Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 124
January 4, 2014
Thư gởi bạn xa xôi 1.2014
Saigon, 4.1.14
Thư gởi bạn xa xôi,
Năm hãy còn Mới nên xin chúc bạn “Thân tâm thường An lạc”! Mới được đọc bài thơ của bạn, nghe hơi hướm… thiền lắm rồi đó! Mô Phật!
1) Hôm qua nhà thơ Trần Thiện Hiệp phone báo tin vui: Anh được bệnh viện cho về nhà tiếp tục điều trị sau khi khám toàn bộ với CT Scan, MRI, xét nghiệm các thứ thấy “cái gì cũng tốt”, trừ bị “liệt thần kinh số VII”. Anh bị liệt thần kinh mặt, TK số VII, ngoại biên bên phải nên mắt phải nhắm không kín, miệng trái hơi nhích. Tình trạng này cũng phải mấy tháng mới có thể phục hồi. Tóm lại bây giờ anh luôn mắt nhắm mắt mở, nhích mép “ngạo nghễ” nhìn đời! (Nói thiệt, đừng giận nha đại ca!) . Đọc thơ anh từ lâu cũng đã thấy thơ anh ngạo nghễ thế nào rồi!
Trần Thiện Hiệp thật dễ thương, anh em ai cũng quý mến. Anh vốn là hiền huynh của nhạc sĩ … Trần Thiện Thanh “Lầu Ông Hoàng đó…” và Trần Thiện Trung, những người bạn bọn mình ở Phan Thiết mà! Hai anh chị về sống ở Thủ Đức cả chục năm nay, rất hạnh phúc. Mấy ngày nằm viện thì chị là người vất vả nhất. Khi còn khỏe, thỉnh thoảng anh hay “quy tụ quần hùng” lại nhà, nào Huỳnh Tấn Thời, Huỳnh Ngọc Hùng, Đoàn Thuận, Nguyễn Phú Yên, Lê Văn Cư (Cử), Đỗ Hồng Ngọc… nghe anh chị ca hát, ngâm thơ, rượu trà ê hề. Trần Vấn Lệ hay nhắc: Lúc bọn mình học đệ thất (lóp 6) PBC thì anh học trên 2 lớp, rất “ngầu” nên được Trường cho làm “đại ca” giám sát đàn em! Khi nghe anh bệnh nặng phải đi cấp cứu lúc 3 giờ khuya ở BV 115, Phan Đổng Lý từ Úc viết “meo” hỏi thăm ngay, còn Phan Bá Thụy Dương thì kêu mình dặn HTT và HNH… đến thăm anh nhớ mua một bó hoa vào tặng cho nhà thơ mau lành bệnh. May anh không sao, chỉ bệnh già, diễn biến phức tạp, hết vụ này sanh vụ kia. Nào mất ngủ, nào đau xương, đau cốt. Rồi chuyển qua một bệnh viện khác. Anh luôn báo tình hình diễn tiến bệnh cho mình. Sau cùng lòi ra cái vụ liệt thần kinh mặt. Cuối cùng anh được cho về, tái khám.
Cái tình bè bạn, đàn anh đàn em không chỉ do cùng “dân Phan Thiết” hay “dân PBC” với nhau mà vì “cùng một lứa bên trời lận đận” nên “lọ chẳng quen nhau” mà gắn người ta thắm thiết với nhau, bởi “ta cũng nòi tình, thương người đồng điệu” (CMT).
Tính ra TTH nay đã vào tuổi 80, cũng hơi già rồi nên bệnh chút đỉnh là phải!
2) Tin Hà Thanh mất, mình hơi sửng sờ. Mình không quen biết Hà Thanh nhưng mê tiếng hát của chị từ nửa thế kỷ trước. Bọn mình chắc ai cũng vậy. Mình cứ nghĩ Hà Thanh không thể… già và chết được! Ôi tu hành bấy nay mà vậy! Tội lỗi, tội lỗi! Nghe Hà Thanh hát, mình luôn xao xuyến, lâng lâng. Với mình, giọng hát đó có cái gì thánh thiện. Không làm cho người ta chìm đắm, không làm cho người ta ray rứt mà nó trong lành, nó suối ngọt, ngay cả những bài như Tiếng xưa “xa đưa gió mây lạnh lùng”, nghe lạnh mà không buốt.
Chiều qua, mình nghe lại tiếng hát Hà Thanh. Vẫn trang nghiêm và đĩnh đạc. Vẫn dịu dàng và man mác. Nghe Hà Thanh thấy thanh tịnh. Không cần “kỹ thuật” cầu kỳ, chỉ cần một giọng hát thiên phú, rất riêng. Tiếng xưa, Đêm tàn Bến Ngự “cho ta nhắn cùng” của Dương Thiệu Tước, Bến xuân “em đến tôi một lần” của Văn Cao, rồi Hoa Xuân “có một chàng thi sĩ miền quê/ ngắt bông hoa biếu người xuân thì…” của Phạm Duy. Nương Chiều “mái nhà sàn thở khói âm u / cô nàng về để suối tương tư” như hút hồn người ta qua giọng Hà Thanh. Ai lên xứ hoa đào, Tà áo tím… thiết tha rạo rực. Mình đoán ngày xưa đó, khi chị áo tím qua cầu chắc không ít kẻ lang thang! Nhưng đặc biệt mình nghe đi nghe lại Bến Giang Đầu của Lê Trọng Nguyễn… “lách cỏ vườn xưa tìm lại chốn ta vẫn đùa/ ngắt hoa anh cười nhưng em trách rồi lệ ứa…”. Bởi ai nỡ ngắt đi một cành hoa?…
Những năm tháng sau này, nghe chị hát những bài về Phật thật thiết tha, ấm áp. Chị đã tìm thấy bến bờ, đã “đáo bỉ ngạn”.
Nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo có lần nói cho mình biết tại sao anh trở thành Không Hư… đạo nhân: ngũ uẩn phù vân không khứ lai/ tam độc thủy bào hư xuất một…
Sáng nay, một cánh thư xa từ Thái Kim Lan:
Tưởng nhớ Chị Hà Thanh
hạt mưa long lanh
rơi
tiếng cười
tiếng khóc
tiếng thở dài
tiếng ấm trong
tiếng Huế êm
một thời qua bến
Hương giang khuấy nước đò đưa
có giọng hát Hà Thanh trên bãi cỏ xanh
sân trường Đồng Khánh
lũ học trò áo trắng chạy chân, bỏ guốc
tụi bây ơi mau đi coai chị ấy hát
mưa, nắng ru vào nhau
nụ non nũng nịu môi hồng
hương cau nhoè trăng dạ lan ấp úng
mắt trong chưa biết buồn mà ướt mi
tóc xanh lộng gió chiều tím hoài thương nhớ
tiếng hạc từng mây tiếng suối lưng chừng
mùa xuân ôm mùa đông
bay qua Trường Tiền, Vỹ Dạ, Kim Long
mơ hồ trái thơm non xôi nếp ngọt
lời tâm tức Phật
ngọc lan thơm tinh khiết
lá chuối lá cau đong đưa,
tiếng mẹ ru, tiếng em cười, tiếng chị à ơ
đường mía lau đượm mùi thơ dại
bỗng dưng
mưa ngắn mưa dài mưa mãi
ướt áo thời hong tóc…
Giây phút nghe chị mất
Đồng Khánh trong tôi hụt hẫng một cung đàn
giai điệu thanh xuân, âm vang hiện hữu đời người, ánh đèn phim trường
một thời “demain il sera trop tard” ngày mai e muộn rồi
gầy đi một gam màu
tôi thấy trong tôi
gầy guộc tôi, một mảnh
chúng mình thời xưa ấy
hao đi tiếng vọng mơ mòng
echo
tiếng hát
Hà Thanh
Muenchen 2/01/2014,
Thái Kim Lan
December 29, 2013
Ghi Chép Lang Thang: Lá thư văn nghệ của anh Hai Trầu
LÁ THƯ VĂN NGHỆ GỞI NHÀ BÁC SĨ ĐỖ HỒNG NGỌC
SAU KHI ĐỌC “NGHE TIẾNG THU GIỮA BOSTON” CỦA NHÀ THƠ ĐỖ NGHÊ
Boston, ngày 22 tháng 12 năm 2013
Kính chào Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc,
Hôm nay tình cờ, tôi vào thăm trang nhà của thi sĩ Luân Hoán, nơi mục giới thiệu tác giả, rồi lò mò đọc được mấy trang viết rất tài hoa của nhà thơ Đỗ Nghê, tức bút hiệu của Bác sĩ, viết về mùa Thu ở Boston với tựa bài :“Nghe tiếng thu giữa Boston”.
Thưa Bác sĩ,
Sở dĩ tôi muốn viết lá thư văn nghệ này kính gởi bác sĩ là vì tôi có một thời gian dài cũng đã sống ở Boston và tôi có thấy mùa Thu về ngang qua những rừng cây nơi này mỗi độ Thu về vào tháng Chín, tháng Mười hằng năm, nên khi bắt gặp những trang Thu của Bác sĩ dường như nghe được tiếng lòng của mình, tìm lại được một người đồng điệu, gặp thêm được một bạn tri âm giữa những bước đường lưu lạc nơi xứ người nên tôi mới mạo muội có mấy hàng này xin được kính gởi cùng bác sĩ vậy.
Chẳng hạn trong bài viết ấy, bác sĩ đã tả mùa Thu Boston như sau:
“ Tôi đi giữa Boston. Cả một mùa thu. Trọn một mùa thu. Nhớ tới Xuân Diệu với “Lá không vàng, lá không rụng, lá lại thêm xanh, ấy là mùa thu đã về, mùa thu mới về, yểu điệu thục nữ…”. Thực ra, lá như ráng níu lại chút xanh, và vì níu lại nên có vẻ chặt hơn, xanh hơn lên mà thôi. Bởi vì rất nhanh, lá bỗng vàng rượm, vàng rực, vàng tía, vàng buốt… và bầu trời rộng ra, thênh thang, yểu điệu kỳ cục. Mới mấy ngày thôi mà cây cứ tô dần tô dần cái màu vàng buốt, óng ả, rực rỡ chen lẫn với xanh đậm, xanh lợt mong manh đó… và sáng hôm sau, rơi từng lá từng lá tràn ngập các lối đi.”
Rồi bác sĩ viết thêm về cái nét rất riêng của mùa Thu ở Boston:
“Thu ở Boston hình như lạ hơn thu ở những nơi khác trên nước Mỹ, nên hàng năm cả nước Mỹ hành hương về Boston giữa mùa thu vàng. Họ không gọi Autumn – mùa Thu, mà gọi Fall – mùa Rụng, bởi vì chỉ có lúc lá rụng bời bời như vậy người ta mới thấy hết được nỗi vui mừng, nỗi xót xa, nỗi buốt nhớ… không rõ vì đâu. Và vì Fall, người ta dễ “fall in love” có phải, vì vậy mà người qua đường như cũng đẹp thêm ra, luộm thuộm thêm ra với lụa là gấm vóc, không còn nhếch nhác mùa hè mà cũng chưa cục mịch mùa đông. Tôi chưa có lần nào được sống thu như vậy, hoặc là chỉ sống với mùa thu sách vở, tưởng tượng ra cái mùa thu không có thật giữa miền Nam mưa nắng hai mùa nên tôi cứ lang thang, lang thang mà dòm cho hết cái thu của Boston.”
Nhưng tuyệt diệu nhứt, có lẽ tác giả chẳng những đã để hết lòng mình chìm vào sắc Thu vàng nơi đây đã đành mà tâm hồn lãng mạn của người thi sĩ nơi Bác sĩ còn nghe ra được cả “tiếng thu” mời gọi nữa. Vâng, bác sĩ viết:
“Và tôi bỗng nghe. Vâng, lúc đầu tôi chỉ định dòm thôi nhưng tôi bỗng nghe, không phải là tiếng quạ kêu quang quác thảng thốt, cũng không phải tiếng chim cu gù rúc rúc quyến rũ mà là một thứ tiếng lạ, tôi chưa từng nghe bao giờ, tiếng thu.(…) Rõ ràng thu không phải để dòm, để ngó, để ngắm, để nghía… mà chỉ có thể để nghe. Mà cũng không phải để nghe tiếng, dù là tiếng lá rụng mà để nghe mùa. Cái tiếng mùa đi, mùa về, cái tiếng đời của mỗi chúng ta. Nó ở trong không gian dằng dặc, đùng đục thênh thang kia, và ở cả trong thời gian hun hút, héo hon rơi rụng nọ, một thứ “tiếng động nào gõ nhịp khôn nguôi…” (TCS) đó chăng.”
Đúng rồi, từ ngữ “dòm” vừa bình dân mà tha thiết cho ánh mắt nhìn cả một mùa; rồi cả một câu “Cái tiếng mùa đi, mùa về, cái tiếng đời của mỗi chúng ta.” Quá tuyệt diệu! Và tác giả lại viết tiếp: “Tôi bước đi từng bước nhẹ dưới những vòm cây và nghe cho hết tiếng thu về. Dưới chân mình là từng lớp lá rụng, bước chân bỗng như hẫng đi và tôi chợt ngơ ngác. Thấy mình như không còn là mình nữa.” Đúng là hồn thi sĩ đã hòa nhập vào sắc thu, vào tiếng thu, mà hạnh phúc thật tràn trề…
Thưa bác sĩ,
Là một người nhà quê lưu lạc về vùng Boston hơn hai mươi năm về trước, tôi đã chứng kiến hơn hai mươi mùa Thu đã đi qua vùng New England này mà cứ mỗi lần có dịp về vùng Boston ấy vào mùa Thu, tôi vẫn không sao rời được những “tiếng Thu” dìu dặt nơi này… Rồi tôi lại nhớ cách nay cũng gần hai mươi năm, có lần cũng vào mùa Thu, tôi để hết lòng mình lắng xuống ngồi viết lá thư gởi…Tạp chí Văn Học Nghệ Thuật Liên Mạng :
Đất trời vùng Đông Bắc Mỹ nói chung và thành phố Boston, nơi mà tôi đang cư ngụ nói riêng, đã vào Thu. Tiết Thu lành lạnh pha lẫn những mảng cây dọc những công viên hoặc hai bên con đường xa lộ 93 xuôi nam hoặc ngược lên hướng bắc nhuộm những sắc màu đỏ thẫm hoặc vàng thắm như màu hoa quỳ, hoa cúc, hoa vạn thọ. Bất chợt, tôi nhớ lại hai câu thơ tả cảnh mùa thu thật dễ thương của thi sĩ Bích Khê:
“Đây mùa hoàng hoa, mùa hoàng hoa
Đông nam mây đùn nơi thành xa…”
Một mùa thu với chiếc áo mới rực rỡ như dãy lụa đào vàng óng nơi xứ người, làm lòng tôi thêm quạnh vắng, xót xa chợt nghĩ về vùng đồng bằng quê tôi, dọc hai bên bờ con sông Cửu Long. Mùa Thu cũng có lá rụng nhưng như một bức tranh quê không kiêu kỳ, vương trạch. Không có lá vàng, không có gió heo may, không có nắng thu, không có tiết thu. Ở đó chỉ có mưa và nước ngập. Ở đó chỉ có dông gió với sấm sét, chớp gầm. Ở đó với những con đường lầy lội, ngập nước, ẩm mục. Ở đó chỉ có những ánh đèn dầu leo lét của những người dân quê nghèo len lỏi theo từng gốc ớt, bụi chuối, bụi mía, bụi tre kiếm tìm những con nhái, con cóc để bán mua gạo, mua muối sống lây lất qua ngày …
Mùa thu ở quê tôi hay nói đúng hơn, mùa mưa, mùa nước ngập ở quê tôi là một biển nước mênh mông, là trời thấp với những áng mây đen chực chờ đổ những cơn mưa bất chợt, là đất bùn, là xuồng xuôi ngược rẽ nước trên cánh đồng, là những căn nhà thấp bị ngập loi ngoi lót ngót… Mùa thu ở quê tôi là cá, là tôm, là rắn rít, là những con chuột ngồi trên ngọn dừa, ngọn tre, là ếch, là nhái, là cóc gom lại các gò đất cao, là nghèo khó, là cơ cực, là quê mùa, là mộc mạc, chân tình. Từ nơi chốn ấy, tôi được sanh ra và lớn lên. Từ nơi chốn ấy, tôi được vun bón bằng những tình tự dân tộc, quê hương, chòm xóm ngập đầy yêu thương.
(…)
Thật thế! Tổ tiên, ông bà, song thân tôi là những người làm ruộng nhiều đời. Đến đời tôi, tôi cũng từng lặn ngụp trong ruộng, trong nước lút đầu, lút cổ để dọn rong, dọn cỏ. Tôi đã từng thay trâu, thay bò kéo những cây chuối nặng trịch trang bằng mặt ruộng để rải lên đó những hạt lúa giống hầu kiếm gạo, kiếm cơm. Tôi cũng đã vui với cái vui của những ngọn lúa rì rào theo gió. Tôi cũng đã biết thế nào là nỗi buồn khi lúa thóc thất mùa…”
Thưa bác sĩ,
Đó là lá thư đầu tiên tôi viết về mùa Thu quê tôi và nay lại đọc được bài viết của Bác sĩ về cái dáng Thu quen thuộc mà tôi đã có hơn hai mươi năm nhìn ngắm nó mỗi dịp nó trở về. Với mắt thường, tôi chỉ thấy được sắc màu, và tôi chỉ cảm được cài vẻ đẹp lôi cuốn của những rừng lá dần dần thay áo mới ấy chứ tôi chưa nghe ra “tiếng thu” trò chuyện trên những tàn lá trùng trùng dọc theo xa lộ xuyên bang 93 hoặc 95 mà chừng như một biển màu đang xôn xao cùng nhau khoe sắc thắm dịp Thu về!
Với lá thư này, xin được chia sẻ về một niềm cảm thông với Bác sĩ qua cái nét đẹp lẫn chút lâng lâng, lãng mạn của sắc Thu vàng nơi Boston nói riêng và vùng đông bắc Hoa Kỳ nói chung, với tấm lòng trân trọng và quý mến Bác sĩ biết bao!
(…) Bác sĩ ơi! Nhưng có một điều rất lạ là ở vùng có bốn mùa như Boston, nếu ngày lễ Giáng Sinh mà chưa có tuyết rơi thì người dân ở đây họ rất buồn cũng giống như quê tôi nếu mùa nước lên mà tháng Bảy âm lịch tới rồi nhưng nước sông chưa bò tới mé ruộng sau nhà là dân quê ở đấy họ cũng buồn dữ lắm! Một nơi không có tuyết vào mùa tuyết và một nơi không có nước vào mùa nước ngập, cả hai cùng buồn như nhau!!! Về điểm này, có lẽ Đông và Tây gặp nhau ở điểm chung này đó Bác sĩ! Thành ra, người ta thường nói “Đông Tây khó gặp nhau”, theo tôi về điều này có lẽ cũng cần coi lại. Phải không, thưa bác sĩ?
Nhơn dịp mùa lễ Giáng Sanh và những ngày Năm Mới 2014 sắp đến, tôi xin chân thành kính chúc Bác sĩ cùng bửu quyến được nhiều sức khỏe, vạn an và hạnh phúc.
Kính thư,
Hai Trầu-Lương Thư Trung
Đỗ Hồng Ngọc hồi âm:
Saigon, ngày 29.12.2013
Anh Hai Trầu thân mến,
Dù anh có viết với tên Trung Lương hay Lương Trung Thư, Lương Thư Trung… gì gì đi nữa thì tôi vẫn chỉ nhớ anh là anh Hai Trầu! Thơ anh tràn ngập cảnh sắc, đời sống của quê mình, đặc biệt, đồng bằng Nam bộ. Nên một người như anh, như tôi, dù cho ở Boston, New England, hay Montréal… gì đó, cũng không thể nguôi ngoai nỗi nhớ cánh đồng nước lũ, tiếng ếch nhái ầm vang giữa cơn mưa như cầm chỉnh đổ với từng nhóm người đội đèn đi lượm “ếch bắt cặp” ở quê nhà… Vùng biển Lagi, Phan Thiết quê tôi còn có mùa cá lưới sẩm, mùa cá nục, cá ngoéo, mùa ruốt tươi… (xào xúc bánh tráng rau sống ngay tại bờ biển!).
Đông Tây gì cũng gặp nhau thôi anh ơi! Bởi đã là con người, thì mấy món thất tình lục dục ở đâu cũng vậy thôi!
Thơ anh đến tôi trước Noel, mà tôi mò mở hoài không ra, bây giờ cũng chỉ coi qua mà không copy lưu lại được. Mở ra nó toàn… ô vuông! Tôi quê một cục, vi tính chỉ biết xài W 2003, file .DOC thì được, file .DOCX cũng chịu thua! Công nghệ tiến như cũ bảo, cứ vài ba tháng lại đổi kiểu mới, tụi nhỏ ham chớ mình thì quen ăn chắc mặc bền, tích cốc phòng cơ tích y phòng hàn rồi nên kinh tế khó phát triển! Nhưng tôi cũng không biết phát triển để làm gì nếu không biết sống hạnh phúc. Người ta bảo với cách sống như ở Anh hiện nay cần phải có “6 trái đất” mới đủ xài! Ở Mỹ chắc còn cần nhiều trái đất hơn nữa!
Anh nói đúng, mình đồng điệu đó anh ạ. “Ta cũng nòi tình/ Thương người đồng điệu” (Chu Mạnh Trinh). Đọc anh, tôi ở trong nước mà cũng thấy nhớ… nhà! Anh cũng vậy, dù gì cũng là Hai Trầu, là một “người nhà quê thứ thiệt” chớ phải không?
À mà cái thơ anh gởi VHNT Liên Mạng gì đó họ có đăng không?
Anh nhắc chữ “dòm” rất nhà quê của tôi làm tôi nhớ chữ “bẹo” của ông Trang Thế Hy, “Em bẹo hình hài đem bán”, cái bài thơ Đắng Ngọt (Quán bên đường, Phạm Duy phổ nhạc) mà mỗi lần đọc lại, nghe lại cứ rưng rưng! (Chắc anh có đọc bài tôi viết về Trang thế Hy chứ?)
Anh viết khi đọc bài tôi “Nghe tiếng thu giữa Boston” mà “ như nghe được tiếng lòng mình” làm tôi rất cảm động anh Hai à. Tôi cũng để ý anh viết “nhà bác sĩ” ĐHN và “nhà thơ” ĐN. Cảm ơn anh.
Sắp Tết Tây, thân chúc anh nhiều sức khỏe.
Tuổi… hơi già thì sức khỏe là quý nhất phải không anh?
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
HỒI ÂM LÁ THƠ CỦA BÁC SĨ ĐỖ HỒNG NGỌC
Kinh xáng Bốn Tổng ngày 30 tháng 12 năm 2913
Kính chào Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc,
Tui vừa đi thăm cháu nội từ Boston dìa thì nhận được thư Bác sĩ gởi, tui mừng quá mạng vì Bác sĩ rất đa đoan công việc mà còn bỏ thời giờ ra viết thư hồi âm lá thơ trước của tui nói về mùa thu ở Boston và mùa thu ở kinh xáng của tui nhơn đọc bài thi sĩ viết khi nghe “tiếng thu ở Boston”.
Thưa Bác sĩ,
Vâng, nói như Bác sĩ viết, sau hơn bảy mươi năm có mặt trên cõi đời này, dù có lúc phải dời chuyển từ chỗ này qua chỗ khác như tản cư chạy giặc hồi còn nhỏ hoặc sau này lớn lên có lúc lưu lạc tha phương; và dù có lúc ăn cơm nơi bờ đìa, trong trại ruộng vào mùa khô hoặc dầm mưa dưới hai tấm cà rèm trên chiếc xuồng câu cũ mục vào những ngày giăng lưới, giăng câu mùa nước lên nước ngập nơi cánh đồng kinh xáng Bốn Tổng chẳng hạn; hoặc có thời mình hay ngồi quán nước nơi chợ quận chợ làng, hoặc ở bất cứ nơi đâu đi chăng nữa thì cái gốc của tui vẫn là dân quê nơi các cánh đồng lúa rì rào thôi Bác sĩ à! Và chính cái cốt cách nhà quê nhà mùa cùng nước phèn nơi đồng ruộng ấy mới là cái mình có thật. Tui luôn luôn qúy trọng và bằng lòng với cái mình đang có ấy. Có lẽ nhờ vậy mà tui lúc nào cũng mê những mùa bông súng, bông sen nở rộ chạy dài từ miếng ruộng này qua miếng ruộng khác làm thành một cánh đồng ngào ngạt sắc hương của hai loài bông tinh khiết ấy giữa chốn bùn lấy mãi mãi vào mỗi độ mùa nước ngập lại dìa! Có lẽ nhờ vậy nên tui mới được Bác sĩ ghi cho vài cảm tưởng : “Đọc anh, tôi ở trong nước mà cũng thấy nhớ… nhà! Anh cũng vậy, dù gì cũng là Hai Trầu, là một “người nhà quê thứ thiệt” chớ phải không?”
Về bài viết của tôi, ông Phùng Nguyễn, trong Ban Biên tập VHNT/LM, trả lời:
“Rất cảm động đọc bài viết của ông LTT. Có một vài suy nghĩ nhỏ:
Bài viết rất trau chuốt, văn phong vững vàng và tài hoa, thật khó mà cho rằng có xuất xứ từ một nông dân chất phác. Tôi không có điều gì thắc mắc về gốc gác nông dân của LTT, và chính tôi cũng được sinh ra và trải qua thời niên thiếu trong một làng quê hẻo lánh ở miền Trung. Điều tôi muốn nói là LTT có một kiến thức rộng về Văn học Việt Nam trước 75 và sau này . Rõ ràng ông đã theo dõi thường xuyên sinh hoạt văn học nghệ thuật VN tại bất cứ nơi nào ông hiện diện.” (Email ghi ngày Mon, 28 Oct 1996 16:27:33).
Thành ra, nhiều người khác khi tui nói tui là người làm ruộng, người nhà quê thì ít ai dám tin tui là dân quê thứ thiệt như Bác sĩ đã nghĩ về tui như vậy. Nên tui hết sức mừng khi được thơ Bác sĩ là vì vậy.
(…)
Kính thư,
Hai Trầu-Lương Thư Trung
December 27, 2013
Quán Văn 19: ĐÀ LẠT NGÀY VỀ
December 23, 2013
“Bình an dưới thế…”
(tranh Đinh Cường)
ĐI LỄ
Đưa em đi lễ
Vầng trăng treo nghiêng
Đường im tiếng bước
Cho gần nhau hơn
Em tin có Chúa
Ngự ở trên cao
Còn anh tin Chúa
Ngự ở trong nhau
Đưa em đi lễ
Vầng trăng treo nghiêng
Em làm dấu thánh
Anh làm dấu em
Đỗ Hồng Ngọc
(tranh Huyền Chiêu)
December 22, 2013
thơ Trần Vấn Lệ
Ghi chú: Mấy năm trước, Trần Vấn Lệ thường gởi thiếp chúc Xuân tuyệt đẹp vẽ bằng tay, chữ thư pháp thật bay bướm… Năm nay hình như anh hùng… có thấm mệt, chỉ gõ mấy dòng. Nhưng bài thơ về Phan Thiết thì thật cảm động. Có điều, sao đang ở sông Cà Ty bỗng dưng nhớ sông Hương vậy hở Trời?
Hay bạn tôi nhớ câu ca dao Phan Thiết: “Rồng chầu ngoài Huế / Ngựa tế Đồng Nai / Nước sông trong chảy lộn sông ngoài / Thương người xa xứ lạc loài đến đây…” (ĐHN).
Trần Vấn Lệ
chúc bạn mình đỗ hồng ngọc và cả nhà
NĂM MỚI 2014 GIÁP NGỌ VUIIIII
Mỗi Bước Em Mùa Xuân
Tôi không biết bây giờ / bãi biển Phan Thiết sao; nhưng tôi nhớ hồi nào…bãi biển Phan Thiết đẹp / bởi em không mang dép, em đi hai chân trần, mỗi bước em, mùa Xuân / gờn gợn như làn sóng…
Buổi chiều không gió lộng, tóc em vẫn bềnh bồng. Nắng hoàng hôn cửa sông (con sông Cà Ty đó), em trong manh áo gió, lồng lộng môt hình dung. Em là đóa hoa hồng, tôi bồng mà được nhỉ, hôn bao nhiêu cho phỉ…cho trọn lòng nhớ nhung…
Em đuổi những con còng / vòng quanh bàn chân ngọc. Em đã quên mái tóc / thổi ngược về phía tôi. Em em à em ơi…ngày đầu đời tôi biết / mình yêu người ta thiệt (hồi đó tuổi hai mươi).
…Rồi thì lặn mặt trời. Rồi em về, bỏ biển. Những con còng đau điếng cũng lội về biển sâu. Em biết tôi đứng đâu / cúi đầu thương nhớ lắm? Bãi biển Phan Thiết ấm…còn hương thừa tóc em…
Nhiều năm tôi lênh đênh / trên rừng và trên núi. Biển Phan Thiết vời vợi / thấy ngang đường chân mây. Nhiều năm tôi ở đây, nghẹn ngào đời viễn xứ, biển Phan Thiết…ai đó, có còn đi đuổi còng? Tôi hỏi và tôi không / nghe một lời vọng lại. Tôi biết đời tang hải. Tôi hiểu chữ đổi đời. Nhưng tôi nhớ một người / tóc thề thơm gió biển!
Như…con còng đau điếng, tôi làm bài thơ này… Đó, là chiều hôm nay / lòng tôi đây yêu quý. Tôi nhớ về tới Huế, ôi ai đó tóc thề…
Trần Vấn Lệ
December 19, 2013
Thư gởi bạn xa xôi 12.2013
Thư gởi bạn xa xôi,
Xin lỗi bạn. Lâu quá chẳng “tường trình” gì như đã hứa khiến bạn phải nhắc. Nhiều chuyện quá, chẳng biết nên bắt đầu từ đâu nữa! Noel sắp tới rồi và nghe bạn than tuyết dày đặc quanh nhà. Ở Việt Nam, năm nay cũng lạ. Tuyết tràn ở Sapa, Lào Cai… Người giàu từ Hà nội, các tỉnh ùn ùn đi ngắm tuyết. Người nghèo chết điếng vì hoa màu hư hỏng, gia súc run lập cập. Ngay tại Saigon cũng nghe lạnh. Nhưng lạnh thì lạnh, các cô gái Saigon vẫn rất phong phanh. Phố phường thì giăng cây cảnh trắng xóa, giả làm tuyết. Đám cưới thì ào ạt để bớt lạnh.
* Sáng chủ nhật 15.12. 2013 được một cú phone từ Thủ Đức của nhà thơ Trần Thiện Hiệp, niên trưởng nổi tiếng của bọn mình ở trường Phan Bội Châu Phan Thiết ngày xưa. Anh TTH nay đã 79, giọng vẫn sang sảng, đọc thơ tuyệt vời, làm thơ không biết… mệt mỏi! Vợ anh, chị Lệ Hiền thì hát hay, ngâm thơ giỏi và nấu ăn càng giỏi, nên anh thường tụ họp bạn bè tới nhà riêng hát hò ngâm vịnh. Anh phone mời mình đi “nhậu” cuối năm với anh em ở một cái quán nào đó ở Saigon vào sáng thứ hai, do nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên… “đầu mối”. Mình “OK” ngay dù không biết nhậu, cũng chẳng ưa quán xá. Anh kêu nhớ gọi Đoàn Thuận và Thiếu Khanh nữa nha. Thế mà sáng sớm thứ hai, Nguyễn Phú Yên phone cho hay Trần Thiện Hiệp đưa đi cấp cứu ở BV 115 hồi 3 giờ khuya! Chị Lệ Hiền cho biết đêm anh té mấy lần trong nhà vệ sinh, tay chân cứng ngắc, nghĩ anh bị stroke. May quá, không phải. Nhưng vẫn phải nằm bệnh viện theo dõi. Khi mình vào thăm, anh đã tỉnh táo, vui vẻ, tuy có hốc hác và gầy ốm. Mình gởi gấm anh nhờ mấy bạn đồng nghiệp đàn em, học trò chăm nom giùm nhà thơ…
* Về chuyện “nhà thơ” Đinh Cường có câu thơ lạ “đừng quên chuyện cây trâm nghe Ngọc / cây trâm đã bay qua mấy tầng mây” đầu đuôi là thế này:
Đinh Cường về lần này khá lâu vì có đợt triển lãm tranh ở Huế và Đà Lạt cùng các họa sĩ Phan Ngọc Minh, Thân Trọng Minh. Mình có dịp cùng ngồi café Bean – trước nhà thờ Đức Bà- với Đinh Cường, Nguyễn Đình Thuần, Nguyễn Quốc Thái, Sâm Thương… rôm rả mấy hôm. Nhớ nhất bữa cơm đạm bạc ở chuồng cu “tòa soạn” Quán Văn nhà Nguyên Minh có khá đông anh em: Lữ Quỳnh, Lê Ký Thương, Lữ Kiều, Chu Trầm Nguyên Minh, Trương Văn Dân-Elena, Đỗ Hồng Ngọc… Hôm đó anh ĐC “làm” luôn mấy chén cơm vun ăn với mắm chưng một cách ngon lành. Có lẽ suốt mấy tuần tiệc lớn tiệc nhỏ ở Huế, Đà Lạt chán quá rồi! Nguyên Minh thì “biểu diễn” máy in mới, in tranh Đinh Cường tại chỗ làm Đinh Cường ký tặng mỏi tay. Trương Văn Dân nói tranh giả mà chữ ký thiệt nên cũng có giá lắm!
Sau đó T.A và SY đưa ĐC và mình về. Trên đường về ghé ăn… đậu hủ ở Ru. ĐC chê cái muỗng không đúng điệu. Phải là cái muỗng nhôm, dẹt mới đúng. Phải. Đậu hủ phải múc bằng cái “chan xỉ” (?) ăn mới ngon. Rưới nước đường tán nâu sậm lên mấy lát gừng mỏng, rồi nước cốt dừa béo chan vào thứ đậu hủ mềm trắng toát bốc hơi tạo thành một bức tranh… sinh động! Nhà mình có cả lô “chan xỉ” nên gởi tặng ĐC vài cái kỷ niệm. Còn anh gởi tặng mình cây viết để ký tặng sách cùng cái áo pull xanh… nhờ SY mang đến. Nhà thơ nữ xinh đẹp lãng đãng bỏ quên cây trâm trong túi xách! Sáng hôm sau mình vội trao trả cho ĐC để nhờ anh gởi lại khổ chủ. Thế mà anh lại quên, mang luôn cây trâm lên mấy tầng mây… Nên có thơ làm chứng rằng:
sáng chủ nhật có Đỗ Hồng Ngọc ghé Coffee Bean
không uống gì. chỉ ăn khúc bánh mì thịt ngon
Thái mua cho tôi vì biết tôi thích
rồi đi cho kịp buổi nói chuyện ở Chùa
đừng quên chuyện cây trâm nghe Ngọc
cây trâm đã bay qua mấy tầng mây
về nằm im trong mùa băng giá nhất
tháng cuối năm những giọt tuyết đọng
nặng trĩu làm gãy mấy cành cây
…………..
(Đinh Cường)
(http://www.dohongngoc.com/web/huom-huom/gia-oi-chao-ban/vai-van-tho-ban-xa-xoi/#more-7470)
* Hôm qua mình lại vừa ghé Bệnh viện An Bình thăm nhà thơ Kiên Giang Hà Huy Hà. Bạn nhớ anh Kiên Giang hoa trắng thôi cài trên áo tím chứ? Năm nay anh đã 86, bị té gãy xương đùi, xương chậu. Các bác sĩ ở Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình đã tích cực chữa trị cho anh và nay đã khá nhiều, hy vọng vài tháng nữa có thể đi lại được.
Đến thăm, anh vui lắm. Nói chuyện thôi là nói chuyện! Mình có “duyên” với anh từ… nửa thế kỷ trước. Lúc đó mình vừa đăng bài thơ “Em còn sống mãi” viết về Quách Thị Trang (năm 1963) trên báo Tình Thương của Sinh viên y khoa Saigon thì anh xin đăng lại trên báo Điện Tín, rồi sau đó anh còn đăng trên mấy tờ khác nữa. Nói chuyện với anh thật cảm động. Anh ấp ủ in tập thơ có tựa là: “Lối mòn xe trâu” về người Mẹ mình. Anh nhắc đến cây bần, lục bình, mội nước… ở quê Long Xuyên. Anh nói lục bình nó lạ lắm, vừa trôi vừa nở hoa, như mình vừa trôi trong đời vừa sáng tác vậy… Chỉ cần nhắc một chút về “hoa trắng thôi cài trên áo tím” thì anh tuôn kể mênh mang. Hai bạn học cùng trường. Nàng giỏi toán. Anh giỏi văn. Anh giúp nàng làm văn. Nàng cho anh “cọp dê” toán. Anh nói hồi đó anh thường làm “rédaction” mướn cho mấy bạn dân Bạc Liêu, mỗi bài hai cắc! Hai cắc lớn lắm. Ăn nửa tháng mới hết! Bạc Liêu con nhà giàu… làm biếng. Còn với nàng, anh… miễn phí! Anh còn viết bích-báo (báo tường) giùm nàng, cho nàng ký tên! Chuyện tình đẹp, chân thật, vì chưa có nắm tay, chưa có hun hít lần nào! Anh nói. Nàng công giáo kỹ lưỡng lắm. Anh thì nghèo không dám bước tới. Khi anh dẫn đoàn ca vũ kịch Thúy Nga về Cần Thơ, mời vợ chồng nàng hai vé VIP, đêm đó không thấy đi chắc chồng ghen. Ông chồng còn trùng tên với anh nữa chứ! Anh thì “ghen nguội”, sửa đoạn cuối bài thơ cho “bả chết”: Lạy Chúa con là người ngoại đạo…
Thư đã dài, hẹn hồi sau… phân giải.
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc
December 15, 2013
Thường Bất Khinh Bồ-tát
thấp thoáng lời kinh
Thường Bất Khinh Bồ-tát
Đỗ Hồng Ngọc
Không phải tự dưng mà Pháp Hoa ở phẩm Thường Bất Khinh này ta gặp Đại Thế Chí Bồ-tát và Phật Oai Âm Vương.
Đại Thế Chí, cũng gọi là Đại tinh tấn hay Đắc đại thế Bồ tát biểu trưng cho ánh sáng trí tuệ đến từ một ý chí, một nghị lực phi thường: đại hùng, đại lực, đại từ bi. Bi, Trí và Dũng gắn chặt với nhau, thiếu một không xong. Không có dũng thì khó mà tinh tấn lắm, dễ bỏ cuộc lắm. Để có thể làm một Pháp sư, một sứ giả của Như Lai thì không thế thiếu Bi Trí và Dũng. Dám nói cái điều khó nghe khó hiểu, ngược tai với mọi người, dám « thấy biết » cái diều ít ai thấy biết và với lòng Từ bi, « dám » diễn giải, phiên dịch, mở toang ra cái kho tàng bí yếu của Như Lai cho mọi người thấy ra « sự thật » trần trụi, thấy được thật tướng vô tướng, quả là một chuyện không hề dễ dàng.
Quán Thế Âm Bồ tát thì đại từ đại bi nhưng chỉ đại từ đại bi thì chưa đủ, cần phải có đại hùng, đại lực của Đại thế chí Bồ-tát. Có đại hùng đại lực thì mới khuất phục được, mới giáo hóa được « chúng sanh khó điều phục », nhất là ở vào thời mạt pháp, nơi cõi Ta-bà đầy ác trược này. Cho nên phải hết sức tinh tấn, hết sức nhẫn nhục mới dám « làm những việc khó làm, nhẫn những điều khó nhẫn ». Đại thế chí Bồ-tát thường đứng bên phải Phật A-Di-Đà, còn bên trái là Quán Thế Ậm, một vị thì đại hùng đại lực, một vị thì đại từ đại bi. Ở đây còn có vị Phật tên là Oai Âm Vương, tiếng nói oai hùng của vị vua, ở kiếp Ly Suy, nước Đại Thành. Mỗi tên gọi ở Pháp Hoa đều mang một ý nghiã. Thời kỳ mạt pháp, chúng sanh khó điều phục, chỉ cần một tiếng nói oai hùng kia là đủ để thanh tịnh được sáu căn. Được chăng ?
Được. Dĩ nhiên với điều kiện. Đó là với hình ảnh biểu trưng của Thường Bất Khinh Bồ tát. Thường là luôn luôn, bất là không và khinh là coi nhẹ- Thường Bất Khinh là không bao giờ coi nhẹ, không bao giờ khinh người, nói khác đi luôn tôn trọng người, bất cứ là ai, ở đâu, không phân biệt. Bởi vì dưới mắt Thường Bất Khinh, ai cũng sẵn có Phật tri kiến, Phật tánh đó rồi, chẳng qua vì không thấy biết mà không rõ được sự thực, nên không tìm ra hạnh phúc đích thực của kiếp người mà quằn quại trong nỗi khổ đau, bất hạnh.
Thú vị là Thường Bất Khinh chưa từng học Pháp Hoa, cũng chẳng học Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Lục độ ba-la-mật gì cả, ông chỉ làm mỗi việc: chắp tay xá lạy mọi người, bất kể là ai và nói với họ rằng : Tôi không dám coi thường ngài. Ngài chính là một vị Phật tương lai. Ngài sẽ thành Phật ! Nghe ông nói, ai cũng chưng hửng. Phật ư ? Thành Phật tương lai ư ? Còn lâu ! Giỡn chơi sao chớ. Chế giễu hả? Và người ta đánh đuổi ông, nguyền rủa ông, ném đá vào ông. Mặc kệ, ông vẫn kiên trì, không một chút nao lòng, vẫn cứ mỗi một câu nói đó : Tôi không dám khinh ngài, ngài sẽ là một vị Phật tương lai, ngài sẽ thành Phật. Nghe một lần hai lần thì nổi giận, nghe trăm lần ngàn lần thì giật mình, ngạc nhiên và sửng sốt. Rồi nhìn ngắm lại mình. Ủa, mà cũng dám lắm chớ. Ai cũng có hạt giống Phật mà, chịu khó tưới tẩm có ngày dám mọc lên một cây Bồ đề lắm chớ. Phật là chúng sanh đã giác ngộ còn chúng sanh là Phật sẽ thành đó thôi. Và từ đó, lòng tự tin trỗi dậy. Tín thì tấn, rồi niệm, rồi định rồi tuệ. Con đường tất yếu nó vậy.
« Vị tỳ kheo đó chẳng chuyên đọc tụng kinh điển, chỉ đi lễ lạy, nhẫn đến xa thấy hàng tứ chúng cũng cố qua lễ lạy ngợi khen mà nói rằng : Tôi chẳng dám khinh quý ngài, quý ngài đều sẽ làm Phật. Ông thường bị mắng nhiếc chẳng sanh lòng hờn giận, thường nói: Ngài sẽ làm Phật. Lúc nói lời đó chúng nhơn hoặc lấy gậy cây ngói đá để đánh ném, ông liền chạy tránh đứng xa mà vẫn to tiếng xướng rằng : ta chẳng dám khinh quý ngài, qúy ngài đều sẽ thành Phật »…
Tôn trọng, đức tính thứ nhất để thiết lập truyền thông hiệu quả giữa người với người. Thiếu tôn trọng thì truyền thông lập tức gẫy đổ. Tôn trọng phải xuất phát từ lòng thành, nếu không chỉ là sự giả vờ, đóng kịch, không qua mắt được ai. Thường Bất Khinh bằng tất cả lòng thành nên mới nhẫn nhục và tinh tấn đến vậy. Vì thế, về sau ông được nghe Pháp Hoa và trở nên một người « có lục căn thanh tịnh, ở bốn chúng nói pháp lòng không sợ sệt ».
Thường Bất Khinh chẳng đọc tụng kinh điển, chỉ một lòng tôn trọng người, lễ lạy người mà trở thành một Pháp sư, một vị truyền bá Pháp Hoa và sau này trở thành một vị Phật. Nhờ đức luôn tôn trọng người – nhu hòa nhẫn nhục – ông đã mặc áo Như Lai, đã vào nhà Như Lai với lòng Từ bi vô lượng và thực sự, đã « thấy biết » Như Lai, sống cùng Như Lai. Bởi với ông, ai cũng từ tứ đại ngũ uẩn mà có, từ đất nước gió lửa mà ra, hoàn toàn giống nhau, không cần phải phân biệt.
Thường Bất Khinh chỉ với một niệm duy nhất, một câu duy nhất đã đủ nhất tâm bất loạn mà thành một vị Phật. Cho nên kiên trì, nhẫn nhục, đại hùng, đại lực, đại từ bi thì « nhiếp được cả sáu căn, tịnh niệm nối nhau mà đắc tam- ma- địa ». « Vô biên quang » phát sinh từ đó vậy. Tâm thanh tịnh thì thế giới thanh tịnh, quốc độ thanh tịnh vậy.
(ĐHN)
December 13, 2013
Thiền… và vài câu hỏi-đáp
Ghi chú: Dưới đây là những câu hỏi về Thiền mà các bạn thường đặt ra cho tôi. Để nắm bắt đầy đủ, xin vui lòng xem chi tiết trong cuốn “Thiến & Sức khỏe”.
Trân trọng,
ĐHN.
Thiền và… vài câu hỏi-đáp
BS Đỗ Hồng Ngọc
Thiền học khác Phật học như thế nào? Zen là gì? Học thiền mà không theo đạo Phật được không?
Được chứ! Nên nhớ Thiền đã có từ ngàn xưa trước khi có Phật giáo. Nhiều tôn giáo cũng ứng dụng thiền vào việc tu tập như định tâm, cầu nguyện, đọc kinh, “thần chú”… tất cả đều có mục đích thanh lọc thân tâm, từ đó mà tuệ giác (huệ) sẽ bừng sáng. Tuy vậy, thiền Phật giáo có những sắc thái riêng, con đường dẫn tới giải thoát rốt ráo.
Thiền học là một phần của Phật học, nhưng là phần cốt lõi. Phật học có nhiều tông phái như Nguyên thủy, Đại thừa, Thiền tông, Mật tông, Tịnh độ tông v.v… nhưng nguồn gốc vẫn là một.
Thiền ứng dụng vào y học, vào tâm lý học hiện đại còn có những sắc thái khác nữa. Hiện nay có nhiều trung tâm thiền không tôn giáo mọc ra khắp nơi trên thế giới. Nhiều người hướng dẫn thiền tập bằng rất nhiều cách khác nhau, nên rất cần phải “tỉnh táo” để chọn lựa cách nào phù hợp nhất với cá nhân mình, có cơ sở khoa học, để không gây hoang mang, thất vọng hoặc gây những “side-effects” không hay khác.
Zen có gốc từ chữ Dhyana (Sanskrit) hay Jhana (Pali), được dịch âm thành Chan (Hoa) rồi Zen (Nhật) Thiền (Việt) v.v… Tây phương dịch là Meditation. Các từ khác liên quan đến thiền nên biết để tiện tra khảo: Niệm, chánh niệm (Sati) là Mindfulness; Quán niệm hơn thở hay An-ban thủ ý (Anapanasati) là Mindfullness of breathing…
Nghe Thiền sao thấy có vẻ cao siêu, huyền bí quá?
Quả có những thứ thiền “cao siêu huyền bí”. Đó là thứ thiền dành cho các vị tu sĩ, ngồi tĩnh lặng trên đỉnh núi tuyết cao, trong hang động sâu, xả ly, xa lánh bụi trần, hòa nhập vào vũ trụ mênh mông… Đó là thứ thiền của những vị Alahán, Bồ-tát, nhà tu khổ hạnh, người bình thường chúng ta chỉ biết kính nhi viễn chi.
Ở góc độ người thầy thuốc, tôi quan tâm đến thứ thiền đơn giản mà hiệu quả trong giữ gìn sức khỏe, nâng cao sức khỏe và chất lượng cuộc sống. Đó là thứ thiền trong đời sống hằng ngày. Nó liên quan đến sức khỏe, đến khoa học y học, được nghiên cứu và ứng dụng khá rộng rãi hiện nay. Nó đã mang lại những hiệu quả rất bất ngờ, chữa được nhiều căng thẳng (stress), lo âu, nhiều bệnh lý do hành vi lối sống gây ra mà thuốc men không thể chữa dứt. Thiền giới thiệu trong cuốn sách này là thiền “Quán niệm hơi thở”, nghĩa là quan sát, dõi theo và nhớ, nghĩ (niệm) về hơi thở vào, hơi thở ra của chính mình. Đi từ phương pháp “thở bụng” giản đơn – nhưng đã có hiệu quả tốt đối với sức khỏe- đến thiền quán niệm hơi thở là một bước tiến xa, từ đó có thể đi sâu đến “thành tựu chánh trí”, đến tuệ giác về vô thường, về duyên sinh, về không, về vô ngã v.v…
Xin vui lòng cho biết ngoài cách thiền Phật giáo ra thì còn bao nhiêu cách thiền khác nữa? Cách thiền đơn giản nhất có phải là ngồi kiết già nhắm mắt và không suy nghĩ để cho tâm lặng phải không?
Thiền Phật giáo như đã nói có hai cách: Thiền chỉ (Samatha) và Thiền quán (Vipassana). Kinh Viên Giác hướng dẫn 25 cách thiền. Hiện nay có tài liệu đưa ra 112 cách. Y học cũng đang nghiên cứu ứng dụng để từ đó tìm ra những “bằng chứng” cụ thể, và “liều lượng” thích hợp trong chữa trị và phòng ngừa bệnh tật nên còn hứa hẹn nhiều phương pháp thiền tập nữa. Nhưng nên nhớ, đó chỉ là phương tiện…
“Ngồi kiết già nhắm mắt và không suy tưởng” không phải là điều đơn giản nhất đâu mà thực sự là một điều cực kỳ khó. Ngồi kiết già đã khó, nhiều người không thể ngồi được – nên ta có thể chọn cách ngồi bán già, thậm chí quỳ trên gối, ngồi lên gót chân, ngồi trên ghế… đều thiền được. Nhắm mắt là cách để không bị ngoại cảnh chi phối, nhưng có người không cần phải nhắm mắt, có người lim dim… sao cũng được, tùy thói quen của mỗi người. Tâm trí ta như khỉ như ngựa (tâm viên ý mã) nhảy nhót lung tung, “gom” lại được không dễ. Vì thế mà phải tìm cách nào đó để gom tâm trí lại một nơi. Có thể là tiếng đọc kinh, có thể là tiếng mõ, tiếng chuông, có thể là một “câu thoại đầu” bí hiểm, có thể là tràng hạt… và tốt nhất là “chánh niệm” vào hơi thở vào hơi thở ra, vì nó trung tính và có đầy đủ những tính chất của một “pháp” để mà suy gẫm, “quán niệm”. Nếu “dừng” được tâm thì đã ở giai đoạn thiền chỉ (samatha) rồi vậy.
Đâu là bài tập thiền đơn giản nhất mà tất cả mọi người có thể luyện tập được?
Theo tôi, thiền “Quán niệm hơi thở” (Anapanasati), còn gọi là An-ban thủ ý hay Nhập tức xuất tức niệm (meditation of breathing) là cách thiền đơn giản mà hiệu quả nhất, được Phật dạy trong kinh Tứ Niệm Xứ (Satipatthanasutta) và được nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần : “Đây là con đường độc nhất dẫn tới thanh tịnh cho chúng sanh, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng đắc Niết bàn…”. Đây là một phương pháp rất “khoa học thực nghiệm”, áp dụng được cho tất cả mọi người. Bắt đầu bằng tập thở bụng rồi tập đặt chánh niệm vào hơi thở, từng bước đi sâu vào định và huệ. Hơi thở gắn với cảm xúc, lại gắn với hoạt động của cơ bắp. Hơi thở là cầu nối giữa thân và tâm. Nhờ đó, ta có thể “can thiệp” vào hơi thở để bình ổn thân tâm như đã trình bày trên.
Trở ngại lớn nhất trong việc tập thiền là gì?
Là mất chánh niệm. Đang “chánh niệm” vào hơi thở thì có một ý tưởng (niệm) nào đó chen vào, rồi lôi kéo theo vô số nhũng ý tưởng này khác, dẫn đi một lúc không trở về được với hơi thở. Nào dĩ vãng, nào tương lai, nào lòng tham, sân trổi dậy, cứ hết ý này đến ý kia, tràn ngập, một lúc hơi thở “mất kiểm soát”, cơ thể căng cứng, bứt rứt (gọi là trạo cử), hoặc có khi ngược lại buồn ngủ, ngủ gà ngủ gật, gọi là hôn trầm, thụy miên. Vậy là hỏng bét.
Nhưng không phải vì thế mà sợ. Ý tưởng cứ đến. Kệ nó. Một lúc nó thấy không ai thèm quan tâm, chán, bỏ đi. Rồi ý khác lại đến. Lại kệ nó. Ta không cần cố gắng xua đuổi. Càng xua đuổi, nó càng quấn quít. Cứ để tự nhiên. Đến, chán rồi đi. Người mới tập, ý tưởng đến vô số và ở lại lâu lắc, không chịu đi. Càng về sau, khi “thiện xảo” rồi (có kỹ năng rồi) thì những người khách không mời mà tới này sẽ lẳng lặng bỏ đi, đi sớm. Vậy là thành công rồi! Còn để cho được hoàn toàn không có một vị khách nào thì… còn lâu! Đừng nôn nóng. Ta đang luyện tập mà!
Cái khoảng thời gian để trở về với hơi thở càng ngắn càng tốt, chứng tỏ ta đã thành công từng bước.
Một trở ngại lớn nữa là sự nôn nóng, mong đợi, kỳ vọng…! Nôn nóng, kỳ vọng thì dễ nản lòng, bỏ cuộc…
Cần chú ý không để bị thầy, bạn, “cưỡng ép” mình phải giống như họ, trong khi về tâm lý, sinh lý, tuổi tác, hoàn cảnh… mỗi người mỗi khác. Ráng bắt chước y chang sẽ rất nguy hiểm! Cho nên Phật mới dạy: Hãy quay về nương tựa chính mình!
Thiếu không gian tĩnh lặng, lại luôn bị áp lực bên ngoài làm mất tập trung?
Thiền không phải tập trung mà ngược lại, là thả lỏng. Không gian chỉ cần vài mét vuông là đủ. Cần một chỗ yên tĩnh, khi quen thì ở đâu cũng “thiền” được. Đi đứng nằm ngồi gì cũng “thiền” được. Có người ngồi thiền dưới gốc cây, bên bờ sông, giữa công viên, có người thiền ngay trên bàn làm việc, sau giờ giao ban ở cơ quan hay sau buổi họp ở công ty… Không mất thì giờ nhiều đâu. Tùy hoàn cảnh mỗi người mà thu xếp.
Áp lực bên ngoài tác động không đáng sợ bằng áp lực bên trong. Chính những nỗi mong cầu, lo âu, bực dọc, sợ hãi… (tham sân si) trong tâm tưởng mới làm cho ta bấn loạn, bứt rứt… Dĩ nhiên ở giai đoạn đầu mới thực hành thiền thì ta dễ bị áp lực bên ngoài chi phối, dễ bị mất “chánh niệm”, cho nên phải luôn tỉnh giác và tinh cần. “Tinh cần – Tỉnh giác – Chánh niệm” (Atapi Sampajano Satima) là những đức tính cần thiết cho người thiền tập vậy.
Việc tập thiền giữa phụ nữ và đàn ông có khác nhau không?
Không. Phụ nữ dẻo dai, bền chí hơn đàn ông. Phụ nữ hiện đại càng cần thiền vì đời sống quá nhiều stress. Thiền giúp cân bằng cuộc sống. Thiền đúng, sẽ ít đau ốm lặt vặt, tươi trẻ hơn và nói chung, hạnh phúc hơn. Nhưng cẩn thận. Đừng đi vào mê tín dị đoan, bỏ nhà bỏ cửa rồi đổ thừa tại thiền!
Kiếm hiệp hay nói “đưa hơi xuống huyệt đan điền” là sao ?
Đó chính là cách thở bụng. Khi hít vào, ta đẩy cơ hoành xuống càng sâu càng tốt, xuống tận huyệt “đan điền”. Huyệt đan điền nằm dưới rún ba lóng tay, khoảng 4cm. Đan là thuốc, điền là ruộng. Đan điền là ruộng thuốc. Có nghĩa là “linh đan diệu dược” nằm ở đó. Người xưa coi thở bụng là phương pháp luyện công tốt nhất, được sử dụng trong võ thuật và phép tu tiên để trường sinh bất lão. Thực ra như ta biết cơ hoành là một cơ lớn, rất mạnh, vắt ngang (hoành) giữa bụng và ngực, chịu trách nhiệm chính trong sự hô hấp, di chuyển lên xuống chỉ được tối đa khoảng 7 cm thôi, chưa quá rún. Nhưng khi ráng hết sức thở sâu ta tưởng tượng như khí đã di chuyển đến tận huyệt đan điền. Huyệt đan điền còn gọi là “khí hải” (biển khí) là vậy. Nhưng, cần để ý, nếu ráng sức thở sâu quá lâu ta sẽ dễ bị chóng mặt, choáng váng. Đừng ráng quá. Cứ thở bụng bình thường thôi, thấy sảng khoái, dễ chịu là được. Có thể nói phương pháp thở bụng (đưa hơi xuống huyệt đan điền) tự nó đã có ý nghĩa là một thứ “linh đan diệu dược” dùng để chữa bệnh và nâng cao sức khỏe. Nếu có thêm “quán niệm hơi thở” nữa ta đã bước vào lãnh vực thiền Anapanasati rồi vậy. Thực tế khi đi sâu vào thiền, nhu cầu Oxy giảm đáng kể, hành giả đạt đến tứ thiền (xả niệm thanh tịnh) có thể gần như không cần thở và hoàn toàn không chú ý đến chuyện thở nữa!
Dùng ý dẫn khí đến những nơi mình muốn có được không? Chẳng hạn đến tận ngón tay, ngón chân, các khớp đang đau nhức?
Về sinh học, hệ thống mao mạch trong cơ thể ta dài đến 100.000 km (hai vòng rưỡi xích đạo quả đất!). Hồng cầu di chuyển chầm chậm trong hệ thống đó mang Oxy đến từng tế bào trong cơ thể. Mỗi tế bào thực chất là một… sinh vật, chúng hấp thu Oxy để tạo ra năng lượng mà sử dụng.
Dùng ý dẫn khí là một cách nói, nhấn mạnh khả năng đưa khí lưu chuyển toàn thân, đến từng tế bào nhờ hệ thống mao mạch này. Hiện tượng viêm trong y học – sưng, nóng, đỏ, đau – chính là cơ thể đưa máu dồn về nơi có bệnh để chữa trị, tập trung Oxy nhiều đến đó để tăng cường sản sinh năng lượng tại chỗ. Ta biết “Ý dẫn các pháp”, nên ở đây có thể tin được là dùng ý dẫn khí đến tận nơi cần thiết, những vùng đang đau nhức. Ở đây, nếu chiêm nghiệm được phần sâu sắc hơn như duyên sinh, không, vô ngã… sẽ càng thấy hiệu quả rõ ràng hơn.
Tôi học cách thở âm và thở dương. Thở dương là đưa hơi qua mũi, theo nhâm mạch xuống đan điền, hậu môn, rồi nhíu hậu môn lại; thở âm là đưa hơi lên đỉnh đầu, theo đốc mạch đến hậu môn, nhíu hậu môn lại… để chữa trị các trạng thái âm và dương của thân tâm đúng không?
Có lẽ bí quyết nằm ở chỗ “nhíu hậu môn”.!Những thứ khác thực chất vẫn là thở bụng, thở sâu xuống huyệt đan điền và dõi theo hơi thở, khi thì dõi theo ở phía trước (nhâm mạch) khi thì dõi theo ở phía sau (đốc mạch). Ta biết một khi vỏ não tập trung vào điều này thì không thể cùng lúc tập trung vào điều khác. Hai người gây gổ sắp đánh nhau mà nghe kêu cháy nhà hay động đất sợ quá bỏ chạy thì quên chuyện đánh nhau ngay. Cái “sợ” đã thay chỗ cho cái “giận” ở vỏ não. Một người ở trạng thái buồn bã (âm) hay kích động (dương) mà biết tập trung vào hơi thở sâu, lại tập trung vào chuyện “nhíu hậu môn” thì “công tắc” đã chuyển sang hướng khác ở vỏ não, nhờ đó mà chữa được các trạng thái “âm dương” là vậy. Thử “nhíu hậu môn” xem nhé.
Tôi không phải là một doanh nhân, cũng không là một công chức. Từ khi thất nghiệp đến giờ, dù không làm gì nhiều tôi vẫn bị stress. Tôi nghĩ thiền không chỉ cho những người bận rộn mà cho cả những người như tôi, bị rối trí vì không có việc gì làm cả.
Thất nghiệp là một trong những nguyên nhân gây stress trầm trọng nhất. Bạn nên thiền để giải stress, cho tâm được an, sức khỏe được bền bỉ, ổn định và tranh thủ thời gian “thất nghiệp” này rèn luyện kỹ năng đang có hoặc tự học thêm một kỹ năng mới, nhờ đó, dễ tìm việc làm sau này hơn. “Nhẫn nhục” và “tinh tấn” là những đức tính cần thiết của người tập thiền bạn ạ.
Khi thực hành thiền, có phải kiêng cữ chuyện quan hệ vợ chồng không? Bụng tôi hơi bự, liệu ngồi thiền có làm bự hơn không?
Các vị tu sĩ xuất gia mới phải “kiêng cữ” chứ. Còn ta thực tập thiền để có sức khỏe, dẻo dai, để nâng cao “chất lượng cuộc sống” mà! Bụng bự đâu mắc mớ gì tới thiền. Bụng bự thường do bia rượu, ít tập thể dục, ít vận động và ăn quá nhiều dầu mỡ, chất béo! Trái lại, nhờ thiền tập, dần dần sẽ ăn uống đơn giản hơn và nhờ đó giảm bụng bự!
Giờ nào thực hành thiền tốt nhất? Khi thực tập thiền thì hít vào bằng mũi thở ra bằng miệng hay hít vào và thở ra đều bằng mũi? Để tới đích mau lẹ thì chỉ cần thực tập theo sách hay vừa thực tập vừa nghiên cứu kinh sách?
Giờ nào thuận tiện thì đó là giờ tốt nhất cho ta. Có người thiền vào buổi sớm, buổi trưa, có người giữa đêm khuya và có người vào buổi tối, trước khi đi ngủ. Có người thực hành cả 3 “thời”, nghĩa là cả 3 buổi như thế. Không cần theo một lịch trình cứng nhắc. Mỗi người có điều kiện riêng, giờ giấc riêng. Chỉ nắm lấy nguyên tắc chung thôi rồi áp dụng cho phù hợp với mình là được. Đừng để bị gò bó thúc bách, căng thẳng không nên. Tuy vậy, nếu tìm được một thời điểm phù hợp thì cố gắng duy trì để thành một thói quen, tới giờ đó mà không “thiền” thì thấy thiếu, thấy ghiền, thấy nhớ, vậy là tốt.
Thở dĩ nhiên phải bằng mũi chứ! Mũi làm ra để thở mà. Ở mũi có hệ thống mao mạch dày đặc để sưởi ấm không khí, có lông mũi để chặn bụi bặm… Chỉ khi nào hai mũi bị nghẹt cả thì đành thở bằng miệng chứ sao! Những khi leo cầu thang, chạy bộ… thì cũng phải thở bằng miệng ( Bài vè thở bụng có câu Bình thường qua mũi/ Khi gấp qua mồm là vậy!).
Không có chuyện “tới đích mau lẹ” ở đây! Tới đích mau lẹ là tới đâu? Tới để làm gì? Nôn nóng chính là yếu tố thất bại trong thiền tập. Nghiền ngẫm, nghiên cứu kinh sách là điều rất cần thiết để ta có cái nhìn, cái thấy đúng, đặc biệt cần thiết trong thiền quán (vipassana). Nhưng kinh sách mênh mông, đọc phải có chọn lọc để tránh trở thành cái “đẫy sách”, tránh thành kẻ “cuồng thư”. Cái chính ở thiền tập là thực hành chớ không phải ngàn chương khảo luận để trở thành “hí luận”. “Văn tư tu” là cách học Phật: văn là nghe, là đọc; tư là suy nghĩ, nghiền ngẫm và tu là thực hành, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn…
Người ta nói thiền không đúng cách sẽ bị “tẩu hoả nhập ma”?
“Tẩu hỏa nhập ma” nói lên việc tập không đúng cách, hoặc quá nôn nóng của người thiền tập gây tai biến đáng tiếc. Chẳng hạn khi ta ráng sức thở nhanh quá, sâu quá, tích tụ khí Oxy hoặc Carbonic nhiều quá thì thay vì dễ chịu, sảng khoái, sẽ thấy bị chóng mặt, choáng váng, có thể ngất đi! Cũng có trường hợp bị các tai biến khác trầm trọng hơn. Với phương pháp “quán niệm hơi thở” thì nhờ tính khoa học, sinh y học của nó, có thể an tâm trong thực hành. Thiền là một phương pháp tịnh, tự mình mình biết, tự mình mình hay, không phải như tập thể lực hay chơi thể thao, có kế hoạch và chỉ tiêu phấn đấu. Không bao giờ nên ganh đua, thi đua để lập thành tích này nọ trong “thiền”.
Tôi thử áp dụng cách thở bụng theo bác sĩ hướng dẫn trên báo thì thấy có kết quả, ít ra là khi bà xã nhà tôi nói dai, nói dài, nhờ thở bụng mà tôi… không còn thấy mệt như xưa! Nhưng thở sao cho “êm chậm sâu đều” thì làm không được? Còn “thả lỏng” là sao? Xin nói rõ thêm…
Êm, chậm, sâu, đều là chuyện không dễ. Phải từ từ mới được. Đừng nóng vội. Như đã nói, phải chừng 6 tháng mới quen, mới thành phản xạ thở bụng. Mới tập thế nào nó cũng “nhộn nhạo” vì chưa quen, khó chịu! Cứ tự nhiên. Bình thường giai đoạn thở ra bao giờ cũng dài hơn giai đoạn thở vào. Các phương pháp khí công dạy nhiều cách thở, nào hai thì, ba thì, bốn thì, nào nín hơi, ém hơi… rất phức tạp, nhất là đối với người có tuổi. Ta tập thở theo sinh lý hô hấp để nâng cao sức khỏe chớ không phải để luyện “cửu âm chân kinh”! Thở êm là thở không có tiếng phì phò phì phèo như kiểu tập thể dục, quơ tay, quơ chân thế thôi. Còn thở chậm mà sâu thì rõ ràng lợi hơn thở nhanh mà cạn. Để ý xem, khi ta vui vẻ, bình tĩnh, ta thấy ta luôn thở nhẹ nhàng, chậm rãi, thoải mái. Còn khi ta có chuyện bực mình, căng thẳng hay sợ hãi, lo lắng… ta đều thở nhanh mà cạn, thở cà giựt, thở cà hước…! Do vậy nếu ta tập trung chú ý vào thở bụng, theo dõi, quan sát hơi thở vào ra thế nào, ta sẽ bớt căng thẳng, và nhờ đó, hơi thở cũng sẽ chậm lại và sâu hơn. Tóm lại, lúc mới tập thở bụng, không cần phải “êm, chậm, sâu, đều” chi cả đâu!
Trái lại, “Thả lỏng” toàn thân là một yếu tố rất quan trọng. Thả lỏng là không để thân thể căng cứng, các cơ bắp không bị gồng lên. Như vậy, cả thân thể đều được nghỉ ngơi, trừ cái bụng phình ra xẹp vào thôi! Bình thường, hệ cơ bắp của ta luôn có độ căng gọi là trương lực cơ (tonus musculaire) tiêu tốn rất nhiều năng lượng. Thả lỏng là buông xả, là làm cho toàn thân dịu lại. Khi cơ thể đã chùng xuống, đã giãn cơ, tức đã giảm tiêu hao năng lượng một cách đáng kể rồi. Trước khi bước vào buổi thiền tập cần thả lỏng toàn thân và hít thở sâu vài ba hơi. Sau buổi thiền tập cũng phải từng bước hít thở nhẹ nhàng và từ từ duỗi tay chân để trở lại trạng thái ban đầu. Không nên hấp tấp, vụt chạc.
Thời gian tập bao nhiêu là đủ? Ngày phải tập mấy lần?
Như đã nói, tùy mỗi người. Có người mỗi ngày tập một lần vào buổi sáng, có người buổi trưa hay buổi tối. Có người thiền cả 3 thời như vậy, thậm chí chọn “giờ tí canh ba”! Lúc mới tập, nên ít ít thôi, đừng gắng quá dễ mệt, dễ chán, tê tay chân… khi quen dần sẽ kéo dài thêm, nhưng trung bình chừng 30-45 phút cũng đủ. Các vị tu sĩ xuất gia thì khác. Chương trình tùy mỗi chùa, thường thiền vào giờ khuya, ngồi hai ba tiếng đồng hồ. Nhiều nơi mỗi người còn phải ngồi trong mùng để tránh muỗi đốt. Có vị Thầy cho biết đã ngồi thiền 6 tiếng. Cũng có những vị Thầy “thiền định” suốt cả tuần khi nhập thất. Tóm lại, với thiền “quán niệm hơi thở” nhằm tăng cường sức khỏe, nâng cao sức khỏe, cải thiện chất lượng cuộc sống nói đây thì ở đâu và lúc nào cũng được cả vì ở đâu và lúc nào mà chẳng phải thở? Có khi giữa hai buổi họp, giữa lúc đợi xe, trễ chuyến bay hoặc giữa giờ ra chơi với 5-10 phút cũng tốt rồi!
Với tôi thì khi nằm tôi thở thoải mái hơn khi ngồi. Vậy có tốt hay chăng? Và thiền ngồi mình để tay lên đầu gối và hai chân xếp bằng song song với nhau vì tôi không thể ngồi kiết già bán già được.
Thuận theo cơ địa của mình là tốt hơn cả. Nằm thở bụng cũng tốt quá đi chứ! Đặt tay lên bụng, ngay trên rún, mỗi khi hít vào thấy tay nhô lên, khi thở ra thấy tay xẹp xuống là được. Khi quen, không cần phải đặt tay lên bụng như vậy nữa. Bụng sẽ tự động phình lên xẹp xuống đều đều theo hơi thở. Lúc đó, đặt tâm vào hơi thở sẽ dần dần thấy những “chuyển biến” ở thân tâm. Xưa có vị thiền sư bảo Thiền là “phình xẹp, phình xẹp, phình xẹp…” là ý vậy. Cũng có một câu chuyện thiền thú vị: Một thiền sư cùng đệ tử đang bơi thuyền dạo chơi trên sông. Đệ tử theo thầy đã lâu vẫn chưa biết thiền là gì bèn hỏi: Thưa thầy, thiền là gì ạ? Thiền sư ngay tức khắc lật úp chiếc thuyền khiến đệ tử loi ngoi trong nước gần chết đuối, thầy vớt lên bảo: Đó là Thiền đó!
Bài học hay quá chớ! Thiền chính là… thở và không phải bận tâm đến bất cứ chuyện gì khác! Ngay lúc thuyền bị úp, vị đệ tử kia chỉ có mỗi việc là tìm cách… thở và không nghĩ gì khác hơn! Dĩ nhiên câu chuyện còn hàm chứa nhiều ý bên trong “không thể nghĩ bàn”. Krishnamurti từng nói: cái gì có định nghĩa thì đều thiếu sót.
Còn ngồi thì kiểu nào thuận tiện cũng là được cả. Người Tây phương thường ngồi thiền trên một cái ghế thấp. Người Tây Tạng ngồi xếp bằng, hai chân song song. Người Nhật quỳ trên gối. Hai tay buông lỏng là được, có thể đặt trên đùi, có thể xếp chồng lên nhau.
Có mối liên hệ nào giữa thiền và sinh lý (tình dục) con người không? Tập thiền về lâu dài có giúp người ta cải thiện về chuyện riêng tư hay không?
Đời sống đầy căng thẳng, lo âu, sợ hãi… chính là nguyên nhân làm cho kích thích tố sinh dục DHEA giảm sút đi, đưa đến tình trạng “yếu sinh lý”, “liệt dương”, “lãnh cảm”… phải cậy nhờ tới thuốc men này nọ… Thiền là cách giải stress tốt nhất nên có thể sẽ giúp cải thiện được “chuyện riêng tư” lắm đó chứ sao không? Như đã nói, thiền giúp thân tâm an lạc, sức khỏe dẻo dai, trí huệ sáng suốt, không bị “tham sân si” lôi cuốn…. chẳng phải có ích lắm sao?
BS Đỗ Hồng Ngọc
(theo THIỀN & SỨC KHỎE)
vài vần thơ bạn xa xôi
Đường xa vạn dặm
rồi chuyến bay cũng đáp xuống
trưa phi trường Washington Dulles
đầy mưa, trận tuyết dứt đêm qua
gió lạnh đón người đàn ông trở về
sớm Chủ Nhật còn ngồi cùng các bạn
ở Coffee Bean trước nhà thờ Đức Bà
chờ chín giờ sáng nghe chuông đổ
Nguyễn Quốc Thái nói hãy nghe kỹ
chín tiếng chuông ngân khác nhau
tiếng chuông đổ hồi ngân vang như nhắn nhủ
hãy giữ lấy Niềm Tin Yêu trong nhau
như tôi còn đầy tình bè bạn thương yêu
cám ơn những ngày ngắn ngủi
không kịp dạo phố Sài Gòn
dù những quán quen xưa La Pagode
Givral, Brodard đã không còn
cả gió ở bờ sông cũng lạ
chỉ những con đường giờ nào cũng đầy xe
băng qua rất ngại…
sáng chủ nhật có Đỗ Hồng Ngọc ghé Coffee Bean
không uống gì. chỉ ăn khúc bánh mì thịt ngon
Thái mua cho tôi vì biết tôi thích
rồi đi cho kịp buổi nói chuyện ở Chùa
đừng quên chuyện cây trâm nghe Ngọc
cây trâm đã bay qua mấy tầng mây
về nằm im trong mùa băng giá nhất
tháng cuối năm những giọt tuyết đọng
nặng trĩu làm gãy mấy cành cây
con chim màu đỏ gạch của tôi bay đi đâu
mai tôi lại đi bộ ra Starbucks ngồi một mình
khuya chủ nhật rời Sài Gòn
cám ơn Hoàng Minh Trung năm nào cũng đón đưa
cho tôi thầm nhớ Đức người lái xe cho Trung đã mất
cám ơn buổi cơm tạm biệt ở quán 3 Miền
có Dương Nghiễm Mậu
ghé uống mấy chai bia cùng Thuần cùng Thái
cám ơn những người bạn quý từ nhiều năm
từ những ngày còn Sơn hay ngồi cùng nhau
ở góc quán trên dưới tàn cây si…
và Tịnh nói nhiều, cái gì nghe thô hãy bỏ qua nghe Sơn Ý, Tuyết Anh
Hiếu chiều nay mặc chiếc áo màu fauve như trong tranh Matisse
cuối cùng rồi tôi cũng về đến nhà
giữa sân tuyết trắng bỏ lại ánh nắng ban mai
ấm áp cùng tình bè bạn. cám ơn cám ơn.
Virginia
, Dec. 9, 2013
Đinh Cường
Cám ơn về những tấm lòng
1.
Một cuốn thơ ở quê nhà
Một trái tim chở trăm ngàn tình thân
Cám ơn họa sĩ Đinh Cường
Mùa đông bỗng ấm tấm lòng Đỗ Nghê
Trần Hoài Thư
2.
mùa noel ra bưu điện xếp hàng dài
vừa ngồi với đỗ hồng ngọc đỗ nghê
cà phê trước nhà thờ đức bà sàigòn
nay tập thơ đã đến new jersey giá rét
mùa này thương nhớ chị yến vô cùng
tháng mười hai ôi tháng mười hai…
trần hoài thư ơi hãy luôn bên chị yến
với tấm lòng vô hạn như hồi chuông ...
Đinh Cường
Đinh Cường
ghi bởi Đỗ Hồng Ngọc
December 12, 2013
báo Giác Ngộ: BS ĐHN với Thơ, Thở & Thiền
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc với : Thơ, Thở & Thiền
Như Danh
Source : http://giacngo.vn/vanhoa/2013/12/01/3...
đăng ngày 08/12/2013
Ở tuổi “xưa nay hiếm”, nhưng cách viết, cách nói của bác sĩ (BS) Đỗ Hồng Ngọc vẫn trẻ trung, tinh tế, có pha chút hài hước, và đặc biệt là rất đằm thắm, sâu sắc. Thông điệp trong tác phẩm của ông như thể được chắt lọc từ tri thức, kinh nghiệm sống phong phú của một vị bác sĩ, sự chiêm nghiệm lời Phật dạy qua những biến cố của cuộc đời.
Ngày 23-11 vừa qua, tại Nhà sách Phương Nam Vincom (Lê Thánh Tôn, Q.1, TP.HCM), ông đã có buổi giao lưu với thân hữu, những người yêu quý cách sống, tác phẩm của ông nhân ra mắt hai tập sách mới: Thiền & sức khỏe và Thư cho bé sơ sinh & những bài thơ khác (với bút danh Đỗ Nghê).
Chuyện nghề y
BS Đỗ Hồng Ngọc (nhà thơ Đỗ Nghê) sinh 1940 tại Phan Thiết, Bình Thuận. Tiến sĩ Y khoa quốc gia, tốt nghiệp y khoa Đại học Y Sài Gòn 1969. Bác sĩ chuyên khoa Nhi, Trưởng khu phòng khám – cấp cứu BV Nhi Đồng. Giám đốc Trung tâm Truyền thông – Giáo dục sức khỏe TP.HCM từ 1985-2005. Tu nghiệp Y tế cộng đồng tại Đại học Harvard Hoa Kỳ 1993 và Giáo dục sức khỏe tại CFES, Pháp 1997. Giảng viên thỉnh giảng bộ môn Nhi, Đại học Y Dược TP.HCM 1981-1995. Trưởng bộ môn Khoa học hành vi và Giáo dục sức khỏe, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch 1989-2013.
Buổi giao lưu mở đầu với những chia sẻ của BS.Đỗ Hồng Ngọc về nghề và viết văn, làm thơ. “Hai lĩnh vực này không có xa lạ gì với nhau, nghề y hiện nay dần dần hướng về kỹ thuật nhiều quá và khi đi vào kỹ thuật thì đi vào máy móc dao kéo nhiều hơn là tâm hồn, mà con người ta thì không thể tách thể xác khỏi tâm hồn được.
Việc đào tạo ngành y hiện nay nên là đào tạo những bác sĩ có tâm hồn, có tính nhân văn trước đã. Làm nghề y mình có một tâm hồn nhạy bén, giàu cảm xúc, thì khi tiếp xúc với người bệnh mình thấu cảm được, mình hiểu nỗi lòng của họ và cách chữa bệnh của mình sẽ hiệu quả hơn bởi vì người bệnh gắn bó với mình, họ quý mình họ mới tôn trọng những quy định của mình…”, ông tâm sự.
Chuyện thơ và tình người
Chia sẻ về tập thơ Thư cho bé sơ sinh & những bài thơ khác, bác sĩ Ngọc nhắc về những kỷ niệm ra đời bài thơ “Thư cho bé sơ sinh”. Ông cho biết bài thơ được ra đời với cảm xúc rất tự nhiên sau ca đỡ đẻ cho một bà mẹ. Nghĩ về bốn câu thơ trong bài “Khi anh cắt rốn cho em/ Anh đã xin lỗi chân thành rồi đó nhé/ Vì từ nay em đã phải cô đơn/ Em đã phải xa địa đàng lòng mẹ”, một lần, nhà thơ Đỗ Trung Quân suy tưởng: “Có phải đó là nỗi cô đơn dằng dặc của thân phận con người? Con người đã mồ côi, đã lang thang vào đời sống ngay từ lúc mới lọt lòng? Nỗi cô đơn buộc con người đi tìm hạnh phúc. Nỗi cô đơn tạo thành tình yêu – ngay cả khi tình yêu đã mất, đã chia xa…”.
Một góc khác là những bài thơ về nỗi mất, những bài thơ viết riêng cho người con gái xấu số của mình vừa yêu thương, vừa tự hào, vừa xót xa, bất lực, vừa tự trách mình đã không thể hiện tình yêu thương với con đủ nhiều ngay khi còn có thể. Đó là bài thơ Tình yêu: “Trước mộ con còn ướt/ Ba nói với bè bạn ba rằng/ Từ nay hãy yêu con mình cách khác/ Đừng như ba/ Giấu kín trong lòng/ Bởi tình yêu/ Có bao giờ cho đủ/ Có đâu sợ dư thừa/ Như ba đã sai lầm bao nhiêu/ Hãy tỏ bày/ Vồ vập đi/ Âu yếm ồn ào đi/ Tình yêu/ Có bao giờ cho đủ/ Có đâu sợ dư thừa?”.
Hết sức xúc động và tri ân khi nói về những tập sách của ông, chị Thanh Thúy, Hội trưởng Hội quán các bà mẹ, bày tỏ: “Tôi thật sự làm mẹ từ năm 2002, nhưng từ nhỏ đến lớn ba má tôi không quen thể hiện tình cảm (âu yếm con cái) nên đến khi làm mẹ tôi cũng không biết cách thể hiện. Nhưng từ năm 2007, được đọc những bài thơ của bác, như một người bạn được nghe bác nói lại rằng “chúng ta hãy yêu thương con mình theo khía cạnh khác”. Và khi đó tôi mới học cách để hôn con lên trán, mặc dù đó là đứa con gái chúng tôi chờ đợi trong 5 năm. Và khi sinh đứa thứ hai chúng tôi mới dần học quen thể hiện yêu thương nhiều cách khác nhau đối với con. Chúng tôi được học ở bác rất nhiều từ cách chăm sóc con từ những cuốn sách khác như Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng”.
Nghịch tăng thượng duyên
Từ những biến cố, mất mát của cuộc đời, Thiền & sức khỏe bước vào đời sống của BS.Đỗ Hồng Ngọc tự nhiên như hơi thở. “Đã bao lâu ta không sống với mình/ Ta có ta mà quên ta phứt”. Những bước đi chập chững đầu tiên chạm đất, sau khi được phẫu thuật do một cơn tai biến, “tôi thấy đó là một phép lạ”, ông nói, rồi sau đó ông lấy con mắt tỉnh thức để nhìn cuộc đời…
“Hơi thở của mình luôn luôn bây giờ và ở đây, người ta không bao giờ nói đến hơi thở ngày mai hay ngày hôm qua. Cái thú vị là hơi thở nó gắn với cảm xúc, trước một cảm xúc mạnh thì hơi thở nó khác, và do vậy hơi thở thể hiện tâm trạng của mình và sự thở cũng là tiếng nói của cơ thể. Thật ra, hơi thở tuyệt vời lắm, nó giúp cho mình đi vào thiền, đó là cơ sở để tôi viết cuốn Thiền & sức khỏe sử dụng phương pháp đơn giản nhất là hơi thở”.
“Tôi tưởng tôi phát hiện ra phương pháp hay lắm, ai ngờ đó là điều Đức Phật đã dạy cách đây 2.557 năm trong kinh Anapanasati (Quán niệm hơi thở). Chỉ cần quán niệm hơi thở đúng thôi thì chúng ta đã đi vào thiền, có đời sống sảng khoái. Cuốn sách được tôi viết ra dựa vào kinh nghiệm thực tập thực tế trên 10 năm của chính bản thân nhằm chia sẻ kinh nghiệm cho những người có tuổi giống mình, hoặc những người đồng bệnh tương lân”, ông cho biết.
Ông chia sẻ thêm: “Hồi xưa mình học y khoa chủ yếu để chữa bệnh thôi, còn y khoa về sức khỏe mình không học. Bác sĩ chủ yếu chữa bệnh thành ra bác sĩ bị bệnh cũng nhiều lắm và bị nặng lắm – vì thế người bác sĩ nên học về sức khỏe nhiều hơn là về bệnh tật. Khi bị bệnh nặng, tôi nghiên cứu về sức khỏe và tôi nghĩ phương pháp Anapanasati rất có hiệu quả. Tôi đi bằng con đường khoa học và y học để vào thiền, dù sao tôi cũng là thầy thuốc, người làm khoa học thực nghiệm”.
Tham dự buổi giao lưu, đồng cảm với BS.Đỗ Hồng Ngọc, nhà thơ Hồ Đắc Thiếu Anh bộc bạch: “Là người đọc nhiều sách của BS.Đỗ Hồng Ngọc, tôi rất tâm đắc ý niệm chánh niệm trong hơi thở. Bản thân tôi với căn bệnh BS đã bó tay thì mình phải biết tự cứu chữa bằng cách tập thiền, và tôi bắt chước theo cách BS hướng dẫn đó là chánh niệm, lắng nghe hơi thở. Với những bài tập, những hướng dẫn của BS, tôi thấy đời rất dễ thương, rất đáng sống”.
“Người thầy thuốc chỉ có thể chữa được cái đau mà không chữa được cái khổ, chỉ có thể chữa được cái bệnh mà không chữa được cái hoạn. Do vậy mà dù y học phát triển với những thành tựu đáng kinh ngạc nhưng tình trạng tâm thần tự tử, bạo lực, bất an và các bệnh do hành vi lối sống gây ra như tim mạch, tiểu đường, béo phì… cứ ngày càng phát triển. Thiền phải chăng là một lối thoát?” – BS.Đỗ Hồng Ngọc hỏi nhưng thực ra cũng là trả lời như một chắt lọc từ cả một đời suy nghiệm, học y, làm nghề, học Phật và trở thành hành giả thực tập thiền – quán niệm hơi thở mầu nhiệm của mình.
Như Danh
Đỗ Hồng Ngọc's Blog
- Đỗ Hồng Ngọc's profile
- 12 followers

