Thảo’s
Comments
(group member since Jun 01, 2013)
Thảo’s
comments
from the Reading Cafe group.
Showing 21-33 of 33

Hai mươi năm trước nhiều nhà văn chưa dùng máy vi tính. Bản thảo được đánh máy hay viết tay nên việc in ấn không thuận lợi như bây giờ. Vậy mà bây giờ sách in chưa phải đã hết lỗi kỹ thuật, thậm chí còn nhiều hơn thời in typo. Mới đây cô giáo Nguyễn Ngọc Hà than phiền: “Văn bản tôi chuẩn bị rất kỹ, sửa đi sửa lại, vậy mà khi sách ra thấy trang nào cũng có lỗi, tôi là tác giả mà còn không dám đọc lại sách của mình!”.
Điều đáng buồn là cuốn sách này do một cơ quan làm sách chuyên nghiệp có nhiều năm kinh nghiệm xuất bản.
Mới đây, một nhà nghiên cứu vừa có cuốn sách thuộc loại được “Nhà nước đặt hàng”, sách tuyển chọn những bài tiểu luận văn học đặc sắc nhất được viết trong khoảng 30 năm nay của ông. Là sản phẩm của một nhà xuất bản cấp trung ương, cuốn sách có bìa thật trang nhã.
Thế nhưng khi lật vào trang trong, tác giả vốn là người cẩn trọng bỗng giật mình vì sách không những mang nhiều lỗi in sai tên người, sai chú thích mà việc dàn trang cũng lộn xộn, tùy tiện.
Có lần tôi kể với nhà văn Vương Trí Nhàn là nhà chật quá, tôi phải ngồi lựa những bản truyện dịch in giấy đen thời bao cấp để thanh lý bớt, chỉ giữ lại những cuốn sách tái bản gần đây in giấy trắng.
Vốn là người nghiên cứu văn hóa và làm xuất bản lâu năm, ông Vương Trí Nhàn vội can ngay: “Ấy chớ, ông nên biết rằng những bản sách giấy đen in chữ chì hồi đó lại được chăm sóc rất cẩn thận, còn bây giờ nhiều cuốn in đẹp nhưng cẩu thả không chịu nổi”.
Vậy người đọc biết làm sao! Tình trạng lỗi kỹ thuật tràn lan trên các ấn bản khiến những người giữ mục “Dọn vườn” trên báo bây giờ cũng không hơi sức đâu mà góp ý.
“Quán Mắc cỡ” của báo Tuổi trẻ cười mỗi kỳ cũng chỉ chọn được năm ba trường hợp nổi cộm đáng mắc cỡ nhất mà thường là những lỗi “cố ý”, chứ những lỗi sơ ý thì cũng cho qua. Không hiếm trường hợp sách in sai ngay từ trang bìa: sai tên tác giả, sai thể loại…
Bên trong thì đầy lỗi chính tả và ngữ pháp, câu sai quy chiếu, viết hoa và phiên âm không nhất quán… Chỉ cần một trong các nguyên nhân này là có thể dẫn đến sự cố như việc sách in hình cổng trường treo cờ Trung Quốc vừa rồi: thiếu kiến thức, chủ quan, tắc trách vì lười biếng hay vì ham tiền…
Trách nhiệm này chia đều cho tác giả/ dịch giả, biên tập viên và người sửa bản in.Của đáng tội, nhiều khi chính tác giả sửa bông một, bông hai rất kỹ, nhưng đến bản nhũ không đọc lại thì khi sách in ra vẫn có lỗi như thường.
Lâu nay người ta hay so sánh những lỗi như vậy như những hạt sạn trong bữa cơm làm ê răng. Đừng nghĩ là ăn vậy hoài riết rồi cũng quen.
Người làm ra món ăn tinh thần không nên xem thường: vào quán nào vài lần mà gặp cơm sạn, cơm khê, cơm sống, ắt lần sau người ta sẽ tránh đi chỗ khác chứ!
Nguồn: http://doanhnhansaigon.vn/online/van-...

Mà nàng hãy xác nhận địa chỉ email cho account Goodreads đi để tui còn add nàng làm mod. Add cái nó báo là nàng chưa verify...

Không gian cổ tích đã tạo ra một chân trời rộng lớn cho Andersen khi thiết kế các nhân vật và tình huống trong cảm hứng sâu kín về tình đời, tình người. Nhân vật của Andersen thường chơi và bị chơi. Nhưng các chú bé, cô bé chơi đùa kia chỉ là đòn bẩy, là cái bóng để soi sang phía bên kia của các con vật bị biến thành đồ chơi, hoặc những con vật là đồ chơi vì vốn chúng đã như thế. Milan Kundera khi bàn về tiểu thuyết Cervantes đã dùng cụm khái niệm “hiền minh của lưỡng lự”[2]. Chúng ta có thể tìm thấy tính chất hiền minh ấy trong câu chuyện cổ của Andersen. Các nhân vật buộc phải chọn và sống trong đời sống bình thường với những tổn thương tinh thần sâu sắc và phổ biến. “Khi Đông Kisốt bước ra khỏi nhà và không còn đủ sức nhận ra thế giới nữa”[3]. Các nhân vật của Andersen, dù là con người hay con vật, đồ vật, cũng đều mang một sự im lặng nhẫn nại trước mất mát và quên lãng; họ chơi và bị chơi trong một thế giới hỗn loạn, và không thể nhận biết chắc chắn một điều gì, ngoài sự ngây thơ của họ. Họ không thuộc chỉ thuộc về cổ tích, thế giới của trẻ thơ giản dị; họ còn thuộc về tiểu thuyết, thế giới của người lớn đa đoan. Tuy nhiên, ẩn ức bi thảm được khắc họa bằng những cái chết và nỗi oan không lấn át sự sáng tạo hồn nhiên và dồi dào của Andersen. Cảm giác lớn nhất mà người đọc tìm thấy ở Andersen vẫn là niềm yêu sống tuyệt vời, nơi các nhân vật đã có những khoảnh khắc sống đẹp đẽ hết mình cho mọi ước mơ, được sống hồn nhiên cho đến hết tấn bi kịch của mình.
Là bi kịch, bởi vì nhân vật của Andersen đã phải chọn lựa quá nhiều trước khát vọng hoàn thiện và sự bất lực tất yếu. Là hồn nhiên, bởi vì mỗi mẫu chuyện của Andersen đều kể về một thế giới quá xa chúng ta, thế giới cổ tích mà những được mất đều chỉ là hồi quang của một cuộc chơi nào đó. Là bi kịch, bởi vì không có nhân vật nào của Andersen mà không có một nỗi mất mát riêng bị giấu đi trong quên lãng…Là hồn nhiên, bởi vì, nước mắt và nụ cười trong truyện cổ Andersen luôn đồng hành, luôn soi bóng trong những câu chuyện dù kết cục chọn lựa là sống hay chết, tốt hay xấu.
Trong thế giới tưởng tượng ngộ nghĩnh và trắc ẩn ấy, có bao mảnh đời trôi nổi giữa rủi may, bao nhân cách bị biến dạng, bao tình yêu bị tan nát, bao cái chết oan uổng… Thế giới nhân sinh thật sự luôn có mặt trong mỗi trò chơi nho nhỏ của Andersen, trò chơi mà ông đã phải cặm cụi suốt đời, một cách “chậm chạp và khó nhọc” để sáng tạo ra nó.
Và mỗi mẫu chuyện cổ tích trong sáng của Andersen vẫn ánh lên sâu kín bi kịch hồn nhiên của mọi kiếp người.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 10.12.2005
Lê Tâm
[1] Trích “Người kể chuyện cổ tích”, lời nói đầu của Pautopxki trong tuyển tập “Truyện cổ Anđecxen”, NXB Văn hóa Thông tin, 2004.
[2] Xem “Nghệ thuật tiểu thuyết”, Milan Kundera, Nguyên Ngọc dịch, NXB Đà Nẵng, 1998, tr.11.
[3] Nghệ thuật tiểu thuyết, Sđd, tr. 11.
Nguồn: http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/

Andersen có nhiều câu chuyện cổ mà nhân vật là những đồ vật, động vật. Cách sử dụng nhân vật như thế rất gần với loại truyện ngụ ngôn như truyện kể của Edôp hoặc ngụ ngôn La-phông-ten. Nhưng tính chất ngụ ngôn của Andersen lại có thêm màu sắc của tiểu thuyết, thể hiện ở chất đời thường tỏa khắp mọi chi tiết, kể cả những chi tiết kỳ lạ. Chúng ta đọc thấy trong truyện Andersen lời khuyên chí tình của các con vật, nghe lời kể của đồng silinh bạc, chiêm nghiệm đời anh bù nhìn tuyết, con quay và cái bóng, chiếc kim thô, gã cổ cồn, con bọ chét, con chấu chấu, con nhảy, rồi xúc động với anh lính chì, con chim và hoa cúc trắng… Nhân vật đồ vật và động vật trong truyện Andersen như một kiểu mặt nạ. Ở đó, nhà văn tha hồ cho nhân vật của mình bị hành hạ, bị bóc trần, bị thua cuộc… mà vẫn cứ là những chiếc mặt nạ, những trò chơi của tuổi thơ…
Chúng ta sẽ đọc truyện cổ Andersen theo tính chất bi kịch của nó qua hai lớp nghĩa:
+ Lớp ngụ ngôn : xuất phát từ các nhân vật trò chơi. Đặc điểm này đáp ứng yêu cầu cho trẻ thơ vì trẻ vốn yêu thích chơi đùa và đóng giả. Andersen đã cố ý tạo ra kiểu truyện mang nghĩa kép: trò chơi và những giáo huấn tinh tế. Truyện có nhiều cách ngôn mang tín hiệu ngụ ngôn như câu nói lặp lại ba lần của chàng Ruydi: “Nếu nghĩ mình không ngã thì sẽ không bao giờ ngã”(Nữ thần Băng giá), hoặc câu “khi ở trên cao thì người ta có thể mỉm cười”(Một chuyện đau lòng, hay “có kiên tâm chờ đợi thì cuối cùng bao giờ vẫn được người ta đánh giá đúng với giá trị thực tế của mình” (Đồng silinh bạc)…
+ Lớp tiểu thuyết: đó là lời kể về những cái thường nhật, thường trực. Hình ảnh về một thế giới tầm thường, giả tạo, và liên tục trở nên phù phiếm đi song hành với những ước mơ cao khiết, những biến cố kỳ dị, những thử thách và chết chóc chỉ có trong thần thoại hay cổ tích khiến cho truyện cổ Andersen mang tính đa thanh. Hình vóc là truyện cổ mà dư vang lại thuộc về tiểu thuyết. Nhân vật tưởng là mang mặt nạ ngụ ngôn, nhưng tình huống và bi kịch của chúng lại trùng khớp với mọi biến cố tiểu thuyết hiện đại.
Truyện Một cặp tình nhân kể về hai nhân vật: chú Quay và ả Bóng. Trong mối tình trò chơi ngô nghê đậm màu sắc tưởng tượng này, người đọc bắt gặp ba chi tiết như sau: một là lời thề, hay lời hứa, hai là sự đỏng đảnh của ả Bóng, ba là sự từ chối của chú Quay trước một ả Bóng trương phềnh hết thời. Mối tình bắt đầu bằng sự thề thốt và kết thúc trong bạc bẽo ấy ta hoàn toàn có thể tìm thấy ở bất kỳ nơi đâu trong xã hội con người. Cái gì làm cho cặp tình nhân ấy chán chường nhau? Khởi đầu là do…một cú đập bóng của lũ trẻ con. Cái lý do không đâu ấy ta cũng có thể tìm thấy ở bất kỳ nơi đâu trên thế giới này. Những đổ vỡ phi lý, những đổi thay do thời cuộc, câu chuyện nhân tình thế thái đã được Andersen lồng kín trong mấy trang giấy. Những đứa bé ngây thơ sẽ cười ngặt nghẽo khi nghe Andersen kể về mối tình của hai thứ đồ chơi vô tri kia. Còn người lớn thì ngậm ngùi hơn. Vì cái kết cục bi hài này không thể biết được sẽ đến với ta vào khi nào: “Thế là Quay được sống lại cuộc đời vinh quang. Còn Bóng thì bị quẳng ra ngoài phố. Quay chẳng bao giờ còn nhắc đến mối tình xưa nữa. Khi cu cậu trông thấy cô ả trương phềnh lên vì nước mưa, nom rúm ró và gớm chết, cụ cậu đã lờ đi, không nhận cô ả nữa”.
Cũng là thế giới đồ chơi và trò chơi, truyện Chú lính chì dũng cảm bày ra một thế giới hỗn độn với một kết cục buồn: chú lính chì bị quẳng vào lửa và lửa bén cháy cả cô vũ nữ xinh đẹp bằng bìa của chú. Di hài chú lính được chị giúp việc kết lại thành một trái tim nhỏ. Cuộc đời chú lính chì, với niềm đam mê tình ái, can đảm chống chọi giữa dòng rác rưởi, và suýt chết trong bụng con cá măng… chứa đựng tấm lòng trắc ẩn sâu xa của Andersen về những con người bất toàn. Chú lính chì một chân và cô vũ nữ cũng chỉ đứng một chân giữa một đám đồ chơi nhao nhác, đầy tâm địa… là một nét vẽ thiên tài về thế giới khổng lồ của con người. Chú lính chì bị chảy ra trong lửa, nhưng chú vẫn tiếp tục hóa thành một món đồ chơi mới: một trái tim (món đồ chơi của chị giúp việc); như thể đời này sang đời khác, trong vóc hình một món đồ chơi, chú lại tiếp tục dũng cảm sống và chết đi, tiếp tục là câu chuyện trong thế giới đồ chơi. Và tiếp tục những bi kịch mới.
Truyện Bù nhìn tuyết có hình bóng một ẩn dụ. Giống như Ruyđi bị biến thành đồ chơi của các âm thần và bị chết theo băng giá, bù nhìn tuyết khi bị tan ra còn trơ cái cán chổi. Thế mà hắn từng có một khởi đầu vinh quang: “Bù nhìn tuyết sinh ra giữa những tiếng reo mừng của lũ trẻ em, giữa tiếng nhạc ngựa kéo xe trượt tuyết và giữa tiếng roi quất của các anh xà ích trẻ tuổi”. Rồi khi mùa xuân đến, mặt trời lên rực rỡ, bù nhìn tuyết biến mất trong quên lãng. Trong suốt quãng đời “bù nhìn” của mình, bù nhìn tuyết đã khao khát biết bao một ngọn lửa sưởi ấm trong nhà, một vầng mặt trời đỏ, mà không biết những thứ ấy sẽ thiêu cháy chính mình. Bởi vì nó không hề ý thức được rằng nó chỉ là một loại đồ chơi phù phiếm, rằng sự phù phiếm và giới hạn của nó không thể dùng để phán xét và tìm kiếm vĩnh cửu.

I. Bi kịch chọn lựa:
Chúng ta bắt đầu với câu chuyện Nàng tiên cá.
Nàng tiên cá khi có được tình yêu với con người (là chàng hoàng tử) thì bị rơi vào thế phải đánh đổi: đánh đổi tiếng hát, giọng nói, và cao hơn là đánh đổi số phận của chính mình, đánh đổi sự tồn tại để có được một linh hồn bất diệt. Nàng có hai lần phải chọn lựa. Lần thứ nhất, khi đến gặp mù phù thủy, nàng buộc phải chọn lựa giữa việc hy sinh tiếng hát, giọng nói để biến thành người và được gặp hoàng tử yêu dấu. Nàng đã chọn sự hy sinh. Lần thứ hai, khi buộc phải giết chết hoàng tử trước lúc mặt trời mọc để sống ba trăm năm đời cá thay vì sống trong tích tắc của kiếp người. Nàng đã chọn kiếp người. Cuộc đời nàng tiên cá đã phải chọn lựa những thứ như sau: được làm người, được yêu như người, và được chết như con người. Dấu hiệu duy nhất để nhận biết điều ấy là đôi chân trần đau nhói trong mỗi bước đi. Những chọn lựa của nàng tiên cá suy cho cùng đều là những quyết định bi kịch. Cái nàng đạt được và cái nàng hy sinh đều hệ trọng như nhau. Nàng phải chọn trong đau đớn giữa cái phù vân và cái vĩnh cửu, giữa thân phận bọt sóng vô tri và kiếp người đầy mất mát. Cái là phù vân lại mang hình bóng vĩnh cửu (bọt sóng), cái tưởng là vĩnh cửu lại quá đỗi phù vân (làm người).
Truyện Cái bóng kể cho chúng ta một sự chọn lựa khác. Người đàn ông trong truyện (một nhà khoa học) có hai lần chọn lựa, nhưng đều kín đáo, đến nỗi nhà văn cũng không nỡ nói cho chúng ta biết nhân vật đã quyết định chọn lựa từ lúc nào. Chỉ biết rằng, có một lần, người đàn ông ấy thấy mình mất bóng. Quyết định chọn con đường cho phép chiếc bóng ra đi mà không biết, người đàn ông trở nên đơn độc khủng khiếp khi không còn bóng nữa. Cái bóng ấy sau những chuyến phiêu lưu li kỳ bỗng dưng quay lại với địa vị con người thật. Nó giàu có, sang trọng, và thậm chí còn muốn lấy vợ. Người đàn ông chọn lựa lần thứ hai, chấp nhận đổi thân phận mình làm bóng, và cái bóng làm chủ lấy nhà khoa học. Buổi tiệc cưới tưng bừng của chiếc bóng ở cuối truyện được đặt bên cạnh cái chết âm thầm của con người thật. Câu chuyện cổ tích tưởng chừng ngộ nghĩnh này chất chứa một sự đánh đổi bi thảm của con người trong xã hội hiện đại. Andersen đã sử dụng những chi tiết thần kỳ nhằm mang đến cho chúng ta một ẩn dụ mới về sự bất lực của con người trong việc chăm bón cho hào quang phù phiếm. Nhà khoa học viết về Chân Thiện Mỹ đã chết. Nhưng chiếc bóng của ông ta thì vẫn sống, lấy vợ, giàu có, và giả vờ thương xót con người thật đã mất kia. Bi kịch này có lẽ vẫn âm thầm xảy ra với bất kỳ ai trong chúng ta, khi nỗi sợ mất bóng là ám ảnh lớn nhất trong đời.
Truyện Một bà mẹ lại dẫn chúng ta đến thế giới của tình mẫu tử. Người mẹ tội nghiệp ấy cũng phải có ba lần chọn lựa khi mất đứa con thân yêu. Lần thứ nhất, người mẹ khóc để đôi mắt trong veo của bà rơi xuống đáy hồ, khi ấy bà được hồ dẫn đường đến ngôi nhà của Thần Chết. Lần thứ hai, người mẹ phải trao mớ tóc đen của mình cho bà cụ đổi lấy mớ tóc bạc để được chỉ đường đến khu vườn kính của Thần Chết, nơi có những bông hoa tượng trưng cho kiếp người. Cái gì đã dắt người mẹ đi xa đến thế, đánh đổi nhiều đến thế, đó là tình mẫu tử, là việc tìm lại đứa con thân yêu. Nhưng trong khu vườn, với đôi mắt trong veo được trao trả lại, người mẹ đã nhìn thấy bao nhiêu thân phận sung sướng và bất hạnh trong những bông hoa. Và bà quyết định: để cho con được chết. Lựa chọn cuối cùng này của người mẹ là dấu chỉ cho chúng ta đọc được ý nghĩa bên trong của câu chuyện cổ tích. Người mẹ không muốn con mình thức dậy vì bà không thể biết được cuộc đời thực sự của đứa con sẽ là khổ đau hay hạnh phúc; bà không thể biết nếu con mình sống lại thì cái sống ấy liệu có làm người khác phải mất con như bà không, có phải trả giá không. Vì không biết nên bà chấp nhận cho Thần Chết mang con mình đi xa. Chúng ta, cũng như bà mẹ, không biết kết cuộc mà Andersen dành cho người mẹ đau khổ đó là đúng hay không đúng. Cái chết từ đầu câu chuyện vẫn chỉ là cái chết cho đến cuối câu chuyện, dù người mẹ đã phải mù lòa đi hay già cỗi đi vì đau thương. Chúng ta bị chọn lựa cho cái chết, còn ý nghĩa cái chết ấy vẫn là điều không thể biết.
Có thể nói, những mong ước trong truyện cổ Andersen đều thiết tha và hệ trọng. Nhưng các nhân vật khi đạt được lại hiếm khi trọn vẹn niềm vui. Truyện của ông thường không kết thúc trong khúc khải hoàn hoặc sự viên mãn, rằng từ đó trở đi, những nhân vật ấy sẽ được hạnh phúc mãi mãi. Andersen đã làm ngược lại; cái đạt được không phải là phần thưởng tuyệt đối cho đức hạnh hoặc tài năng, hoặc sự khốn khó. Cái đạt được vẫn nằm trong chiếc bóng khổng lồ của định mệnh. Và nỗi buồn vẫn tràn ngập, cho dù mơ ước đã thành.

Mấy ngày không thống kê gì hết, tại lười quá trời mà net thì hết tiền.
Đọc xong Falling for Gracie, thực là chán quá nên đọc novel sến súa màu hồng cho giải tỏa. Cũng vui. Vui cho đến khi hai nhân vật chính bắt đầu có dấu hiệu yêu nhau, tiếp theo thì chán tàn tệ tàn tạ tàn không còn gì để tàn nữa luôn.
Còn gì không nhỉ… Gom mấy ngày liền giờ cũng không nhớ rõ nữa. Mà thôi, tuy trí nhớ của mình cá vàng đáng gọi là tằng tổ nhưng không nhớ tức là chẳng có gì ấn tượng, cho qua cho qua.
Đang đọc Người Bình Xuyên, thú vị, cơ mà tự dưng hơi ngán. Chả biết có đi hết nổi không.
04/04/2011
Đọc Venise và những cuộc tình gondola của Dương Thụy. Hoãn đọc vô hạn định Oxford và Paris vì thực sự là có định kiến chán ngấy thể loại truyện của hai cuốn này. Nhưng thử đọc Venise để coi sao. Chẳng thấy sao gì cả. Không sao, không sao hết. Đại khái là không sao to cũng chẳng sao nhỏ. Bình bình, thường thường. Rất chán. Có tính chất cá nhân cao quá, không khái quát, dù chỉ là chung một góc rất nhỏ để người đọc như mình có thể ghé được một mắt vào để cùng cảm, cùng hiểu với người viết. Những bài viết này nếu đăng trên blog cá nhân thì chắc là hay, nhưng đem in thành sách bán cho cộng đồng thì lại thiêu thiếu.
Dương Thụy không phải người đầu tiên cũng chẳng phải người cuối cùng ghi chú rồi in sách về những chuyến đi của mình. Nhưng cách viết của cô nhìn chung nhạt, không đặc sắc. Không đặc sắc thể hiện ở chính cách cảm nhận của cô cho đến cách hành văn, chọn lựa chuyện kể. Nói chung, Dương Thụy trong cuốn sách này hoàn toàn không phải là một người có năng khiếu kể chuyện. Ấy là chưa kể sự thiếu tinh tế thể hiện trong từng mẩu chuyện cô kể ra. Rất thường. Mình nghe bạn Đan kể chuyện bố con bạn ấy bàn chuyện học bơi còn thú vị hơn. Thêm nữa, tên sách hơi lừa tình.
P.s : Đã viết cảm nhận “chính thống” ở Reading Cafe.
Jun 02, 2013 12:44AM

~oOo~
Cái chết – một nghịch dị của đời sống
Hấu khắp trang văn của Banana bao giờ cũng thấp thoáng bóng dáng rình rập với sức mạnh toàn năng và uy quyền tuyệt đối của cái chết. Trang viết của Banana là trang viết ngập sức ám ảnh về cái chết. Mỗi nhân vật đều mang một gánh nặng về cái chết, bóng ma của cái chết, đều dai dẳng đeo đẵng dự cảm khôn nguôi về cái chết và thậm chí, hoá thân vào cái chết. Cái chết tham gia và hiện hữu rõ nét, in đậm dấu ấn vào đời sống trong thế giới Banana.
Trước hết, bản thân cái chết là một nghịch dị. Khác với quan niệm truyền thống của Nhật Bản vốn mang đậm Thiền tính, nhìn cái chết như là một hành trình hư vô và vô thường của con người, ngoài bút Banana lại khắc hoạ cái chết như một chấn động của đời sống, cắt ngang đời sống, chấm dứt cái đang hiện hữu và làm biến chuyển cái tiếp tục hiện hữu. Vì vậy, cái chết không hiện ra như một triết lý vô thường mà là một biến cố nghịch dị lớn lao. Từ trang đầu tiên đến trang cuối cùng, tác phẩm Nhà bếp chìm trong bóng tối của cái chết. Mikage (Nhà bếp) dần dần phải chia biệt vĩnh viễn với cha mẹ và với người bà, để rồi, chỉ còn có thể nương náu trong căn bếp để tìm về sự bình yên cho một số phận chịu đựng quá nhiều khuấy động. Eriko hoán tính sau cái chết củ a người vợ và bản thân mình cũng luôn dự cảm về cái chết nên đã viết sẵn chúc thư và những lời trăn trối cho con trai mình. Yuiki sớm mồ côi mẹ, rồi cuối cùng, Eriko, người cha và cũng là người mẹ thứ hai của cậu cũng mãi mãi ra đi bằng một cái chết đau đớn, bất thình lình. Từ đấy, bản thân Mikage luôn bị ám ảnh về sự trôi qua của thời gian, sự nuối tiếc của hoài niệm và sự lo âu khốn cùng về tất cả những chảy trôi, mất mát của đời sống. Cái chết cắt ngang cuộc đời các nhân vật, đẩy họ vào bi kịch của sự tồn tại và bi kịch nội tâm. Tugumi từ khi sinh ra đã luôn mang hai chữ vĩnh biệt như con dấu định mệnh đóng trên người (Vĩnh biệt Tugumi). Trong N.P, những trang viết ám lời nguyền đẩy các nhân vật tìm đến cái chết. Và Bóng trăng là giao điểm của những tâm hồn bị thương tổn nặng nề trước cái chết của người tình, những con người luôn giằng xé bởi khao khát được nhìn lại lần cuối bóng hình mà họ yêu thương, gắn bó, gần gũi qua bao năm tháng, bỗng đột ngột bị cái chết dằng đi. Bóng tối của cái chết lan toả trên trang giấy, gây cơn dư chấn miên viễn trong mỗi nhân vật, đến đột ngột như một sự nghịch dị kinh hoàng, ám ảnh.
Ơ một góc độ khác, cái chết lại chính là đời sống trong hình dạng nghịch dị như một biến thể. Đó là sự sống hoá thân vào cái chết, mang vác cái chết, hoá nhập trong cái chết để biến đổi chính mình. Sự hoán tính của Eriko (Nhà bếp) và Hiiragi (Bóng trăng) là sự dịch chuyển dần vào giới tính của người đã chết, khao khát hoá nhập vào người đã chết. Như vậy, cái chết hiện hữu ngay trong sự sống. Sự tồn tại mang vác cái chết ngay trong bản thân mình, trong hành trình sống của mình. Sự sống chính là một biến thể của cái chết, một dạng thức tồn tại của cái chết khi sự sống và cái chết nhập vào nhau và hiện hữu trong hình dáng của sự nghịch dị.
Không gian và thời gian trong các sáng tác của Banana luôn là những không gian và thời gian bị cắt khúc, hiện ra bất chợt, đánh mất không gian và thời gian được miêu tả trước đó trong sự đứt quãng của dòng chảy tâm trạng và ý thức nhân vật. Thời gian luôn là khoảng thời gian đột nhiên, là những khoảnh khắc ngưng đọng tâm trạng, xúc cảm, dòng ý thức của nhân vật. Những lát cắt thời – không đột hiện, chỉ có tính thông báo cụ thể mà không có tính định vị, xác định, không nằm trong sự xâu chuỗi của trật tự mà đầy biến ngẫu. Trong khoảnh khắc ấy, nhân vật suy tư, chiêm nghiệm về lẽ sống, lẽ tồn tại, về bản thể của con người.
Nguồn: http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/

1. Các vấn đề chung: được hiểu nôm na là nơi dành cho những thông báo, những bài viết có ảnh hưởng chung đến hoạt động của toàn bộ diễn đàn.
2. Điểm sách: nơi dành cho các bài điểm sách, bao gồm cả giới thiệu (preview) lẫn cảm nhận (review) về sách của thành viên Reading Cafe và bạn đọc, tóm lại là dành cho những bài điểm sách của các cây bút tài tử, không chuyên.
3. Các bài nghiên cứu chuyên sâu: ở đây sẽ có những bài nghiên cứu chuyên sâu, mang tính học thuật, hầu hết do các nhà phê bình chuyên nghiệp viết nhằm cung cấp những góc nhìn mới hơn, rộng hơn và sâu hơn cho mọi người về các tác phẩm văn học.
4. Hỏi đáp về sách: mọi câu hỏi, thắc về sách các bạn đều có thể đưa vào đây, ví dụ như hỏi thông tin sách, hỏi về tác giả, hỏi chỗ mua sách v.v... Các thành viên của diễn đàn nếu có ai biết thì sẽ cố gắng trả lời.
5. Đối thoại về việc đọc sách: nơi dành cho các chủ đề có nội dung bàn luận về việc đọc, "văn hóa đọc", người đọc, v.v...
6. Các sự kiện liên quan đến sách: thông tin về các giải thưởng, hội sách, đợt giảm giá sách v.v... sẽ được đưa vào đây.
7. Bên cạnh sách, còn có gì?: phim ảnh, nhạc nhẽo, triển lãm, hội họa, kịch nghệ vân vân và mây mây (nếu có) sẽ chốt hàng ở chỗ này nhé.
Lưu ý: Các bạn nhớ ghi chú đầy đủ nguồn khi sử dụng các bài viết được sưu tầm. :)

~oOo~
Vậy là cuối cùng, giải Nobel Văn chương 2012 đã có chủ, đúng một giáp từ năm 2000 khi Cao Hành Kiện (mặc dù đã bị tước quốc tịch Trung Quốc nhưng ông là nhà văn Trung Quốc trăm phần trăm) được trao giải Nobel và bị người Trung Quốc phản đối, cho việc trao giải đó mang tính chính trị“như là một sự sỉ nhục và cũng là sự khinh thường đối với chúng ta” (Bắc Kinh Văn báo), “đây là một trò đùa không đúng chỗ, nó sẽ làm mất uy tín của Ủy ban Nobel dưới con mắt một bộ phận dư luận Trung Quốc” (Văn hối báo)...Thì nay, chắc là họ hoan hỷ vì Mạc Ngôn là nhà văn xuất sắc chính thống của họ.
Không phải ngẫu nhiên mà cả Mạc Ngôn và H.Murakami đều đứng đầu danh sách các nhà văn có khả năng được giải Nobel năm nay.Châu Á đang nóng vì nhiều vấn đề.Những giá trị châu Á đang được quan tâm. Và cả Mạc Ngôn lẫn Murakami đều thuộc loại nhà văn ăn khách, phổ biến, nổi tiếng, tác phẩm của họ lại còn được dựng thành phim để đến gần công chúng hơn… những tiêu chí vốn xa lạ với một giải Nobel bác học, hàn lâm, xa rời thị trường.
Điều đó cho thấy tính chính trị và tính đại chúng đang dần dần thống lĩnh hoàn cầu.Chiếm lĩnh cả một giải thưởng văn chương danh giá.Nhiều người sẽ bảo: Nobel là cái quái gì chứ? Nhưng rõ ràng, con người ta phải tin vào một cái gì đó, phải có một chuẩn thức, và giải Nobel, vốn do một ủy ban uyên bác, công bằng, không thuộc một nước lớn mà là của một quốc gia trung lập, vẫn là đỉnh điểm cao quý của nghề văn.
Tôi dõi theo Mạc Ngôn và Murakami từ khi sách họ mới vào Việt Nam. Tôi có và đọc gần hết tác phẩm của họ.Cả hai nhà văn này tôi đều thích, thích ngay từ dòng đầu tiên. Điều này cũng hơi lạ, vì tôi vốn dị ứng với lối viết hơi dung tục (như của Mạc Ngôn) và rề rà (như kiểu Murakami). Tôi vẫn thích đọc cái kiểu trong sáng, giản dị, nhẹ nhàng ảnh hưởng của văn học Pháp và Nga.Nhưng không hiểu sao, cả Mạc Ngôn và Murakami tôi đều đọc được.Đọc một mạch đến hết.Có một vài vị thầy của tôi đã nhận xét là cố đọc hai tác giả này chỉ đến 30 trang là bỏ, không tiếp tục được.Đó cũng là một nhận xét của phía độc giả không yêu thích Mạc Ngôn và Murakami vốn không phải là hiếm trong giới học thuật.
Công bằng mà nói, vài năm gần đây, Mạc Ngôn viết xuống tay hẳn. Ba tác phẩm tôi cho là xuất sắc nhất của ông, thường khuyên sinh viên tìm đọc, làm luận văn… là Cao lương đỏ, Phong nhũ phì đồn (Báu vật của đời) và Đàn hương hình. Còn lại, đều chỉ thuộc loại tầm tầm.Tứ thập nhất pháo quá bề bộn.Thập tam bộ, Ếch, Tửu quốc… nhiều motif lặp lại và dài dòng. Rừng xanh lá đỏ và Cây tỏi nổi giận còn thua Nguyễn Ngọc Tư về mức độ da diết và khắc khoải.Chiến hữu trùng phùng thì khỏi nói, quá tệ cả về phong cách lẫn tư tưởng…
Murakami cũng vậy, càng ngày càng trở nên mang tính “thị trường”.Rừng Na Uy, Biên niên ký chim vặn dây cót và Kafka bên bờ biển theo tôi cũng là ba tác phẩm lớn của ông. Xứ sở diệu kỳ và nơi chốn tận cùng thế giới, tuy mượn kết cấu “phản trinh thám”nhưng không thành công lắm. Người tình Sputnik và Phía Nam biên giới, Phía Tây mặt trời chưa đủ sức mạnh về tư tưởng, mang hơi hướm văn học diễm tình quá. Tôi cũng từng phản biện luận văn về Murakami, và tôi cho rằng, trường hợp của Murakami nên được xem xét dưới góc độ thành công của văn học đại chúng hơn là văn học cổ điển, bác học. Vì lẽ tác phẩm của ông như có sẵn công thức để hấp dẫn mọi giới, cảm giác như mình được bao bọc trong một cái lưới êm ái, không dứt ra được mặc dù biết là mình đang bị vào tròng.
Nhưng nói như vậy không phải là chê bai họ.Tôi vốn là người hâm mộ họ.Và đọc họ, vừa với niềm yêu thích, vừa với con mắt của nhà phê bình.
Về Murakami, nhiều người nhận xét là đã chạm vào những vi tế nhỏ nhất của cảm xúc. Ông diễn tả tài hoa tâm trạng của Người: về nỗi thống khổ của một con người sống trong thời đại thừa mứa về vật chất nhưng cô độc và lang thang. Về những tình yêu dằn vặt. Về cái đẹp mong manh vô thường vốn là cảm hứng của các nhà văn Nhật Bổn từ cổ chí kim. Về cái chết tự chọn vốn là đặc trưng của phong cách sống Nhật. Nghĩa là, ông viết về nước Nhật, về người Nhật trong một xã hội quá gần nhau nên ta thấy bóng dáng của mình trong đó. Người đọc các nước đã thổn thức với sách ông, than vãn rằng sao ông tài tình nói thay cảm xúc của họ.Văn ông tài hoa nhưng bình dị.Và điều đó khiến ông nổi tiếng, khiến ông “public”(phổ biến). Và nó là lực cản khiến ông không đến được với giải Nobel, vốn không chuộng tính phổ thông, vốn trao giải vì nhiều lý do khác bên cạnh lý do văn chương (ví dụ như lý do tuổi tác, Murakami còn khá trẻ so với các nhà văn được giải từ xưa đến nay; lý do regional - vùng miền: thông thường, giải Nobel xoay vòng từ Âu, Mỹ, Phi, rồi đến Á; lý do chính trị: năm nào có điểm nóng về cái gì đó, nơi nào đó thì giải Nobel tập trung vào đó)…
Còn Mạc Ngôn, có lẽ là nhà văn Trung Quốc được dịch, được đọc và được nghiên cứu nhiều nhất trên thế giới trong thế kỷ 20, chỉ sau Lỗ Tấn. Giữa Mạc Ngôn và Lỗ Tấn thực ra có nhiều điểm tương đồng tôi sẽ nói sau. Điều đó cho thấy cũng giống như Murakami, ông là người quân bình, đi chênh vênh giữa hai thế văn chương bình dân và văn chương bác học. Văn ông thì dân dã, bỗ bã, thậm chí có lúc suồng sã, dung tục. Nhưng nó kết hợp những huyền thoại, dân gian Trung Quốc, và tô đậm đời sống Trung Quốc.Nghĩa là, người Trung Quốc có thể tự hào vì có một nhà văn mang bản sắc nước họ đi “đấm xứ người”.Mạc Ngôn từng nhiều lần được mời đi nói chuyện, đọc sách, giới thiệu sách ở những trường đại học lớn trên thế giới.Ông được giảng dạy trong hầu hết các chuyên đề về văn học Trung Quốc đương đại hoặc văn học châu Á đương đại ở đại học các nước.Nhưng người Trung Quốc hiện lên trong tác phẩm của ông thật đáng thương. Tôi không hiểu nhà nước chính thống ở Trung Quốc tự hào về ông, một nhà văn quân đội ở điểm nào, chứ còn, cái làm cho Mạc Ngôn vĩ đại, và gần với Lỗ Tấn, là ở việc khắc họa được thân phận của người Trung Quốc, tao loạn, tan tác vì lịch sử và biến cố, số phận của họ bị vùi dập, bị quăng quật còn hơn cả con muỗi. Con muỗi còn có vũ khí, còn họ, họ hoàn toàn bị động và chìm khuất trong những va đập của lịch sử, của chính trị. Tuy vậy, như bản chất của người Trung Quốc, họ chịu đựng, và quật cường. Người ta thích đọc Mạc Ngôn vì lẽ đó. Nếu như Murakami chú trọng đến tế vi cảm xúc thì Mạc Ngôn đem đến những giằng xé dữ dội của kiếp người. Không ai khổ như nhân vật của Mạc Ngôn, mà cũng không ai dai dẳng, bền bỉ sức sống như nhân vật của Mạc Ngôn. Đó là phong cách Trung Quốc. Người Trung Quốc vốn lạc quan chứ không bi quan như người Nhật. Người Trung Quốc không hay tìm đến cái chết như người Nhật. Người Trung Quốc gắng gỏi sống, ráng mà sống. “Phải sống”[1].Như cuộc sống nó vốn là.
Điểm Mạc Ngôn gần Lỗ Tấn, còn là sự dũng cảm.Để viết, và in, và nổi tiếng mà vẫn giữ được cái cốt lõi muốn nói trong tác phẩm của mình ở một đất nước còn chế độ kiểm duyệt xuất bản, thật không dễ. Đọc Phong nhũ phì đồn, Cây tỏi nổi giận, Rừng xanh lá đỏ, Thập tam bộ… thấy ông khá mạnh tay phê phán. Thành ra, dù là một nhà văn quân đội chính thống, cơ hồ Mạc Ngôn không hề ca ngợi chế độ, không trở thành “bồi bút” mà đã nói lên được điều cốt lõi nhất: số phận Trung Quốc tao tác qua những biến thiên lịch sử, thời đại. Điểm này Murakami sướng hơn Mạc Ngôn. Tôi hay tưởng tượng, Murakami vừa thảnh thơi, vừa đi bộ, vừa viết, như một niềm yêu thích, như một thú vui tao nhã. Còn Mạc Ngôn, vừa viết, vừa canh chừng trước sau rình rập, giống như nghệ sĩ xiếc đi trên dây, căng thẳng, hồi hộp, một là đến bờ vinh quang, hai là tan xác…
Về sự dũng cảm này, khi đưa Mạc Ngôn và Murakami lên bàn cân giải Nobel, tôi nghĩ, chọn Mạc Ngôn là đúng.
Nhưng một nhà văn lớn của thời đại, một nhà văn xứng tầm Nobel, danh giá nhất hành tinh, theo tôi, phải là một nhà văn nhân loại. Nghĩa là, nhà văn đó phải thực sự vượt qua ranh giới quốc gia không chỉ theo nghĩa hẹp là sách được xuất bản khắp nơi, mà còn là theo nghĩa rộng: vượt qua những hiềm khích dân tộc, vượt qua sự hẹp hòi của “dân tộc chủ nghĩa”, nhất là ở một đất nước như Trung Quốc, dân tộc tính, chủ nghĩa đại Hán vốn là thâm căn cố đế. Thì Mạc Ngôn, chưa đạt đến mức nhân loại. Với Chiến hữu trùng phùng (Ma chiến hữu), viết về cuộc chiến tranh Trung- Việt năm 1979 mà Mạc Ngôn gọi là “cuộc chiến vệ quốc”, tuy bằng giọng văn ôn hòa, không đến nỗi hiếu chiến, nhưng rõ ràng Mạc Ngôn vẫn đứng trên lập trường nước mạnh, nước lớn “cả vú lấp miệng em”. Nếu muốn xứng tầm là một nhà văn Nobel, rõ ràng, Mạc Ngôn nợ Việt Nam một lời xin lỗi.
[1]Tên một tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Dư Hoa, được đạo diễn Trương Nghệ Mưu chuyển thể thành phim.
Nguồn: website Khoa Văn học & Ngôn ngữ (Đại học KHXH&NV TPHCM)

Về sau, được sử dụng ủng hộ của nhiều người, Reading Cafe đã mở rộng thêm một trang facebook tại địa chỉ: http://www.facebook.com/pages/Reading.... Trang facebook này được dùng làm nơi cập nhật một cách nhanh chóng nhất các thông tin đến cho bạn đọc, bao gồm tin về bài điểm sách mới, các đợt giảm giá, hội sách hoặc một số câu trích dẫn hay.
Nay, group Reading Cafe tại Goodreads được lập ra nhằm quy tụ bạn bè, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc giao lưu giữa các cá nhân trong Reading Cafe - điều mà cả wordpress và facebook đều chưa đáp ứng tốt.
Cuối cùng, mình xin thay mặt Reading Cafe cảm ơn các bạn đã tham gia group này. Mong là chúng ta sẽ chia sẻ được nhiều niềm vui cũng như thêm nhiều hiểu biết xung quanh sở thích đọc sách vốn có.
(Chiễm Phong)

Bắt đầu từ ngày 19 và kết thúc vào ngày hôm nay cuốn Pippi Tất dài của Astrid Lindgren. À há, đã viết được tên bà tác giả rồi, thế mà hôm đâu thấy Mamachan nhắn tin véo véo tên bà ấy mình cứ mắt tròn mắt dẹt. Chuyện, mình đây cũng đã ngầu lên gần bằng rồi. :) ) Nói chung cảm nghĩ về Pippi đã nói một cách chính thống ở đây. Còn thì không chính thống, sao cứ thấy Mamachan nói chuyện giống Pippi, thật là kì bí.
24/03/2011
Mình bảo thật, chắc mùa này là mùa mình hóa thành máy nghiền sách. Năm ngoái cũng giờ này, mình đọc như phát cuồng. Lúc ấy còn đổ cho việc chạy top 100 BBC nên cần đọc nhiều để đổ đầy Reading Cafe, chứ bây giờ thì làm gì còn lý do nào. Ờ, ngoài chuyện, mình lên cơn. Chắc mùa này gió máy thổ nhưỡng có gì đó đặc biệt.
Mình đã nghiền Emil trong hai ngày và nghiền Công chúa nhỏ chỉ trong một đêm (sáng Emil, tối Công chúa). Và thực ra là đang bắt đầu đọc qua Peter Pan rồi.
Về hai cuốn đầu, Emil sẽ viết review sau còn Sara thì đã có review ở chỗ Readingcafe. Về Peter Pan, ban đầu chả muốn đọc, thật, tại vì thực ra mình không được hào hứng với phim lẫn phim hoạt hình Peter Pan lắm (có ai thấy Peter Pan của Disney vẽ xấu như mình không nhỉ ?). Nhưng xem ra truyện khá khẩm hơn. Nói chung mình cũng có chút cả tin với cái lời nhận xét của một báo Mỹ nào đó, đại loại là cái phim Disney nó làm hỏng hết cuốn sách. Thôi thế để mình đọc xem sao.

Vào rạng sáng đã đọc xong Gió Đông gió Tây và một nửa cuốn Những người đàn bà trong gia đình Kennedy của Pearl Buck. Pearl Buck, tác giả mà mình thích nhất, luôn có cách làm mình xao động không dứt khi đọc sách của bà. Cái giọng văn rất mềm mại và thuần nữ tính ấy thực sự khiến mình đồng cảm và đôi khi, rơi nước mắt. Đó không phải là kiểu nữ tính của thứ truyện tình cảm sướt mướt, không phải thứ nữ tính cứng cỏi rạn vỡ trong linglei. Nó giống như nước vậy. Mềm mại, ôn nhu, trong trẻo và ngấm ngầm một nội lực làm người ta ngưỡng vọng. Tình yêu của tiểu thư gia giáo Quý Lan và người chồng bác sĩ mười hai năm ở nước ngoài mới trở về Trung Hoa cũng đẹp như bao chuyện tình khác Pearl Buck đã kể, dịu dàng, mãnh liệt, thiết tha. Lắm lúc mình bật khóc trước cách mà Pearl Buck chạm đúng tâm lý của những người đàn bà châu Á, bật khóc vì cảm thấy được sẻ chia, vì biết rằng trong sâu thẳm lòng mình cũng có thứ sức mạnh tiềm tàng như nước ấy.
Ngay cả trong một cuốn sách viết về gia đình Kennedy biểu tượng của nước Mỹ, Pearl Buck vẫn đặt ra thế đối sánh với Trung Hoa. Tình yêu của bà với đất nước này thực là một điều đẹp đẽ. Sách của Pearl Buck nhất định mình phải đọc hết, phải mua hết mà để dành. Và mình biết, bà sẽ luôn là nhà văn mình yêu thích nhất.
Ngoài ra, vẫn tiếp tục nhẩn nha với Văn minh Ấn Độ.

18/03/2011
Điểm qua những đầu sách đang mở thì có các bé sau : Văn minh Ấn Độ (Will Durant), Cuộc đời của Pi (Yann Martel), Lãn Ông (Yveline Féray), Cát bụi chân ai (Tô Hoài), Người thầy (Frank McCourt).
Văn minh Ấn Độ thì chắc là đọc lại phải lần thứ 4 thứ 5 gì rồi, không đủ kiên nhẫn nên hay nhảy cóc, nhảy tới rồi lại nhảy lui, hậu quả là lần đọc này thấy cái gì cũng quen mà chả nhớ cái gì rành mạch ra hồn. Rất là vớ vẩn. À, ý bảo mình ấy, không bảo sách.
Giờ mới lọ mọ đọc Cuộc đời của Pi, chả hiểu vì sao đi được 1/3 sách rồi mà vẫn ngủ gật trong khi đọc. Chắc tại nghe nói nhiều quá nên giữa rừng chữ cứ vểnh tai, à nhầm, giương mắt tìm kiếm con hổ mà vẫn chả thấy hổ đâu cuối cùng đâm ra sốt ruột khó chịu quá đi mất. Đang tự hỏi không biết có nên đi cầu vượt đến chỗ hổ báo không.
Về Lãn Ông, chỉ qua được 10 trang đầu chưa có ý dấn thêm. Cơ bản là cái giọng văn… chánnnnn quá trời quá đất. Đọc cứ có cảm giác tác giả vừa viết vừa giảng những thứ hết sức quen thuộc. Có lẽ vì bà ấy viết cho người Pháp – những người nói giảm nói tránh là còn hơi hơi xa lạ với Việt Nam truyền thống – nên cứ phải giảng giải rồi thành ra người Việt Nam như mình đọc vào thấy dài dòng thừa thãi.
Cát bụi chân ai, ừm, đang đọc. Có chút hoài cổ trong chính bản thân mình trong những đoạn văn tả về Hà Nội những ngày tháng ấy. Mà mình có phải dân Hà Nội đâu nên chả hiểu là hoài cổ cái gì không biết.
Người thầy thì đã qua nửa cuốn, cũng có thể hơn, không để ý lắm. Đọc xong thấy thầy giáo “ngon” thì công thức của Mỹ hay Việt Nam gì cũng như nhau tất. Thỉnh thoảng có ý nghĩa điên điên là 20/11 mua tặng cuốn này cho thầy cô cũ. Dĩ nhiên tài chính không cho phép tặng hàng loạt nhưng mà vấn đề thực sự là, ngẫm lại, chả biết tặng ai cho xứng. Đó cũng là điều đáng buồn, ha.