Hai Trầu: LỜI TỰ SỰ CỦA CÂY CẦU KHỈ

Ghi chú: Có lẽ vì bạn Mimi Chung đã có nhận xét  khi đọc bài “Cứu lấy… cầu khỉ” của tôi trên trang này rằng “cầu khỉ – noi len tinh chat luoi bieng cua dan tinh, chi lap liem vai mieng van de qua vung nuoc sau. neu muon noi la ‘Van Hoa Cau khi’ cua dan toc VN – cau tha , luoi bieng – thi hay “Cứu lấy… Cầu Khỉ!” (05/08/2014) nên anh Hai Trầu từ Kinh Xáng Bốn Tổng đã gởi tôi bài viết này. Xin chia sẻ cùng các bạn.


Cảm ơn anh Hai Trầu nha!


(ĐHN)


 


LỜI TỰ SỰ CỦA CÂY CẦU KHỈ


“Ví dầu cầu ván đóng đinh,

Cầu tre lắt lẻo, gập ghình khó đi …”

(Ca dao)


cau khi 2 Bạn ơi, nhiều lúc tôi cũng không biết tôi có mặt trên ngã ba con rạch Cái Nai này tự lúc nào! Mỗi ngày như mọi ngày, dòng nước cứ chảy ngang qua những chân tôi cấm sâu trong con rạch rào rào; khi thì êm đềm như mơn man, vỗ về, thân ái ; khi thì con nước chảy xiết như giận dỗi làm đung đưa chân cầu rung rinh giống đôi chân một cụ già; khi thì con nước trong leo lẻo như thấy bóng hình mình in đậm xuống dòng nước rồi hắt nhẹ lên bầu trời xanh; khi thì dòng nước ngầu đục như những năm tháng mảnh đời tôi phủ đầy những lớp bùn từ dưới ruộng bám theo bàn chân trần của người nhà quê cơ cực…




Thế đó bạn, mảnh đời tôi tuồng như lúc nào cũng đơn sơ và giản dị như vậy . Với vài ngọn tre, năm ba cây gáo, cây bần, cây cau, cây dừa, cây sao, cây sến và thêm một mớ dây cổ rùa, dây mây rừng, dây choại là tôi có mặt bên dòng đời nơi thôn dã miền sông nước quê mùa này. Không cầu kỳ, cũng chẳng cao sang gì nhưng tôi chan hòa lòng mình vào cuộc sống ở kinh rạch, nối liền hai bờ bên lở bên bồi, bên nghèo bên khá, bên sáng sủa bên um tùm cây cỏ hoang vu hầu mang mọi người qua lại giao hòa cùng nhau mỗi ngày như mọi ngày… Đêm đêm, ngày ngày, năm năm, tháng tháng, cứ mỗi lần tôi nghe tiếng chân ai chạm vào da thịt, lòng tôi mừng lên như đời mình mang đến niềm vui hạnh ngộ đôi bờ của con rạch làng quê… Bạn ạ, ở chỗ những cây cầu khỉ ở là những nơi quạnh hiu, vắng vẻ vô cùng, phần lớn là nơi cỏ hoang vườn vắng, không bến không bờ… Đôi lúc, chúng tôi cũng có mặt gần nơi đình làng, chùa miếu, trường học như những nơi công cộng nơi làng quê. Bởi lẽ, óc mê tín làm cho người ta sợ những cây cầu khỉ bắt ngang sông đâm thẳng vào nhà, rồi gặp những điều không may, nên tôi phải ở những nơi chốn chơ vơ, quạnh vắng như vậy đến mãn đời. Vì thế tôi mừng hết sức là mừng khi có tiếng kẽo kẹt của đôi chân người kéo qua lưng trần đầy nắng mưa, sương gió mà nghe như có bạn ghé thăm nhà… Xa xa, bạn nhìn tôi như một người gầy nằm vắt vỏng qua một dòng sông không hẹn mùa nước trôi, nước cạn… Tôi gầy guộc như những ngọn tre, những khúc cây khô chát thân tròn lớn bằng những bước chân người nhưng mảnh hồn tôi không gầy guộc chút nào! Tôi nằm im lắng tai nghe những tiếng trách thầm cầu khỉ khó qua sông hơn là người ta khen tôi mang nhiều tiện lợi cho nhà quê. Tôi không buồn về điều này, âu cũng là thân phận của mình! Tôi chẳng mong cầu những gì xa xôi và cũng không bao giờ phụ lòng ai khi người ta dò dẵm bước chân lên thân thể mình lúc họ muốn tìm gặp nhau. Từ em bé đến trường đến chị nhà quê đi ra chợ quận, từ anh nông phu ra đồng đến ông làng ông xã lên xã lên làng, từ người ở các tỉnh thành về quê đến người thợ thiến heo xuống ruộng kiếm chút tiền còm, từ vị sĩ quan ghé lại thăm quê cha đất tổ đến chú lính nghĩa quân đi rong trong xóm, trong thôn, từ anh chạy xe đạp qua sông cõng trên vai con ngựa sắt đến ông Cả, ông Hương Hào, Hương Chánh đi họp việc đình Thần, từ ông thầy giáo hiền lành đến đám bắt nhái rầm rầm rồ rộ cũng bước nhẹ lên lưng tôi khi êm êm, khi giậm mạnh như muốn nhừ khúc xương sống khô khốc vỡ tung… Tôi mang họ qua bờ, qua bến không mong lấy một tiếng chào, không mong lấy một tiếng cảm ơn, không mong lấy một tiếng giã từ khi bàn chân họ đặt lên bờ đất nhưng trong lòng tôi lại mong họ thêm những lần trở lại để tôi có dịp cõng họ qua sông trên tấm lưng trần …

Bạn ơi, bạn có lẽ muốn hỏi tôi về nguồn cội đời tôi, một nguồn cội trước mắt bạn nhưng tôi không dễ gì nói cho bạn nghe về ông cha tôi một cách tường tận được. Đại khái, tôi là một sự góp nhặt từ nhiều nơi, nhiều loài cây như gáo mọc bên bờ mương; như bần đứng ngâm chân trong nước với những chiếc rễ từ đất bùn chui lên suông đuột hứng lấy khí trời; như tre non tre già xin được từ tấm lòng từ thiện của chòm xóm láng giềng; như cây sao, cây sến mọc nơi bến chùa mấy mươi năm già cỗi; như cau lão với những mùa hoa nở thơm thơm cùng câu đố dân gian “đầu rồng đuôi phụng le the, mùa xuân ấp trứng, mùa hè nở con”; như dừa lão thân cao sừng sững như chống trời qua bao mùa rồi mang dâng tặng Thiên Hoàng những trái dừa nước ngọt giữa trời cao; như những sợi dây mây đầy gai sau những ngày gần gũi thân thiết với mấy ổ chim dòng dọc ấm êm làm những căn nhà hạnh phúc của loài chim nhỏ giữa bụi mây gai hoang rậm; như những dây cổ rùa bò ngoằn ngoèo quấn quanh thân cây tràm, cây bớm…

“Thân tôi đấy như đời tôi đơn giản,

Vài ngọn tre năm ba khúc gáo bần,

Nắng thì vàng, mưa vẫn ngửa mặt trông,

Nhìn nước chảy, nhìn dòng đời lặng lẽ …”

Tôi là một cái thúng đựng đầy những tấm lòng vị tha, từ thiện vì mọi người, vì ích lợi nhân loài hơn là làm đẹp cảnh vật làng quê khi những con đường bị dòng sông, kinh rạch ngăn đôi, cản bước mọi người… Dòng nước cạn, con rạch nhỏ, thân tôi gọn gàng nối bên này bên kia bằng khúc gỗ gòn gọn gàng. Dòng nước sâu, con sông rộng, thân tôi cũng nối dài thêm nhiều nhịp thành cây cầu lắt lẻo trên dòng nước bao mùa… Những cầu khỉ dài có từ ba nhịp, năm nhịp, bảy nhịp là những cây cầu qua những con rạch có bờ bến xa vời. Đời tôi luôn có những nhịp lẻ như vậy vì người đời muốn dành nhịp giữa ngay giữa dòng nước sâu cho ghe xuồng chở nặng tiện đường qua lại, nên cầu khỉ lúc nào cũng công bằng, chia dòng sông làm hai phần đều nhau, không thiên vị bên nhiều bên ít, bên trọng bên khinh. Vì nắng mưa, sương gió tung hoành tắm ướt mỗi ngày mà thân tôi thì trần trụi dãi dầu nhuần gội với biết bao mùa mưa nắng, nên đời tôi, như bạn biết rồi, chỉ là những cây gỗ tạp không bền, làm sao mà bền bỉ với thời gian. Mới đó mà đầu này đứt dây tay vịn, đầu kia gỗ mục, bù sè, ong bầu khoét đục. Rồi hồi hôm nhịp giữa với những chiếc chân tre bị ghe xuồng đâm sầm té xấp vào làm chân tôi xiêu vẹo, èo uột… Tôi lại phải thay đời đổi lốt nhiều phen, nhưng xin bạn nhớ giùm điều đó cũng không dễ dàng chút nào bạn ạ! Dân vùng tôi ngụ là dân nghèo, cây vùng tôi ở cũng ít khi dư thừa, còn làng nước của vùng tôi đứng, họ ít khi thấy những thân “cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi” khi chúng tôi ngã bịnh trẹo gân gẫy cốt nửa chừng. Thế là, tôi nằm chơ vơ nhiều năm tháng nơi bờ sông vắng ngắt mà chẳng ai màng ngó tới, thăm lom lấy nửa lời. Người ta không đi qua cầu tre, cầu khỉ được chỉ còn có nước vắt quần qua cần cổ rồi lội ngang sông hoặc đón xuồng quá giang, quá bến. Nhiều đêm tôi nghe ê ẩm khắp châu thân mà buồn cho đời mình, mà cũng thương dân vùng quê tôi sao mà nghèo xơ nghèo xác, nên đời tôi cũng theo đó mà “sơ vơ sửng vửng” giữa trời.


Cau khi (hinh 1)


Bạn ạ, dường như tôi là bạn của vùng nghèo khó nên tôi cả đời cứ quẩn quanh nơi nghèo khó mãi hoài! Bạn ở chợ, ở thành, có bao giờ bạn thấy tôi lên chợ lên thành bao giờ! Cầu khỉ ở trong kinh, trong rạch, nên tôi mang trên mình cái nét riêng nào đó của kinh, của rạch bùn lầy, quê mùa… Không có bùn trên lưng, không có nắng trên tay vịn, không có mưa trên đầu, không có nước làm đung đưa chân cầu như chân cụ già, có lẽ, tôi sẽ không còn là cầu khỉ lắt lẻo nữa rồi bạn ạ! Tôi luôn đến với người nghèo, tôi cận kề người lam lũ ruộng đồng và tôi cũng bắc nhịp để bạn có lần nào về qua làng, qua xóm nữa mà! Nơi miền thôn dã đó, đêm đêm có ánh trăng, có tiếng chài giã gạo vào mùa lúa mới, có hương thơm ngạt ngào của cớm dẹp tháng chạp, tháng giêng, có tiếng hò vào mùa gặt lúa, có tiếng ca vọng cổ trên đồng vẳng đưa vào những đêm giăng câu mùa nước ngập và có cả những đôi tình nhân hẹn nhau mùa cưới năm nào trúng mùa lúa đầy bồ, mùa khoai nhiều củ, mùa bắp đầy trái, mùa dưa hấu đỏ au ngọt ngào… Tình tự lắm mà cũng thân yêu lắm bạn ạ! Vài chiếc vó cất bên cạnh tôi rào rào nước rỏ xuống dòng sông, cá ơi là cá! Mùa cá lên đồng tháng năm, mùa cá ra tháng chín, tháng mười. Bạn có biết tại sao không? Vì cầu khỉ thường ở những ngã ba rạch, ngã ba sông; mà cá lại theo rạch, theo sông để ra vàm, ra vịnh. Dưới những chân tôi, cá cũng dựa vào làm nhà, làm ổ lút nhút như chỗ không người, vì tôi đâu có la rầy gì, nên cá cũng thân thiện với cầu khỉ quá chừng! Cả tôm càng nữa chứ! Những cái bửng bằng đăng tre được căng dựa vào chân tôi, người ta xây thành những cái rọ và rồi nào là tôm càng lửa, càng xanh, tôm trứng thè lè cái bụng thong dong đi vào cái rọ, chui vào miệng lọp như đang đi vào con đường cùng buồn thảm mà những chị tôm luôn đi lùi này không hề hay biết số phận hẩm hiu. Đó là tôi chưa kể cho bạn nghe những chú chim thằng chài lúc nào cũng đứng trên tay vịn của tôi mà rình cá dưới sông. Thoắt một cái vù, con chim màu tím này nhảy bổ xuống nước và gắp một con cá lòng tong vào cái mỏ nhọn một cách gọn khô như nhà ảo thuật tài tình. Tôi mê nhìn con chim nhỏ khôn ngoan này bắt cá mà quên nó đang đứng trên vai mình tự lúc nào, không thấy mỏi vai… Nếu nơi tôi ở là một bãi cỏ ống um tùm bên bờ kinh với sậy đế chen lẫn vào nhau, đêm đêm tôi ngắm nhìn đàn chuột cơm chạy ào ào trong cuộc đua tìm lương thực, con này theo đuôi con kia kêu “tí tục…tí tục” như đi chợ…Tết. Còn ban ngày, trong cái im vắng của buổi trưa hè, nắng chang chang rát mặt, thỉnh thoảng tôi lại gặp vài chị chim ốc cao, chim chằn nghịch, chim quốc rón rén bước nhẹ trong lùm sậy rồi lẹ làng chạy một mạch xuống mé nước uống vội mấy ngụm nước giữa cơn khát nước cháy cổ… Vào những đêm hè tịch mịch, tôi cũng nghe tiếng chim quốc kêu rả rít đến não nuột mà nhớ hồn vua Thục Đế hay tiếng chim đỗ quyên huyền thoại, rồi nghe văng vẳng trong gió câu Kiều bên tai mà bồn chồn:” Ấy hồn Thục Đế hay mình đỗ quyên?” Và, dĩ nhiên bạn ạ, tiếng kêu thương ấy khác đi nhiều so với tiếng rào rào của đàn vịt tàu về ngang dưới chân tôi vào buổi chiều sau một ngày lên đồng lượm cua, lượm ốc… Và còn nhiều lắm bạn ạ, nói sao cho hết được những tiếng vọng của muôn loài chung quanh tôi vào những sáng, nhũng trưa, những chiều, những tối theo vầng nhật nguyệt tuần hoàn…

cau khi 4 Bạn ơi, có lẽ bạn cũng muốn hỏi dòng tộc tôi có mặt tại vùng quê này từ lúc nào? Điều này cũng dễ nhận ra bạn ạ! Từ hồi dân tộc Việt đến vùng đất ngập nước hướng Tây Nam này, cách nay hơn hai trăm bốn mươi năm, ruộng đất nơi đây hoang vu lắm, thú dữ nhiều lắm nhất là cọp, beo, voi, sấu, rắn độc đủ loại. Những con rạch thiên nhiên phần lớn là những con đường do voi đi mà thành rạch, thành sông. Rạch không lớn nhưng cá sấu nằm chờ đầy trong bãi, trong bùn để sẵn sàng cắn bậy vài cái giò, vài cái cẳng của người nào ngây thơ bước xuống. Từ đó những cư dân đầu tiên đến nơi vùng hoang dã này mới tìm cách qua rạch khỏi bị sấu ăn thịt bằng cách trèo lên ngọn cây cặp mé rạch, rồi đu mình qua bên kia bờ giống như khỉ chuyền mình trên cây vậy mà. Bằng chứng là vùng Vàm Nao thời cụ Thoại Ngọc Hầu đào kinh Vĩnh Tế ở Châu Đốc, những dân công đào kinh trốn về nhà qua ngã này, lúc bấy giờ Vàm Nao còn hẹp lắm mà sấu thì nằm đặc sệt dưới nước, nên người ta cũng qua Vàm Nao bằng cách chuyền cây như vậy để tránh sấu chực chờ. Sau này tên gọi cầu khỉ có lẽ bắt đầu từ nguyên thủy như vậy. Dân dần đời sống vùng này mở mang phát triển, nên việc đi lại, giao tiếp là việc tự nhiên như mưa, như nắng. Người ta không thể trèo lên cây hoài để bước qua một con mương, con rạch, do đó, mà có những thân cây bên bờ mương, bờ rạch được chặt cò xuống, nằm dài nối liền hai bờ đất và người ta bước nương lên thân cây vừa ngã mà qua xóm, qua làng, xuống ruộng, xuống nương. Dần dà, cư dân vùng sông rạch chằng chịt này nối những nhịp cầu khỉ mà một thân cây không thể vươn mình gác đủ một bề ngang rộng phình của những dòng sông rạch lớn hơn. Từ đó, bạn ạ, những chiếc cầu khỉ chúng tôi có mặt rầm rộ khắp vùng đồng bằng này.

Cau khỉ Bạn ơi, lịch sử đời tôi qua hằng trăm năm cùng với lịch sử vùng sông nước miền quê Lục Tỉnh này, nên nhiêu khê lắm. Là một vật tưởng chừng vô tri nhưng tôi đã chứng kiến nhiều vở tuồng nơi những xóm quê qua mỗi thời kỳ…

Lúc hưng thịnh cũng như thời ly loạn, lúc nào tôi cũng đứng giữa dòng đời nhìn thế cuộc xoay vần, điên đảo mà dưới chân tôi dòng nước cũng nhiều bận đổi dòng… Bạn ạ, một cách thầm lặng, thân cầu khỉ khẳng khiu này đã hiểu thế nào là biển dâu, là dời đổi trong làng, trong xóm. Biết bao phen tôi chứng kiến cảnh ghe xuồng chở đầy những người dân vô tội trên đường tản cư khỏi vùng lửa đạn và cũng biết bao phen họ lại rón rén trở lại ngang cầu thăm mảnh vườn xưa mà không cầm được nước mắt trước cảnh nhà trống, vườn hoang sao quá tiêu điều! Thời chiến tranh còn âm ỉ, ban đêm tôi bị người ta vứt vài nhịp trôi theo dòng nước lớn, nước ròng; rồi ban ngày tôi lại được người dân trong xóm kiếm tìm những khúc gỗ lạc loài vớt lên hoặc chặt thêm một vài thân cây mới để nối lại thân thể tôi lành lặn. Bạn đừng buồn, chẳng qua đó là một trong muôn ngàn trường hợp mà người nhà quê quen gọi “qua sông, rút cầu” thường tình.

Thế đó bạn, vật vô tri như tôi mà còn có kẻ ưa, người ghét, huống hồ gì là con người như bạn, làm sao mà tránh khỏi kẻ ghét, người ưa! Bên này sông, bên kia sông, giữa dòng nước, chiếc cầu tre lắt lẻo biết bao phen nhìn mẹ già tiễn con đi xa mà lòng nghẹn ngào, để rồi ngày con trở về theo “đường xưa lối cũ” thì, hỡi ơi, mẹ già đã ra người thiên cổ từ bao năm rồi! Tôi cũng bao lần nhìn người vợ quê tiễn chồng ra đơn vị những năm tháng còn chiến tranh mà nghe lòng tê tái buổi phân kỳ… Sau khi chiến chinh tàn, “mấy người trở lại?” Và biết bao người chồng lên núi, vô rừng hay về “đầm dạ trạch” phá rừng, đào kinh không hẹn ngày về, phú cho Trời vợ yếu con thơ khắp chốn, khắp nơi cơ hàn, quạnh quẽ nhiều phen! Tôi nghe văng vẳng tiếng người mẹ trẻ hát lại câu ca dao cũ à ơi … nghe sao quá đắng cay:

“Ví dầu cầu ván đóng đinh,

Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi,

Khó đi mẹ dắt con đi,

Con thi trường học, mẹ thi trường đời!”

Tôi cũng nghe tiếng thở dài của ông thầy giáo già cõng trên lưng đứa học trò nhỏ qua sông ngày xưa ấy, bên lớp học cạnh đầu cầu, như tình cha con đằm thắm nơi xóm quê. Và còn nhiều lắm, như chứng nhân giữa dòng đời, tôi man mác buồn vui theo từng mảnh đời nơi miền quê lầy lội nhưng nhiều tình tự này… Và rồi, một ngày nào, những thân gỗ tạp làm nên cây cầu khỉ qua dòng sông cạn, sông sâu bị mục, chúng tôi muốn thì thầm cùng bạn một chút niềm riêng:

“Thân tôi đấy, như đời tôi đơn giản,

Vài ngọn tre, năm ba khúc gáo bần.

Nắng thì vàng, mưa vẫn ngửa mặt trông,

Nhìn nước chảy, nhìn dòng đời trôi lặng lẽ!


Khi gỗ mục chiếc cầu tre bấn loạn,

Người ta mang tôi vào bếp vào lò,

Lửa cháy đỏ lòng tôi đây đau đớn

Nhưng không buồn vì viết trọn bài thơ .”

Bây giờ là thời kỳ làng quê đang chạy theo những ngày hết thế kỷ hai mươi, lòng người ta cũng háo hức lắm cho những ngày mới! Có ai trong các bạn đã có lần nào đặt bàn chân lên lưng tôi mà đi chưa? Những bước đi làm bạn run run đôi chân có lẽ một ngày nào bạn sẽ ít có cơ hội bước nhẹ lên chiếc lưng trần của cây cầu khỉ! Những cây cầu ván với loại cây căm xe, cà chất hay cầu đúc bằng xi măng dần dần xuất hiện rải rác hết khúc sông này đến đầu sông nọ, cũng có nghĩa dòng tộc tôi cũng xa dần trên những con rạch quê mùa, những dòng kinh đào khắp miền đồng bằng này… Nhưng trong hồn bạn, có lẽ tôi không như “Chiếc giường cũ ” của Trần Tiêu, bị người chủ vứt bỏ trong chái hè tăm tối, mà tôi mãi hoài ngự trị vào mỗi lần bạn có dịp hồi tưởng lại chốn cố hương, nơi có con đường đất, con rạch cạn, con sông sâu chảy qua ruộng gần, ruộng xa, chảy qua bờ tre, vườn xoài, vườn cam, vườn mận tỏa ngát hương thơm cùng những mùa trái sai oằn, trĩu nhánh mà nghe nhớ quá những cây cầu khỉ gập ghình ngày nào qua câu ca dao mộc mạc, quê mùa như khúc hát ân tình…

“Ví dầu cầu ván đóng đinh,

Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi.


……..

Khó đi mượn chén ăn cơm,

Mượn ly uống rượu, mượn đờn kéo chơi.”

(Ca dao)


Hai Trầu

Kinh Xáng Bốn Tổng, tháng 10-98


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 18, 2014 22:23
No comments have been added yet.


Đỗ Hồng Ngọc's Blog

Đỗ Hồng Ngọc
Đỗ Hồng Ngọc isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Đỗ Hồng Ngọc's blog with rss.