Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 122
March 17, 2014
Mới hôm qua thôi !
Ghi chú: “Mới hôm qua thôi !”, do nhạc sĩ Vĩnh Điện phổ từ bài thơ “Trong một nhà giữ lão ở Montreal” của Đỗ Hồng Ngọc. Anh “meo” cho biết tình cờ có người bạn gởi anh bài thơ “là lạ” này, anh bỗng có cảm hứng phổ ngay tức khắc thành bài Mới hôm qua thôi và gởi về tặng tác giả thơ. Vĩnh Điện là một nhạc sĩ nổi tiếng từ trước 75 ở trong nước và nay đang sống ở hải ngoại với rất nhiều tác phẩm âm nhạc: www.vinhdien.net.
Trân trọng cảm ơn nhạc sĩ Vĩnh Điện,
Đỗ Hồng Ngọc.
March 9, 2014
Con đường “tìm thuốc”
Phỏng vấn BS Đỗ Hồng Ngọc
Thế giới Tiếp thị số 02 ngày 10-16.3.2014
Kim Yến (thực hiện)
- Với Ngàn cánh sen xanh biếc (NXB Tổng Hợp Tp.HCM) sắp ra mắt độc giả, anh muốn chia sẻ điều gì trong con đường “tìm thuốc” cứu mình, cứu người?
Ngàn cánh sen xanh biếc là những cảm, những nghĩ, những “thấp thoáng” mà tôi đã học được từ trong kinh Diệu pháp Liên hoa (Pháp Hoa). Hơn 15 năm nay, tôi nghiền ngẫm và thực hành những lời Phật dạy, mong tìm trong đó phương cách chữa cái đau, cái khổ cho mình và cho người với cái nhìn khoa học, y học, hoàn toàn không mê tín dị đoan. Năm 2003, tôi viết Nghĩ từ trái tim từ Tâm kinh Bát Nhã; rồi năm 2008, viết Gươm báu trao tay từ kinh Kim Cang và nay, 2013, viết Ngàn cánh sen xanh biếc từ Pháp Hoa… Hình như cứ mỗi 5 năm thì tôi nghiền ngẫm được “một chuyện”! Tôi đã tìm thấy ở đó những minh triết và đặc biệt, tấm lòng người xưa. Khi nghiền ngẫm Pháp Hoa, tôi giật mình thấy ông bà mình từ xa xưa cũng đã “đúc kết” được Pháp Hoa (đã được Phật dạy từ hai ngàn năm trăm năm trước dưới chân núi Linh Thứu) bằng một bài ca dao tuyệt vời: Trong đầm gì đẹp bằng sen/ Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng/ Nhị vàng bông trắng lá xanh/ Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Ở thời “mạt pháp” mà biết sống “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” chẳng phải tuyệt vời sao, chẳng phải hạnh phúc sao, vì đã rời xa mọi thứ tham sân si… Lòng tham con người không đáy, dẫn tới bao khổ đau cho mình và đồng loại. Lòng tham khởi lên chỉ vì thấy lấp lánh “lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng” tưởng bở, mà thực ra, rốt cuộc, cũng chỉ là “nhị vàng bông trắng lá xanh” đó thôi! Đó chính là điều Tâm Kinh đã nói: “bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm”…Các vị Bồ tát trong Pháp Hoa tượng trưng cho những “hạnh” của một lối sống hạnh phúc: Chân thành. Tôn trọng, Thấu cảm, Từ bi hỷ xả…Tâm tịnh thì thế giới tịnh!
- Khám phá đạo Phật phải chăng cũng là một cách học của người bác sĩ, để chữa lành thân, tâm?
Người bác sĩ được học để chữa cái “đau” mà không chữa được cái “khổ”, chữa được cái “bệnh” mà không chữa được cái “hoạn”. Mà đau khổ và bệnh hoạn là những cặp “phạm trù” luôn quấn quít chằng chịt lấy nhau. Không phải vô cớ mà Phật được gọi là Y vương, vì Phật mới chữa được nỗi khổ của chúng sanh! Ta thấy khoa học y học ngày càng phát triển mà bệnh tật vẫn triền miên, ngày càng có vẻ trầm trọng hơn, nguy hiểm hơn. Sức khỏe không phải chỉ là không có bệnh, tật. Sức khỏe là sự sảng khoái (well-being) về cả ba mặt: thể chất, tâm thần và xã hội. Cho nên môi trường sống – môi trường thiên nhiên và cả môi trường xã hội – cũng như lối sống cá nhân quyết định tình trạng sức khỏe của họ. Một người có “tật” như Nick Vujicic đã cho thấy anh là một người có sức khỏe tốt. Trong khi đó, nhiều ca sĩ, tài tử xinh đẹp giàu có ở xứ Hàn xứ Nhật, một hôm tự tử chết vì những bức xúc khổ đau trong đời sống, vì những vấn đề tâm thần và xã hội không tìm ra lối thoát. Các nghiên cứu gần đây cũng cho thấy có đến 90% các trường hợp đến khám bác sĩ vì bệnh này bệnh khác thực ra đằng sau đó là stress, sự căng thẳng trong lối sống, sự mất cân bằng trong đời sống. Mà bác sĩ chỉ thấy cái bệnh trước mắt, chữa cái bệnh trước mắt, không chữa được nỗi khổ sau lưng vì thế mà không thể chữa dứt hẳn “bệnh” được!
- Viết cho trẻ sơ sinh, viết cho tuổi mực tím, viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng, viết cho doanh nhân, viết cho tuổi chớm già…Điều gì đã giúp anh thấu hiểu về người khác, về nỗi mất, để tạo nên năng lượng hóa giải sự khổ?
Khi viết cho tuổi mới lớn, thì tôi… ở tuổi mới lớn, sống cùng tuổi đó, sống với tuổi đó, nghĩ như họ, nói như họ. Tôi viết như mình đang được trực tiếp trò chuyện với họ, như họ đang ngồi trước mặt tôi. Khi viết cho tuổi chớm già… thì tôi đang ở tuổi chớm già… Tóm lại, phải “thấu cảm” (empathy) nghĩa là phải “sống với”, cho thấu suốt nguồn cơn…
- Ngay từ bài thơ lúc còn là sinh viên y “Thư cho bé sơ sinh”, rồi đến các tác phẩm Nghĩ từ trái tim, Gươm báu trao tay, Thiền và Sức khỏe …Thiền phải chăng là con đường để giải thoát khỏi nỗi cô đơn, sự sợ hãi, mất mát của chính mình?
Không, thiền giúp cho mình “dừng lại”, chớ không phải trốn chạy. Thiền chính là sống trong nỗi cô đơn tuyệt đối của mình, đến mức không thấy có mình, không còn có mình… Kinh Kim Cang bảo ở đó không còn có “ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng…”. Thiền là sống với “thực tướng vô tướng”, với “chân không diệu hữu”. Ngàn cánh sen xanh biếc đã bàn kỹ về vấn đề này vậy!
- Theo anh, những “tâm bệnh” trầm kha nào mà con người hiện đại đang bị dính mắc nhiều nhất? Làm thế nào để có thể tìm lại sự cân bằng cho cuộc sống vốn quá đỗi bấp bênh?
Phải nhìn thẳng vào cuộc sống vốn “quá đỗi bấp bênh” đó đi đã, để thấy “bao nhiêu năm làm kiếp con người, chợt một chiều tóc trắng như vôi…” (Trịnh Công Sơn)… Nói khác đi, phải thấy “vô thường”. Thấy và hiểu nó, thương nó. Hiểu nó, thương nó, thì không cần phải làm cho nó khổ đau thêm. “Đời tôi ngốc dại tự làm khô héo tôi đây” (TCS). Con người sở dĩ khổ đau chính vì lòng “tham” không đáy của mình. Con người hiện đại lại càng tham lam hơn bao giờ hết. Có người đã bán đất trên mặt trăng, có người định làm bất động sản ở hành tinh khác. Khi lòng tham không đạt được thì nổi giận, hung hăng, đấm đá, thì đó chính là “sân”. Sân thì lọt ngay vào địa ngục! Vì sân thì đỏ mặt tía tai, lửa giận bừng bừng đốt cháy tâm can đó thôi. Mà nguồn gốc sâu xa cũng chỉ vì “si”, vì tưởng rằng… trời đất này là của ta, biển hồ này là của ta, nhân loại này là của ta, tưởng rằng ta trường sinh bất tử, nhất thống giang hồ, muôn năm trường trị…
- Những đoản thơ của anh dường như cũng phảng phất màu thiền?
Ôi, đâu có cần phân biệt màu thiền với màu không thiền! Vu Lan năm kia, nhớ mẹ mình mới mất, tôi viết: “Con cài bông hoa trắng/ Dành cho Mẹ đóa hồng/ Mẹ nhớ gài lên ngực/ Ngoại chờ bên kia sông”. Tôi nghĩ đó không phải là thơ thiền, thậm chí cũng chẳng phải là thơ nữa mà chỉ là một thứ “tiếng lòng”!
- Để viết cho mọi người đều hiểu, đều cảm, đều yêu mến, hẳn anh phải có nhiều kinh nghiệm trau dồi bút lực của mình?
Có trau dồi gì đâu! Có bút lực gì đâu! Toàn tùy hứng cả! Nhiều khi chẳng viết được chút gì, nhiều khi viết ào ào rồi để đó, chờ năm bảy ngày cho nó “hoai” đi, rồi đọc lại bằng một con mắt khác. Thấy được thì được. Trước đây có người hỏi tôi làm cách nào mà viết “lấy lòng” người, được nhiều lứa tuổi ưa thích, tôi nói tôi chỉ có mỗi một cách là “lấy lòng” mình để chia sẻ cùng nhau thôi. Chuyện viết lách với tôi là cái tình. “Ta cũng nòi tình, thương người đồng điệu…” (Chu Mạnh Trinh) vậy thôi!
- Hiện nay có rất nhiều bạn trẻ cũng tìm đến với Yoga, Thiền, ăn chay… nhưng cũng rất bối rối, hoang mang, vì không biết mình có đi đúng đường, tìm đúng thầy… Anh có thể chia sẻ những kinh nghiệm của riêng mình?
Tôi không có thầy và rất sợ… thầy – trừ bậc Y vương. Bởi thầy thường buộc mình phải theo “trường phái” này nọ của thầy mà quên rằng mỗi người có tâm sinh lý, bệnh lý… riêng của họ. Tôi thường nhắc các bạn trẻ phải thận trọng khi chọn thầy, học thầy. Nếu thấy thầy có “biểu hiện” gì có vẻ mê tín dị đoan, bày vẻ nọ kia, hoặc buộc ta nhất nhất phải làm y theo thầy thì phải cảnh giác! Bởi đã có những trường hợp ráng uốn dẻo theo thầy mà gẫy đốt sống! Nhiều thầy còn rất trẻ, cơ thể dẻo dai, tập luyện thuần thục nhiều năm, còn ta thì… hết trẻ, lại mới học, mà ráng thở theo thầy, ráng uốn theo thầy thì nguy! Cho nên Phật dạy: Hãy quay về nương tựa chính mình! Hiện nay có nhiều người ăn chay… trường nhưng với thức ăn quá béo bổ, đưa dến tình trạng béo phì, tim mạch, tiểu đường…Thậm chí nhiều người ăn chay nhưng tâm hồn thì “mặn”, như cách gọi tên các món ăn. Có lần tôi được mời ăn chay với món… “heo giả cầy”!
- Phẩm chất nào theo anh là quý giá nhất, để có thể tìm đến sự an tịnh trong tâm, hồi phục những bản năng tự nhiên đẹp đẽ của con người?
Khi “chẩn đoán” ra cái bệnh khổ của kiếp người là “tham, sân, si” thì bậc Y vương cũng đề ra cách chữa với các thuốc đặc trị là “giới, định, huệ”. Giới để chữa tham, Định để chữa sân và Huệ để chữa si. Tùy bệnh trạng mà phối hợp cả ba hoặc gia giảm nhiều ít. Đây là một tam giác cân, tác động hai chiều, có hiệu quả rõ rệt. Khi người ta bớt đi lòng tham, dứt lòng tham thì sân cũng tắt ngấm, và “huệ” sẽ phát triển, sẽ có được sự “an tịnh trong tâm, hồi phục những bản năng tự nhiên đẹp đẽ của con người” như vốn có, nói cách khác là trở lại với “bản tâm thanh tịnh” vậy./.
(Ghi chú: Trên đây là bài trả lời đầy đủ của ĐHN)
Phổ Hiền Bồ tát
thấp thoáng lời Kinh
Phổ Hiền Bồ-tát khuyến phát
Đỗ Hồng Ngọc
Khuyến là khuyến khích, động viên… còn phát ở đây là Phát tâm Bồ đề, là bước khởi đầu của con đường Bồ tát đạo. Phẩm 28, phẩm cuối của kinh Diệu pháp Liên hoa chính là phẩm Phổ Hiền Bồ-tát khuyến phát. Đã đến lúc không chỉ nói mà phải làm; không chỉ học, hiểu mà phải “đúng theo lời dạy mà tu hành”… Tu và hành đi đôi với nhau. Tu để Hành và Hành để Tu. Pháp Hoa khởi đầu với Văn Thù và kết thúc với Phổ Hiền là “tri hành hợp nhất” đó vậy.
Bản hoài của chư Phật xưa nay chẳng phải là “Khai thị chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật” hay sao? Khai đã xong, đã cho thấy toàn cục bức tranh nhất thừa, đã cho thấy cái “Lý vô ngại”; Thị cũng rồi, khi mở toang cánh cửa tháp báu, cho gặp Như Lai Đa Bảo ngồi cười tủm tỉm bên trong, đã cho thấy cái “Sự vô ngại”; Ngộ cũng đã hướng dẫn từng bước đi cụ thể qua hình tượng các vị Bồ tát thể hiện những hạnh Tôn trọng, Chân thành, Thấu cảm, Lắng nghe, Từ bi hỷ xả… và sau cùng cũng đã được trang bị vô số Đa-la-ni – thần chú, minh chú – tức những công thức vừa giúp trí nhớ vừa giúp nhất tâm bất loạn – để tự tại mà vào đời hành hiệp, “Lý sự vô ngại”. Bây giờ đã đến lúc Nhập với sự xuất hiện của một vị Bồ tát tiếng tăm lừng lẫy (danh văn) Phổ Hiền: “Sự sự vô ngại”. Có thể nói Hoa Nghiêm đã nở rộ ở Pháp Hoa!
Người xưa đã rất sâu sắc tạo nên hình tượng “tam thánh”: Phật Thích Ca ở giữa, Văn Thù cưỡi sư tử một bên và Phổ Hiền cưỡi voi sáu ngà một bên. Phật Thích Ca bấy giờ là Phật pháp thân, là Tỳ-lô-giá-na. Văn Thù với gươm báu trí tuệ trên tay, cưỡi sư tử oai dũng, “vô phân biệt trí”. Nhưng nếu chỉ dừng lại đó thì chưa đủ:
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành
Phổ Hiền chính là hành động, là vào đời, là từ bờ bên kia nhảy lại bờ bên này, để độ chúng sanh. Độ chúng sanh ấy là đoạn phiền não, độ người cũng là tự độ mình! Cho nên Phổ Hiền không dừng lại ở Lý mà đã chuyển thành Sự. Dĩ nhiên “Lý sự” đều đã viên dung vô ngại, để rồi bước thêm một bước đến “Sự sự vô ngại”, lúc đó thì như Duy Ma Cật “thõng tay vào chợ” mà không còn sợ hãi, lo âu… Nếu Văn Thù là thể: bất biến, thì Phổ Hiền là dụng, tùy duyên.
Phổ Hiền thưa Phật : “Con dùng tâm nghe và phân biệt những hiểu biết của chúng sanh… con cưỡi voi trắng sáu ngà phân thân trăm ngàn đến khắp… Dù người kia bị nghiệp chướng sâu nặng chưa thấy được con, con ở trong tối xoa đầu, an ủi ủng hộ, khiến người kia được thành tựu…” (Lăng Nghiêm).
Thiện Tài Đồng Tử trên hành trình của mình, đã khởi đi từ “vô phân biệt trí” của Văn Thù, đến đại từ đại bi của Quán Thế Âm để rồi sau cùng nhập thế, hành động theo nguyện hạnh Phổ Hiền với “sai biệt trí”. Có “sai biệt trí” mới chẩn đoán phân biệt đúng và điều trị đúng : cái nào ma, cái nào quỷ, cái nào là chúng sanh tham, chúng sanh sân, chúng sanh si, nghi, kiến, mạn v.v… để bốc thuốc ba chén sáu phân đủ liều đủ lượng.
« Lúc bấy giờ, Ngài Phổ Hiền Bồ Tát dùng sức thần thông tự tại oai đức danh văn, cùng vô lượng vô biên chúng đại Bồ-tát từ phương Đông mà đến »
Không như Diệu Âm mắt xanh dịu dàng với ngàn cánh sen nhẹ nhàng bay đến, rồi lẳng lặng bay đi, Phổ Hiền ầm ầm đến với đàn voi sáu ngà cùng với vô lượng vô biên các vị Đại Bồ-tát cùng đi, nên không lạ, « các nước đi ngang qua khắp đều rúng động, rưới hoa sen báu, trỗi nhạc » vang lừng!
Ph
ổ Hiền uy dũng, tự tại oai đức tiếng tăm lừng lẫy sầm sập đến khiến “chúng ma” khiếp sợ thực sự, không dám hó hé phá bĩnh kẻ chân tu!
« Năm trăm năm sau trong đời ác trược, nếu có người thọ trì kinh điển này, con sẽ giữ gìn trừ các sự khổ hoạn làm cho đặng an ổn, khiến không ai đặng tiện lợi rình tìm hại…”
Phổ Hiền dõng dạc bạch Phật, như một lời hứa. Cho nên không lạ, Phật khen: “Hay thay! Hay thay! Phổ Hiền! Ông có thể hộ trợ kinh này làm cho nhiều chúng sanh an vui lợi ích.Ông đã thành tựu bất khả tư nghì công đức, lòng từ bi sâu lớn, phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác, mà có thể thực hành nguyện thần thông để giữ gìn kinh này…”.
Phổ Hiền ra mắt Đức Phật xong bèn đi… quanh bên hữu bảy vòng. Sao lại bảy vòng? Phải chăng để nhắc con đường Thất giác chi, dẫn trực tiếp đến Bồ đề tâm? Niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, xả ? Phải chăng lục độ là để “tu thân” còn Thất giác chi là để “trị quốc”, tạo một quốc độ an vui hạnh phúc cho chúng sanh trong pháp giới.
Phổ Hiền đặt câu hỏi cốt lõi: « Người trai thiện, người gái lành sau này làm sao có được kinh Pháp Hoa khi Phật đã nhập Niết bàn? ».
« Có được » ở đây không phải là thỉnh hay mua một cuốn kinh ở đâu đó mà có nghĩa là « thọ trì đọc tụng biên chép giải thích và theo đúng lời dạy mà tu hành ! » để thành tựu chánh quả.
Phật trả lời, cần phải có 4 điều kiện:
Một là được các đức Phật hộ niệm,
Hai là trồng các cội công đức,
Ba là vào trong chánh định,
Bốn là phát lòng cứu tất cả chúng sanh.
Rồi Phật khẳng định: “Thiện nam tử, thiện nữ nhơn thành tựu bốn pháp như thế, sau khi Như Lai diệt độ quyết đặng kinh này”.
Bốn pháp đó thật ra không xa lạ, nhưng rất cốt lõi, như “điều kiện ắt có và đủ để…” vậy: Một là được các đức Phật hộ niệm, tức có Trí huệ; hai là trồng các cội công đức, tức có Giới đức; ba là vào trong chánh định (Thiền định) và bốn là Từ bi, “phát lòng cứu tất cả chúng sanh”. Tóm lại đó chính là Giới Định Tuệ và Từ Bi.
Phổ Hiền trực tiếp giúp đỡ, khuyến phát bằng cách trao cho chúng sanh một thứ Dalani, “pháp âm phương tiện Đà-la-ni”, hay “Triền đà-la-ni”. Triền là xoay, uyển chuyển, diệu dụng.
Từ cái Tri đã đến cái Hành. Sức “oai thần” của Phổ Hiền chính là cái diệu dụng của thực hành, của vào đời, và từ đó mà tâm càng rộng mở, qua hành động, nhờ thể nhập, thể nghiệm, chớ không “hý luận” suông.
Con đường Bồ-tát đạo được Phổ Hiền cụ thể hóa thành mười đại hạnh:
Một là Lễ kính chư Phật: Phật là chúng sanh đã giác ngộ, còn chúng sanh là Phật… chưa giác ngộ. Lễ kính chư Phật cũng có nghĩa là lễ kính chúng sanh vậy.
Thứ hai là Xưng tán Như Lai: Như Lai quả đáng khen quá đi chớ! Hiểu được Như Lai thì thấy Như Lai thật dễ thương, nhu nhuyến, tùy thuận mà thần thông vô ngại!
Thứ ba là Quảng tu cúng dường: không ngoài Giới Định Tuệ, Giải thoát và Giải thoát tri kiến.
Thứ tư là Sám hối nghiệp chướng: Nghiệp mà “chướng” được là do thân khẩu ý chưa thanh tịnh. Ý dẫn các pháp. Ý thường sinh sự cho sự sinh.
Thứ năm là Tùy hỷ công đức: Lòng đố kỵ, hờn ghen, ganh tị, so sánh hơn thua… vốn đã gắn chặt vào gène chúng sanh nên phải trừ bỏ.
Hạnh thứ sáu Thỉnh Phật chuyển pháp luân, thứ bảy Thỉnh Phật trụ thế, thứ tám Thường tùy Phật học là những hạnh nhằm để “độ tha”. Chữ Phật ở đây không phải là một vị Phật cụ thể nào đó mà Phật pháp, với vô lượng pháp môn, phù hợp với vô lượng tâm chúng sanh.
Thứ chín là Hằng thuận chúng sanh và thứ mười là Phổ giai hồi hướng: “hằng thuận” là chân thành, là thấu cảm, là tùy cơ ứng biến, là phương tiện thiện xảo để có thể hóa độ, rồi “hồi hướng” là để sẻ chia, rộng mở…
“Phổ Hiền! Nếu có người thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ chơn chánh tu tập biên chép kinh Pháp Hoa này, phải biết người đó thời là thấy Đức Thích Ca Mâu Ni Phật, như từ miệng Phật mà nghe kinh điển này.”.
February 28, 2014
NGÀN CÁNH SEN XANH BIẾC
Ghi chú: Nhà xuất bản Tổng hợp Tp.HCM sẽ phát hành tập Ngàn Cánh Sen Xanh Biếc (thấp thoáng về kinh Diệu Pháp Liên Hoa) trong dịp Hội sách thành phố, vào tháng 3.2014…
Xin được chia sẻ trước Lời Ngỏ của sách đến bè bạn thân quen…
ĐHN.
Thấp thoáng về Diệu Pháp Liên Hoa
NGÀN CÁNH SEN XANH BIẾC
Đỗ Hồng Ngọc
Lời ngỏ
Một hôm, trước hàng vạn các vị Đại Bồ-tát vây quanh, Phật nói: “ Như Lai chẳng bao lâu nữa sẽ vào Niết Bàn; sau khi vào Niết Bàn rồi, muốn hết thảy chúng sanh, trong hàng tu học, không còn nghi ngờ nữa. Các người muốn hỏi chỗ nào, Ta sẽ dạy cho.”.
Các vị Đại Bồ-tát, trong đó có Đại Trang Nghiêm Bồ-tát dẫn đầu đồng thanh hỏi:
“Bạch Thế Tôn! Các vị đại Bồ-tát muốn mau thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cần phải tu hành những pháp môn nào?”.
Muốn “mau” thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác ư? Nghĩa là muốn mau thành… Phật ư? Xưa nay, ít khi nào các đệ tử Phật dám đặt một câu hỏi “thẳng thừng” như vậy. Đây có lẽ là cơ hội tốt nhất vì Phật nói sắp “Niết bàn”, lại cho phép “… mặc ý các ông thưa hỏi” nên mới mạnh dạn đặt một câu hỏi bấy lâu canh cánh bên lòng chẳng tiện nói ra. Thật vậy, bấy nay chỉ mong làm Thanh Văn, A-la-hán, Bồ-tát… mà đã rất nhiêu khê, mà nay dám hỏi làm sao cho mau thành Phật! Thì ra chuyện muốn « thành Phật » vốn cũng là « món tánh dục » lớn của chúng sanh ! Nhưng ở đây ta còn thấy có một cái ý muốn cao hơn : muốn « mau » thành Phật, chớ không phải từ từ mà thành Phật nữa kìa!
Hơn ngàn năm sau đó, Huệ Năng từ Lãnh Nam đến gặp sư phụ Hoàng Nhẫn. Sư phụ hỏi: “Ngươi từ phương nào đến, muốn cầu vật gì ?” Huệ Năng đáp: “Đệ tử từ xa đến lễ Thầy, chỉ cầu làm Phật, chớ không cầu gì khác !”.
Không cầu gì khác ! Chỉ cầu làm Phật ! Thì ra… ngàn xưa ngàn sau vẫn thế, chúng sanh vẫn chỉ cầu làm… Phật.
Mà Phật cũng chỉ mong có vậy, cũng chẳng mong gì hơn ! Mong cho tất cả chúng sanh “đều thành Phật đạo” mà ! Bởi tất cả chúng sanh đều sẵn có Phật tánh như viên ngọc giấu trong chéo áo đó thôi, dù là chéo áo của người khố rách áo ôm hay của đại gia nứt đố đổ vách cũng đều sẵn có viên ngọc đó cả ! Phật vẫn chẳng luôn nói: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”… đó sao ?
Trả lời cho câu hỏi muốn mau thành Phật phải tu hành những pháp môn nào của Đại Trang Nghiêm Bồ-tát, Phật ôn tồn đáp: “ Có một pháp môn hay, làm cho các vị Bồ-Tát mau thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”.
Các vị đại Bồ-tát nhao nhao hỏi: “Pháp môn này tự hiệu là chi? Nghĩa như thế nào? Phải tu hành làm sao?”.
Phật đáp: “ …Pháp môn này gọi là Vô Lượng Nghĩa. Bồ-tát nếu tu được pháp môn Vô Lượng Nghĩa này, sẽ mau thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”.
Chưa bao giờ Phật dễ thương đến vậy! Hỏi đâu đáp đó, ân cần, niềm nở. Mọi người đều dỏng tai lên mà nghe.
“Vô lượng nghĩa này từ một pháp sanh ra, một pháp ấy chính là vô tướng. Vô tướng đây nghĩa là vô tướng mà chẳng phải vô tướng, chẳng phải vô tướng mà vô tướng, nên gọi là thật tướng”.
Ối trời! Thiệt là “điếc con ráy”! Không biết tám vạn Đại Bồ-tát có mặt lúc đó có vị nào choáng váng, lùng bùng lỗ tai không, nhưng rõ ràng đã không ít kẻ bỏ đi ! Nào chỉ từ một pháp, nào vô tướng, nào thật tướng… « vô tướng mà chẳng phải vô tướng, chẳng phải vô tướng mà vô tướng »! Ai bỏ đi mặc kệ, những người còn ngồi lại được Phật ân cần giải thích thêm:
“Các pháp xưa nay vắng lặng như hư không, sanh trụ dị diệt niệm niệm chẳng dừng mà bản thể của nó vẫn là như như bất động, thường trụ: nó chính là vô tướng”.
Rồi giữa lúc mọi người vẫn đang còn có vẻ ngơ ngác, Phật tiếp tục hướng dẫn “phải tu hành cách nào cho mau thành Phật ? »:
Phải quan sát hết thảy các pháp: tánh tướng của nó xưa nay vẫn thường không tịch (…). Do con người suy tính giả dối mà phát khởi những vọng niệm chẳng lành, gây tạo nghiệp dữ…
Phải quan sát để rõ thấu hết thảy các pháp: pháp tướng như vậy sanh cũng như vậy, pháp tướng như vậy trụ cũng như vậy, pháp tướng như vậy dị cũng như vậy, pháp tướng như vậy diệt cũng như vậy. Các pháp tướng như vậy mà hay sanh pháp dữ, pháp lành.. trụ, dị, diệt cũng đồng như vậy. Bồ-tát quan sát bốn tướng trước sau như vậy đều biết khắp cả các pháp khác.
Rồi nói rõ thêm : Hơn nữa còn phải quan sát kỹ càng hết thảy các pháp, mỗi niệm mỗi niệm không ngừng, sanh diệt nối nhau mãi mãi, lại quan sát bốn tướng sanh trụ dị diệt trong hiện tại. Quan sát như thế mới hiểu thấu nguồn gốc tánh dục của chúng sanh; tánh dục của chúng sanh vô lượng, nên thuyết pháp vô lượng, thuyết pháp vô lượng, nên nghĩa cũng vô lượng.”.
Dĩ nhiên, kinh Vô lượng nghĩa này đã nói cho các vị Đại Bồ-tát buổi hôm đó cách đây hơn hai ngàn năm trăm năm dưới chân núi Linh Thứu. Ta bây giờ nghe “điếc con ráy”, lùng bùng, choáng váng là phải. Nhưng, cũng bởi cái “tánh dục của chúng sanh » là ta vốn tò mò, ham hiểu biết buộc ta lần dò tìm kiếm, nghiền ngẫm suy tư. Có cái gì đó giấu nhẹm bên trong chăng? Một bí tạng, một kho tàng, một bí kíp thượng thặng giúp “mau” thành Phật chẳng hạn?
Phật nói chỉ có mỗi một pháp môn đó thôi. Không cần nhiều. Lâu nay nói tám vạn bốn ngàn pháp môn gì đó chẳng qua là một cách nói, để đáp ứng cái « tánh dục » vô lượng của chúng sanh thôi, chớ thiệt ra chỉ có một, chỉ cần Một. Bởi một là tất cả và tất cả là một. Phật đã nói điều này ngay từ buổi ban đầu, dưới cội Bồ-đề, chẳng qua người ta không thể hiểu thấu, từ đó phải bày ra vô vàn phương tiện nọ kia.
Một pháp ấy chính là vô tướng thật tướng. « Vô tướng đây nghĩa là vô tướng mà chẳng phải vô tướng, chẳng phải vô tướng mà vô tướng, nên gọi là thật tướng ».
Hóa ra bấy nay ta loay hoay khổ sở chỉ vì sống trong cái “hữu tướng / giả tướng”! Ngày nào thoát ra được, thấy được, sống được trong cái “vô tướng / thật tướng” kia thì ta đã là một ta khác!
Ta hiểu tại sao kinh Kim Cang bảo “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”, hễ cái gì có “tướng” (hữu tướng) đều là hư vọng; và “Ly nhất thiết tướng tức danh chư Phật” tức là rời bỏ được hết thảy các tướng thì đã gọi được là Phật! Bởi vì cái “tướng” kia chẳng qua chỉ là cái trình hiện bên ngoài, cái « biểu kiến » xanh xanh đỏ đỏ… do tập hợp của trùng trùng duyên khởi cho nên nó là “giả”, còn cái “thực” ở bên trong, ở đằng sau kia, chính là « vô tướng »!
Nhưng nhớ rằng “Vô tướng đây nghĩa là vô tướng mà chẳng phải vô tướng” có nghĩa là tuy “vô” mà vẫn “hữu”, tuy “không” mà vẫn “có” đó, dù là cái có “giả”, nhưng đó cũng chính là cái “diệu hữu” cần phải thấy vì nếu không ta lại rơi vào « hư vô chủ nghĩa ». Thị pháp trụ pháp vị / Thế gian tướng thường trụ. Miễn là đừng bám, đừng dính mắc mà chỉ nên biết nó là « diệu hữu » để hạnh phúc ở đây và bây giờ với nó. Còn “chẳng phải vô tướng mà vô tướng” thì cái “có” lại vốn từ “không”. Nó là cái “chân không” đó vậy. Chân không mà diệu hữu. Diệu hữu mà chân không. Sắc tức thị không / Không tức thị sắc. Như vậy thì cái gọi là “thật tướng” thực ra bao gồm cả hữu lẫn vô, có lẫn không. Bám hữu đã sai mà bám vô càng sai.
Tu hành cách nào ư ? Phật dạy : Phải quan sát hết thảy các pháp. Tánh tướng của nó xưa nay vẫn thường không tịch. Thấu rõ pháp tướng như vậy thì sanh trụ dị diệt nó phải như vậy, trước sau như vậy…
Phải quan sát ! Ở đây không chỉ là « định » nữa mà phải là « quán »: Ưng tác Như thị quán ! « Quán » mới thấy, nghĩa là không chỉ nhìn một cách hời hợt mới nhận ra. Thấy gì ? Thấy « Nó vậy đó ». Chuyện xưa lẫn chuyện nay, từ lúc tưởng trời tròn đất vuông, mặt nhựt đứng yên một chỗ đến tỷ tỷ thiên hà xoay xà quần, từ lúc tưởng chỉ có một vũ trụ universe đến biết có hằng hà sa số vũ trụ multiverse, từ nguyên tử đến hạ nguyên tử, đến hạt, đến sóng để rồi đến « bổn lai vô nhất vật »… Tới lúc « kiến tướng phi tướng » thì đã có thể… « kiến Như Lai ». Lúc đó thì thấy Như Lai tủm tỉm cười, nhường chỗ, mời ngồi, tay bắt mặt mừng, ân cần thăm hỏi cố nhân…
« Nói kinh này xong, Đức Phật ngồi xếp bằng nhập vào chánh định “Vô-Lượng Nghĩa – Xứ”, thân và tâm đều không lay động ».
Trời bèn mưa hoa và khắp cõi sáu điệu rung động.
* * *
Tôi người thầy thuốc, một bác sĩ y khoa, vốn có cái học « khoa học thực nghiệm », tò mò mà không dễ tin. Cũng vì cái “nghiệp” của mình mà lang thang trong rừng kinh sách của bậc Y vương tìm thuốc cứu mình, cứu người. Hơn mười lăm năm trước, do một « cơ duyên” khá đặc biệt, tôi đến với Tâm Kinh Bát Nhã, trả lời được cho mình câu hỏi « Tại sao ?”, rồi đánh bạo viết ra Nghĩ từ trái tim để chia sẻ cùng bạn bè trang lứa, đồng bệnh tương lân ; sau đó, không biết thúc đẩy thế nào mà lại lò mò tìm đến với Kim Cang để có được trả lời cho câu hỏi “Cách nào?”, rồi cũng đánh bạo mà viết Gươm báu trao tay ; và rồi, không dừng ở đó, mấy năm nay tự dưng lại say mê nghiền ngẫm Pháp Hoa và thấy hiện ra câu trả lời cho một câu hỏi bấy nay canh cánh bên lòng: «Cái gì?”. Giờ đây hình như tôi đã có chút ít hiểu biết tại sao người xưa luôn mong « Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa »…
Pháp Hoa với tôi như một bài thơ vĩ đại, một đà-la-ni khổng lồ, hàm chứa nhiều ẩn nghĩa sâu sắc, giấu nhẹm trong đó một bí tạng, một « bí kíp » của Như Lai. Pháp Hoa như tiếng nói ú ớ của người nói không được, về một điều « bất khả thuyết » đành phải dùng những ẩn dụ, những ngụ ngôn… nhiều khi huyền hoặc, xa mờ để che lấp nên phải chịu khó lật từng lớp « hoa lá cành” mù mịt kia, từng lớp vỏ trong vỏ ngoài nọ mới mong tìm thấy được cái « lõi cây » bên trong. Pháp Hoa vừa đòi hỏi phải suy tìm cho ra “ẩn nghĩa”, rồi phải miên mật « thực hành » mới thấy đây là diệu pháp, kia là liên hoa…
Nghiền ngẫm thực hành Pháp Hoa, thấy… thương Phật quá! Với lòng Từ bi vô hạn, luôn bằng mọi cách giúp giải thoát cho chúng sanh nên Phật muôn đời vẫn luôn là « Bổn sư Thích Ca Mâu Ni» đó vậy. Chưa lúc nào Phật gần gũi, dễ thương như ở Pháp Hoa. Có lúc hình như cũng lúng túng, cũng do dự, có lúc phải lặp đi lặp lại đôi ba lần rằng hãy tin lời Phật, trước sau như một, buổi đầu buổi giữa buổi cuối đều nhất quán, chỉ vì “phương tiện“ mà làm cho đôi lúc người ta hiểu lầm nhau thôi! Nước sông khác nước giếng, nhưng nước vẫn là nước. Cây to cây nhỏ khác nhau nhưng mưa rào, nắng sớm không phân biệt.
Rõ ràng Phật phải từng bước dẫn dắt chúng sanh. Phải dựa trên người học mà dạy. Phải sử dụng phương pháp giáo dục chủ động tạo tham gia… Ở Pháp Hoa, thấy Phật lo lắm. Lo thời mạt pháp, lo cõi Ta-bà đầy ác trược, lo khi Phật nhập Niết bàn – dù chỉ là thị hiện – nếu chúng đệ tử cứ ngồi mãi dưới gốc cây, hay « thõng tay vào chợ » mà quên đường về, hoặc say sưa hý luận… thì rồi ai sẽ truyền trao ngọn lửa thiêng này cho muôn đời sau. Cho nên Pháp Hoa tha thiết đào tạo một thế hệ « Pháp sư » – những sứ giả của Như Lai, những người có thể « vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai” để dấn bước vào đời truyền bá Pháp Hoa. Nên khi các đệ tử thề nguyền: ” Cúi xin đức Thế tôn chớ để lòng lo lắng…” ba lần thì Phật mới… an tâm !
Kinh này thẳm sâu thẳm sâu. Nghe một pháp mà tổng trì được hết thảy các pháp. Giúp phát Bồ đề tâm, mau thành đạo vô thượng bồ đề, thông đạt trăm ngàn muôn ức nghĩa, như một hạt giống sinh trăm ngàn hạt giống, vô lượng vô biên...
Pháp như ngàn cánh sen xanh biếc, vươn lên từ chốn bùn lầy mà vẫn tinh khiết thơm tho, Diệu vì giúp nhanh chóng thấy ra chân lý, thấy ra thực tướng vô tướng để không còn chấp bám khổ đau, thấy được Như Lai Đa Bảo vẫn tủm tỉm cười cười chờ đợi.
Sinh tử đại sự hóa ra… bất sanh bất diệt, chỉ quẩn quanh theo nhịp điệu của sóng, của hạt, của có của không, của chân không diệu hữu, của diệu hữu chân không, để rồi rốt ráo thấy « bổn lai vô nhất vật » !
”Kinh này thẳm sâu thẳm sâu. Nghe một pháp mà tổng trì được hết thảy các pháp. Từ trong nhà các Đức Phật mà lại, đi đến chỗ phát Bồ- đề tâm của tất cả chúng sanh, an trụ vào các chỗ Bồ-tát an trụ.
Dù Phật còn tại thế hay đã diệt độ, thọ trì đọc tụng biên chép kinh này, lại vì chúng sanh thuyết pháp, dạy xa lìa phiền não thì cũng như nghe chính Đức Phật thuyết pháp không khác. ”
***
Tôi đến với Pháp Hoa bằng tấm lòng trẻ thơ, tò mò mà ham học hỏi, không mắc mướu vào một “pháp » nào trước đó cả… Tôi cảm nhận xuyên suốt, nhất quán một con đường Phật dạy ngàn xưa ngàn sau không chia chẽ.
Nay ở tuổi « cổ lai hy », được sự khuyến khích của bạn bè trang lứa, tôi ghi chép lại những « thấp thoáng », những « lõm bõm » đó của mình bấy nay kẻo rồi tuổi già quên lãng để sẻ chia cùng bè bạn bên chén trà sương sớm, bên bếp lửa khuya nồng… Những bài viết thấp thoáng lời Kinh này phần lớn đã được đăng rải rác trên tạp chí Văn hóa phật giáo, Giác Ngộ, Từ Quang…
Các nghiên cứu lịch sử hình thành kinh Pháp Hoa cho thấy Phật Thích Ca đã giảng dạy Pháp Hoa suốt tám năm trong quá trình 45 năm hoằng pháp của Ngài – sau thời kinh Bát Nhã – và đã được ghi chép lại qua nhiều trăm năm. Có những phẩm được cho là đã thêm về sau nhưng dù thế nào ba phẩm Phương tiện (thứ 2), Hiện bảo tháp (thứ 11) và Như lai thọ lượng (thứ 16) luôn đều hiện diện, chứng tỏ đây là ba phẩm cốt lõi. Kinh Pháp Hoa hiện nay với 28 phẩm được sắp xếp theo một trình tự hợp lý, ý nghĩa thâm sâu, mặc dù, tùy căn cơ, mỗi người học Phật có thể đến với Pháp Hoa bằng cách chọn cho riêng mình một phẩm nào đó để « chuyên sâu ». Khi ghi lại những « cảm nghĩ » thấp thoáng này của mình sau mấy năm nghiền ngẫm Pháp Hoa, lúc đầu tôi có dự định sắp xếp dựa trên ba phần chính cho dễ nhớ, đó là « Mặc áo Như Lai » các phẩm liên quan đến Pháp sư ; « Ngồi tòa Như Lai » các phẩm về tính Không và « Vào nhà Như Lai » về các hạnh Bồ-tát để tiện việc học hành, nhưng rồi thấy vẫn nên giữ trình tự quen thuôc cũ thì hơn, nên đã ghi lại những cảm nghĩ của mình bắt đầu từ phẩm Pháp sư, và tóm tắt các phẩm trước đó qua « Một thuở nọ ». Tập sách nhỏ này do vậy chỉ để đọc vui thêm lúc trà dư tửu hậu, chia sẻ cùng nhau chút cảm nghĩ lõm bõm, thấp thoáng lúc học lúc hành lời Phật dạy. Mong được cảm thông và lượng thứ.
***
Đến với Pháp Hoa là đến với Đà-la-ni, đến với Thi ca, đến với Hội họa, không thể dùng lý trí, dùng tri thức mà « thấy biết » được, họa chăng chỉ có thể bằng cảm nhận, bằng rung động, bằng mưa hoa…
« Một sáng chiếu phương Đông,
thể diệu toàn bày,
chẳng phải chỗ suy lường mà suy lường được,
thầm hiểu ở trong lòng,
phương tiện truyền bày một đạo nhả hương trời”.
(Diệu Pháp Liên Hoa kinh )
Đỗ Hồng Ngọc
Saigon, 12.2013
………………………………………………..
Các trích dẫn trong tài liệu này đều lấy từ cuốn kinh Diệu Pháp Liên Hoa do Hòa thượng Thích Trí Tịnh dịch (năm 1949) từ bản Hán dịch của Cưu-Ma-La-Thập đời Diêu Tần (năm 402) cùng cuốn Đại thừa Vô Lượng Nghĩa do Thích Chánh Quang dịch (năm 1950).
February 26, 2014
Vài câu hỏi đáp trong Ngày Thầy Thuốc
1 – Năm 1965, trong bài thơ Thư cho bé sơ sinh viết tại bệnh viện Từ Dũ, ông viết về chuyện cắt rốn cho một sinh linh vừa chào đời. Ít người nghĩ rằng việc đỡ đẻ cũng có thể thành thơ… Theo ông, những công việc trong ngành y với dao kéo, máu me… cũng có thể là nguồn cảm hứng để nhà thơ sáng tạo?
Đỗ Hồng Ngọc (ĐHN): Sao không? Thơ là tiếng lòng, là cảm xúc. Một việc đầy cảm xúc như thế sao không thể thành thơ? Lúc đó tôi mới là một sinh viên y khoa năm thứ ba, thực tập đỡ đẻ. Với lòng đầy cảm xúc, tôi đã viết:
(….) Khi anh cắt rún cho em / Anh đã xin lỗi chân thành rồi đó nhé / Vì từ nay em đã phải cô đơn / Em đã phải xa địa đàng lòng mẹ…” (Thư cho bé sơ sinh)
2 – Có ý kiến cho rằng, nếu ngành y giúp chữa lành về thể xác thì nghệ thuật chữa lành về tâm hồn. Riêng nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc, ông đã ứng dụng nghệ thuật ra sao trong chữa bệnh tinh thần?
ĐHN: Cũng không nên tách rời “thể xác” với “tâm hồn”. Thể xác với tâm hồn là một cặp “song sinh” không thể tách rời. Người ta hay chúc nhau: “thân tâm thường an lạc” là vậy! Người làm thơ luôn có một tâm hồn rất nhạy cảm, đau được nỗi đau của người, khổ được nỗi khổ của người nên trong nghề y, có một tâm hồn nhân bản là rất cần thiết. Vì thế các đại học y lớn trên thế giới luôn buộc sinh viên y khoa năm đầu phải học một số tác phẩm tiểu thuyết…
3 – Ngoài sáng tác văn chương, gần đây nhà thơ Đỗ Hồng Ngọc viết khá nhiều sách về thiền. Trong xã hội bận rộn cơm áo hiện nay, theo ông, thiền có phải là một giải pháp để con người sống vui hơn?
ĐHN: Chẳng những sống vui hơn mà còn sống khỏe hơn. Sức khỏe đựơc định nghĩa “là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái (well-being) về thể chất, tâm thần và xã hội, chớ không phải chỉ là không có bệnh hay tật”. Như vậy “sức khỏe” của một con người không thể chỉ khu trú vào chuyện có hay không có bệnh, tật. Người thầy thuốc thường chỉ chữa cái đau mà không chữa cái khổ, chữa cái bệnh mà không chữa cái hoạn. Do vậy mà dù y học ngày càng phát triển với những thành tựu đáng kinh ngạc nhưng tình trạng tâm thần, tự tử, bạo lực, bất an và các bệnh do hành vi lối sống gây ra như tim mạch, tiểu đường, béo phì… cứ ngày càng phát triển! Thiền, theo tôi là một lối thoát. Âu Mỹ hiện nay đang quay về tìm thứ “thuốc” này của phương Đông!
4 – Những câu chuyện về y đức của người thầy thuốc hiện nay được đề cập trên các phương tiện truyền thông khiến cả xã hội quan tâm. Là người cả đời làm thầy thuốc, theo ông lý do nào y đức lại xuống cấp như vậy? Và nghệ thuật có góp phần làm cho người thầy thuốc giữ mình trong khi làm nghề y?
ĐHN: Người thầy thuốc dù ngày xưa được coi là quan đốc, đại phu hay ngày nay được coi là người cung cấp “dịch vụ chăm sóc sức khỏe” (health care provider) gì gì đi nữa thì cũng phải luôn đứng trước lương tâm chức nghiệp của mình. Trong chữ Người thầy thuốc gồm có cả ba: Người + Thầy + Thuốc. Người thì có Nhân đạo. Thầy thì có Nhân đức. Thuốc thì có Nhân thuật. Nhân đạo, nhân đức, nhân thuật hợp lại mới thành cái gọi là… “Y đức”. Không có nhân đạo, nhân đức thì còn lâu mới có y đức. Cho nên Y đức là chuyện không dễ. Không chỉ được đào tạo, dạy dỗ ở trường Y mà phải “gieo trồng” từ hồi niên thiếu, từ trong gia đình, từ môi trường xã hội. Khi ra trường, hành nghề, còn bị ràng buộc bởi Nghĩa vụ luận y khoa (déontologie médicale), được “quản lý” bởi một đoàn thể nghề nghiệp.
Còn nghệ thuật tự nó là cái chân, cái thiện, cái mỹ. Y đức cũng chính là chân thiện mỹ đó vậy!
Hoàng Nhân
(http://thethaovanhoa.vn/xa-hoi/nha-th...)
February 23, 2014
Nhớ một người Thầy thuốc (3)
BS Dương Quang Trung
với Trung tâm Đào tạo và Bồi dưỡng Cán bộ y tế Thành phố HCM
(nay là Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch)
BS Đỗ Hồng Ngọc
Trung tâm Đào tạo và Bồi dưỡng Cán bộ y tế Thành phố ngay từ đầu đã xác định mục tiêu đào tạo Bác sĩ tổng quát hướng về cộng đồng, phải vừa giỏi lâm sàng vừa giỏi cộng đồng, nhằm đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân thành phố, gắn liền với sự phát triển của một thành phố, trung tâm kinh tế văn hóa xã hội lớn bậc nhất của cả nước, đầu mối giao lưu quốc tế và khu vực, có những vấn đề sức khỏe phức tạp và riêng biệt.
Lớp đầu tiên khai giảng năm 1989, chỉ với 45 SV. Lúc khó khăn ban đầu phải nói BS Dương Quang Trung đã rất khéo léo, kết hợp được các nguồn nhân lực cả hai miền Nam Bắc như GS Đặng Văn Chung, GS Nguyễn Tấn Gi Trọng, GS Ngô Gia Hy… và sự hỗ trợ của Đại học y dược, của các giảng viên từ các bệnh viện lớn của Thành phố – vốn xưa là nơi thực tập lâm sàng của Y khoa Đại học đường Saigon – cùng với nhóm chuyên viên đã có kinh nghiệm thực tiễn về Sức khỏe cộng đồng.
Anh Tư Trung thường “tâm sự”: “Nếu chỉ cần tăng cường nhân lực y tế cho thành phố, tôi có thể gởi một trăm sinh viên nhờ Đại học Y dược đào tạo không khó, nhưng chúng ta cần là cần cách đào tạo mới, người thầy thuốc vừa giỏi lâm sàng vừa giỏi cộng đồng”. Và Trung tâm đào tạo và Bồi dưỡng cán bộ y tế Thành phố ra đời, bao gồm cả hệ thống Đại học và Trung học y tế. Một quyết định táo bạo, mang tính đột phá vào thời điểm chưa được phép lập đại học Y riêng cho thành phố lúc này.
Tôi còn nhớ để chuẩn bị cho khung chương trình đào tạo mới này, nhóm phụ trách nội dung Khối “Sức khỏe cộng đồng” (bên cạnh Khối y học cơ sở và Khối y học lâm sàng) – do Bác sĩ Dương Quang Trung, Giám đốc Sở Y tế kiêm Giám đốc Trung tâm lãnh đạo – đã cùng các Bác sĩ Nguyễn Văn Truyền, Đỗ Hồng Ngọc, Lê Trường Giang, Nguyễn Thanh Nguyên, Dương Đình Công… liên tục có những buổi họp hằng tuần tại nhà BS Nguyễn Văn Truyền ở Đakao để thiết kế chương trình trong đó có 3 tuần lễ gọi là “Nhập môn Sức khỏe cộng đồng” cả lý thuyết lẫn thực tập. Các sinh viên ngay từ bước đầu vào trường đã đựơc giới thiệu hệ thống y tế, đựơc tiếp cận cộng đồng, được đi tham quan các cơ sở phòng bệnh, chữa bệnh của Thành phố… và những bài học lý thuyết dựa trên phương pháp giáo dục chủ động. Cở sở thực tập cộng đồng chính là Chương trình Hiệp Phước với những thành quả rất đáng khích lệ, nhất là phương pháp tiếp cận dựa vào cộng đồng (community-based appraoch) đã được khẳng định.
Hai mươi mốt năm sau, sau khi đã có 15 “lứa” bác sĩ theo hướng đào tạo mới này ra trường, ngày 17.12.2010, một Hội thảo Đào tạo Y khoa định hướng Công đồng do Liên bộ môn Y học cộng đồng tổ chức tại Bình Quới nhằm xác định và làm rõ thêm nội dung “Mục tiêu đào tạo y khoa định hướng cộng đồng” (Community Oriented Medical Education) là cần thiết, cũng như nhằm đạt được sự đồng thuận về quan điểm trong Ban lãnh đạo và cán bộ giảng của trường Đại học y khoa Phạm Ngọc Thạch ngày nay.
Trong Hội thảo này có các báo cáo chủ lực của BS Dương Quang Trung: “Vì sao cần phải cải cách đào tạo y khoa và nên cải cách như thế nào?” và “Cải cách Giáo dục y khoa trong những năm gần đây”; BS Đỗ Hồng Ngọc với đề tài “Đào tạo Y khoa hướng về cộng đồng: Một nhu cầu thời đại”; TSBS Dương Đình Công: “Đạo tạo Y khoa định hướng cộng đồng” ; TSBS Nguyễn Thanh Nguyên: “Hướng về cộng đồng là gì, tại sao?” cùng các tham luận của Trương Trọng Hoàng, Kiều Minh Chữ, Nhữ Thị Hoa, Đào Thị Yến Phi, Trương Thìn…
“Vấn đề đặt ra là nếu đào tạo y khoa theo đường lối cổ điển, thì thông thường người thầy thuốc vốn chỉ quen làm việc và học tập trong bốn bức tường bệnh viện hoặc những cơ sở điều trị có khuynh hướng chữa trị bệnh nhân, ít chú trọng đến môi trường cộng đồng mà họ sinh sống…Điều này không có nghĩa là Đào tạo kinh điển không có giá trị nhưng nó không đáp ứng được một cách hợp lý và đầy đủ nhu cầu thật sự về chăm sóc sức khỏe của quần chúng một cách toàn diện trong tình hình hiện nay. Ngày nay người ta thường nói về sức khỏe chứ không chỉ chú trọng bệnh tật…” (Dương Quang Trung, Hội thảo Bình Quới 2010).
Dịp này, BS Dương Quang Trung đề ra mô hình Trường- Viện- Cộng đồng : “sự kết hợp giữa giảng dạy, hệ thống tổ chức y tế và cộng đồng là hết sức cần thiết để tăng cường chất lượng chăm sóc sức khỏe. Chúng ta rất cần những người thầy sức khỏe trên cơ sở đào tạo tốt những người thầy thuốc chuyên lo điều trị bệnh tật cho người dân.”.
Hội nghị “Chuẩn đầu ra và Chương trình đào tạo bác sĩ đa khoa hệ chính quy” của Trường ĐHYK Phạm Ngọc Thạch tổ chức ngày 27-28/11/2010 tại Long Hải đã giới thiệu mô hình “Chuẩn đầu ra” theo CANMEDS 2005 (Canada), theo đó, người bác sĩ hôm nay cần đạt những tiêu chí như là một:
Chuyên gia y khoa (Medical expert)
Nhà truyền thông (Communicator)
Người phối hợp (Collaborator)
Nhà quản lý (Manager)
Người vận động chính sách y tế (Health Advocate)
Một học giả (Scholar)
Một nhà chuyên nghiệp (Professional).
(Ottawa: The Royal College of Physicians and Surgeons of Canada. March, 2005,
Theo Phạm Đăng Diệu)
Nhìn lại Mục tiêu đào tạo của TTĐT và BDCBYT TP từ ngày mới thành lập (1989) nay là ĐHYK Phạm Ngọc Thạch là: “… nhằm đào tạo các “Bác sĩ tổng quát hướng về cộng đồng”, phục vụ cho sức khỏe và phát triển.
Sau tối thiểu 6 năm đào tạo, người bác sĩ tổng quát có khả năng:
1. Phát hiện, phân tích, phòng ngừa, điều trị, phục hồi những vấn đề sức khỏe của cá nhân, gia đình và cộng đồng.
2. Nâng cao sức khỏe cá nhân, gia đình và cộng đồng.
3. Quản lý các cơ sở y tế, các chương trình sức khỏe và sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên.
4. Có kỹ năng đào tạo, tự đào tạo và nghiên cứu khoa học.
5. Sử dụng được phương pháp cộng đồng và làm việc theo nhóm.
6. Góp phần nâng cao dân trí về phương diện sức khỏe.
7. Lượng giá một cách có hệ thống và thường xuyên.
Với mục tiêu này thì rất phù hợp với “Chuẩn đầu ra” của CANMEDS 2005. Thật đáng tiếc nếu người thầy thuốc tương lai được đào tạo chỉ biết khu trú trong bốn bức tường bệnh viện, chữa bệnh với những kỹ thuật cầu kỳ, tốn kém mà không biết coi trọng Phòng bệnh, Nâng cao sức khỏe cho cộng đồng, gắn Sức khỏe với Phát triển.
Nhớ năm 1988, tôi được BS Dương Quang Trung cử đi dự Hội nghị Đào tạo “Chuyên viên phát triển sức khỏe” tại Cairo, Ai Cập do Tổ chức Sức khỏe Thế giới (WHO) tổ chức. Khi về trình bày lại kết quả tại Sở Y tế thì BS Dương Quang Trung cho biết anh đã chuẩn bị xong việc thành lập trường Y của thành phố HCM, với mục tiêu đào tạo mới, phù hợp với định hướng này của WHO.
Tại Hội nghị quốc tế Cairo, 1988, WHO đã đề ra một chương trình đào tạo người thầy thuốc mới, gọi là “Chuyên viên phát triển sức khỏe” (Health Development Specialist), một loại “thầy thuốc tổng quát” có khả năng thực hiện “phát triển sức khỏe” cho cộng đồng chớ không chỉ chữa bệnh tật.
“Phát triển sức khỏe” được định nghĩa:
“… là một tiến trình làm thay đổi thái độ và một loạt các hành động, thực hiện trong một cố gắng có tổ chức nhằm tạo ra một tình trạng cân bằng và sảng khoái về thể chất, tâm thần và xã hội cho tất cả mọi người, mọi cộng đồng trong xã hội, trên các đặc trưng về chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội hiện có”.(T. Fulop).
“Chuyên viên phát triển sức khỏe” là người có khả năng lập kế hoạch phát triển sức khỏe, đề ra các chương trình, xây dựng kinh phí, tổ chức thực hiện, giám sát và lượng giá; phối hợp được các chuyên khoa khác nhau, lồng ghép với các chương trình phát triển; có kiến thức về Y tế công cộng, có khả năng và nghệ thuật lãnh đạo; nhạy cảm với các vấn đề chính trị, văn hóa, xã hội…; biết làm việc theo ê kíp và không chỉ là người thực hiện mà còn có khả năng tham mưu chiến lược.
Nhìn lại đính hướng này với mục tiêu đào tạo của TTĐT và BDCBYT Tp HCM (nay là trường Đai học y khoa Phạm Ngọc Thạch) thì hoàn toàn phù hợp và có tính sáng tạo, đột phá vậy.
(Saigon 2.2014)
February 20, 2014
Nhớ một người Thầy thuốc (2)
Chương trình Hiệp Phước,
Chương trình Săn sóc sức khỏe ban đầu toàn diện tại Tp.HCM
BS Đỗ Hồng Ngọc
Chương trình Hiệp Phước, một Chương trình Săn sóc sức khỏe ban đầu (Primary Health Care) toàn diện vừa là một Nghiên cứu khoa học, vừa là một chương trình hoạt động chiến lược của ngành, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội xã Hiệp Phước, huyện Nhà Bè Tp.HCM năm 1986 do BS Dương Quang Trung làm Chủ nhiệm cùng với “ê kíp” là một Ban Thư Ký gồm BS Đỗ Hồng Ngọc (Trưởng ban), BS Lê Trường Giang (Thường trực), BS Nguyễn Thanh Nguyên, BS Dương Đình Công, BS Nguyễn Ngọc Chiếu và KS Bùi Nguyên Thăng. Chương trình này đã trở thành một mô hình được nhân rộng cho toàn thành phố và một vài tỉnh bạn phía Nam.
Ngày 4 tháng 4 năm 1986, là ngày triển khai Chương Trình Hiệp Phước.
Tôi còn nhớ trên tấm bản đồ Thành phố HCM to đùng đặt ở T6Yhọc, nay là T4G (Trung tâm truyền thông – Giáo dục sức khỏe) nằm trong khuôn viên SYT, cả nhóm BTK cùng BS Dương Quang Trung thảo luận sôi nổi về việc chọn điểm, mục tiêu và các bước thực hiện, cách lượng giá Chương trình SSSKBĐ toàn diện tại Hiệp Phước. Gọi là “toàn diện” vì trước đó đã có những thí điểm từng phần ở Hốc Môn, Phường 6 Quận 4 và Phường 13 Quận 6… Tôi nhớ anh Tư nói nếu Hiệp Phước làm được thì có thể nhân rộng ra cho toàn thành phố và cả các tỉnh khu vực phía Nam không khó vì có nhiều điều kiện địa hình và kinh tế xã hội khá giống nhau.
Xã Hiệp Phước, huyện Nhà Bè được chọn vì đây là một xã cù lao, khó khăn, nghèo nhất thành phố lúc bấy giờ. Quả thực chương trình đã thành công và trở thành một mô hình, được nhân rộng khắp TP và sau này cũng là điểm thực tập cộng đồng cho sinh viên y khoa Trung tâm Đào tạo và Bồi dưỡng Cán bộ y tế Thành phố Hồ Chí Minh khi trường được thành lập vào năm 1989.
Chương trình Hiệp Phước triển khai bằng việc tác động tạo nên cái gọi là “cam kết chính trị” (political commitment) của địa phương, kể cả ở cấp xã và cấp huyện. Tiếp đó là một cuộc chẩn đoán cộng đồng (community diagnosic) trên 4 ấp của xã, chằng chịt sông ngòi, không chỉ để biết tình hình sức khỏe để can thiệp sau này mà còn tìm hiểu phong tục tập quan, đời sống kinh tế xã hôi của người dân, từ đó tạo ý thức tham gia của cộng đồng (community involvement) qua các buổi trình bày kết quả và thảo luận trực tiếp với người dân về các biện pháp can thiệp. Tiếp đó, mở một lớp huấn luyện Nhân viên sức khỏe cộng đồng (Community Health Workers) , gồm những người được tuyển lựa từ các ấp, do chính bà con chọn, đồng thời thực hiện các hoạt động giáo dục sức khỏe qua những đêm nói chuyện, chiếu phim, chiếu slides và triển lãm tại chỗ v.v… gây một không khí khá sôi nổi. Các buổi khám chữa bệnh cho người lớn và trẻ em được triển khai phối hợp liên chuyên khoa khá nhịp nhàng đem lại hiệu quả và ít tốn công sức.
Nhớ những buổi đầu tiên xuống Hiệp Phước phải đi đò qua kênh xáng vì chưa có cầu nối Long Thới với Hiệp Phước. Có lần xe ba gác chở đoàn từ bến đò vào trung tâm xã qua con đường đất lún, xe ba gác lật nhào hất anh Tư và mọi người té chõng gọng! Tôi kịp nhảy ra khỏi xe chụp một pô hình kỷ niệm. Sau này khi đã xây được cầu treo, nối Long Thới với HP để xe cộ qua lại dễ dàng, lần đầu tiên khi có xe hơi (ô tô) đến cù lao, bà con nói 60 năm nay mới thấy xe hơi đến HP như vậy!
Tình trạng y tế thay đổi rõ rệt, sức khỏe người dân được nâng cao, không còn cảnh đẻ rớt vì con nước, giảm tình trạng sốt rét, suy dinh dưỡng trẻ em… Tình hình kinh tế xã hội cũng được cải thiện. Những buổi đi ghe rảo quanh đảo, ghé thăm một số hộ gia đình chỗ này chỗ khác, vận động người dân tham gia luôn có mặt anh Tư. Một chương trình Giáo dục sức khỏe phòng chống Sốt rét được triển khai ngay sau đó.
Kết quả đã được báo cáo nhiều nơi. Một cuộc triển lãm khá quy mô về CT Hiệp Phước được tổ chức tại T6Y học do Đỗ Hồng Ngọc và Nguyễn Thanh Nguyên chịu trách nhiệm. Triển lãm không chỉ nêu thành tụu mà chủ yếu là nêu các nguyên tắc, các bước đi để thành một mô hình thực tiễn. Thật vậy, nội dung SSSKBĐ có thể thay đổi tùy tình hình của mỗi địa phương, hoàn cảnh kinh tế xã hội nơi đó nhưng các nguyên tắc căn bản cũng như phương pháp tiếp cận dựa vào cộng đồng (Community-based approach) mới chính là điều cốt lõi. Thực tế Ct SSSKBĐ trở thành một đòn bẫy, gắn Sức khỏe với Phát triển cộng đồng toàn diện về các mặt kinh tế văn hóa xã hội.
Sự thành công của Chương trình Hiệp Phước khá nổi bật khiến Bộ trưởng Bộ Y tế Đặng Hồi Xuân lúc đó, nhiều tổ chức NGO, Sở Y tế các tỉnh bạn lần lượt đến tham quan. Tại Hiệp Phước cũng đã tổ chức một Hội nghị tổng kết, rút kinh nghiệm nhằm nhân rộng mô hình. Thành phố HCM triển khai tiếp ở xã Tân Nhựt huyện Bình Chánh năm 1987 rồi lan dần ra các quận huyện khác.
Năm 1989, sau 3 năm thực hiện chương trình, Trung tâm Thông tin và Giáo dục sức khỏe đã ấn hành cuốn CHƯƠNG TRINH HIỆP PHƯỚC “Chương trình “điểm” Săn sóc sức khỏe ban đầu toàn diện tại một xã ngoại thành Tp.HCM” do BS DQT chủ biên cùng nhóm Thư ký Chương trình soạn thảo,đồng thời dựng một bộ phim lấy tên là “Chương trình Hiệp Phước” chiếu trên Đài Truyền hình và báo cáo tại Hội nghị Y tế toàn quốc.
Tập tài liệu mô tả đặc điểm tình hình y tế của Tp HCM lúc đó cùng nhu cầu đổi mới, thay đổi 5 Dứt điểm đã không còn phù hợp, nhằm đáp ứng nhu cầu săn sóc sức khỏe cho người dân. Các hoạt động bao gồm nâng cao chất lượng TYT xã theo hướng SSSKBĐ (10 nội dung), với các nguyên tắc tham gia cộng đồng, phối hợp liên ngành, và kỹ thuật học thích hợp, nâng cao năng lực tự trách nhiệm, tự quyết của cộng đồng nhằm tạo nên, bảo vệ và nâng cao sức khỏe người dân. Hiệp Phước trở thành nơi thực tập cộng đồng cho sinh viên y khoa của Trung tâm Đào tạo và Bồi dưỡng Cán bộ y tế Tp, nay là Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch.
Chương trình Hiệp Phước vừa là một Nghiên cứu khoa học, vừa là một chương trình hoạt động chiến lược của ngành, góp phần thúc đẩt sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương. Nội dung chương trình Hiệp Phước bao gồm Giáo dục sức khỏe, Dân số KHHGĐ, Dinh dưỡng, Môi trường và Nước sạch, Sức khỏe Bà mẹ trẻ em, Phòng chống dịch bệnh địa phương, Tiêm chủng mở rộng, Điều trị bệnh thông thường, Đảm bảo thuốc và trang thiết bị thiết yếu, Quản lý sức khỏe, Tăng cường mạng lưới Y tế cơ sở. Khống chế bệnh Sốt rét, bệnh đường ruột, suy dinh dưỡng trẻ em… Mở tủ thuốc dân lập. Lập chốt cấp cứu. Khám chữa bệnh và làm hồ sơ sức khỏe cho học sinh và thầy cô giáo.
Còn nhớ trong đợt chẩn đoán cộng đồng, một anh nông dân nói: “ Ở đây chẳng có gì vui, chỉ có nhậu và đẻ là vui mà thôi”! Có người còn nói ở đây không sợ sốt rét, vì đã có “mùng nếp” rồi. Mùng nếp ý nói là rượu nếp (rượu đế), uống say thì ngủ, mặc cho muỗi đốt! .
Chương trình tiếp tục nhân ra ở xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh (1987)
Chường trình Hiệp Phước còn làm đường, bắt cầu liên ấp, giải quyết tình trạng đi lại, đẻ rơi do con nước, lắp đặt hệ thống quạt gió phát điện sử dụng cho Trạm y tế, đào giếng bơm nước ngọt… Năm 1987 xây dựng cầy treo nối liền Hiệp Phước và Long Thới. Cung cấp hệ thống nước ngọt, đắp lại và mở rộng con đường duy nhất của xã ở ấp 1. Sửa chữa trường Mẫu giáo, trường cấp 1, 2 mở lớp 10 liên xã, mở quầy sách, tổ chức chiếu phim, phát thanh, mở cửa hàng Hợp tác xã thương nghiệp, giúp 900 mùng diệt muỗi, khai trương lò sản xuất gạch ngói, đặt đường dây điện Phú Xuân qua Long Thới, Hiệp Phước, mở rộng 136 ha trồng dừa, 36 ha nuôi tôm, gọi là “con tôm ôm gốc dừa”…
Tóm lại Chương trình SSSKBĐ toàn diện tại Hiệp Phước đã mang lại những thành quả đáng khích lệ, quan trọng nhất là tạo nên một mô hình thực tiển sinh động và làm nơi thực tập cộng đồng cho sinh viên.
Nhớ một người Thầy thuốc
Một vài kỷ niệm về BS Dương Quang Trung
BS Đỗ Hồng Ngọc
Tôi có nhiều kỷ niệm với bác sĩ Dương Quang Trung mà chúng tôi thường gọi thân mật là anh Tư Trung, hoặc đơn giản hơn, anh Tư. Những năm sau này – khi tuổi cao sức yếu, khi anh chỉ còn làm Chủ nhiệm Liên bộ môn Sức khỏe Cộng đồng ở Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch – mà tiền thân là Trung tâm Đào tạo và Bồi dưỡng Cán bộ Y tế Thành phố HCM (gọi tắt TTĐT) nơi anh là người sáng lập và cũng là hiệu trưởng đầu tiên – anh vẫn thường kêu riêng tôi đi cà phê để bàn vài “chuyện lớn”, như cách anh nói… Già yếu, ngoài tám mươi rồi, anh vẫn có một trí nhớ tuyệt vời, đầu óc sáng suốt kỳ lạ, đầy ắp những dự định cho tương lai.
Trước đó anh thành lập Viện Phát triển Sức khỏe Cộng đồng, rồi nay dự tính thành lập Khoa Y tế Công cộng và Y tế cộng đồng của ĐHYK PNT đồng thời triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học mới khi đề tài Phòng Khám tư vừa kết thúc. (Phát triển hệ thống y tế tư bên cạnh y tế nhà nước vốn là một trong những sáng kiến của anh, mang tính đột phá, thí điểm đầu tiên tại Tp HCM từ những năm 80, nhằm tháo gở tình trạng y tế và đáp ứng nhu cầu người dân của một thành phố đông dân nhất nước, mang những đặc thù riêng, sau này thành một chính sách chung cho cả nước.). Bây giờ anh vẫn đang tính triển khai tiếp một nghiên cứu về củng cố mạng lưới y tế cơ sở tại một quận nội thành làm thí điểm trong lúc đã ở tuổi 85. Anh hoạt động gần như không ngừng nghỉ cho đến khi mất.
Tôi nhớ có lần ngồi cà phê với anh tại quán của người cháu ngoại của anh, tôi có khuyên anh hai điều: một là có tuổi rồi, nên nghỉ ngơi thôi, và viết một cuốn hồi ký, chia sẻ kinh nghiệm cho đàn em, cũng như kể lại chuyện đời anh, một cuộc đời sôi nổi từ ngày học hành ở Pháp, tham gia phong trào sinh viên, rồi những năm tháng về Hà Nội, về miền Nam và nhất là giai đoạn khó khăn khi tiếp quản ngành y tế thành phố, cũng như thời phát triển hệ thống y tế tư nhân, triển khai Chương trình Săn sóc sức khỏe ban đầu (SSSKBĐ) thay thế cho chương trình 5 Dứt điểm không còn phù hợp, rồi hình thành Viện tim, TTĐT (trường Đại học y khoa) nhằm đào tạo thầy thuốc tổng quát hướng về cộng đồng… Điều thứ hai tôi khuyên anh là đã đến tuổi này anh nên thông qua truyền thông đại chúng làm “advocacy” đến các cấp Lãnh đạo, hình thành các chính sách y tế phù hợp, nâng cao y đức, cải thiện hệ thống, thực hiện triết lý nhân văn của SSSKBĐ v.v… Anh ngẫm nghĩ giây lâu rồi nói anh vốn là người hành động, phải làm chứ không thể viết hay nói. Tôi vẫn biết anh vốn là một người hành động, nhưng thực chất anh vẫn là một người suy tưởng giỏi, với những ý nghĩ táo bạo, có khả năng vận động ủng hộ, tổ chức phối hợp tốt, nhờ đó, trong thời điểm còn có những cơ chế cứng nhắc, phương pháp làm việc của anh tỏ ra có hiệu quả rõ rệt.
Anh Tư rất gần gũi với anh em. Tôi có dịp đi cùng anh về Hà Nội, Nha Trang và các tỉnh Nam bộ để dự hội nghị y học này khác tôi thấy anh rất gần gủi, chan hòa với anh em. Như có Hội nghị người ta bố trí cho anh chỗ ăn chỗ ở riêng với tư cách là Giám đốc Sở Y Tế Tp. HCM v.v… nhưng anh vẫn ăn ở chung với anh em trong đoàn như lần đi Hà Nội có Võ Thành Phụng, Đặng Phú Ân, Nguyễn thị Ngọc Phượng, Nguyễn Chấn Hùng, Nguyễn Văn Nghĩa v..v.. ; lần khác ở Nha Trang có Lê Thị Ngọc Ánh, Nguyễn Hải Nam, Trần Tấn Trâm… Lúc nào anh cũng bàn bạc, lấy ý kiến anh em để trình bày như một tiếng nói chung.
Nhớ khi tôi còn làm Trưởng Khu Cấp cứu và Phòng khám ngoại chẩn BV Nhi đồng, thời điểm đầu thập niên 80, có những vụ dịch Sốt xuất huyết, Viêm ruột hoại tử, Ngộ độc phấn rôm có Warfarine… hết sức căng thẳng, anh đã luôn sát cánh cùng chúng tôi. Ấn tượng sâu đậm với tôi là trong một Hội nghị Khoa học kỹ thuật tại BV Nhi Đồng 1 khoảng năm 1982, một đề tài nghiên cứu Thống kê về tình hình nhập viện và tử vong tại phòng Cấp cứu của một bác sĩ sơ bộ chuyên khoa Nhi do tôi đỡ đầu bị một giảng viên Đại học y được cho rằng đó không phải là nghiên cứu khoa học, vì theo ông thì nghiên cứu phải là một trường hợp lâm sàng, bệnh lý nào đó. Khi tổng kết, BS DQT, với tư cách GĐ SYT lại hết lời khen ngợi đề tài này, cho rằng nó giúp cải thiện cách tổ chức hệ thống y tế, cải thiện khâu nhận bệnh lọc bệnh, khâu chữa trị để hạ thấp tỷ lệ tủ vong và đẩy mạnh giáo dục sức khỏe thay đổi hành vi của người dân. Năm 1984 khi tôi thực hiện chương trình Săn sóc sức khỏe ban đầu cho Trẻ em (Primary Child Care) tại Phường 13, Q6, anh Tư theo dõi sát sao và hai năm sau, anh rút tôi về Sở, phụ trách Trung tâm Thông Tin – Tuyên truyền Y học ( T6 Y học, sau này đổi tên thành Trung tâm Truyền thông & Giáo dục Sức khỏe: T4G) để triển khai Chương trình Hiệp Phước, một Chương trình Săn sóc sức khỏe ban đầu (Primary Health Care) toàn diện do chính BS Dương Quang Trung làm Chủ nhiệm cùng với một Ban Thư Ký gồm BS Đỗ Hồng Ngọc (Trưởng ban), BS Lê Trường Giang (Thường trực), BS Nguyễn Thanh Nguyên, BS Dương Đình Công, BS Nguyễn Ngọc Chiếu và KS Bùi Nguyên Thăng. Chương trình này đã trở thành một mô hình được nhân rộng cho toàn thành phố và một vài tỉnh bạn phía Nam sau đó.
(còn tiếp)
February 10, 2014
Thư gởi bạn xa xôi…
Thư gởi bạn xa xôi…
Hôm nay còn “Mùng”, gởi bạn mấy tấm hình ngày Tết như đã hứa, dù chỉ là “cưỡi ngựa xem hoa”…:
Mùa ơi gió bấc nhớ không ngờ
Năm nay người có về ăn Tết
Có ngậm ngùi nghe chút ấu thơ…
(ĐHN)
Lứa tuổi bọn mình quả là chỉ nghe Tết khi có mùi gió bấc, nhất là gió bấc ở Phan Thiết, mang theo rất nhiều mùi đặc trưng: mùi cốm, mùi mứt gừng, mùi bánh tét, mùi măng khô, và mùi… nước mắm!
Nói nước mắm, nhớ bánh căn, nhớ bánh canh cá, nhớ chè… Mộng Cầm Phan Thiết quá! Không biết ông giáo già có còn đêm đêm mang chè đến từng bàn cho khách – có những khách là học trò của ông- nữa không? Ông giáo thật dễ thương! Cũng nhờ ông nhắc mà năm xưa mình kịp gởi bài cho trường Phan Bội Châu kỷ niệm 60 năm ngày thành lập.
Tính về Phan Thiết từ 25 Tết nhưng chỉ ghé về nhà Ngoại ở dưới chân núi Tà Cú, cúng xong, quay về Lagi thăm bà con, rồi trở lại Saigon trong ngày. Nhờ có đoạn đường cao tốc Saigon-Long thành nên đi cũng tiện. Về Lagi cũng chỉ ghé thăm ngôi nhà cũ, trước sân bán đầy hoa cúc, ghé thăm Dì Hai, đã 101 tuổi và chị Ba Oanh 83 tuổi. Thấy ai cũng già mới sực nhớ hóa ra mình cũng đã già mà không hay!
Nhà cậu Năm xơ xác từ ngày cậu mất nhưng lúc này may có Bin, đứa cháu gọi mình bằng cậu trông nom nhà tự, làm vườn. Nhà bỗng vui, rộn ràng, xum xuê… Bin nói vợ mới sanh bé trai kháu khỉnh, chó trong nhà cũng vừa đẻ ba con, năm chục cặp bồ câu vừa đẻ, vừa ấp, vừa gù gù, vừa ra ràng, thanh long sai trái, đỏ rực và cây khế ngọt trước sân rải đầy vàng trên thảm cỏ xanh… Vậy là vui, vậy là sung túc. Mình dặn Bin nói Ba Mẹ nhớ trồng lại hàng cau, mấy cây dừa và đừng bỏ cái giếng, chỉ cần kiểu lại là có nước trong xanh, ngày xưa cả xóm đến gánh nước về uống…
Chiều 28 Tết, đi Đường hoa (Nguyễn Huệ, cầu Ánh Sao…), Đường sách. Năm nay đặc biệt cảnh “trên bến dưới thuyền” nhộn nhịp ở bến Bình Đông rất hay, ghe các tỉnh chở hoa về Saigon dày đặc, không biết có bán đủ sở hụi không vì người đi “coi rất nhiều mà mua chẳng bao nhiêu”…
Ở Đường sách, thấy có bày bán một số sách của mình và có người nhận ra mình đến… xin chữ ký! Mình lang thang ra bờ sông Saigon một mình, ngồi làm một ly cafe và nhìn dòng nước chảy… Nhớ Nguyên Sa: hãy đưa tôi ra bờ sông/ để tôi nhìn dòng nước chảy/ nhìn tôi bơ vơ… Rồi từ bờ sông lội bộ dọc đường Đồng Khởi (Tự Do) lên đến nhà thờ Đức Bà nghe thiên hạ đón Xuân sang…!
Chiều 29, Trần Đình Sơn và Hoàng Anh mời đến nhà vui Tất niên. Không ngờ đông quá. Gặp tài tử điện ảnh KC, nhà thiết kế thời trang MH, nhà thơ TNHK, nhà văn NTNH, nhiếp ảnh gia Đào Hoa Nữ, và đặc biệt được nghe nghệ sĩ Hải Phương độc tấu đàn tranh. GS Trần Văn Khê cùng Hải Phương hợp tấu thơ nhạc, rồi bác sĩ ca sĩ Lê Hành hát… “Con thuyền không bến” với tiếng đàn Hải Phượng!
Cũng chiều 29, được một cú phone chúc Tết từ thầy Thích Thông Luận ở Long Hải. Thầy bảo vừa xem DVD “Đến để mà thấy” của ĐHN hay quá nên… chúc mừng! Bạn nhớ thầy Thông Luận chứ? Rất nghệ sĩ. Năm xưa thầy tìm mình chỉ để bảo thầy thích câu chuyện mình viết về mối tình của Hải Thương Lãn Ông. Gần đây thầy có dịp đi Úc, nghe nói có người hỏi lúc này thầy còn ở Chùa Khỉ không? Thầy trả lời không, khỉ ở chùa Thầy chứ! Thì ra chùa thầy mỗi trưa có hằng trăm con khi đến xin ăn, thầy nuôi bầy khỉ nên người ta đặt tên là Chùa Khỉ!
Dĩ nhiên mấy ngày Tết mình cũng có đi chùa. Chỉ để ngắm và để truyện trò. Ghé thăm thầy Viên Minh ở Bửu Long “đàm đạo” cả giờ rồi ghé Thầy Đồng Bổn ở chùa Xá Lợi để gặp nhiều bạn bè rất vui.
Sáng Mùng 1 thì có con cháu về. Cúng Ông Bà tổ tiên.
Rồi chiều có mấy học trò thân tình đến thăm, có hai em là bác sĩ, hai em còn đang học Y4, Y5. Lấy cho mỗi em một “quẻ Dịch” đầu năm cho vui như thường lệ. Không ngờ mấy nhỏ nói “trúng lắm, trúng lắm!”.
Mùng 6, theo lời mời của nhà thơ Trần Thiện Hiệp ở Thủ Đức nên mình cùng bạn bè về thăm anh rất đông. Đa số là cựu học sinh “lão thành” Phan Bội Châu, một số nhà thơ, nhà văn, họa sĩ… Trần Thiện Hiệp vừa qua cơn bạo bệnh, tổ chức “ăn nhậu” một bữa tưng bừng để cảm tạ anh em. Chị Lệ Hiền vợ anh hát, ngâm thơ, nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên đàn, rồi Thiếu Khanh, Huỳnh Tấn Thời, Đỗ Hồng Ngọc, Trần Thiện Bật, Nguyễn Văn Chương, Đoàn Thuận, Võ Hiếu Nghĩa…
Thôi vắn tắt vậy nhé. Còn bạn, ăn Tết ra sao?
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
February 9, 2014
TỰA: Thơ tình với Saigon
TỰA: Thơ tình với Saigon
của Ngô Thị Hạnh ( Nxb TN, 2014)
Đỗ Hồng Ngọc
Saigon nó lạ. Nó hút người ta như nam châm. Ghét nó mà không rời nó được; thương nó mà không gần nó được. Đôi khi nó hững hờ, đôi khi nó quấn quít. Nó nắng đó rồi mát đó “nắng saigon anh đi mà chợt mát…” (Nguyên Sa), nó con đường đó rồi dòng sông đó: “phố bỗng là dòng sông uốn quanh…” (Trịnh Công Sơn)… Cho nên người ta khó mà làm thơ cho Saigon, nhất là thơ tình như cho Huế cho Hà Nội. Saigon ồn ào, Saigon hồng hộc, Saigon huych toẹt, Saigon toang hoắc, và… Saigon tự do.
Sống và lớn lên ở Saigon có khi người ta ngơ ngác:
phần hồn không lo phần xác không lo
không ai tự hỏi
ta sống vì điều gì
thứ gì đang trói buộc ta?
Hỡi ôi,
chết khi đang còn thở
có gì vui?
Chết khi đang còn thở? Vui chứ! Mấy cái lô cốt quỷ quái bày trận mạc khắp các nẻo đường thoát ẩn thoát hiện, cũng chỉ để cho những người tình vẽ cho nhau tấm bản đồ để tìm nhau:
Em vẫn thường không đúng giờ đã hẹn
với lý do lô cốt đổi thay hoài
thuộc lô cốt đường này, đường kia đã mọc
bản đồ tình yêu nay lại khác rồi…
Lô cốt bỗng trở thành cái cớ, chỉ là cái cớ. Khi chưa kịp có lô cốt ở ngoài đường thì đã có lô cốt ở trong lòng: bản đồ tình yêu nay lại khác rồi…
Vì sao? Vì mỗi trái tim đều có mánh khóe riêng:
Em biết rồi mánh khóe của trái tim
anh và phố không thể nào tách biệt
như hơi nồng trong khoảng áo đêm sương.
… Vậy là rõ nhé: Anh chỉ là một kẻ ăn theo. Ăn theo cái phố, cái hẻm. Cái phố đó, cái hẻm đó, nó buộc người ta trờ tới hoặc quành lại, buộc người ta đi đi về về mà không ý thức. “con hẻm gầy làm nên hồn của phố”.
Nhưng saigon đáng yêu bởi:
Dăm ba đứa dù điên khùng đến mấy
vẫn có kẻ tay cầm, vẫn có đứa cầm tay…
bởi Saigon nó vậy:
Bạn cứ hát những câu nào bạn thích
cứ nói về những phố vắng phố đông
những nhạc sến nhạc sang nhạc vàng nhạc đỏ
cả Sài Thành ngây ngất chẳng liên quan
Phải. Ngây ngất mà chẳng liên quan. Không cần phải đóng kịch. Nó chân thật:
làm việc ở Sàigon không cần nữa cả thói quen?
mỗi ngày mỗi khác
quán vỉa hè toang hoác những vào ra
Không cần nữa cả thói quen… bởi nó luôn thay đổi, và quán vỉa hè toang hoác những vào ra là tấm lòng rộng mở, đón chào, mời mọc cho kịp một thời đại đổi thay!
Trong cái nồng cháy, náo nhiệt, ồn ào đó, lại là sự cô đơn, vắng lặng của tự do: ”Giữa rừng người không quen biết, tôi rên siết hạnh phúc vì không ai nhận ra mình..”. Không ai nhận ra mình quả là một hạnh phúc. Mỗi người là một thế giới riêng tư, tôn trọng lẫn nhau. Nó khác cái cô đơn của thời “Tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ” (Thanh Tâm Tuyền) ngày cũ.
Và trong cô đơn người ta rộng mở:
Đôi khi Sài Gòn em đi lạc
bỗng thấy lòng bớt chật hơn
Rồi như một lời tự dặn mình: Không làm khó cao ốc chẳng biết buồn, nghe nhỏ. Tôi thấy lòng mình cảm động:
mốc meo một nỗi mưa sầu
cái đầu tạm rỗng
cùng cao ốc rỗng
cho ta đời sống khác, cơm áo khác, hơi thở khác
không làm khó cao ốc chẳng biết buồn
nghe nhỏ!
Cảm giác một tâm hồn bị nhốt kín trong bốn bức tường cao ốc, như những bầy ong mật bay đi bay về, khiến người ta đau đáu mối tình quê, mái tranh nghèo, cây cầu khỉ, khói lam chiều sau lũy tre xanh… ở đó là mẹ gìa, là em thơ:
vết sẹo mang hình lá lúa
tàn úa những linh hồn góa bụa đất quê
bỗng nhớ làng nhớ nước nhớ bờ ao
lao xao trên đường lạ…
Nhưng ở thơ Ngô Thị Hạnh người ta còn thấy ươm mầm Phật tánh. Tự vấn là một cái nhìn về Tứ đại: Đất, Nước, Gió , Lửa trong tấm thân ngũ uẩn này.
Lửa ấm nhưng…chưa thành ấm áp, nước thì chưa từng linh hoạt, đất thì chưa thể nhu mì, gió …đã tự do chưa?“…. Đó là những câu hỏi nao lòng trên con đường kiếm tìm mải miết…
Bởi những tham sân si nghi kiến mạn vẫn còn đó, ở trái tim thi sĩ:
mỗi ngày tập cho em đau, cho em ghen, cho em nhục…
em chìm vào thế giới của người say…
ngỡ mình tỉnh nên uống đầy mật đắng
Đã thấy vô thuờng, đã thấy duyên sinh, nên biết đâu từ đó mà nhìn ra chân không diệu hữu:
„Anh đừng khát đừng đắm đừng say nắng
Điều em cần là một tấm tình chân…
em chấp nhận xem mình như người lạ
bốc hơi không dấu vết
để một lần
em được tái sinh…
Để cuối cùng đành phải “Đối diện“ với chính mình thôi. Quay về nương tựa chính mình thôi, trong cõi mênh mông:
Tôi ngồi xuống và viết viết viết
chắng có một tôi nào ngồi đó
mọi thứ như không-mềm nhũn nhũn nhũn
Tôi nằm xuống và yêu yêu yêu
nỗi nhớ thân xác nỗi nhớ mất xác
Tôi rơi xuống và đau đau đau…
Với những hình ảnh đẹp trong thơ:
Mưa gõ đều trên mái nhà cũ
anh gõ vào tôi những chần chừ
miền xưa rách toác…
******
Thơ Ngô Thị Hạnh chân thật, không kiểu cách, làm dáng, cho nên với tôi nó gần gũi, và gần gũi cả với xa xưa. Gần ngàn năm trước, Chu Hy (1130-1200) viết trong Bài Tựa cho tập Kinh Thi khi có người hỏi ông: Thơ tại sao mà làm ra? (Thi hà vi nhi tác dã?), ông bảo đó chính do nỗi lòng, do “động tâm“ mà ra: “…đã có muốn thời phải có nghĩ, đã có nghĩ thời phải có nói, đã có nói thời những cái ý nhị không thể nói hết ra được mà hình hiện ở trong lúc ngậm ngùi ngợi than, tự nhiên tất phải có những giọng điệu cung bực, như không thôi đi được. Ấy tại thế mà sinh ra có thơ“ ( Tản Đà dịch).
Đọc thơ người xưa, thấy tựa bài thơ đã tuồn tuột hết nỗi lòng: “Đêm đông chí ở Hàm Đan nhớ nhà“ ; “Đáp lòng tiễn biệt của ông cậu thứ mười một trong bữa tiệc…“; “Các bạn cũ quê nhà ngẫu nhiên gặp nhau trong quán khách“; “Ngày mồng 9 tháng 9 nhớ các anh em ở…“
Thơ nó huỵch toẹt vậy, không cầu kỳ bí hiểm đánh đố. Nó trần trụi bày biện tuốt luốt vì chẳng có gì phải giấu giếm! Vậy thì cái gì đọng lại sau thơ? Cái tình. Cái đó mới “thốn tâm thiên cổ“? Nó mới làm ta rung động sáu cách: nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, ngàn xưa ngàn sau…!
Đọc Thơ tình với Saigon, thấy Ngô Thị Hạnh ghi ở cuối bài thơ những câu có khi là “Cà phê vỉa hè Kí Con những ngày tháng Tư“; “Sáng công viên Tao Đàn“; “Hẻm 47, chiều“; có khi là “Cao ốc văn phòng quận 3 ngày không có gió“; “Sân thượng nhà 124 Trần Quang Diệu“; “Hẻm phường Cô Giang quận nhất“… Tôi chắc Ngô Thị Hạnh không phải bắt chước người xưa chi đâu, chẳng qua là cái “lòng“ thơ nó vậy! Người xưa ghi ở cái tựa thì nhà thơ trẻ hôm nay ghi ở cuối bài… ! Thấy cái tình, cái ý, ngồn ngộn chứa chan “như không thôi đi được“! Ấy tại thế mà sinh ra có thơ“ (Thử thi chi sở dĩ tác dã)!
Bèn có mấy lời về Thơ tình với Saigon này vậy.
Đỗ Hồng Ngọc
(Saigon, 9.2013)
Đỗ Hồng Ngọc's Blog
- Đỗ Hồng Ngọc's profile
- 12 followers

