Kentaro và tôi - Tháp Đôi Hà Nội (trích từ "Cospolist Nổi Loạn", tiếp theo "Huệ và tôi: Café Brindisi")

Y tên là Onodera Kentaro, Tiểu Dã Tự Kiện Thái Lang. Y 35 tuổi, tóc rối như tổ quạ. Y thấp hơn tôi một chút, tôi thì không cao lắm. Cách đây khoảng hai năm y sang Việt Nam để “chụp ảnh và vẽ tranh”. Y bắt đầu học tiếng Việt cách đây hơn ba năm nhưng nói tiếng Việt như đã sống ở Việt Nam hai mươi năm.

Tôi ngồi nơi bàn dưới bếp trong căn hộ của Kentaro trên căn gác cuối phố Hàng Củi, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Y ngồi trên sàn gạch. Mỗi chúng tôi cầm một lon bia. Trên bàn, đĩa khô bò vắt chanh. Khô bò mặn và cay. Bia đắng và hơi ngọt.
Vậy là tối đó có ban nhạc Mexico chứ? y hỏi.
Không, chỉ có ban từ Colombuela thôi.
À, Colombuela, y nói, rướn người với tay nhón một nhúm khô bò, ngửa cổ, đút từng tí khô bò một vào mồm giống như người ta gặm dần một chùm nho. Nhai nuốt hết dúm khô bò, y chiêu một ngụm bia. Đoạn y nói.
Bọn nó chơi những gì?
Thì quanh đi quẩn lại từng ấy thứ, các ban nhạc Mỹ la-tinh kiểu đó. Dĩ nhiên có nhiều bài tôi chưa nghe bao giờ, nhưng vẫn ngần ấy điệu: mambo, samba, chachacha, bossa nova, lambada, rồi lại tango habanera, bossa antigua... Chẳng biết từ bao giờ tôi không chịu nổi nhạc Mỹ la-tinh nữa, nếu là cái thứ nhạc Mỹ la-tinh đang tràn lan khắp thế giới theo chân các tập đoàn truyền thông mà chủ nhân nói tiếng Anh.
Kentaro lẳng lặng gật đầu. Những gì tôi nói không gây ấn tượng với y. Y lúc nào cũng có vẻ từ lâu đã đến một chỗ tôi muốn đến nhưng chưa đến được, và cả chỗ ấy với y cũng chẳng có gì đặc biệt, tuy nhiên không phải vì vậy mà y nhìn nó với sự thờ ơ.
Huệ của mày thì sao? nhấp một ngụm bia, y hỏi.
Nhảy từ đầu đến cuối, như lên đồng, tôi thốt, bằng tông giọng cao mà tôi không muốn.
Nghĩ một chút, tôi nói:
Thậ ra suốt tối đó tôi cứ có cảm giác cô ấy đang ở một chỗ khác và cái hình dáng sờ sờ trước mắt tôi kia chỉ là dư ảnh xa xăm từ cô ấy thôi. Cũng như ánh sáng đến được mắt ta từ những vì sao cách ta hàng trăm năm ánh sáng vậy.
Điều tôi vừa nói hình như y cũng không cần nghe. Y rướn người nhón một nhúm khô bò, lần này y để trên lòng bàn tay phải, ghé sát vào mồm, vừa gặm dần từng sợi vừa nhìn lên trần nhà.
Bossa antigua là thế nào nhỉ? y hỏi.
Thì cũng tương tự như bossa nova, chỉ khác là thêm đàn sitar, lại còn đàn oud, đàn gayageum, cả đàn nguyệt của Việt Nam nữa, và vài ba thứ đàn chắc của châu Phi, tôi chẳng biết.
Huệ thuộc về cả những thế giới khác nữa đấy, y nói.
Sau một năm rưỡi chơi với nhau, tôi khá quen cái kiểu Kentaro đột ngột nhảy từ chuyện này sang chuyện khác như con chim lao từ chỏm cành này sang chỏm cành kia, song lần này tôi thực sự bất ngờ. Chẳng phải vì tôi không có khả năng nhìn ra sợi dây vô hình nối giữa hai chỏm cành. Đúng hơn, tôi bất ngờ khi nhận ra rằng điều tôi cảm thấy một cách mơ hồ có thể được nói thành lời một cách giản dị như vậy.
Điều bác vừa nói đối với tôi không lạ, tôi nói, mắt hướng vào một con gián vừa xuất hiện ở góc bếp, nơi đặt chiếc bếp ga chẳng biết mấy đời không cọ rửa của Kentaro.
Đã nhiều lần Huệ kể cho tôi về những giấc mơ có thể gọi là giấc mơ tiên tri của cô ấy. Lại có những lúc Huệ nhìn thấy tương lai cả trong lúc đang thức. Tôi có kể cho bác một lần rồi. Cô ấy đi xe buýt, trước mặt cô ấy là hai mẹ con nhà nọ, người mẹ trẻ, thằng con trai năm sáu tuổi gì đó, bụ bẫm. Huệ cười với thằng bé rồi ngoảnh mặt đi, nghĩ chuyện khác. Thế rồi đột nhiên, chỉ trong khoảnh khắc, có lẽ chỉ một phần giây thôi, cô thấy rõ mồn một trước mắt mình thằng bé kía từ đầu đến chân toàn máu là máu. Những chuyện tương tự đã xảy ra không chỉ một lần, và Huệ biết nó nghĩa là gì... nhưng Huệ không thể nói gì với bà mẹ kia. Thử hỏi một kẻ hoàn toàn xa lạ nói với ta một điều kinh khủng như vậy về người thân của ta, ta có tin được không? Không đập vỡ mặt còn là may. Huệ có sung sướng gì về cái khả năng tiên tri ấy đâu.
Con gián giờ đã mon men đến gần chiếc bát nơi cuối gian bếp, có cái đĩa đậy lên, nhưng có lẽ vẫn còn khe hở nên cái gì đó ở trong bát vẫn tỏa mùi.
Đăm đăm nhìn lên trần, Kentaro quờ tay bốc khô bò. Y có vẻ không biết đến sự xuất hiện của con gián. Thế rồi, đột ngột, y vung tay còn lại đập lên mặt bếp, cách chiếc bát và con gián chừng ba mươi phân. Con gián cuống cuồng bỏ chạy, trong nháy mắt đã biến mất. Suốt thời gian đó y không rời mắt khỏi trần nhà.
Tôi nuốt khan. Tôi biết mình cần phải tiếp tục.
Với tôi, Huệ là một dấu hỏi lớn, tôi nói. Tối hôm đó dấu hỏi ấy càng lớn. Ban nãy tôi có nói cô ấy nhảy như lên đồng. Nhưng nói vậy còn xa mới mô tả được thực tế. Có một lúc, giữa chừng một bài hard-rock nào đó, ngay ở đoạn cao trào, không phải cao trào của bài hát mà cao trào của cái gì đó bên trong cô ấy, không nhất thiết trùng với cao trào của bài hát hay cao trào hưng phấn ở đám người tại nơi ấy, khi đến chỗ cao trào của cái đó, tôi không biết gọi là gì, cô ấy bấu chặt tay vào hai bên ve áo và tôi chưa kịp nghĩ ra cô ấy sẽ làm gì thì cô ấy đã giật một cái đứt tung gần hết cúc áo. Từ khi quen Huệ đến giờ, không một cái gì ở cô ấy khiến tôi có thể hình dung rằng sẽ có lúc cô ấy hành động như vậy.
Tôi ngừng nói, cầm lon bia định uống, nhưng nó gần cạn.
Dĩ nhiên tôi biết những gì tôi vẫn hình dung về Huệ có chăng chỉ đúng với phần nào đó của thực tại thôi, tôi nói. Cái tôi thực sự nhìn thấy, đó là thực tại. Song nói gì thì nói, tôi bị bất ngờ trước thực tại mà tôi thấy này, tôi cần có thời gian để quen và điều chỉnh mình theo nó.
Tôi đi lấy lon bia mới, trở lại chỗ ngồi. Kentaro ngồi im lặng nhìn lên trần nhà.
Sau đó thì thế nào?
Kể lại từng chi tiết thì phải đến sáng, tôi nói. Bác gặp Huệ rồi, bác cứ thử hình dung một cô gái như thế gần như tự cởi trần ra trước hàng trăm con mắt, giữa chừng một cơn cuồng hứng... như thế. Đám đàn ông vây quanh cô ấy, vỗ tay huýt sáo hú hét cổ vũ cô ấy cởi nốt xu chiêng ra, cởi hết ra. Tôi gần như phải đánh nhau với tất cả, vâng, cái thằng tôi gầy gò hậu đậu này đây, thằng đàn ông duy nhất đi cùng Huệ. Thật tình là khi đã ra khỏi đó và trên đường về nhà tôi vẫn chưa hiểu nổi làm cách nào tôi vẫn còn sống và lành lặn, lại dẫn được Huệ theo, cũng còn sống và lành lặn như tôi.
Huệ thì thế nào?
Tôi ngoái đầu ra cửa sổ. Từ dưới đường vẳng lên tiếng rủa xả chát chúa của một người đàn bà về mớ rác ai vứt trước cửa nhà bà ta. Kentaro không nhúc nhích, đang quay lưng lại y nhưng tôi biết.
Cái ấn tượng mạnh với tôi suốt buổi tối hôm đó, đúng hơn là từ lúc bọn tôi rời khỏi Café Brindisi, phải, từ lúc đó trở đi cho đến khi bọn tôi vào quán bar, từ quán bar sang vũ trường, đến khi chúng tôi nhảy, và đến khi tôi đưa Huệ về nhà cô ấy, suốt thời gian đó, kể cả khi cô ấy giật tung áo như tôi kể, mắt Huệ như mắt người mộng du, hoặc…sao nhỉ, có thể nói mắt cô ấy thuộc về một kẻ khác chứ không phải kẻ đang làm các động tác kia, nói những lời kia, nhoẻn với đám đàn ông những nụ cười lả lơi đó.
Tôi im. Có tiếng ực nhỏ khi Kentaro hớp bia.
Mấy ngày gần đây, mỗi khi nhớ lại lúc đó, tôi liên tưởng đến chiếc mặt nạ kịch Noh. Nếu để mặt nạ Noh ở vị trí thẳng đứng ngay trước mặt ta, dưới ánh sáng bình thường, bên ngoài không gian một vở Noh, ta thấy nó chỉ là bộ mặt vô hồn, bất động, không có sự sống nào ẩn bên trong và cho ta thấy cảm xúc của nó. Nhưng khi nó nằm trên khuôn mặt một nghệ sĩ bậc thầy, khi nó được dịch chuyển theo những góc độ khác nhau và tốc độ khác nhau thuận theo cử động đầu của nghệ sĩ, kết hợp với những mảng sáng tối thay đổi dưới tác động của ánh sáng, chiếc mặt nạ bỗng hóa thành sống thực và có sức biểu cảm đáng sợ... Bây giờ tôi nhận ra rằng tất cả hành động và cử chỉ của Huệ tối hôm đó, kể cả của miệng và các cơ mặt, là những biểu cảm phong phú khác nhau dưới tài nghệ của nghệ sĩ bậc thầy kia, duy có cặp mắt Huệ thì chính là bộ mặt trơ trơ còn lại khi nghệ sĩ đã đi mất. Thế nhưng điều đáng nói là bên dưới cái mặt nạ trơ trơ kia giờ là khuôn mặt thật của một người khác, không phải của nghệ sĩ mà của Huệ, khuôn mặt thật nhất của Huệ, cái gần hơn cả với bản chất của thực tại, và khuôn mặt đó là cái tôi chưa thể thấy, tôi muốn thấy.
Một lúc sau chúng tôi không nói gì nữa. Chỉ có tiếng hai lon bia của chúng tôi được nhấc lên đặt xuống chạm khẽ vào mặt bàn hay sàn nhà, tiếng nhai chậm rãi của chúng tôi, và âm thanh kèn kẹt khó hiểu nào đó trên trần nhà.

***

Trên đường về nhà Huệ nói gì? Kentaro hỏi.
Đồng hồ đặt trên bàn làm việc chỉ 10 giờ 30.
Nếu muốn thì ngủ lại đây, Kentaro nói.
Có một gã to con đặt tay lên ngực Huệ, tôi nói. Ngay cả khi đó Huệ vẫn có vẻ chưa thực sự nhớ ra mình đang ở đâu. Cũng may là bảo vệ vũ trường xuất hiện đúng lúc, không thì có trời biết sẽ xảy ra chuyện gì.
Huệ biết đấy, Kentaro nói.
Tôi ngoảnh sang y. Y không nhìn tôi.
Khi chia tay đêm đó, Huệ cám ơn tôi vì tôi đã cố gắng hành xử một cách tốt nhất, vì tôi đã ở bên cô và chịu đựng cô. Tôi kể điều đó cho Kentaro nghe.
Khi rời vũ trường tôi cởi sơ mi khoác lên người Huệ. Cô không phản đối, lẳng lặng luồn hai tay vào ống tay áo rồi cài hết cúc. Áo hơi rộng so với Huệ tuy dài thì không vì Huệ cao xấp xỉ tôi. Trên người tôi còn áo thun. Trời se lạnh. Suốt đường về Huệ im lặng. Tôi nghe tiếng Huệ thở đều sau lưng tôi. Ngực Huệ rắn, mềm cọ vào lưng tôi. Tôi cảm thấy chiếc áo của mình đã thành một phần da thịt của Huệ. Điều này tôi không kể cho Kentaro.
Khi chia tay Huệ trước ngõ nhà cô, tôi nhìn thẳng vào mắt cô và nhận thấy cũng vẫn cái vẻ ấy, như thể cô ở bên ngoài mọi thứ xung quanh. Song lần này trong đầu tôi lóe lên một cảm nhận khác: rằng, hơn cả nghệ sĩ bậc thầy, cô là tác giả bậc thầy và tối hậu đằng sau vở diễn này, mà cao trào là lúc cô giật phăng cúc áo giữa vũ trường và mục đích cuối cùng, duy nhất của vở diễn này là đẩy nhanh tới một cái gì đó, mời gọi cái gì đó hay kẻ nào đó đến. Có thể tôi sai, song ý nghĩ đó bắt đầu bám chặt vào tôi như một thứ hồ dán. Điều cuối cùng này tôi kể với Kentaro.
Nói nghe, Kentaro nói. Cậu muốn làm tình với Huệ phải không?
Nghe đoạn, tôi ngoảnh về phía cửa sổ. Ai đó cưỡi xe máy phóng vèo qua dưới phố như kẻ cướp chạy trốn cảnh sát. Mãi lâu sau khi xe qua khỏi, tiếng rú ga chói ráy tiếp tục rạch một đường sâu vào im lặng của đêm và của tôi.
Cậu thường nói chuyện gì với cô ấy? Kentaro nói.
Tôi im lặng một chút, nhìn cái bóng gù gù của Kentaro in trên tường.
Nhiều thứ... Đủ thứ chuyện, tôi nói. Tình hình trong nước. Tình hình thế giới. Tội phạm vị thành niên. Quan to tham nhũng vô độ. Bảo tồn cá voi. Lại chiến tranh. Danh sách Forbes. Thích Nhất Hạnh. Điện ảnh. Văn chương. Salsa...
Về những điều tiên tri của Huệ nữa chứ.
Vâng. Về những điều tiên tri.
Còn về tình yêu? Đàn ông và đàn bà? Sex? Có hay không?
Tôi im lặng.
Có lần tôi nói với Huệ, cô ấy là một trong những phụ nữ hoàn hảo nhất tôi từng biết.
Chỉ có thế, Kentaro nói.
Chỉ có thế.
Kentaro im lặng. Đâu đó sau những bức tường vang lên tiếng búa. Tiếng búa đều đặn theo nhịp ba, đầu tiên hai lần nhẹ liền nhau, ngừng một chút, sau đó là một cú mạnh, đanh, dứt khoát.
Mày đã bao giờ nghe xoài chín rụng trong vườn chưa?
Tôi từng nghe câu hỏi tương tự thế từ một người khác, tôi không nhớ ai. Chưa bao giờ, tôi bảo Kentaro. Căn nhà tôi ở với ba mẹ từ nhỏ đến lớn tại Sài Gòn chỉ có khoảnh sân nhỏ xíu vừa đủ cho dăm chậu cây cảnh và chiếc Vespa của ba tôi vào lọt. Khu vườn nhà ông bà ngoại tôi ở Huế mà thỉnh thoảng tôi về thì rộng song chẳng có cây xoài nào. Thực ra, toàn bộ cây trái trong vườn đã bị đốn sạch sau khi tôi về đó lần đầu tiên hồi năm tuổi, lần ấy, ấn tượng mạnh nhất còn lại với tôi đến giờ về cây cối trong khu vườn là bóng râm mênh mông, ẩm ướt, lạnh toát của chúng.
Lần cuối cùng mày lắng nghe là khi nào?
Tôi hiểu Kentaro muốn dẫn tôi đến đâu. Tôi không hứng thú với điều đó. Nhưng không phải vì vậy mà tôi im lặng. Tôi im lặng do không tìm được câu trả lời.
Nói tớ nghe, mày có muốn nhìn thấy máu chảy từ cặp vú của Huệ không?
Không, tôi buột mồm, ngẩng lên nhìn Kentaro.
Nói lại lần nữa: Có hay không?
Tôi im lặng.
Mày muốn thấy cái đó hơn hay là muốn thấy cái mà Huệ thấy hơn?
Cả hai, sau một thoáng im lặng, tôi nói.
Kentaro không có vẻ đang nghe tôi. Y nhìn lên trần nhà hoặc cái gì đó bên trên mái nhà, song lần này mặt y có một vẻ khác, như thể đang nhớ lại một việc cần làm, một cái gì đó không được quên.
Ta đi thôi, y nói.
Tôi không bất ngờ trước lời mời hay mệnh lệnh đột ngột này. Phần nào đó trong tôi đã biết trước và chuẩn bị sẵn cho điều này.
Tranh của Ricardo Renedo
***

Kentaro gọi taxi. Nơi đến: Tháp Đôi Hà Nội. Xe mang chúng tôi rời khu phố cổ, băng qua Nhà hát Lớn, xuôi phố Lê Thái Tổ về phía vườn hoa Tăng Bạt Hổ, rẽ qua phố nhỏ Nguyễn Huy Tự rồi đổ ra đường trên mặt đê. Đích đến của chúng tôi là khu đô thị mới Việt Thường bên kia cầu Vĩnh Bình nơi có tòa Tháp Đôi nổi tiếng khánh thành năm ngoái.
Tháp Đôi Hà Nội, “công trình xây dựng kỳ vĩ nhất Việt Nam thế kỷ 21”, kém Tháp Đôi Petronas về chiều cao, song, “hơn hẳn về vẻ đẹp tinh tế và cốt cách cao nhã”. Tôi chưa từng leo lên nhà hàng Zenith gần đỉnh tháp, nghe bảo vào những ngày trời quang, ngồi trên đó có thể thấy rõ những bãi cỏ xanh của sân gôn Sóc Sơn hoặc, nếu trời đặc biệt tốt, thấy được cả Nhà thờ Đá Ninh Bình, chỉ có điều phải định hướng tốt thì mới nhận ra được bởi khi đó, Nhà thờ Đá trông như mẩu bánh xốp bị ỉu. Tôi cứ nghĩ Kentaro sẽ kéo tôi lên đó, nhưng y bảo chúng tôi sẽ lên Café Mughal ở quãng giữa Tháp Trái. Cũng như nhà hàng Zenith, tôi có nghe nói đến Café Mughal song vào đó thì chưa. Nó “được bài trí theo phong cách uy nghi sang cả của cung đình Ấn Độ dưới triều Hoàng đế Shah Jahan thuộc đế chế Mughal vào thời đại hoàng kim”.
Giờ tôi đứng bên trong nó, như trong một game ba chiều mới ra lò. Chúng tôi ngồi tại một bàn trống cạnh cửa sổ. Trên tường, bên phải, một bức tranh to bằng người thật mô tả cặp tình nhân lừng danh Radha và Krishna. Những nếp gấp nơi váy Radha cũng có vẻ đầy hơi ấm giống như chiếc ghế bành mềm tôi ngồi. Từng vật quanh tôi, từ cái chân bàn bằng hợp kim đồng thau, cho tới cái ly bằng thứ chất liệu trông như sứ trắng lốp dường như tuyệt đối vô trùng trong tay tôi, đều phô ra một sự hiện diện mãnh liệt và hiển nhiên đến độ chính vì vậy hình như chúng bớt thực hơn và tôi cũng bớt thực hơn. Trong nháy mắt tôi có cảm tưởng mình như hình nhân bằng giấy, không thể che cho ngọn lửa diêm trước gió.
Yên tâm, lát sẽ ổn, Kentaro nói.
Kentaro quen thuộc nơi này hơn tôi, từng có mặt ở nhiều nơi khác nhau trên thế giới hơn tôi. Với y các thế giới đó đều thực hoặc đều không thực như nhau. Để rứt khỏi trạng thái vừa rồi, tôi nhìn về phía cửa sổ. Từ tầm cao này có thể thấy trọn vẹn đô thị mới Việt Thường và hầu như trọn thành phố Hà Nội về đêm.


Theo yêu cầu của Kentaro, bồi bàn đến đưa cho y một chiếc ống nhòm.
Anh dùng cái này để săn gì vậy? Một kiều nương xinh đẹp à? tôi nói.
Tao thích dùng ống nhòm ngắm thiên hạ, Kentaro nói. Lần đầu tiên y dùng đại từ “tao” khi nói chuyện với tôi. Tuy nhiên giọng y không đổi, cũng như cái nhìn của y hướng vào tôi qua cặp mắt nâu sẫm.
Ai tao cũng nhìn, Kentaro nói. Người đi xe máy trên đường, người đi bộ trên vỉa hè, rẽ vào quán xá cửa hàng. Người ngồi trên ban công căn hộ nhà mình, ở khu chung cư cao cấp Vĩnh Tuy. Người ngồi trong văn phòng, cạnh cửa sổ, làm việc đến tối mịt, chắc là phải hoàn thành gấp bản báo cáo hay thuyết trình nào đó. Những kẻ nhìn từ khoảng cách xa như vậy có cái gì đó khác với những kẻ ta nhìn từ cự ly gần. Theo mày đó là cái gì?
Tôi im lặng.
Tao thấy họ đáng yêu hơn, vì họ mong manh hơn. Khi họ không biết mình đang bị ai đó theo dõi, họ sống thật với chính mình hơn và gần cái chết hơn. Nhiều khi tao tự hỏi tại sao qua ống nhòm lại không thể nhìn thấy những thứ như các đường kinh mạch chẳng hạn, các huyệt đạo, các luân xa bên trong mỗi người. Hoặc cái ánh sáng mà mỗi người đều phát ra không nhiều thì ít. Dĩ nhiên, để thấy được những cái đó thì vấn đề nằm ở cặp mắt chứ không phải ở công cụ. Huệ của mày nhìn thấy được chăng?
Thử xem, y hất cằm về phía chiếc ống nhòm trong tay tôi, đồng thời tay phải y phác một cử chỉ, mơ hồ nhưng chuẩn xác, về hướng nào đó phía sau tôi.
Kia là tòa nhà Talcom, y nói. Còn đằng kia, y trỏ ngược về phía sau, là khu dân cư cao cấp Vĩnh Tuy. Còn kia, y khẽ xoay đầu về bên trái, là chung cư Đền Lừ. Từ cao độ này thì chỉ nhìn xa được đến thế thôi, y nói. Cả một khối người, y dừng một tí, cả một khối người không ngờ vực gì, không hay biết gì, để cho mày nhìn.
Bên trong mỗi tòa tháp trong cặp Tháp Đôi là một giếng trời khổng lồ thông từ tầng hầm để xe dưới cùng trong lòng đất lên tận chóp trên cùng, càng lên cao càng vuốt hẹp, chếch về phía tháp đối diện, giống như lòng một con ốc vặn khổng lồ. Đây đó trên vách giếng trời này, cách nhau những quãng không đều, xếp dọc theo những đường xoáy trôn ốc vô hình chồng chéo nhau một cách có vẻ nhằng nhịt song tất cả đều hướng về điểm mút trên cùng, là những ô thụt vào to nhỏ khác nhau, hình lục giác đều giống như các ô trên mặt tổ ong, hoặc hình tròn như những “nốt rỗ” trên mặt miếng phó mát Emmental, tất cả dệt thành một mạng họa tiết liên hoàn đa tuyến hướng tâm, vừa rối rắm vừa hài hòa, vừa bề bộn vừa tinh tế, vừa phóng túng vừa nhất quán, vừa có vẻ tung tóe như một nắm hạt trai vãi bừa lên mặt đất, vừa có vẻ đầy ý thức về trật tự và tiết điệu như những chấm tròn trang trí trên cơ thể người châu Úc bản địa. Về thực chất, mỗi ô lục giác đều hoặc ô tròn đó là một không gian kín mà diện tích có thể hàng trăm mét vuông. Café Mughal là một trong hàng trăm ô như vậy: một phía của nó là bức tường bằng kính khổng lồ nhìn ra bầu trời, đối diện nó là một bức tường bằng kính khổng lồ hình lục giác đều, cao từ sàn đến chấm trần, trông ra giếng trời kia. Ban nãy, khi cùng Kentaro di chuyển từ tầng trệt lên tầng cao này trong một lồng thang máy hình trụ bốn bề lắp kính màu xám khói, tôi đã băng qua những ô tròn trong đó là cửa hàng thời trang cao cấp, qua những ô lục giác trong đó là quán ăn Nhật, nhà hàng Thái, qua những ô tròn trong đó là quán bar hoặc thẩm mỹ viện hoặc trung tâm gym yoga và zumba, qua những ô hình quả trám trong đó vài chục người ăn mặc chỉnh tề ngồi trước những dãy bàn có vách ngăn thấp, kẻ gõ máy tính, người quát vào điện thoại, người khác đi đi lại lại xoay xoay cây bút trong tay, chẳng hiểu là loại công ty hay tổ chức nào làm việc lúc hơn 11 giờ đêm, có chăng là một tòa soạn báo hay một tiểu ban cảnh sát ngụy trang thành doanh nghiệp, qua một ô tròn trong đó là rất đông người, hình như toàn phụ nữ, ngồi quây tròn quanh một bục nhỏ cao cao kê giữa, trên bục là một cô gái ăn mặc hơi lạ đang há to miệng cất lên một cái gì đó, không hiểu là đang hát, ngâm thơ, đọc thần chú hay đang xướng một đoạn đầy cảm xúc trong một lớp kịch. Bức vách kính màu xám khói của buồng thang máy, bức tường kính của cái ô tròn kia, và khoảng cách lớn giữa hai bên, khiến tôi không thể nhìn rõ hơn xem cô gái mặc gì - hình như có phần giống cô gái Bắc Ninh mặc áo tứ thân, lại cũng hao hao như y phục thường thấy của vũ công flamenco.
Tôi đề nghị Kentaro cùng tôi chuyển sang ngồi dọc bức tường kính nhìn ra giếng trời. Kentaro đồng ý, không hỏi tại sao. Tôi nhìn mãi mà không thấy bàn trống nào như tôi muốn. Ngần ngừ một chút, tôi bảo Kentaro ngồi đợi trong khi tôi lại đằng kia quan sát. Tôi muốn tìm lại cái ô tròn có những phụ nữ ấy. Nếu tôi không lầm, nó nằm dưới ô lục giác nơi chúng tôi ngồi khoảng dăm tầng gì đó, và từ đây, với ống nhòm này, tôi có thể dễ dàng tìm lại nó, nhìn kỹ hơn, bởi, khác với ban nãy, lúc này tôi cũng đứng yên giống như nó. Song tìm ra cái ô tròn đó không dễ như tôi tưởng, bởi có quá nhiều ô tròn cũng như quá nhiều ô lục giác và rất nhiều dạng cấu trúc khác nữa mà ban nãy, đứng trong buồng thang máy, tầm nhìn hẹp, tôi không thể bao quát hết. Lúc này tôi cần phải kiên nhẫn, chia đối tượng ra thành từng mảng, xem xét và loại dần từng mảng một, giống như khi chơi trò đi qua bãi mìn. Một trong những yếu tố giúp cho việc tìm kiếm của tôi, ấy là các ô này khác nhau không chỉ về hình dáng (tròn hay lục giác hay gì khác) mà cả về màu sắc lớp tường kính: màu xanh lơ, màu xanh da trời, màu xanh ngọc, màu vàng mơ, màu cam nhạt, màu phớt tím, màu be, màu khói loãng. Dĩ nhiên ban nãy tôi đã không thể xác định màu của cái ô tròn kia do bị ngăn cách bởi bức vách màu xám khói của buồng thang máy, song bây giờ, qua tường kính trong suốt, tôi có thể phân biệt rõ tất cả các màu và sắc độ khác nhau kia, và có thể gộp nhóm các ô tròn theo màu sắc rồi quan sát và loại dần từng nhóm một. Đó như một trò chơi, một thứ game trực tuyến mà tôi tự dấn vào, song tôi cũng không khỏi cảm thấy có một bàn tay nào đó lớn hơn tôi nhiều đã tạo ra cuộc chơi này, và tôi là một phần tử nhỏ ngẫu nhiên (hoặc không ngẫu nhiên lắm) được sử dụng trong cuộc chơi. Càng tìm tôi càng cảm thấy dường như đang có sự thông đồng nào đó chống lại tôi: cái ô tròn tôi đang tìm kỳ thực là liên tục thay hình đổi dạng, đổi màu sắc, đổi vị trí; nếu không thì chẳng có lý gì tôi đã quan sát kỹ và lâu đến vậy mà vẫn không tìm ra. Song, đúng lúc tưởng như tôi đã mất hết kiên nhẫn hay mất hết hứng thú với trò chơi này thì, rốt cuộc, tôi thấy nó.
Hẳn trước đó tôi đã lướt qua nó song không nhận ra. Không rõ tại sao lúc này tôi nhận ra và cảm thấy đúng là nó, dù căn phòng giờ đây không một bóng người. Không có chiếc ghế nào, dù đặt giữa sàn hay kê sát vào tường - nếu tôi nhớ không lầm thì ban nãy các phụ nữ kia (khoảng hai ba chục người) ngồi trên thứ ghế nhựa thường thấy ở quán cà phê bình dân. Cũng không có chiếc bục nào. Dĩ nhiên, khoảng thời gian tôi ngồi với Kentaro đến giờ đủ lâu để những người kia làm xong việc họ làm, sau đó ra khỏi phòng mang theo cả ghế lẫn bục, nhưng không hiểu tại sao trong tôi dâng lên một linh cảm bồn chồn rằng sự thật không phải như vậy. Sự trống rỗng của căn phòng lúc này có một phẩm tính khác biệt, tuân theo những quy luật khác, theo đó thì ghế kia, bục kia có biến thành không khí cũng hợp lẽ. Hoặc có thể khung cảnh tôi thấy ban nãy thuộc về một thực tại khác, còn sự trống không này là một thực tại khác chăng?
Tôi bỏ ống nhòm, nhìn bằng mắt thường. Tuy nhìn bằng mắt thường ô tròn đó chỉ bằng cỡ trái táo, tôi vẫn có thể thấy bên trong nó cũng một sự trống không đó. Sự chuyển hóa kia chẳng phải là do có hay không có ống nhòm.
Tôi lại nhìn vào ống nhòm. Một cách vô thức, tôi muốn tìm một khác biệt tối thiểu nào đó, chẳng hạn sự khác nhau giữa màu sắc và mật độ bụi giữa những vùng khác nhau trên sàn phòng, khả dĩ gợi ý rằng từng có những đồ vật - đặc biệt là cái bục - đặt lên trên đó cách đây không lâu và mới được cất đi. Một cảm xúc mãnh liệt thắt tim tôi, giống như nỗi nhớ chốn quê nhà tôi không bao giờ quay lại được, thậm chí không thấy được một cái gì gợi nhớ về nó.

***

Sao, có thấy cái mày muốn thấy không, khi tôi ngồi lại vào bàn Kentaro hỏi.
Tôi đặt ống nhòm xuống. Trong một thoáng tôi muốn giữ nguyên bàn tay trên ống nhòm, song tôi bỏ ra, cầm ly đồ uống nãy giờ chưa đụng tới.
Tao quên hỏi mày dùng ống nhòm bao giờ chưa. Nhưng nếu không nhìn thấy thì có lẽ không phải vì ống nhòm, Kentaro nói.
Đúng vậy, tôi nói.
Kentaro xát xát đầu mũi.
Để tao nói xem mày sẽ nghĩ tới điều gì nhé, y nói. Mày sẽ nhớ tới truyện ngắn của một nhà văn Nhật, trong đó có hai tay đàn ông ngồi trên lầu cao dùng ống nhòm quan sát một cô gái trên hè phố.
Edogawa Rampo, tôi nói.
Sau đó thì thế nào?
Đó không phải câu hỏi, vì Kentaro và tôi biết câu trả lời. Tôi có thể hình dung cảnh tôi nhờ người bạn ra đứng cách tôi một quãng, cầm ống nhòm xoay ngược lại và thu tôi vào ống kính, bằng cách đó sẽ xảy ra một sự chuyển hóa và tôi sẽ thu nhỏ lại, lọt vào cái thế giới đang vuột khỏi giác quan của tôi kia, thế giới chứa đựng cô gái mà tôi đã thấy đang đọc, ngâm, hát hoặc xướng hoặc kêu lên gì đó giữa các phụ nữ ngồi quanh, với một biểu cảm khó tả trong tư thế cơ thể khiến tim tôi thắt lại vì một nỗi đau và sự lo mơ hồ.
Anh cho rằng có thể làm vậy à?
Tự mày phải tìm câu trả lời, Kentaro nói. Chẳng phải nhân vật chính trong truyện cũng như vậy sao.
Nói đoạn Kentaro nhìn đi chỗ khác, xát xát đầu mũi. Bỗng tôi ước gì có Huệ ở đây. Không như Kentaro lúc nào cũng nhìn thấu tâm can tôi và đồng thời bỏ mặc tôi trong hoang mang, Huệ sẽ giúp tôi, một cách dịu dàng và bao dung. Huệ có thể giúp tôi. Huệ đã thấy bao nhiêu thứ tôi không thể thấy mà chẳng cần đến ống nhòm… Nhưng chẳng phải chính tôi đã thấy một cái răng heo rừng bằng ánh trăng đó sao?
Kentaro chợt nói:
Nhớ câu này trong phim Tarkovsky không, ‘Loài người tồn tại là để làm ra tác phẩm nghệ thuật’?
Phim nào nhỉ?
“Stalker”.
Phải, hình như có câu ấy.
Cố nhiên là có người nói, chỉ có bọn nghệ sĩ tự cho mình là tinh hoa và trung tâm của nhân loại thì mới nghĩ như vậy. Kể cũng có lý. Tuy nhiên, nghĩ kỹ, mày sẽ thấy ông đạo diễn cự phách kia chỉ là đang phát biểu một sự thật có tính nền tảng. Đúng. Loài người hiện hữu chẳng để làm gì hết nếu như trong tất cả những thứ khá khẩm nhất họ làm ra chẳng có cái nào là tác phẩm nghệ thuật.
Chú mục vào cái ống nhòm trên bàn, Kentaro nói:
Tao để ý, lúc mới thấy cái ống nhòm này lần đầu tiên, mày ngỡ ngàng như gặp một tác phẩm nghệ thuật. Ừ, đúng. Nó đẹp. Những phát minh công nghệ tân kỳ nhất, choáng người nhất cũng chẳng là gì nếu chúng không đồng thời là tác phẩm nghệ thuật, nhất là nếu nó có mặt đó để phục vụ con người bình thường. Cú lao máy bay vào Tháp Đôi New York, nó in sâu vào tâm trí tao không phải vì số người nó giết mà vì nó đạt tới sự hoàn hảo của tác phẩm nghệ thuật. Nếu nhìn từ xa, nhìn từ khoảng cách vũ trụ, thì chẳng phải loài người hiện hữu chẳng để làm gì nếu bản thân sự hiện hữu của họ giống như là một tác phẩm nghệ thuật hay sao? Cố nhiên, làm ra tác phẩm nghệ thuật theo nghĩa hẹp không phải là việc mà bất cứ ai sinh ra làm người đều phải đảm đương. Đại đa số loài người chỉ đóng vai trò chất liệu cho một số ít người làm ra tác phẩm nghệ thuật mà thôi, cố nhiên từ ‘chất liệu’ này cần phải hiểu cho đúng. Rồi thì số ít này, họ không thể thoát khỏi cái phận chung của loài người, không trừ một ai, là có mặt trên đời để làm chất liệu, không hơn.
Chất liệu của cái gì?
Của cái gì à? Của cỗ máy phát triển. Của vận động tiến hóa. Của vực xoáy ngẫu nhiên. Thể xác mày có thể tiêu tán vì cú đâm của một thằng ăn trộm hay dưới bánh xe của một tài xế thiếu ngủ. Tinh thần của mày, nếu nó đủ mạnh, sau hai ngàn năm nữa nó vẫn còn nguyên đó, giống như Ý niệm của Plato. Cuộc hiện tồn của loài người là một lò luyện khổng lồ, hoạt động không ngừng, ngốn vật liệu và năng lượng khôn kể, để cho ra mỗi lần dăm ba tinh thể kim cương vũ trụ giống như vậy. Nói gì thì nói, tao sắp chết.
Y đang chăm chú nhai, mắt tập trung vào điểm nào đó trên dĩa xà lách cá hồi ăn đã gần hết. Dáng vẻ y có thể khiến tôi cho rằng, 1) tôi vừa nghe nhầm, hoặc 2) tôi tưởng tượng mình đã nghe gì đó như vậy. Rồi tôi nhớ lại các tử tù trước khi ra dựa cột hoặc lên ghế điện cũng có thể ăn bữa cuối cùng của mình một cách chú tâm, ngon lành và thản nhiên như vậy. Hitler, trong một bộ phim về những ngày cuối cùng của ông ta và nước Đức quốc xã, đã ngốn sạch bữa cuối cùng trước khi chết như thể cả đời chưa bao giờ được ăn.
Chính xác là khi nào?
Tao không biết. Điều đó tùy thuộc nhiều nhân tố ngoài tầm kiểm soát của tao.
Anh biết điều đó từ bao giờ? nuốt xong muỗng xúp và chiêu ngụm nước, tôi hỏi.
Gò má trái Kentaro giật một cái. Y im lặng lâu trước khi trả lời.
Tao không biết phải bắt đầu từ đâu. Song nếu sau này có lúc nào đấy mày nhớ lại về tao, tao mong mày hãy nhớ rằng tao đã luôn luôn muốn nói toàn bộ sự thật... cho mày… cho ai đó… về …
Và y nói ra một từ hoàn toàn xa lạ với tôi. Nó có hai âm tiết ya và gan khá rõ, tuy nhiên trước đó là một âm tiết i mà tôi không biết có ý nghĩa gì, viết như thế nào.
Xin lỗi? tôi nói.
Kentaro lại chú mục vào một điểm trước mặt, lần này hình như ở trên ly nước đã uống gần hết, và một lần nữa tôi có cảm giác Kentaro đang phân vân không biết dùng tay phải hay tay trái để cầm lấy ly.
Anh có thể nhắc lại từ anh vừa nói không? Nó là cái gì?
Y nhúng ngón tay vào chén nước xốt, viết lên khăn trải bàn. Tôi nhìn. Nó là mấy âm tiết y vừa nói. e-Yaghan. Từ bề mặt khăn trải bàn trắng lốp, nó nhìn lên tôi, như một con vật lạ đến từ thế giới khác, nhìn tôi như muốn nói rằng lẽ ra tôi phải nhận ra nó ngay.
Khi tới lúc thì mày sẽ biết những gì cần biết về nó... Kentaro nói.
Tôi nghĩ một chút về điều y vừa nói.
Vậy, tại sao anh nói ra đúng lúc này?
Lỡ như tao không còn cơ hội nào khác thì sao? Y ngừng, như hơi bị nghẹn họng. Nếu bây giờ tao không nói mà năm phút nữa tao chết thì có phải mày sẽ không bao giờ biết tao đang muốn nói chuyện đó với mày, phải không? Đừng nhìn tao như thể mày không biết rằng ở trong cái thế giới này bất cứ phút nào tao hay mày cũng đều có thể chết.
e-Yaghan, tôi nói, nhìn xuống cái tên Kentaro viết bằng nước xốt trên mặt bàn. Nó là cái gì đó tác động rất lớn đến anh hiện giờ, kể cả là chuyện sống chết, phải không?.. Và chắc hẳn liên quan đến tôi… không thì tôi không việc gì phải biết tới nó.
Đương nhiên mày phải biết tới nó, Kentaro nói to, cáu kỉnh bất ngờ. Hai ba người ở bàn khác quay lại nhìn. Mắt Kentaro đột ngột rời xa tôi, mặt y sẫm lại như lọt vào vùng khuất ánh đèn. Trong nháy mắt dường như linh hồn Kentaro cũng lùi vào vùng khuất, nhập vào bóng tối, và cái thể xác đang thở, động, nói trước mặt tôi chỉ là con rối điều khiển từ xa bởi cái gì khác, không phải bởi linh hồn này. Chữ e-Yaghan màu đỏ y viết trên mặt bàn trông như hình ảnh thị hiện của cánh cửa không bao giờ mở ngăn giữa y và tôi. Tôi nín thở, làm như bằng cách này tôi có thể ghìm lại khoảng cách giữa chúng tôi. Giống như dùng tay không ghìm lại sự giãn nở ngược hướng nhau của hai thiên hà.
Tại sao anh chết? Cái gì làm anh chết? tôi nói. Và, sau một thoáng dừng: Có phải do e-Yaghan?
Y nhìn tôi, mắt vằn đỏ. Một người đi ngang sau lưng y, gần như hích vào lưng ghế, cùi chỏ thiếu chút nữa va vào mé đầu của Kentaro. Y quay lại nhìn, với vẻ mặt của kẻ liệt toàn thân, nằm lẻ loi, nhìn con bọ cạp bò lên người mình. Tôi chợt nhớ một cuốn sách từng đọc trong đó có người tử tù, trên đường ra bãi xử bắn, để ý đến màu sắc một con thạch sùng trên cây, như thể đây là lần đầu anh ta thấy nó.
Tao muốn nói với mày về vô số thứ khác… Kentaro nói. Tao biết tao có thể nói với mày về vô số thứ… Mày lắng nghe, sẵn sàng cảm thông, nỗ lực để hiểu và không phán xét. Có người như mày trên đời thì cũng đáng cho tao có những thứ để nói. Nhưng tao buộc phải nói với mày về e-Yaghan. Thay vì nói với mày về cái đẹp và tình yêu, tao nói với mày về e-Yaghan, buộc phải nói về nó, về căm hận, phải, tao căm hận nó. Tao…
Sau chữ ‘tao’ này Kentaro chết. Tôi đỡ lấy y, áp tay lên ngực y, kề ngón tay dưới lỗ mũi y, nhận ra y đã tắt thở, tim đã ngừng đập. Mắt y đứng tròng, môi thâm lại như thịt thối. Sức nặng của một cái gì thật lớn, không thể hiểu, không thể cưỡng, thông qua thân thể bất động của y đè lên thân thể tôi.
Nay nhìn lại, một trong những câu hỏi chưa có lời đáp là, liệu ngay trước khi Kentaro và tôi lên đường đến Tháp Đôi Hà Nội, y có biết rằng không quá hai tiếng đồng hồ sau y sẽ chết không? “Tao sắp chết”, y có nói. Nhưng phải chăng từ “sắp” đó cũng có thể hàm ý một thời hạn dài hơn, một ngày, một tuần, hai tuần? Có phải chỉ là ngẫu nhiên khi kết cục đó xảy ra lúc y đang ở cùng tôi? Có phải y cố tình ràng buộc tôi vào đoạn kết số phận y? Hay đó là do một cái gì đó lớn hơn y định đoạt, và cả y lẫn tôi chỉ đang diễn vai mình trong một phần nhỏ cuộc chơi của nó?


Tôi không nói gì về e-Yaghan khi trả lời thẩm vấn của cảnh sát quanh cái chết của Kentaro. Khám nghiệm pháp y không phát hiện bất cứ độc tố nào, căn bệnh nan y nào, tác nhân gây chết người cấp kỳ nào ở Kentaro, và tôi biết mình trả lời như vậy là đúng. Vụ việc nhanh chóng được khép lại với kết luận: “Đột tử vì lý do chưa thể xác định, loại trừ khả năng bị ám sát”. Chỉ sau khi y chết tôi mới biết những đồn đại rằng Kentaro xuất thân từ một gia đình giàu có và thế lực không phải là đồn suông. Một quan tài bằng thép, một chuyên cơ và một đoàn hộ tống khoảng bốn mươi người được cử sang để đưa thi hài y về Nhật. Tôi không có mặt tại chỗ khi người ta đưa y lên chuyên cơ, nhưng theo lời một người bạn phóng viên, cái chết của Kentaro giống như cú vung đũa của nhà ảo thuật, khiến cho từ trong mũ của anh ta tuôn ra kìn kìn cả một bầu đoàn đông đảo những nhân vật mà thường người ta chỉ thấy trên báo đài và trong phim: chính trị gia, minh tinh điện ảnh, doanh nhân cỡ bự, yakuza, tất cả chen vai thích cánh bên nhau như một đoạn băng ghép ngộ nghĩnh và đáng ngờ về các phần tử đang cầm chịch thế giới. Và bằng cách nào đó tôi dự cảm rằng chuyện giữa Kentaro và tôi chưa kết thúc.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 11, 2025 20:49
No comments have been added yet.


Trần Tiễn Cao Đăng's Blog

Trần Tiễn Cao Đăng
Trần Tiễn Cao Đăng isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Trần Tiễn Cao Đăng's blog with rss.