìn ấy. Đây làưu điểm chung của nền văn học mới. Nhưng qua con mắt anh, đất nước Việt Namhiện lên với ánh sáng của hội họa Hà Lan, điều đó mới lạ.
Chưa ai viết về đấtnước, con người Việt Nam đặc sắc như anh. Cảnh vật dưới mắt anh bùng lên mộtánh sáng thân thương mà chỉ những kẻ đã đổ máu cho đất nước mới thấy được: NhậtTân, Sơn La, Điện Biên, Sông Đà, Cô Tô, Vân Đồn, Vĩnh Lĩnh, Huế, Cà Mau… Cónhững trang có thể đưa nguyên vào sách địa lý. Một công ty du lịch có thể dùngnó để giới thiệu đất nước bên cạnh các ảnh chụp đúng với góc nhìn của Nguyễn.Nguyễn đã nhìn là xong: chính xác, khoa học, nên thơ, trìu mến vô cùng.
Cáinhìn trách nhiệm với đất nước và con người Việt Nam. Ai nhìn được người lái đòsông Đà như thế này: "Ngực vú, bả vai người lái đò chống sào ngược tháchay bầm lên một khoanh củ nâu, nó là vết nghề nghiệp của đầu con sào gửi lạiđời đời cho người lái đò sông Đà". Ai hiểu được cuộc đời những người đirừng tìm trầm, những cô gái xòe, những người dân địch hậu, đồng bào Tân ThếGiới về nước? Ai gần gũi các cô bán hoa, các cụ in tranh, các chiến sĩ bằnganh?
Bốn mươi ba năm cầm bút của anh saucách mạng là bốn mươi ba năm tin yêu. Các nhà văn Liên Xô đã nói đúng anh là"bậc thầy của ngôn từ nghệ thuật", một bậc thầy của thế kỷ này. Vănhọc cách mạng Việt Nam có quyền tự hào đã tạo nên được Nguyễn Tuân. Sự nghiệpấy, ngay hôm nay, ta đã biết nó là bất tử.
---
(*) đốn ngộ (chữ nhà Phật) : bỗngnhiên giác ngộ, thay đổi (Chú thích của Phan Ngọc)
Nguồn: “Phê bình và Dư luận” số 4B,“Thông tin văn hóa văn nghệ”, Ban Văn hóa văn nghệ Trung ương Đảng. 1988
-
Vương Trí Nhàn's Blog
- Vương Trí Nhàn's profile
- 10 followers

