Vài hồi báo (feedback) về “Phật học & Đời sống”
Vài hồi báo (feedback) về “Phật học & Đời sống”
Ghi chú: Dưới đây là vài Hồi báo của bạn đọc đã và đang dõi theo Chương trình Phật học & Đời sống. Xin phép được chia sẻ cùng các bạn nơi đây để cùng tham khảo, học tập.
Và, đừng quên Thực Hành.
Trân trọng cảm ơn các bạn,
Bs Đỗ Hồng Ngọc.
……………………………………………………………………..
“Độc giả từ xa”ngày 18.10.2018
về PH & ĐS kỳ 37
Kg BS ĐH Ngọc,
Tôi là 1 độc giả ở xa, thỉnh thoảng có theo dõi trên trang nhà của BS về lớp “Phật Học và Đời Sống”. Tôi thấy cung cách thảo luận lớp học này hay và có thể giúp ích cho nhiều người muốn tìm hiểu, học hỏi thêm về PG với tinh thần tìm hiểu độc lập và thảo luận bình đẳng. Tôi thấy ở thời đại thông tin ở thế kỷ 21 này, độc lập trong suy nghĩ, và thẳng thắn vui vẻ thảo luận để tìm hiểu và học hỏi thêm có lẽ là phương pháp nên áp dụng trong học đường, sở làm, và ở cả … giáo đường.
Tháng 9 và 10/2018 tôi về VN (từ California) và đã dự định nếu có dịp sẽ ghé lớp học nhưng lai không xắp sếp được, nên đành góp 1 ít ý (từ xa) với bài 37 (Tụng Kinh, niệm Phật, trì chú, …)
Xin BS giữ cho tôi ẩn danh (Độc giả từ xa)
Xin cám ơn BS.
________________
– Vấn đề tụng niệm:
Tôi có người bạn người Mỹ gốc Ấn Độ, là giai cấp giáo sĩ Bà La Môn, có cho tôi biết trong tôn giáo của họ, kinh điển được truyền từ guru đến học trò bằng cách đọc nguyên văn theo lời kinh (Veda, Upanisad,…) cho đến thuộc lòng. Chẳng những vậy, người thầy còn kiểm tra từng tu sinh xem đọc từng chử có chính xác và có đúng giọng trầm bổng không? Họ muốn chắc chắn là bài Kinh được truyền từ đời này sang đời khác đều được đọc tụng với từ và giọng như thuở nguyên thủy. Dường như người Bà La Môn (và ngay cả người Tây Tạng) tin rằng các giọng lên xuống, trầm bổng (chử Um chẳng hạn) ẩn chứa “năng lượng của vủ trụ” (?)
Riêng với PG, dù Phật Thích Ca bước đầu cũng tu tập theo Bà La Môn, nhưng đã có 1 khuyến cáo khác biệt, như trong kinh điển PG còn lưu truyền:
___________
Tăng Chi Bộ V.209 : Thuyết Pháp với Giọng Ca
Này các Tỳ khưu, có năm điều nguy hại với người thuyết pháp với giọng ca ngân nga kéo dài. Thế nào là năm?
– Tự mình say đắm trong âm giọng ấy;
– Làm người khác say đắm trong âm giọng ấy;
– Các gia chủ phê bình: “Như chúng ta hát, cũng vậy, các Sa-môn Thích tử này ca hát!”;
– Vì vị ấy cố gắng rèn luyện cho âm thanh điêu luyện nên sự thiền định của vị ấy bị gián đoạn;
– Làm cho người khác bắt chước theo tà kiến ấy.
Này các Tỳ khưu, có năm điều nguy hại với người thuyết pháp với giọng ca ngân nga kéo dài.
_________
Có lẽ PG thời nguyên thủy chỉ đọc, lập đi lập lại để thuộc lòng để có thể truyền cho đời sau biết được lời của Đức Phật (càng chính xác càng tốt) chớ không có tụng ngân hay chuông mõ?
Mình có thể nhớ lại hành trình của ông Huyền Trang đi thỉnh Kinh trong “Tây Du Ký”. Giai đoạn đầu đầy hầm hố, chông gai, núi lửa, quỷ dữ ( Tham-Sân-Si dạng thô) đến khi gần “đạt đạo” (đến được Tây Trúc, rồi được vô tự Kinh) vẫn còn ‘dính” vào vương quốc của Tiên nử , suốt ngày vui với ca ngâm, thơ phú (dù là Tham-Si dạng tế, vẫn là Tham-Si và cũngphải bỏ đi)
Không biết qua thời gian , ảnh hưởng của đạo Hindu có thấm trở lại cung cách thực tập của PG hay không? như ông HT Thích Minh Châu nhận định trong “Lời Giới Thiệu Kinh Trung Bộ” (Trong Bản In Năm 1986) :
” … Càng dịch, càng thấy rõ dụng tâm hiểm độc của các vị Bà La Môn, đã khôn khéo xuyên tạc đạo Phật, khiến cho những giáo lý căn bản, những tinh hoa cao đẹp nhất của tư tưởng nhân loại, đã bị những tư tưởng tà giáo xen lẫn, bị ruồng bỏ, bị che dấu, không được biết đến, không được học hỏi tu hành …” (?)
Tôi được biết là có guru Bà La Môn hiện tai (Nithyananda) có nói rằng Phật Thích Ca là 1 trong những Bậc đạo Sĩ Bà La Môn đã giác ngộ , và tính ra Phật Thích Ca hiên nay là bậc giác ngộ cao nhất trên trái đất này , còn ở những nơi khác cũng có những bậc khác.
– Còn về vấn đề chuông mõ, dường như đó là phong cách của người Trung Hoa từ các thầy cúng tế, du nhập vào PG khi PG được truyền sang TH ? Có lẽ mình bị ảnh hưởng quá nặng từ người Tàu.
– Về vấn đề niệm, tôi thấy dường như người Việt mình có thể đã dùng lẫn lộn giửa 2 chử tùy niệm và niệm . Theo tôi được đọc từ 1 số vị biết ngôn ngữ Pali, có lẽ do phiên địch và cách xử dụng, người mình thường chỉ dùng 1 chử niệm cho cả 2 từ niệm (sati) và tùy niệm (anusati). “Niệm”, có lẽ nguyên gốc trong Kinh Điển PG muốn ám chỉ cái “ghi nhận “, “theo dõi”, “quán sát” mà không khởi tâm phân biệt, còn “tùy niệm” để ám chỉ việc đọc, đọc thầm , lập đi lập lại 1 danh hiệu, 1 hay nhiều từ nào đó.
Theo nghĩa này , trong 1 số Kinh Điển nguyên thủy lưu truyền, nếu đọc, tùy niệm Phật (hay Pháp, Tăng,…) mà đồng thời giử được tâm không tham, sân, si thì sẽ đạt được cõi tịnh, và rồi nhập pháp lưu (bất thối) dù chưa “có” trí tuệ hoàn toàn (vì đây là Thiền Định, chưa phải Thiền Tuệ)
____________________
Tương Ưng , chương 6 pháp, phẩm 1 : tùy niệm
(X) (10) Mahànàma
1. Một thời, Thế Tôn trú giữa các vị Thích – ca, tại Kapilavatthu, khu vườn Nigrodha. Rồi họ Thích Mahànàma đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, họ Thích Mahànàma bạch Thế Tôn:
– Vị Thánh đệ tử này, bạch Thế Tôn, đã đi đến quả, đã liễu giải giáo pháp, đời sống gì vị ấy sống một cách sung mãn?
– Này Mahànàma, Thánh đệ tử nào đã đi đến quả, đã liễu giải giáo pháp, với nếp sống này, sống một cách sung mãn.
2. Ở đây, này Mahànàma, Thánh đệ tử tùy niệm Như Lai: “Ðây là Thế Tôn… Phật, Thế Tôn”. Khi nào, này Mahànàma, Thánh đệ tử niệm Như Lai, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối; trong khi ấy, tâm vị ấy được chánh trực, nhờ dựa vào Như Lai. Và này Mahànàma, một Thánh đệ tử, với tâm chánh trực (nhất tâm bất loạn ?), được nghĩa tín thọ, được pháp tín thọ, được hân hoan liên hệ đến pháp. Người có hân hoan, nên hỷ sanh. Người có hỷ, nên thân được khinh an. Với thân khinh an, vị ấy cảm giác lạc thọ. Người có lạc thọ, tâm được định tĩnh. (Cõi Tịnh ?)
Này Mahànàma, về vị Thánh đệ tử này, được nói như sau: “Với quần chúng không bình thản, vị ấy sống bình thản. Với quần chúng có não hại, vị ấy sống không não hại. Nhập được pháp lưu, vị ấy tu tập niệm Phật”. (Bất thối Bồ Tát vi bạn lữ ?)
________________________
Còn niệm, với nghĩa là chính niệm tỉnh giác, là theo dõi, quán sát, không phê phán, mà nội dung đầy đủ trong 4 niệm xứ, khi 4 niệm xứ được sung mãn, sẽ đưa đến tam minh (rốt ráo) vì đây là “Thiền Tuệ”. Trong Kinh Điển Nguyên Thủy lưu truyền, chính bậc là A la Hán (giải thoát) cũng xử dụng thiền này.
________________________________
Kinh Trung Bộ: 10- Kinh niệm xứ:
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở xứ Kuru (Câu-lâu), Kammassadhamma (kiềm-ma sắt đàm) là đô thị của xứ Kuru. Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
— Này các Tỷ-kheo.
Các Tỷ-kheo vâng đáp Thế Tôn:
— Bạch Thế Tôn.
Thế Tôn thuyết như sau:
— Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất (direct path ?) (Ekayāna is a Sanskrit word that can mean “one path” or “one vehicle”. It is used both in the Upanishads and in the Buddhist scriptures, taking on different meanings and notions) đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Đó là Bốn Niệm xứ.
Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.
…
Tương Ưng SN-XLVI25 : Người Bà-la-môn (Diệu Pháp tồn tại)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Thắng Lâm, khu vườn ông Cấp Cô Ðộc. Rồi một Bà-la-môn đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, vị Bà-la-môn ấy thưa với Thế Tôn:
–“Do nhân gì, do duyên gì, thưa Tôn giả Gotama, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp không được tồn tại lâu dài? Do nhân gì, do duyên gì, thưa Tôn giả Gotama, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài?”
–“Do bốn niệm xứ không được tu tập, không được làm cho sung mãn, này Bà-la-môn, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp không có tồn tại lâu dài. Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài. Thế nào là bốn?
Ở đây, này Hiền giả, Tỷ-kheo trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời, trú, quán thọ trên các thọ … trú, quán tâm trên tâm … trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
Do không tu tập, không làm cho sung mãn bốn niệm xứ này, này Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp không được tồn tại lâu dài. Do tu tập, do làm cho sung mãn bốn niệm xứ này, này Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.”
……………………………………………………………………………….
DieuTrong, ngày 17.10.2018
về PH & ĐS kỳ 40
Hay lam ! đinh luat Bao Ton Năng Lượng cua Lavoisier da chung minh mot cach khoa hoc co luan hoi.
Ko co gi mat di ma chi co su thay doi va chuyen hoa.
Tai sao chung ta co mat noi nay?
Tai sao con nguoi sinh ra lai khac biet nhau lam vay ?
Nguoi lanh lan, ke tat nguyen, sang/hen-giau/ngheo-thong minh/ngu dan….
Tat ca tuy theo nhan qua,nghiep bao luan hoi.
– Tu la sua.
– Tu la chuyen nghiep.
THAN luon thay doi trong tung phut giay theo cac te bao sinh diet
TAM sinh diet trong tung sat-na, niem vua mat di niem khac lien khoi len…ta ko the ngung suy nghi duoc.
Khong Tu dung ben dong song da phai than :” ngay dem chay mai the nay u ?”
Kinh KC : …hay dua tat ca chung sinh vao Vo Du Niet Ban…
Do la cac noi ket trong Tam chung ta (niem xau ac, tham lam, san si..) dua tat ca tan bien vao hu khong di !
Thuyet Luan hoi ST trong Phat phap giup ta cung co long tin la ta co the chuyen hoa,thay doi cuoc doi ta ngay BAY GIO va TAI DAY va ta la PHAT SE THANH.
Ma that ra ko co “tro thanh” ma chi nhan ra cai ta co san (hat chau trong cheo ao ) day thoi !
……………………………………………………………………………….
DieuTrong, ngày 13.10.2018
về PH & ĐS kỳ 39
Luan hoi sinh tu that ra dang xay ra trong doi song hien tai nay.Co luc ta sung suong nhu mot ong Troi con nhung cung co luc ta dau kho nhu roi xuong tan cung dia nguc.Luc bat binh tuc gian nhu mot atula, luc them khat an tuoi nuot song thuc an nhu Nga Quy, luc la Con trong 2 chu Con Nguoi , nhu loai suc sanh…
Con chuyen Sinh Tu cung dang xay ra trong tung phut giay trong co the ta dang song day, te bao nay chet di thi co te bao khac sinh ra…
Khong can doi den luc ta bo than nay moi co luan hoi sinh tu.
Chinh vi the su trai nghiem LHST ngay trong kiep nay tuc la cac canh gioi ma ta da kinh nghiem co the giup ta chung ngo duoc Phat phap.
Trong Cau Chuyên Dong Song 2 nguoi ban Thien Huu va Tat Dat da den voi Phat Phap theo 2 con duong khac nhau. Mot TH suot doi mac ao Nhu Lai, di theo NL, la cai bong cua NL ma van ko chung ngo. Mot Tat Dat muon tu minh dan than vao cuoc doi de trai nghiem .Ong da song mot cuoc doi trai qua du Sau Neo Duong, cho den luc met moi chan chuong dau kho den muon chet. Tieng AUM mau nhiem trong tiem thuc da vang len dung luc giup ong o lai va lang nghe tieng noi cua dong song. Do la tieng noi o noi tam, dong song la dong tam thuc cua chung ta chay mai ko dung, trong Kinh goi la dong Boc Luu.
Rot cuoc chinh Tat Dat moi la nguoi khai ngo cho Thien Huu khi ho gap lai nhau ben dong song.
Luan hoi 6 neo ngay trong môt kiep song nay cung co the dua ta den chung ngo.
Cung ko phai ta tan duong cuoc song duc lac ma xem nhe chiec ao ca sa.
Phien nao tuc Bo De.
Ta Ba den Niet Ban.
” Du phai kho dau oan oai, ta van yeu thuong tran gian dien dai nay ”
………………………………………………………………….
Trung William, ngày 17.9.2018
Chào Bác!
Tựu chung thì giáo lý Đức Phật chỉ xoay quanh Khổ và Diệt Khổ. Đó là cốt lõi cho tất cả những ai muốn đi trên con đường giải thoát! Giải thoát ở đây không phải là giải thoát Sinh Bệnh Lão Tử mà giải thoát ở đây chính là giải thoát phiền não khổ đau.
Phiền não khổ đau ở đây là những buồn phiền, khó chịu, bực dọc…phát sinh trong giao tiếp hàng ngày với tất cả mọi người chung quanh.
Bất cứ lúc nào. Mỗi khi phiền não khởi sinh ta đều nhận rõ là chúng sinh ra từ tâm ta. Đây cũng chính là TRỰC CHỈ CHÂN TÂM. Thấy phiền não phát sinh từ tâm ta đó mới chân thật là CHÁNH KIẾN.
Khi đã nhận biết phiền não. Lúc bấy giờ hành giả mới bắt đầu chiêm nghiệm để thấy được “ồ thì ra! Do chính cái ôm chấp của mình, do cái ngu si (vô minh) của minh, do cái truyền thống giáo dục của xã hội…. mà ra. Cái chiêm nghiệm này chính là CHÁNH TƯ DUY. Nhìn thấy được NGUYÊN NHÂN CỦA KHỔ ĐAU. Đó cũng là TẬP trong TỨ DIỆU ĐẾ.
(…)
Nếu ai thấy mình có khổ và muốn thoát khổ đều làm được. Cái khổ của nhân loại thì mênh mông như biển. Mới thấy rằng chúng ta có vô số những điều “bất như ý” để rồi nảy sinh ra vô số khó chịu bực bội. Chính vì vậy Đức Phật mới đề cập đến 84 ngàn pháp môn nhằm để diệt trừ phiền não!
Tất cả mọi người, nếu ai đó thấy mình có khổ và muốn diệt trừ khổ đau thì hãy nắm lấy cái khổ đau lớn nhất của mình mà chiêm niệm. Nếu sống với nó mỗi ngày. Sẽ có lúc chúng ta sẽ nhận thấy được cái vô minh trong chúng ta.
Nếu được như vậy thì từ đó về sau tu chỗ nào cũng được. Vừa ra đầu ngõ gặp chuyện không vui liền biết đó là lỗi mình. Nếu nhạy bén hơn thì liền thấy được nguyên nhân vì sao. Khi đã rõ vì sao thì không còn trách người nữa. Đây cũng là yếu chỉ của thiền tông “giáo ngoại biệt truyền” vì những gì nói ra đây không bao giờ có trong kinh điển. Cho nên có vị thiền sư khi ngộ đạo rồi, ngài đem kinh điển ra mà đốt! Vì cái tu trong cuộc sống hàng ngày đó nó không hề liên quan gì đến kinh điển hay tu hành cả! Cái hành trong cuộc sống giao tiếp hàng ngày như thế mới chính là “hành thiền trong mọi uy nghi Đi đứng nằm ngồi”.
Chắc cháu nói hơi nhiều …
…………………………………………………………………………………………….
Đỗ Hồng Ngọc's Blog
- Đỗ Hồng Ngọc's profile
- 12 followers

