Chữ nghĩa một thời: Thằng Kên và cán binh Tuân
Phạm Thị Hoài
Khi Thượng Nghị sĩ John McCain qua đời, có hai văn bản được những
người Việt quan tâm đem ra đọc lại. Một, tùy bút “Đèn điện phố phường Hà
Nội vui sáng hơn bất cứ lúc nào” của Nguyễn Tuân; và hai, hồi ký của John
McCain về năm năm rưỡi là tù binh chiến tranh tại Hỏa Lò, Hà Nội. Tùy bút của
Nguyễn Tuân viết cuối năm 1967, đăng lần đầu trong tuần báo Văn nghệ số 250 ra ngày 25/2/1968, sau
đó in trong tập tùy bút Hà Nội ta đánh Mỹ
giỏi, do Hội Nhà văn Hà Nội xuất bản cuối năm 1972, một
số trích đoạn gần đây được đăng lại trên
báo chí trong nước. Hồi ký của John McCain đăng
trên tuần tin US News & World Report
ngày 14/5/1973, bản dịch tiếng Việt được phổ biến trên báo chí hải ngoại.
Tùy bút của Nguyễn Tuân
Tác phẩm này nằm trong loạt ký sự gồm những bài tương tự về thành tích
bắn rơi máy bay Mỹ của Hà Nội trong chiến tranh không quân ở miền Bắc Việt Nam.
Nếu không phải là McCain – tức “thằng quan tư Mích Kên” theo cách gọi
của Nguyễn Tuân –, người sau này thành một chính khách Hoa Kỳ có ảnh hưởng lớn
và từ vị trí đó tác động nhiều mặt đến quan hệ Việt-Mỹ, mà là “thằng quan
ba Nin Giôn tội phạm”, “thằng tù quan hai Cờ Lác” hay những
thằng “giặc bay”, “giặc lái” khác mà nhà văn danh tiếng đều
phỏng vấn, thì tùy bút “Đèn điện” chắc chắn không được đặc biệt chú
ý. Nó không phải là một ngoại lệ, càng không phải một bài viết bất đắc dĩ, viết
theo lệnh tuyên huấn, khom lưng luồn háng vì hèn vì sợ hay vì miếng cơm manh áo
gì đó, như người đời sau sẵn lòng phỏng đoán để thông cảm hay chê bai tùy góc
nhìn. Ở tất cả các bài khác và không chỉ trong loạt ký sự này, tác giả của Chùa Đàn huyền thoại đều hăng say chống Mỹ,
đều bừng bừng khí thế nhằm thẳng đầu thù mà bắn, đều dạt dào tin tưởng vào sức
mạnh tất thắng của cuộc “chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ hòa bình
thế giới”. Trong giàn anh hùng ca chống Mỹ của “toàn dân tộc” – trừ
những người bị cách ly khỏi cũng dân tộc ấy – Nguyễn Tuân không xung phong lĩnh
xướng, nhưng cống hiến một giọng rất riêng: giọng cụ Nguyễn.
Bây giờ, khi loạt tác phẩm này của cụ rõ ràng đã hết hạn sử dụng, mùi
đặc trưng của giọng văn ấy vẫn còn đó, giọng văn từng khiến nhiều thế hệ độc
giả và đồng nghiệp mê mệt hay thậm chí khiếp phục. Chỉ khác với trước 1945: thay
vì tung hoành trong một chủ nghĩa duy mỹ cá nhân khinh bạc đậm màu hoài cổ,
Nguyễn Tuân từ thuở “lột xác”, đi tìm “những định thức để rung
động cho đúng nhịp với đời sống cao rộng” đã sốt sắng trút tất cả tài hoa ở
độ chín muồi của mình vào một mỹ học của “xây đập, mở đường xã hội chủ
nghĩa” và của “hoa nở trên đầu súng, nhạc reo trong lửa đốt đồn”
hướng về tương lai. Ông cũng bàn giao tất cả các ngón sở trường của một lãng tử
phiêu du văn hóa bằng tiền túi tự xưng Nguyễn thuở trước cho một văn công miệt
mài đi thực tế bằng ngân sách nhà nước tự xưng “đồng chí Tuân” sau
này. Như chàng Nguyễn trong cảm hứng trữ tình của một cái Tôi tinh hoa sang
chảnh, đồng chí Tuân cũng lên đồng, cũng đê mê, phởn chí, đầy ngông nghênh
trong cảm hứng sử thi của một cái Ta đại chúng kiêu hãnh. Thậm chí đầy hưởng thụ.
Hưởng thụ sự hả hê khi hạ nhục một tù binh bị thương nặng và đem “cả lò
nhà mày, cả họ nhà mày” ra rỉa rói rồi bồi thêm lời rủa tuyệt tự. Hưởng
thụ sự đắc chí khi bố thí lòng nhân đạo bằng cách “cắm một điếu thuốc Điện Biên vào mồm thằng giặc”. Cắm
thuốc, rồi “bật diêm châm vào mặt nó”, rồi “đặt cái gạt tàn
thuốc lá lên ngực nó đầy lông rậm dầy như cái ức một con thú dữ”. Bốn lần
cắm thuốc, khi ra về “không quên vứt lên ngực thằng giặc bay Kên cả chỗ
thuốc lá còn lại”. Hưởng thụ cả cái sáng kiến bất ngờ khi kết thúc bài
viết bằng ẩn dụ Sở thú: “Qua một buổi mơ chưa cất cơn trước Sở thú Hà Nội,
tôi như thấy hầu hết phi công Hoa Kỳ đang gau gắu xì xụp ngay trong một dãy nhà
sắt mà người ta chỉ dành riêng cho những con vật dữ nhất. Tất thảy phi công tù
Hoa Kỳ, kể cả mấy thằng đánh trộm nhà máy điện đèn ta bắt sống trên hồ Trúc,
tất cả chúng nó tôi đều muốn cho chuyển hết vào Sở thú Hà Nội. Thằng Pi Tơ,
thằng Đơ Vít, rồi En Tơ Ni, Ri Sa, Ơ Lơ, Ê Lân, rồi Mích, Sác, Giôn, Gim, vân
vân, tất cả những con thú ấy, nay nên đưa chúng vào cái ‘Khách sạn Hin Tơn Bách
thú’ này này.”
Nguyễn Tuân đã theo sát tinh thần của thời đại ông tới mức không vượt
lên trước một ly nào. Bây giờ, với độ lùi hay bước tiến của 50 năm, trong một
thế giới đã hoàn toàn thay đổi, nhất là khi “thằng Kên” thuở ấy vừa
ra đi như một anh hùng, một biểu tượng cho những giá trị tốt đẹp nhất của một
nước Mỹ đang chia rẽ sâu sắc, đồng thời như hiện thân của nỗ lực hàn gắn quá
khứ Việt-Mỹ đau thương, bài “Đèn điện” dĩ nhiên gây sốc. Nhưng cú sốc
đó là dấu hiệu tốt, dấu hiệu của một ngôn ngữ đã tỉnh lại sau một cơn say dài
đẫm máu. Nguyễn Tuân không phải là nhà văn đầu tiên và cuối cùng, ở phía nào
của cuộc chiến nào cũng vậy, hân hoan vung bút cho phép tu từ khủng khiếp của
chiến tranh. Những tên tuổi lừng lẫy hơn nhiều trên văn đàn thế giới cũng từng
như vậy, tới mức Karl Kraus – nhà văn Áo, thuộc một thiểu số những trí thức
hoài nghi chiến tranh như Franz Kafka và Albert Einstein – kinh hãi trước sự
tham chiến hùng hổ trên mặt giấy của các đồng nghiệp trong Thế chiến I, phải ước
ao khi hòa bình lập lại sẽ dồn hết đám văn sĩ say chiến đó vào một chỗ, rồi mời
thương phế binh của cuộc chiến đến nện cho một trận nhừ tử. Song một ngôn ngữ vừa
tỉnh cơn mê sảng này hoàn toàn có thể rơi ngay vào một cơn mê sảng khác. Tu từ
chiến tranh lại chưa bao giờ thôi tiềm ẩn trong tư duy và ngôn ngữ của người Việt,
dân tộc dường như vẫn tự định vị không phải bằng thành tựu mà bằng chiến thắng
hay khát khao chiến thắng.
Hồi ký của John McCain
Nổi tiếng là một diều hâu can đảm và nhiệt thành phụng sự lý tưởng
chống độc tài, bảo vệ thế giới tự do, trong Chiến tranh Lạnh ông McCain là
người kiên định chống cộng. Tất nhiên ông căm thù những giám ngục đã hành hạ ông
và các tù binh Mỹ khác ở Hỏa Lò, điều đó ông còn nhắc lại trong chiến dịch
tranh cử tổng thống năm 2000, khi ông
lại dùng từ gook – mọi vàng, chỉ người châu Á, tương đương với nigger, mọi đen, chỉ người da đen – như
trong hồi ký Hỏa Lò. Trong văn bản này, tròn hai tháng sau ngày được trao trả
về Mỹ, không có gì đáng ngạc nhiên là cựu tù binh McCain giữ quan điểm cứng rắn
chống Hà Nội, phê phán phong trào phản chiến ở Mỹ và bày tỏ lòng ngưỡng mộ với
Tổng thống Nixon dù ông này đang vướng vào vụ Watergate. Đoạn hồi ức của McCain
thở ra mùi máu lửa chiến trường và mùi chiến tuyến ý thức hệ. Song dù như vậy
và bất chấp từ gook xuất hiện 12 lần,
nó là một văn bản tiếng Anh với hệ thống đại từ nhân xưng trung lập mà bản
tiếng Việt đã diễn giải bằng hệ thống đại từ nhân xưng đầy chủ quan của mình.
Rất có thể, nếu được dùng tiếng Việt, như Nguyễn Tuân đã dùng, viên quản
giáo bị tù binh tặng biệt hiệu Con Rệp sẽ bảo “thằng Kên” rằng,
“Cha mày là một đô đốc gộc. Bây giờ bọn tao sẽ đưa mày đến bịnh viện”,
đúng như trong bản dịch. Nhưng ông ta nói tiếng Anh, và lời tường thuật cũng bằng
tiếng Anh không có vẻ gì là “mày-tao” của McCain như sau: “Your
father is a big admiral; now we take you to the hospital”. Rất có thể, nếu dịch câu này thành:
“Cha anh là một đô đốc cao cấp; bây giờ chúng tôi sẽ đưa anh vào bệnh viện”,
thì chân dung Con Rệp trong tiếng Việt sẽ đổi khác. Một kẻ hành hạ tinh thần
biết nói tiếng Anh mà thô lỗ hạ cấp, hay cũng kẻ đó mà nham hiểm lịch thiệp thì
đáng sợ hơn? Tôi không biết chân dung nào trong tiếng Việt thì đúng với bản gốc
và đúng với sự thực hơn. Đại từ nhân xưng luôn là một thách thức hầu như không
thể vượt qua trong dịch thuật, và phần lớn các tác phẩm dịch văn học nước ngoài
đều phải khoác một bản sắc ông-bà-anh-chị-em-chú-bác, chàng-nàng và cả đồng chí
không thể tránh của tiếng Việt, song tôi quả thật đã khó ở với những “mày-tao”như trên, những “hắn”, những “gã” dịch
từ he, những “chúng, bọn chúng” dịch
từ they, những “tên lính canh” dịch
từ the guard, những “tay cộng sản”
dịch từ a communist… và đặc biệt, với
“cán binh Bắc Việt” dịch từ North
Vietnamese.
Cả hai, “cán binh” và “Bắc Việt” đều thuộc từ vựng
của phía nam vĩ tuyến 17 trước kia và của cộng đồng người Việt tị nạn ở hải
ngoại sau này. Tuy không hàm nghĩa mạt sát như “ngụy quân, ngụy
quyền” của phía bên kia, nhưng “cán binh” cũng vạch một chiến
tuyến rõ rệt. Như nhiều người miền Bắc khi ra sống ở nước ngoài, một thời gian
dài nếu không được thân ái tặng danh hiệu “cộng cái”, tôi cũng bị
những người Việt chống cộng cực đoan ở hải ngoại gọi là “nữ cán
binh”. Chỉ thiếu pha chiêu hồi là tôi sẽ rơi ngon lành vào bối cảnh của
cuộc chiến hơn bốn mươi năm trước. Người trực tiếp trải qua những kinh nghiệm
ác nghiệt nhất của cuộc chiến ấy, cố Thượng Nghị sĩ John McCain, đã làm rất
nhiều để vượt qua làn ranh chiến tuyến; trong khi chúng ta, ở cả hai phía, còn
chưa tính đến việc thu dọn những trầm tích của nó trong ngôn ngữ. Một ngôn ngữ
mà chúng ta không thể chia cắt và canh gác giới tuyến, một ngôn ngữ mà khả năng
hàn gắn chắc chắn mạnh mẽ hơn khả năng phân ly. Tôi mong có một bản dịch mới
cho hồi ký Hỏa Lò của McCain. Vì “thằng Kên” và “cán binh”
Tuân vĩnh viễn thuộc về quá khứ, là chuyện của chữ nghĩa một thời, dù một thời
vang bóng.
Berlin, 2/9/2018
(Báo Trẻ 6/9/2018)
Phạm Thị Hoài's Blog
- Phạm Thị Hoài's profile
- 31 followers

