Duy-ma-cật 5: CON ĐƯỜNG BỒ TÁT

Thấp thoáng lời kinh


5. Con đường Bồ tát

Đỗ Hồng Ngọc


Làm sao “ở nơi sinh tử mà chẳng làm việc ô trược, ở nơi Niết-bàn mà chẳng diệt độ mãi mãi », làm sao mặc áo giấy đi với ma, mà vẫn « thị hiện hàng phục chúng ma » ?  Làm sao hành tánh Không mà vẫn trồng các cội công đức ? hành Vô tướng mà vẫn độ chúng sanh ? có tam minh lục thông mà… lậu hoặc vẫn còn ? làm sao đại bi mà không ái kiến ? Con đường Bồ-tát quả là không dễ chút nào!


Nhắc lại hôm đó Bảo Tích, một thanh niên con nhà trưởng giả, cùng năm trăm bạn bè ngựa xe rầm rập đến Vườn Xoài để bái kiến Phật, xin Phật chỉ dạy các “hạnh tịnh độ”. Họ đều đã phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề nhưng chưa thể “xuất gia”, sống nếp sống đầu tròn áo vuông, ngồi yên dưới cội cây già và đi lang thang khất thực… Cùng tham dự buổi hôm đó còn có bậc Bồ-tát, A-la-hán và hằng vạn thính chúng lắng nghe lời Phật thuyết giảng.


Phật dạy: “Lành thay, Bảo Tích! Ông đã vì chư Bồ-tát hỏi Như Lai về hạnh tịnh độ. Hãy lắng nghe, lắng nghe! Hãy suy nghĩ cho kỹ. Ta sẽ vì ông mà giảng thuyết” (…)



Sau khi các vị đại đệ tử Phật từ chối không đi thăm bệnh cho Duy-ma-cật, nêu lý do này lý do khác, thực chất là tự phán về chính mình, những suy tư dằn vặt bấy lâu, nay mới có dịp bộc lộ, Phật quay sang Văn Thù nói “Bây giờ tới lúc ông phải đi rồi đó. Ông đến thăm bệnh cho Duy-ma-cật đi, nhớ nói Như Lai gởi lời ân cần thăm hỏi”.


Văn Thù đánh giá rất cao Duy-ma-cật: “ Ông ấy thấu suốt sâu xa thật tướng; thuyết diễn rành mạch yếu lý của pháp; biện tài; trí huệ không ngăn ngại; biết hết pháp thức của Bồ Tát; đắc nhập tạng bí mật của chư Phật; hàng phục chúng ma; du hý thần thông. Huệ và phương tiện  đều đến mức vẹn toàn”.


 


Nghe vậy, tất cả đều náo nức muốn được tham dự buổi tranh luận chắc chắn sôi nổi, hiển bày “diệu pháp” của hai vị thương thủ, bèn rùng rùng xin theo. Phật im lặng. Mỉm cười.


Duy-ma-cật biết Văn Thù sắp tới bèn chuẩn bị đón tiếp. Dọn sạch nhà cửa làm cho trống trơ trống hoắc, cho gia nhân đi chỗ khác chơi, chỉ còn để một chiếc giường ọp ẹp, nằm rên hừ hừ.


Trông thấy Văn Thù, Duy-ma-cật ôm ngực húng hắng ho vài tiếng rồi chào:


« Lành thay, Văn-Thù mới đến! Tướng chẳng đến mà đến. Tướng chẳng thấy mà thấy.”…


Văn Thù nhẹ nhàng đáp lại: “Như vậy đó, cư sĩ. Đến, chẳng từ đâu đến. Đi, chẳng có chỗ nào tới… ». Rõ ràng Duy-ma-cật tung chiêu « vô tướng công» và Văn Thù đã đáp lại bằng « Như Lai thần chưởng ». Hai vị thượng thủ xuất chiêu chưởng phong ào ào khiến nhiều người không khỏi choáng váng.


Văn Thù bèn bảo : “Nhưng thôi, hãy tạm gác lại việc đó».


“Bệnh của cư sĩ đây, do nhân nào mà phát khởi? Bệnh sinh ra lâu chưa? Nên dứt trừ bằng cách nào? Thế Tôn gởi lời ân cần thăm hỏi ông đó”. Văn Thù nói.


Do vô minh và hữu ái mà bệnh tôi sinh ra. Vì tất cả chúng sinh bệnh, cho nên tôi bệnh. Bồ Tát vì chúng sinh, nên vào chốn sinh tử. Có sinh tử, ắt có bệnh. Nếu chúng sinh được lìa khỏi bệnh, ắt Bồ Tát sẽ không còn bệnh ». Duy-ma-cật đáp lại.


Rõ ràng Duy-ma-cật nói câu này không nói về mình mà nhằm tới các vị Bồ-tát xuất gia và Bồ-tát tại gia « tương lai » đang có mặt lúc đó: « Bồ-tát vì chúng sinh, nên vào chốn sinh tử. Có sinh tử, ắt có bệnh » để thấy con đường chông gai trước mắt.


Sao gọi là vô minh ? Sao gọi là hữu ái ? Duyên sinh khởi đi từ vô minh. Vô thường mà tưởng là thường, khổ mà tưởng là lạc, vô ngã mà tưởng là ngã, thực tướng vô tướng mà không biết, cứ bám chặt lấy cái giả tướng hữu tướng kia… Nhưng gốc thì vô minh mà bệnh chứng thì khởi phát tại « hữu ái ». Sinh sự là ở hữu ái. Hữu ái là cái trục chính của con đường bệnh sinh vậy.


Bệnh cư sĩ đã lâu chưa ư? Vô minh và hữu ái của chúng sanh đã có từ lúc nào thì bệnh tôi cũng lâu chừng ấy, còn phải hỏi!


Cách nào dứt trừ ư ? Dễ thôi. Ba căn bệnh tham sân si đã có giới, định, huệ là những thuốc đặc trị, dùng đơn thuần hay phối hợp tùy bệnh trạng. Bệnh khỏi chưa đủ mà phải làm sao cho bệnh đừng tái phát. Giải thoát chưa đủ mà còn phải giải thoát tri kiến. Phải  từ, bi, hỷ, xả để giúp mình và giúp người.  Không dừng lại ở chữa bệnh chứng mà phải dứt bệnh căn, nâng cao chất lượng cuộc sống, nghĩa là phải : thực hành lục độ ba-la-mật, thực hành thiền chỉ thiền quán, ba mươi bảy phẩm trợ đạo…  tùy căn cơ tùy bệnh trạng mà gia giảm liều lượng…


Vấn đề do vậy, phòng bệnh là chính. « Nếu chúng sinh được lìa khỏi bệnh, ắt Bồ Tát sẽ không còn bệnh ». Làm sao cho chúng sinh đừng bệnh ? Chỉ cần chấm dứt vô minh và hữu ái trên con đường duyên sinh chập chùng duyên khởi đó.


Sanh bệnh lão tử. Tất yếu nó vậy. Đường dây kịch bản sẵn rồi. Bệnh không thể không có. Chết không thể không có.  Do không biết, do vô minh mà tự mình làm khổ mình thôi. « Đời tôi ngốc dại/ tự làm khô héo tôi đây… » (Trịnh Công Sơn). Hữu ái là cái trục chính của đường dây. Có ái mới có thủ. Có thủ mới sinh hữu. Sinh sự mới sự sinh !


Bệnh của Bồ tát xuất phát từ tâm Đại bi. Nếu không có đại bi thì Bồ tát, một khi đã giác ngộ, nhập Niết-bàn cho xong ! Nhưng bởi lòng Đại Bi mà nấn ná ở lại. Đại Bi thì tốt rồi, nhưng đại bi phải không « ái kiến » nghĩa là phải bình đẳng. Đại bi mà còn « ái kiến », còn thấy thương người này ghét người kia, thương người này nhiều người kia ít thì chưa thực sự là đại bi bởi còn chưa thực sự bình đẳng.


Phật nói : « Không có giai cấp trong giọt máu cùng đỏ, trong nước mắt cùng mặn. Mỗi người sanh ra đều có Phật tánh và đều có thể thành Phật ». Phật cũng nói : « Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành». Không có chuyện độc tôn ở đây. Phật không giấu giếm điều chi, sẵn sàng « khai thị chúng sanh ngộ nhập Tri kiến Phật », để thành Phật. Bồ-tát đạo chính là con đường để thành Phật, đầy gian nan nhưng có thể.


Bình đẳng cho nên Phật không chỉ độ cho Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, A Nan… mà còn  độ cho cả Ưu Ba Ly, một người làm nghề gánh phân !


« Như bệnh của ta đây, chẳng phải thật, chẳng phải có. Bệnh của chúng sinh cũng chẳng phải thật, chẳng phải có.’ Do đó mà không khởi đại bi ái kiến đối với chúng sinh, vì đã « đoạn trừ xong phiền não khách trần ».  Còn lòng bi của ái kiến thì đối với cuộc sinh tử ắt có tâm mỏi mệt chán ngán. Nếu lìa được lòng bi ái kiến ấy, ắt không còn mỏi mệt chán ngán. Người làm tham vấn (counseller), người bác sĩ tâm lý mà không đủ năng lực, thiếu kinh nghiệm dễ để mình bị lôi cuốn, dính mắc vào các tình huống của thân chủ (clients), sẽ bị ám ảnh mà sinh mệt mỏi, chán nản, stress, thậm chí dẫn tới trầm cảm. « Vậy nên Bồ-tát không nên khởi ra việc tự trói buộc ».


Văn Thù hỏi: “Nhà của cư sĩ vì sao trống không, không có cả người hầu?”


Đáp “Tất cả quốc độ của chư Phật cũng đều Không.


Bởi vì quốc độ của chư Phật sống trong bản thể, trong thực tướng vô tướng. « Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng ». Cái gì có tướng thì chỉ là giả tướng, chỉ là hư vọng, ảo hóa đó thôi. Cho nên quốc độ của chư Phật là Không.


Lại hỏi: “Vì gì mà Không?


Đáp: “Vì Không mà Không.”


Không bất dị Sắc. Không tức thị Sắc. Dừng lại ở chân không mà chưa thấy cái diệu hữu thì thật đáng tiếc. Khi thấy diệu hữu trong chân không thì đó mới là hạnh phúc, vì không còn bám chấp.


Lại hỏi: « Không sao lại dùng Không?


Đáp: “Vì không phân biệt cái Không cho nên Không.


Lại hỏi: “Không mà có thể phân biệt được ư?”


Đáp rằng: “Phân biệt cũng là Không.”


Làm sao phân biệt được cái Không? Dù thiên hình vạn tượng bày biện ra đó, nhưng thực tướng là vô tướng, là không, là duyên sinh, vô ngã, làm sao phân biệt được? Từ đó mà có sự bình đẳng, thấy sự bình đẳng. « Con sông là thuyền mây xa là buồm, từng giọt sương thu hết mênh mông » (TCS)…


“Thị chư pháp không tướng: bất sanh bất diệt bất cấu bất tịnh bất tăng bất giảm“. Thấy được không tướng thì còn phân biệt chỗ nào mà không bình đẳng cơ chứ? Dĩ nhiên Không tướng chớ không phải không có tướng. Bồ tát thì thấy cả hai, cả chân không lẫn diệu hữu: Cho nên Bồ-tát hành tánh Không mà vẫn trồng các cội công đức; hành Vô tướng mà vẫn độ chúng sanh; hành Vô tác mà tự hiện thọ thân,  hành Vô khởi mà khởi tất cả thiện hạnh…


Lại hỏi: “Không, nên tìm ở đâu?


Đáp: “Nên ở trong sáu mươi hai kiến chấp mà tìm.”


Lại hỏi: “Sáu mươi hai kiến chấp nên tìm ở đâu?”


Đáp rằng: “Nên ở trong các phép giải thoát của chư Phật mà tìm.”


Sáu mươi hai kiến chấp, có khi còn gọi là tà kiến, là những kiến giải, triết thuyết nọ kia ở thời Phật. Bây giờ thế giới phẳng, toàn cầu hóa, kiến giải còn nhiều vô số vô lượng vô biên. Thế nhưng phép giải thoát của chư Phật thì như “độc cô cửu kiếm”, vô chiêu thắng hữu chiêu. Không mới thắng được hữu. Vì diệu hữu nằm trong chân không, và “chân không” thì tìm thấy trong “diệu hữu”.


Lại hỏi: “Phép Giải thoát của chư Phật nên tìm ở đâu?”


Đáp rằng: “Nên ở trong tâm hạnh của tất cả chúng sanh mà tìm.”


Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ. Chúng sanh vô biên vì tâm vô biên. “Nhất thiết duy tâm tạo“. Thiên đàng cũng tâm mà địa ngục cũng tâm. Atula, ngạ quỷ, súc sanh, sáu nẻo luân hồi thênh thang rộng mở cũng do tâm. Phải “diệt độ“ tất cả chúng sanh, bất cứ loại nào, cho vào vô dư Niết bàn sạch trơn nhưng… chẳng có chúng sanh nào được diệt độ cả thì mới thoát! (Kim Cang). Vô lượng vô số vô biên chúng sanh cũng do tâm tạo ra, thì một khi “tâm bất sinh” thì chúng sanh hết cựa quậy! Chúng sanh mà “thành tựu“ được rồi, nghĩa là dẹp yên được rồi thì cõi Phật thanh tịnh hiện ra tức khắc vậy.


 


Duy-ma-cật tiếp: « Ngài lại hỏi vì sao tôi không có kẻ thị giả (giúp việc)? Tất cả chúng ma và các thầy ngoại đạo là thị giả của tôi. Vì sao thế? Chúng ma ưa thích sanh tử, mà Bồ tát thì không bỏ sanh tử; các thầy ngoại đạo ưa thích kiến chấp, mà Bồ-tát thì chẳng lay động nơi các kiến chấp.”.


Bồ-tát tự nguyện dấn thân vào đời thì cũng phải như tất cả chúng sanh thôi, nghĩa là cũng phải sống chung với ma, với các tà kiến ngoại đạo thôi. Họ phải biết “mặc áo giấy” khi cần, nhưng sẵn sàng “thị hiện để hàng phục chúng ma”. Họ cũng phải lăn lộn với các tà kiến, không xa lạ với các tà kiến đó, trái lại nhờ đó mà học được nhiều chiêu thức khác nhau để có thể dùng vô chiêu mà thắng!


Phật thì xa chứ ma thì gần. Cho nên bảo ma là thị giả, là kẻ giúp việc, gần gũi ta nhất. Ma đủ thứ, thiên ma, tử ma, ngũ ấm ma… quậy phá xà quần nên nói là ưa « sanh tử ». « Vô sanh » thì hết ma. Nhưng Bồ-tát đâu có chịu vô sanh. Bồ-tát do thệ nguyện mà nhảy qua nhảy lại hai bờ. Còn ngoại đạo thì đúng là thầy của Bồ-tát. Họ có thể đưa ra đủ thứ kiến giải, cãi nhau chí chóe, nhưng đâu có nhảy qua khỏi bàn tay Như Lai ? « Nhất thiết pháp giai thị Phật pháp ». Cái gì cũng sinh trụ dị diệt, cũng vô thường, vô ngã, cũng duyên sinh, thực tướng vô tướng đó thôi.


Lại Hỏi: “Bệnh của cư sĩ, đó là những tướng gì?

Đáp: “Bệnh của tôi không có hình tướng, không thể thấy.”


Bệnh của chúng sanh thì có… hình tướng: nào vàng da, bụng ỏng, khò khè, viêm chỗ nọ, ung chỗ kia… phải cần đến thầy đến thuốc chớ Bồ-tát đã sống trong thực tướng vô tướng lẽ nào còn thấy tướng linh tinh?

Lại hỏi: “Bệnh ấy hiệp với thân hay hiệp với tâm?”

Đáp: “Chẳng phải thân hiệp, vì tướng của thân là lìa. Chẳng phải tâm hiệp, vì tâm như ảo hóa.

Lại hỏi: “Trong bốn đại: đất, nước, lửa, gió, cái nào là bệnh?

Đáp: “Bệnh này chẳng phải đất, cũng chẳng lìa đất. Đối với các đại như: nước, lửa, gió, lại cũng như vậy. Nhưng bệnh của chúng sinh là nương theo bốn đại mà khởi. Bởi họ có bệnh, cho nên tôi bệnh.”


Chúng sanh vì chưa thấy biết như Bồ tát nên tứ đại rối loạn, bất an thì sinh bệnh thân, bệnh tâm, còn Bồ tát thì “bệnh” là vì đại bi mà bệnh.


Dứt được những nỗi khổ của già, bệnh, chết, đó là Bồ-đề của Bồ Tát. Nếu chẳng được như vậy, sự tu tập của mình không có lợi ích về trí huệ. Tỷ như mình thắng được kẻ oán thù, mới đáng gọi là dũng. Cũng như thế, nếu mình trừ được cả già, bệnh, chết, mới xứng đáng là Bồ Tát”.


Bồ-tát mà còn có tướng ta, tướng người, tướng chung sanh, tướng thọ giả thì chẳng phải là Bồ-tát (Kim Cang). Cho nên Bồ tát phải hành thâm Bát Nhã, phải “chiếu kiến ngũ uẩn giai không“, phải thấy chư pháp không tướng bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Nếu không vậy thì Bồ-tát chẳng khác gì chúng sanh!


Tuy vậy, một trong những cái “bệnh“ đáng ngại nhất của Bồ-tát là bệnh “chấp không”. Một thứ hư vô chủ nghĩa. “Khi mình chưa có đủ Phật pháp, cũng chẳng dứt bỏ các cảm thọ…“.. Nhờ đó mà thấu cảm, nhờ đó mà thực hành đại bi. “Ví như cái thân có khổ, nên nghĩ đến những cảnh ác lụy của chúng sinh, khởi lòng đại bi. Đã điều phục cái ta rồi, cũng nên điều phục tất cả chúng sinh“.


(còn tiếp)


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 27, 2015 20:32
No comments have been added yet.


Đỗ Hồng Ngọc's Blog

Đỗ Hồng Ngọc
Đỗ Hồng Ngọc isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Đỗ Hồng Ngọc's blog with rss.