Ofrangan (trích từ "Ngoại truyện Gurun" đi kèm với tiểu thuyết "Cospolist Nổi Loạn" của tôi, sẽ in trong năm 2023)

Ofrangan nghe trong gió hương thơm của một loài hoa lạ không ai biết hoa gì, và chàng mơ hồ hiểu đó là dấu chỉ rằng chàng rồi sẽ ra đi, dấn vào cuộc phiêu lưu lớn đầu tiên và duy nhất của đời chàng.

Phương xa, nơi mà nếu may mắn chàng sẽ gặp những góc nhỏ ngào ngạt những mùi hương chàng chưa từng biết, không chỉ hương hoa, và nơi mà kể cả dù được thần may mắn hộ trì chàng có thể sẽ chết.

Phương xa, hương đậm, cuồng hoan, cái chết. Đó là bản bi-tráng ca mà chàng sẽ tạo nên bằng cuộc đời chàng.

Có lần, hồi bảy tuổi, chàng theo anh trai Shenjuren trèo lên cội cây cao nhất trong điền trang gia tộc. Không ai biết tuổi của Cây. Hồi đất này được sáp nhập vào điền trang, thời ông tổ bốn đời của anh em chàng là Cây đã có đó rồi, thân sáu bảy người ôm, rợp bóng đủ ba trăm người nương náu lúc trời nắng gắt. Tuy nhiên chẳng mấy ai có thể đứng trong bóng râm của Cây với con tim bình thản, hầu hết họ ít nhiều rùn lại bởi một niềm kính sợ giống như niềm kính sợ khi nhìn ngọn núi cao nhất. Có một người (loại này ở đâu và thời nào cũng có) phản kháng niềm kính sợ này bằng cách lấy dao khắc họ tên mình lên thân Cây và, ba ngày sau, bị sét đánh chết tức thì trong một cơn mưa. Không cần phải nói rằng từ đó trở đi không ai dám động đến Cây, cũng như không ai từng dám liều mạng trèo lên Cây, hoặc nếu có thử thì không đủ lớn cật hoặc không còn sống để kể lại. Từ tấm bé, mọi thành viên gia tộc đều được dạy về sự linh thiêng của Cây, về chuyện kẻ nào phạm đến Cây sẽ bị bắt mất linh hồn và không bao giờ có thể trở về.

Ba láp, Shenjuren nói. Đến cuối đời Ofrangan sẽ không quên chàng cảm thấy thế nào khi nghe câu đó. Nó là câu nói đã quyết định không chỉ cuộc đời ngắn ngủi và chói sáng như sét hòn của Shenjuren mà cả cuộc đời cho đến giờ vẫn lờ nhờ như nước rửa chén nhưng rồi sẽ rực cháy và chói sáng y như vậy của chính chàng. Nhiều năm sau người ta vẫn lạnh gáy khi nghe kể về ngày hôm đó, ngày cuối cùng người ta thấy Shenjuren trên thế gian. Cậu biến mất trên vòm lá tối tựa hang sâu của Cây, không bao giờ xuất hiện lại. Cây xóa Shenjuren khỏi nhân gian giống như cái chết xưa nay xóa lần lượt mỗi người khỏi nhân gian. Phần chàng, Ofrangan, chàng không bao giờ có thể kể ai nghe về chuyện cái gì làm máu chàng đông lại khi chàng leo lên tới chạc ba thứ nhì tính từ gốc của Cây. Gọi đó là nỗi sợ thì cũng giống như gọi lớp bọt đầu ngọn sóng là biển và coi đó là toàn bộ biển. Đúng hơn, chính trong khoảnh khắc đó chàng trực nhận ý nghĩa sâu nhất của thế giới, của hiện hữu. Từ khoảnh khắc đó chàng biết.

Sau sự kiện đó, chàng, khi đó bảy tuổi, trở thành một người khác. Đứa trẻ này giữ nguyên trong tâm khảm ký ức của mười ba kiếp trước, một pháp sư lừng danh nói về chàng như vậy một ngày trước sinh nhật thứ mười ba của chàng. Không ai muốn tin lời này. Không ai đủ sức bác bỏ nó. Nhìn chàng, có người nhớ đến câu chuyện về chiếc bình bí hiểm cao bằng đầu người, trong họng nó là bóng tối như đêm, người ta có thể trút vào đó toàn bộ nước của một con sông mà vẫn không đầy đến miệng, như thể bên trong nó là toàn bộ hư không của thế gian. Bên trong thằng bé Ofrangan dường như có một hư không như thế. Vào ngày sinh thứ mười hai chàng chợt nhận ra rằng chẳng biết tự bao giờ không ai từng nhìn thẳng vào mắt chàng. Chàng không phiền lòng vì điều đó, và không lấy làm lạ, chàng biết hoặc mơ hồ cảm thấy rằng một người nhìn bầu trời, nhìn biển, nhìn đồng bằng rộng lớn nhiều hơn nhìn con người thì sẽ mang bầu trời, biển, đồng bằng ở bên trong mình nhiều hơn mang con người ở bên trong mình. Đây là sự trả đũa của người đời một khi ta ít hoặc không quan tâm tới họ, chàng biết. Và như vậy, từ mươi mười hai tuổi chàng đã biết một trong những sự thật sâu xa nhất, nền tảng nhất của loài người: một giống loài gồm chủ yếu là những cá nhân hèn đớn, đê mạt, co rúm lại trước bóng tối, cơn mê dài, giấc mơ sâu, cái chết, những gì không thể biết, cõi vô hạn.

Năm chàng mười ba tuổi ông nội chàng mất, chàng thừa lúc không ai để ý, leo lên giường nơi thi hài nằm chờ nhập quan, nằm cạnh thi hài. Nhờ thân hình nhỏ bé, chàng có thể rúc dưới tấm chăn dày rộng suốt hơn nửa ngày không ai phát hiện. Có lúc, trong bóng tối tịch lặng toàn bích dưới chăn, chàng có cảm giác mình đã nhập làm một với thân xác người chết và, trong cái gì đó như một giấc ngủ sâu và mênh mông ngang với cõi vĩnh hằng, một góc còn le lói cuối cùng của ý thức chàng chợt nhận ra rằng nếu rạng sáng mai người ta cứ thế đưa chàng vào cỗ áo quan đẽo từ thân cây chindagérn ngàn năm tuổi thì đó cũng là điều tốt bởi vì đằng sau cơn ngủ dường như vô biên này là một cõi khác, rộng lớn hơn, khủng khiếp hơn, kỳ diệu hơn cõi đời ngoài kia, mà chàng phải khám phá. Tuy rằng sau đấy chàng đã chui ra khỏi chỗ nằm tuyệt diệu kia, âm thầm không ai thấy, giống như con sâu non nhô ra từ giữa tán lá dày, song, nhiều năm về sau, có những lúc chàng nhớ lại mà nghĩ, biết đâu chuyện sẽ tốt hơn nếu chàng đã nằm lại đó: một phần của chàng sẽ xuống đáy mồ, phần khác của chàng sẽ như gió lùa qua rặng cây ở một cõi khác, như sấm sét giáng xuống bãi biển ruộng đồng ở một cõi khác mà đến chết chàng cũng không mơ thấy được. Mặt khác chàng không hối tiếc mình đã trở dậy quay về với cõi người, bởi trong sâu xa chàng biết một cách mơ hồ rằng ở đây chàng có việc phải làm.

Và như vậy những năm niên thiếu của Ofrangan là một sự chờ đợi không ngừng không mệt mỏi, đợi một dấu hiệu, một cú thúc, một tiếng nói nhắc cho chàng nhớ chàng phải làm cụ thể việc gì để hoàn thành số phận mình. Cứ như vậy chàng chờ đợi, chờ đợi và chờ đợi trong khi lớn lên, trở thành một nam nhi hoàn hảo chưa từng có giữa thế gian, cho đến cái ngày chàng gặp Shireki và Hunzali và biết thời của mình đã tới. Thời của chàng. Thời giấc mơ trở thành thực tại. Thời thực tại trở thành mơ. Thời không còn ranh chia giữa thực và mơ. Thời không còn hôm qua, hôm nay, ngày mai, không còn sáng và tối, không còn tĩnh và động, không còn sống và chết, không còn phải và trái, tất cả là một. Đôi lúc chàng thảng thốt kinh ngạc trước ý nghĩ này của chính mình, nhưng rồi nhanh chóng yên tâm: chàng biết ý nghĩ này thuộc về một cõi lớn hơn chàng vô số lần, và đây chỉ mới là đôi lần đầu tiên nó tự hé lộ cho chàng thôi. Trước thời điểm đó, chàng luôn có một cảm giác mơ hồ, khó giải rằng hình như chàng chưa đủ kích thước, chưa đủ tầm cỡ để làm việc chàng sinh ra để làm. Chỉ sau khi gặp Hunzali và Shireki chàng mới nhận ra rằng không phải vậy. Không phải chàng chưa đủ kích thước, tầm cỡ. Sự thật là: chàng chỉ mới là một phần ba của cái chủ thể chàng cần trở thành. Với hai cấu phần còn thiếu mà bây giờ chàng mới gặp này, chàng-và-họ trở thành một, sinh thể duy nhất, chưa từng có, kỳ vĩ, đầu đội trời, hai chân hai tay ở hai rìa cách xa nhau nhất của đất. Để điều này thành sự thật, có vài việc không bình thường mà chàng phải làm. Những việc mà người phàm không ai có khả năng làm, không ai dám làm, không ai nghĩ tới chuyện làm. Không phải ngay lúc này: chàng biết rằng hiện tại việc của chàng là đợi - thiên cơ sẽ có cách của mình để cho chàng biết khi thời điểm tới. Thế giới này sẽ cho chàng biết điều chàng cần biết vào đúng lúc cần biết bởi thế giới này là mẹ của chàng. Người yêu thương chàng theo cách của Người, điều mà không phải đứa con nào của Người cũng có thể hiểu.

 

***

 

Hai mươi tuổi Ofrangan gặp Tawilgen, nhạc sĩ lang thang người vùng Bongora Leiba, cuộc gặp làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời chàng.

Ofrangan gặp Tawilgen dưới bóng một cây bagrasoya lớn. Có người kể đó là một ngày nắng gắt oi nồng đến độ kẻ đầu trần đi trên đường chợt muốn cắn xé mọi thứ giống như chó dại, người khác thì cam đoan đó là một ngày mưa dầm dề tới nỗi ruột gan người bốc mùi như hai bàn chân mang giày ngâm bùn loãng quá lâu. Dẫu mưa hay nắng, dưới tán lá này là một cõi khác biệt. Tawilgen ngồi đó, quấn tấm vải thô vắt tréo che nửa thân hình gầy nhỏ dường như lúc nào cũng có thể chìm lẫn vào vùng tranh tối tranh sáng mát lạnh như chiều muộn cuối thu. Mắt Tawilgen có một vẻ là lạ, không mở, không nhắm, song vừa thoáng trông Ofrangan đã biết Tawilgen không thấy chàng. Tawilgen thấy chàng bằng một giác quan khác. Tawilgen xoay mặt về phía Ofrangan, và trong đôi nhãn cầu bất động của anh, Ofrangan thấy rõ rằng Tawilgen nhìn thấu tâm can chàng vào cái khoảnh khắc cách đây đã lâu, khi chàng còn niên thiếu, lần đầu tiên hẹn gặp được cô gái chàng si mê và, giáp mặt nàng, chợt nhớ mình quên cài cúc quần. Và Tawilgen biết rõ cái lần chàng ở trong rừng, lắng nghe tiếng hót của con chim mikoryana cuối cùng còn nán lại chưa bắt đầu chuyến thiên di hằng năm dài dặc về phương nam, mà tự nhủ chàng muốn giống con chim đó, trao cho thế gian tiếng hát cuối cùng đẹp nhất trong khả năng mình khi tất cả đồng loại mình đều đã đi hết, khi thế gian đang hoàn toàn tĩnh lặng - cái tiếng hát nó sẽ không phá vỡ sự tĩnh lặng mà ngược lại tô đậm và tôn lên sự tĩnh lặng đó, trở thành một phần khắng khít, khác biệt song hòa hợp với sự tĩnh lặng đó. Và Tawilgen còn thấy cái chốn mông lung vô dạng thể nơi tiếng hát đó của chàng có thể sẽ bắt đầu hình thành. Tawilgen nhìn thấy những lần chàng vấp ngã bươu đầu tét môi trên con đường đó, đôi lần chàng lạc lối sa xuống sình lầy hoặc rơi vào giữa lũ ác nhân, suýt nữa mất mạng và, trong phút cùng nguy cực khốn này, duy chỉ bài hát cuối đang động cựa trong ngực chàng là nguồn sức mạnh đủ cho chàng vượt qua tất cả, đưa mình về lại cõi sống nơi chàng rốt cuộc sẽ khai phóng được nó, bài hát cuối mà theo nghĩa nào đó cũng là bài hát cuối của thế gian và cần được trả về cho thế gian. Tawilgen thấy rõ những giọt nước mắt lăn trên má chàng khi mà, giữa đường lang bạt kỳ hồ, một lần chàng đột nhiên nghĩ không biết đã bao nhiêu năm rồi chàng không gặp lại mẹ. Tawilgen biết rõ cái nỗi thôi thúc khiến chàng lâu lâu lại lấy đầu lưỡi rà cái lỗ sâu hoắm còn lại sau khi thầy thuốc nhổ giúp chàng một chiếc răng sâu. Và trong tầm nhìn thông suốt của Ofrangan hình như còn có cả cảnh tượng những khoảnh khắc cuối của đời Ofrangan, những cảnh tượng mà chàng lạnh gáy khi nghĩ tới và, không đủ gan nhìn, chàng nhắm mắt lại. Trong cõi tối sau đôi mắt nhắm, chàng tiếp tục nhìn thấy đôi đường hầm không điểm cuối mà cặp mắt mù của Tawilgen xoi vào cõi vô biên thông qua chàng.

Chàng đứng trước Tawilgen, đầu cúi, như đứa con hoang đàng trở về nhà sau nhiều năm lang bạt, đứng trước đấng sinh thành. Da mặt Tawilgen nhẵn láng không một nếp nhăn, người thường mắt thịt sẽ nói rằng Tawilgen bất quá chỉ lớn hơn chàng mươi tuổi song chàng thì biết Tawilgen đã sống trọn nhiều kiếp trong nhiều thế kỷ qua và ngần ấy kiếp sống, hay còn nhiều hơn thế, tạo nên chiều sâu của tiếng đàn mà Tawilgen cho ra đời từ cây chimmusamin của anh, tiếng đàn mà Ofrangan chưa từng nghe song dự cảm được hai cánh tay chàng sẽ nổi gai ra sao khi nghe, và chàng biết đó là dấu hiệu cho thấy hồn chàng đang lớn bổng lên và, trong khi vẫn trụ chắc vào thân thể, đang vươn thẳng lên thinh không, chạm tới các vì sao nơi mọi thứ đều khác biệt và đồng thời thân thuộc với chàng.

Sau một hồi do dự, chàng tiến một bước, hai bước, ba bước lại gần Tawilgen. Bình thản, trong một phong thái chỉ mình Tawilgen có, vừa uy nghiêm vừa buông thả, vừa bỗ bã vừa cao vời, Tawilgen nhìn chàng, với nụ cười nhẹ như người cha nhìn đứa con mình đang chuẩn bị cho cha nó thấy một bí mật, cái bí mật mà anh ta thừa biết song làm bộ như không biết nhằm giữ vẹn niềm vui của đứa bé giống như giữ vẹn lớp sương muối phủ trên đóa hoa dại. Ngay khi đó Ofrangan chợt nghĩ rằng đôi mắt, cũng giống như sự sống, là một thứ không thể thiếu, tuy nhiên nó chỉ là phương tiện để ta vươn tới một cõi khác hoàn hảo hơn, thiện hơn, nơi mà mắt và sự sống không còn cần thiết nữa. Từ nay trở đi, chàng sẽ học cách nhìn thế giới giống như Ofrangan, cách bước qua cái cõi khác kia thông qua tiếng đàn vốn là hiện thân của cách nhìn đó.

Tawilgen rất hiếm khi nói. Trong hơn ba năm hai người gắn liền nhau như bóng với hình, tất cả các lời Tawilgen nói với chàng cộng lại không nhiều bằng những lời chàng nói với bạn thân trong một đêm đầu bốc hơi men. Đôi lúc chàng có cảm tưởng nói bằng ngôn ngữ của loài người là một việc khổ nhọc đối với Tawilgen. Cũng vậy, mang thể xác con người là việc cực chẳng đã đối với Tawilgen, đó là nguyên do khiến Tawilgen đi lại, cử động chậm hơn người thường. Không phải vì anh không có mắt như người thường nên phải thận trọng hơn, mà do thân thể anh, nhỏ nhắn gầy gò như thế, là quá cồng kềnh, quá nặng đối với anh. Mặt khác đôi lần Ofrangan thấy anh bật dậy khỏi giường, đi tới đi lui nhanh lẹ, khoái hoạt khác thường giữa khi đang ngủ. Một lần, giữa khi đi tới đi lui thoăn thoắt tuy nhiên không có vẻ gì là nôn nả hoặc bồn chồn như vậy, đột nhiên Tawilgen chậm bước dần, dừng lại, cất tiếng hát. Đó là lần duy nhất trong hơn ba năm gắn bó bên anh Ofrangan nghe thầy và bạn của mình hát. Tóc gáy chàng dựng lên trước vẻ đẹp và sự quỷ dị của khoảnh khắc đó. Từ trong tủy mình chàng biết tiếng hát này không dành cho người phàm như chàng. Chàng như vừa nghe tiếng hát của các thiên thần dành cho các âm hồn hoặc của các âm hồn dành cho các thiên thần. Có phải đó là một thông điệp, một tiếng kêu mà đến cả giọng đàn của Tawilgen cũng không thể thành hiện thân được? Chàng thấy mình như kẻ dốt tự đưa chân vào vùng cấm, có thể sẽ chết. Sau một hồi sững lặng, gần quên thở, chàng đặt đầu xuống gối, nhắm mắt. Hơi thở khó, tim đập nặng nề, chàng tự nhủ sẽ khó ngủ lại được. Nhưng rồi chàng ngủ lúc nào không rõ và sáng ra, trở dậy, thấy Tawilgen đang nhìn mình, chàng hiểu rằng Tawilgen biết. Nụ cười trong mắt anh không làm chàng vui. Chàng như lọt vào trong một đám mây đen. Cái nhìn của Tawilgen như của người ở bên kia một vực sâu mà chàng vô phương vượt qua, đang nhìn chàng đầy cảm thông nhưng cũng đầy thương hại bởi vì ở đó, bên kia vực, mới có cái gì đó thực sự vô giá với linh hồn chàng. Và lần đầu tiên, phải, lần đầu tiên chàng cảm thấy Tawilgen xa lạ với chàng. Sáng hôm sau, lúc Tawilgen chào đón chàng bằng nụ cười sáng như nụ cười đứa bé trong nôi, hỏi chàng đêm qua ngủ ngon không, chàng đáp có với một cảm giác hể hả mà chàng biết rằng lý ra phải khiến chàng xấu hổ. Và chàng ngộ ra, như trong ánh sáng một sao băng, rằng nếu có lúc chàng chợt muốn ăn tươi nuốt sống Tawilgen và tự nhủ đó là cách tốt nhất để chàng có thể giữ gìn mãi mãi tâm hồn của bạn, tinh thần của bạn ở trong mình, thì thật ra đó là bởi trong thâm tâm chàng cũng muốn bằng cách đó xóa Tawilgen khỏi thế gian để chỉ còn duy mình chàng. Chàng sẽ còn đó để nhớ tới Tawilgen chứ không phải Tawilgen còn đó để nhớ tới chàng. Một sự hòa hợp tuyệt đối, một sự bất tử đích thực mà nếu khởi đầu từ chàng thì làm chàng an lòng hơn là khởi đầu từ Tawilgen.

Một lần, buổi sáng đẹp, Tawilgen và chàng ngồi trong vườn trước nhà, nhìn khói tỏa lên từ ống khói một căn nhà bên kia sông, nhìn sông chảy. Tịch lặng như thể là sông kia, khói đó thảy đều chảy ra, tỏa lên từ Tawilgen, từ cõi tịch lặng an nhiên vô biên và đáng sợ ở bên trong anh. Duy chỉ một nơi sâu kín và tịch lặng như vậy mới là nơi Quả Trứng sinh ra thế giới đang âm thầm nảy nở hình hài. Ngay tại đó, ngay lúc đó, một lằn chớp lóe lên trong óc và tim Ofrangan rằng Tawilgen đến thế giới này không phải để sống mà để chết. Ánh ngời trong tiếng đàn của Tawilgen là ánh ngời đưa anh vào cõi chết, đi cùng anh vào cái chết, và không có gì đáng buồn đáng tiếc trong chuyện đó bởi vì riêng với Tawilgen cái chết là cửa để anh bước vào cõi vĩnh hằng.

Đột ngột, trước khi nhận ra mình đang làm gì, chàng nói với Tawilgen:

Anh biết khi nào mình sẽ chết, phải không?

Nụ cười của Tawilgen khiến chàng hiểu rằng ngay từ đầu anh đã biết sẽ có ngày chàng hỏi anh câu đó. Và, sâu trong mắt anh, một tia sáng khiến chàng nghe rợn sống lưng, rằng anh biết, chàng, Ofrangan, chàng sẽ gắn liền với giờ chết của Tawilgen, cái chết của Tawilgen. Trong khoảnh khắc đó chàng cảm thấy rõ rệt điều chàng từng đọc trong một cuốn sách, rằng toàn bộ thế giới đang gào thét trong máu chàng. Và chàng hiểu, như trong một lằn chớp, rằng tiếng gào thét này và tiếng đàn của Tawilgen, của chàng, của tất cả các danh cầm đã, đang và sẽ hiện hữu trên cõi thế, tiếng rì rầm của hạt giống trong lòng đất, tiếng nước rỉ không ai nghe thấy trong hang sâu, tiếng máu tuôn từ họng con nai tơ bị bắn, tất cả là một. Sự ngắn ngủi của một tia chớp, sự trường cửu của bầu trời, tất cả là một.

Chàng cúi đầu, cảm thấy rõ mồn một, như cảm thấy trái tim chàng đang đập, cái sự thật rằng từ khoảnh khắc này trở đi, mỗi lời chàng nói, mỗi việc chàng làm đều có thể sẽ được lưu giữ trong vĩnh hằng. Nếu chàng có làm gì đó. Miễn chàng có làm gì đó. Như chàng đã làm trong hơn hai năm qua. Đàm đạo với Tawilgen. Im lặng cùng Tawilgen. Quan sát Tawilgen. Học từng ngón đàn của Tawilgen. Nhập vào từng xao động li ti trong tâm khảm Tawilgen.

Tawilgen nhìn chàng bằng cặp mắt đột ngột có vẻ đen như đêm. Sau một hồi, Tawilgen cười nhẹ. Và bằng gan ruột mình Ofrangan biết Tawilgen sắp nói một câu mà chàng sẽ nhớ đến chết.

Giờ của ta sắp mãn, Tawilgen nói.

Tim Ofrangan hẫng đi một nhịp. Cái bóng đen kịt một con chim khổng lồ như vừa vụt qua mắt chàng. Như thể Tawilgen vừa mời gọi chàng hãy rút ra con dao chuôi đồi mồi chàng mang trong người để phòng thân, và không ngần ngại, không run tay đâm thẳng vào ngực anh. Chàng cảm thấy, nhìn thấy, như trong một linh thị trong suốt, rằng nếu trong khoảnh khắc cuối tay chàng run lên và khựng lại ngoài khả năng kiểm soát của chàng, Tawilgen sẽ bật cười bạt tai chàng, hơi mạnh so với một cái tát yêu và bỡn cợt bình thường song vẫn là cái bạt tai bỡn cợt và thân thiết. Và lông gáy chàng dựng lên bởi chàng nhận ra rằng cái bạt tai này, bỡn cợt và thân thiết vô biên, là cử chỉ cuối cùng của Tawilgen trên cõi thế trước khi mũi dao của chàng biến trái tim anh thành hòn đá rơi vĩnh viễn vào hư vô và cái còn lại là bàn tay cầm dao của chàng, bàn tay cầm đàn của chàng, bàn tay chàng chôn sâu xuống đất những dấu vết hữu hình cuối cùng của chính chàng trước khi chết.

Ba tuần sau ngày không quên đó bên sông, Tawilgen chết. Về sau nhiều người kể rằng trong ba ngày trước khi Tawilgen chết có vài sự lạ xảy ra, tuy nhiên trong ký ức Ofrangan ba ngày đó là những ngày hoàn toàn bình thường. Chàng không nhớ có bất kỳ sự lạ (mà người ta suy ra là điềm gở) nào, chàng nhớ chẳng hạn như trong ba ngày đó chàng chỉ tắm một lần, phần vì trời mát mẻ, phần khác bởi chàng có lúc cảm thấy mình gây gấy sốt. Chàng hoàn toàn thoải mái với điều này, ngoại trừ một lần duy nhất chàng bỗng nghĩ tới chuyện nách mình có lẽ đang bốc mùi ra sao giữa khi chàng đang đọc một câu chuyện đẹp về tình mẫu tử. Chàng không khó chịu về bản thân mùi nách khá nồng của mình, chàng khó chịu vì không thật hiểu tại sao lại nảy ra mối liên tưởng đó. Tuy nhiên chàng mơ hồ hiểu rằng liên tưởng này có gì đó chung với chuyện, ngay khoảnh khắc hay tin Tawilgen chết, thứ đầu tiên chàng nghĩ tới là mấy cọng lông mũi mọc hơi quá dài mà sáng đó chàng phát hiện lúc soi gương cạo râu và đã định sẽ cắt đi nhưng sau đó lơ đãng thế nào chàng lại quên mất. Chàng biết đó không phải là trạng thái đờ đẫn, trống rỗng, vô cảm của một số người trước cái chết bất ngờ của một người họ rất yêu thương, như một cách để bảo vệ trái tim mình không bục vỡ và trí óc mình không sụp đổ. Chàng biết đó là do chàng tiếp nhận sự biến này như một điều tất yếu, một chuyện tất đến, mà chàng hẳn không mong muốn nhưng cũng không căm ghét và khiếp sợ. Chàng luôn sẵn sàng cho chuyện này cũng như luôn sẵn sàng cho cái chết của bản thân chàng.

Có người gọi Tawilgen ra khỏi nhà giữa khi anh cùng Ofrangan đàm đạo trong đêm. Đợi bạn quay vào, Ofrangan ngồi cạnh bếp lò, đắm mình trong mênh mông sa mạc Sürülekh mà một câu nói dường như vu vơ của Tawilgen trước đó vài khoảnh khắc đã đưa chàng đến. Sa mạc mênh mông, chỉ mình chàng. Trong nhập nhoạng hoàng hôn đang xuống rất nhanh, chàng không thấy Tawilgen đâu. Căng mắt tưởng chừng bục mí, không thấy, tuy nhiên trong đáy tim chàng biết Tawilgen đang ở không xa và đang dõi theo chàng, trông chừng chàng. Rất có thể Tawilgen ở ngay cạnh chàng, mà chàng không thấy. Hình tướng của anh không phải để mắt thịt của chàng thấy. Nó thuộc về một cõi cao hơn, đẹp hơn, một sự cao và đẹp mà chàng không thể thấy chừng nào chàng còn đi đứng, ngồi, nằm trong thân thể thô, nặng, mong manh này. Thô, nặng, mong manh, dễ bẩn và dễ hoại. Có nhiều từ khác nhau trong nhiều ngôn ngữ khác nhau hòng cố gọi tên dạng hình tướng này. Chàng biết hầu hết các từ đó, song chàng không dùng bất cứ từ nào để gọi Tawilgen bởi, dù anh là gì đi nữa đối với thế gian, anh luôn luôn và mãi mãi là thầy, anh, bạn của chàng, là bản thân chàng. Rồi chàng chợt nhớ không rõ từ bao lâu rồi Tawilgen không trở lại. Ghế của Tawilgen, đối diện chàng, trống trơ như lòng giếng cạn. Sự trống trơ này chất đầy đá vào tim chàng. Ofrangan đứng dậy, lao qua sân, ra cổng, và một khoảnh khắc trước khi mở cổng chàng đã biết từ trong ruột rằng mình sẽ không bao giờ thấy lại Tawilgen nữa, không bao giờ nữa.

Không ai biết những kẻ nào đêm đó đã gọi Tawilgen ra khỏi nhà và sau đó Tawilgen đi đâu, còn sống hay đã chết, những gì đã xảy ra với anh trong những giờ khắc cuối cùng của anh. Không ai có thể nói một cách xác quyết Tawilgen có những kẻ thù nào muốn trừ khử anh. Và với một cái rùng mình Ofrangan nhớ tới giai thoại về sự biến mất của người thầy, người bạn lớn của Rumi, thi hào xứ Ba Tư ở thế giới Terra huyền thoại, cái bóng đổ của thế giới chàng sống, câu chuyện chàng từng được một ca nhân lang thang kể cho nghe cách đây đã lâu và chàng chẳng mấy khi nhớ tới, coi đó chỉ là chuyện huyễn hoặc chỉ đáng quan tâm đối với những kẻ không đủ sức và đủ gan để sống hết mình với cõi đời có thật. Té ra chuyện như thế này đã từng xảy ra thật sao? Phải chăng, bởi nó là bóng đổ cho nên, tùy theo hướng và góc của nguồn sáng mà có những lúc bóng đi trước hình, xuất hiện trước hình? Rốt cuộc, có gì thực sự khác nhau giữa chuyện chàng và Tawilgen là hình còn Rumi và thầy-bạn của anh ta là bóng với chuyện Tawilgen và chàng là bóng còn cặp kia mới thật là hình? Trong khi đứng trước cổng nhà, để cho dần dần ngấm vào trong thịt và tủy mình cái thực tế rằng từ nay trở đi chàng hoàn toàn đơn độc, chàng có lúc nhìn xuống bàn tay mình nhờ nhợ trong tranh tối tranh sáng, tự hỏi phải chăng lúc này sự phân biệt giữa hình và bóng ở chính chàng không còn rạch ròi dễ thấy và có thể không còn hiện hữu. Nếu chàng và toàn bộ thế giới quanh chàng thật ra là bóng, thì phải chăng Tawilgen giờ đây đang là bóng của bóng và nếu vậy thì đối với một cõi khác Tawilgen đã từ chỗ một bóng không có thực chuyển thành một hình có thực?

Cảm trạng lưỡng phân, nhập nhằng bất định này từ đó về sau trở thành một trong các đặc chất của Ofrangan, khiến cho mọi điều chàng nói, mọi thứ chàng làm đều vừa như là hình vừa như là bóng. Shireki nhận thấy điều này khi, lần đầu tiên gặp Ofrangan thổi sáo giữa bãi chợ chiều vắng người, nàng bất giác vòng tay ra trước, như đang ôm lấy một Ofrangan vô hình, tuy hai là một với Ofrangan bằng xương thịt đang cách nàng hơn ba chục bước. Không ai ngoài Shireki biết có phải cũng trong khoảnh khắc đó Ofrangan đã nhận ra nàng giữa cõi người hay không. Người ta chỉ biết rằng không lâu sau đó đã diễn ra ngày định mệnh khi Shireki và Ofrangan đối mặt nhau, nói lời đầu tiên với nhau, cái ngày sẽ đi vào truyền thuyết của người Bongora như một trong những ngày đẹp nhất và bất hạnh nhất từng có trong trời đất. Chẳng phải vô cớ mà có đôi người nói rằng trên thực tế Bộ Ba Tuyệt Bích Ofrangan - Shireki - Hunzali không phải Bộ Ba mà là Bộ Bốn hoặc Bộ-Gần-Như-Bốn bởi vì có cả Tawilgen trong đó. Hoặc đó là Số Ba Thiên Giới, Số Ba Đen (bởi một trong các điểm xuất phát của nó là một Số Không thuộc về Cõi Khác, một Số Không mà hiện thể ở cõi này là một vùng, một lõi ánh sáng đen. Phần lớn là do ánh sáng đen này, Số Không Cõi Khác này mà bộ ba Ofrangan - Shireki - Hunzali có được sức mạnh gắn kết không rời đến độ phi thường đó, một sức mạnh không thuộc về cõi người thường. Để thắng được sức mạnh đó, hòng phá vỡ Bộ Ba này, thì phải có một sức mạnh lớn hơn nó nhiều lần, và sức mạnh ấy chỉ có thể tìm ở một cõi khác. Cõi khác đó, người đời chỉ lâu thật lâu, có khi cả đời chỉ một lần chợt nhớ thoáng qua và một cách mơ hồ bảng lảng giống như bờ bên kia xa tít của một dòng sông mênh mông chìm trong biển sương mù.

Ofrangan không đi tìm Tawilgen. Đúng hơn là chàng có đi tìm, tới một số nơi, hỏi một số người, giống như người khác ở địa vị của chàng sẽ làm, tuy nhiên chàng làm giống như cậu thiếu niên mơ mộng và kiêu hãnh vốn chẳng ưa gì các bước tuần tự theo nhau của nghi thức trưởng thành tuy nhiên vẫn cứ làm theo, bình tĩnh, xa cách, thâm tâm luôn hướng về phẩm giá đích thực của mình, cái phẩm giá chỉ có thể đạt được bằng một con đường khác. Nếu đó không phải là con đường băng qua những vùng nhẹ tênh đầy ánh sáng thiên giới, thì nó chỉ có thể là con đường dấn sâu vào những vùng chưa ai biết và sởn gáy của cõi âm. Với chàng, đó là ánh sáng thiên giới hay bóng tối cõi âm cũng không khác gì nhau, điều quan trọng là chàng băng qua được đến bên kia, chàng thấy, chàng biết. Mặt trời thiên đỉnh lúc nửa đêm hay một quầng đen kịt vây quanh mặt trời lúc thiên đỉnh, cả hai đằng đều đẹp và cuốn hút như nhau đối với chàng. Chàng sẽ tuyệt đối sung sướng nếu có thể bước từ cõi này sang cõi khác mà ở đó Tawilgen là bóng của chàng hoặc chàng là bóng của Tawilgen, cái bóng đen mà vào khoảnh khắc nào đó, trong hoàn cảnh thuận thiên cơ nào đó, rực sáng. Mặt khác chàng biết sự tồn tại của chàng và tiếng đàn chàng trong trời đất cần phải giống như sự tồn tại của đóa hoa dại bên vệ đường, mà màu sắc và hương thơm chỉ tỏ lộ trọn vẹn với số ít những ai đủ thông tuệ và hồn nhiên để dừng chân quỳ xuống lặng nhìn. Chàng không nên giống như một thứ huyền lực khiến búp hoa mới nhú trong nháy mắt bừng nở thành đóa mãn khai hoặc một đóa mãn khai hiện ra từ chỗ trống không, bởi vì đã có thứ huyền lực tạo ra chuyện đó thì tất có thứ huyền lực chấm dứt chuyện đó.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 12, 2023 04:51
No comments have been added yet.


Trần Tiễn Cao Đăng's Blog

Trần Tiễn Cao Đăng
Trần Tiễn Cao Đăng isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Trần Tiễn Cao Đăng's blog with rss.