Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 117
September 7, 2014
Thư gởi bạn xa xôi: “Mới hôm qua thôi”
Sg 7.9.2014
Thư gởi bạn xa xôi,
Bạn ơi, thật bất ngờ, bài thơ “ Trong một nhà giữ lão ở Montreal” mình viết từ 20 năm trước ở Canada bỗng nhiên mới đây được nhạc sĩ Vĩnh Điện rồi nhạc sĩ Võ Tá Hân phổ nhạc gần như cùng lúc, cùng lấy tên là “Mới hôm qua thôi”! Bài hát được phổ biến rất nhanh trong cộng đồng người… có tuổi thì phải! Nếu bài của nhạc sĩ Vĩnh Điện nghe xót xa, nhức buốt qua tiếng hát của Vũ Hoành thì bài của nhạc sĩ Võ Tá Hân nghe sâu lắng, ngậm ngùi qua tiếng hát khàn đục và tiếng đệm đàn của chính anh…!
Sáng nay lại có email của Lê Tuấn gởi về tặng bản dịch tiếng Anh bài thơ này nữa!
Nên, không thể nào không chia sẻ cùng bạn ở đây!
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc
Xin mời nghe Mới Hôm Qua Thôi, nhạc Võ Tá Hân / thơ Đỗ Hồng Ngọc
https://mail.google.com/mail/u/0/?tab...
Lê Tuấn
2014-09-07 2:30 GMT+07:00
Xin gửi tặng BS bài thơ Mới Hôm Qua Thôi (?) tôi mạn phép dịch sang Anh Ngữ sau khi đọc và thấm thía.
Kính chào Bác sĩ.
Lê Tuấn
Trong một nhà giữ lão ở Montréal
Đỗ Hồng Ngọc
Bản dịch của Lê Tuấn
Họ ngồi đó They sit there
Bên nhau Side by side
Đàn ông Men
Đàn bà Women
Không nhìn Without looking
Không nói Or talking
Họ ngồi đó They sit there
Gục đầu Hanging their heads
Nín lặng Silent
Ngửa cổ Craning their necks
Giật nhẹ tay chân Their limbs slightly jerk
Có người Some
Trên chiếc xe lăn In a wheelchair
Chạy vòng vòng Going round
Có người Some
Trên chiếc xe lăn In a wheelchair
Bất động Motionless
Họ ngồi đó They sit there
Hói đầu Their hairline receded
Bạc trắng snow-white
Móm sọm Sunken-cheeked
Nhăn nheo Wizened
Mới hôm qua thôi Only yesterday
Nào vương They were kings
Nào tướng Or generals
Nào tài tử Movie stars
Nào giai nhân Or beauties
Ngựa xe On horse-driven coaches
Võng lọng Carried in hammocks – shielded with parasols
Mới hôm qua thôi Only yesterday
Nào lọc lừa There were deceits
Nào thủ đoạn Tricks and scams
Khoác lác Boasting
Huênh hoang Bragging
Mới hôm qua thôi Only yesterday
Nào galant There was gallantry
Nào qúy phái Nobility
Nói nói Bantering
Cười cười Laughing
Ghen tuông Jealousy
Hờn giận Sullenness – Anger.
Họ ngồi đó They sit there
Không nói năng Neither talking
Không nghe ngóng Nor listening
Gục đầu Hanging their heads
Ngửa cổ Craning their necks
Móm sọm Sunken-cheeked
Nhăn nheo wizened
Ngoài kia Out there
Tuyết bay The snow flakes fall
Trắng xóa White
Ngoài kia Out there
Dòng sông The river
Mênh mông Flows
Mênh mông… And flows….
Đỗ Hồng Ngọc
(Montréal, 1993)
Đỗ Hồng Ngọc trả lời:
2014-09-07
Re: Mới Hôm Qua Thôi
To: Lê Tuấn
Lê Tuấn ơi,
Rất cảm động. Không ngờ thế giới phẳng này làm cho mọi người gần gũi với nhau đến vậy.
Không ngờ từ những năm đầu thập niên 70, bạn đã dịch và diễn những vở kịch của những tác giả mà mình rất yêu thích: Chuyến Xe Dục Vọng (A Streetcar Named Desire) của Tennessee Williams, Mưa (Rain) của Somerset Maugham, Những Đứa Con Tôi (All My Sons) của Arthur Miller, và Dục Vọng Dưới Tàn Du (Desire Under The Elm) của Eugene O’Neill.
Bài thơ “Trong một nhà giữ lão ở Montreal” – là những “ghi nhận” mà không cần “cảm nhận” của mình, để thấy một Như Lai… lạnh lùng băng giá – đã được bạn chuyển dịch toát hết ý tưởng đó. Đa tạ. “Tôi xin đa tạ”.
Chắc không ai “thấm thía” bài thơ này hơn Lê Tuấn: “nào bích thủy / nào thanh lan…”… những người bạn diễn cùng Lê Tuấn ở Saigon ngày nào trong phim ảnh, trong kịch nghệ!
Ôi, đúng là mới hôm qua thôi!
Thật ngạc nhiên, bài thơ… kỳ cục này được đến hai nhạc sĩ phổ nhạc gần như cùng lúc, mỗi người một nét riêng tuyệt vời. Nếu Vĩnh Điện xót xa, nhức buốt thì Võ Tá Hân sâu lắng, ngậm ngùi!
Lê Tuấn đã dịch sang tiếng Anh bài thơ thì có lẽ cũng nên “thấm thía” thử dịch lời Anh cho 2 bài hát xem sao nhé!
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
PS: À, mình không viết “Trong một nhà dưỡng lão…” mà viết “Trong một nhà giữ lão…”, nhưng có lẽ nên gọi là Mới hôm qua thôi thì đạt hơn.
September 1, 2014
Đọc “Tôi về đứng ngẩn ngơ” của Đinh Cường
Ghi chép lang thang: Đọc “Tôi về đứng ngẩn ngơ” tập tranh/thơ của Đinh Cường, Quán Văn 2014
31.8.2014
Đinh Cường ơi,
Hôm nay tôi mới nhận được tập “Tôi về đứng ngẩn ngơ”… từ Nguyên Minh!
Quá đẹp. Bèn ngẩn ngơ viết mấy dòng gởi ông để kỷ niệm.
Không phải thơ tân hình thức chi đâu. Tôi viết “cảm nghĩ” linh tinh của mình trên máy vi tính rồi left-right margin kéo tới kéo lui cho vui thôi.
Con út tôi bày cách chuyển qua PDF gì đó trước khi gởi ông cho nó khỏi chạy chữ tá lả như NM nói!
Thân mến
DHN.
31.8.2014
Thân gởi Đỗ Hồng Ngọc,
Nhận được bài bấm ra đọc, cảm động lắm. Như có hồn người xưa, những vị thiền sư, đạo sĩ . những thi bá
Cảm nghỉ của bạn là hàng châu ngọc. Sáng Chủ Nhật, vừa đi bộ bên Starbucks về. Và sẽ ngồi vẽ … Nhớ bạn
Chúc an vui,
Dinh Cuong
đinh cường đứng ngẩn ngơ…
Bìa tập tranh/thơ TÔI VỀ ĐỨNG NGẨN NGƠ do Quán Văn xuất bản 2014
tặng Đinh Cường
“có người hỏi rằng thơ tại sao mà làm ra, ta giả
nhời rằng người ta sinh ra mà tĩnh là cái tính
giời cho, cảm ở vật ngoài mới động, thời ấy mới
là sự muốn của tính. đã có muốn thì phải có nghĩ,
đã có nghĩ thời phải có nói, đã có nói thời những
cái ý nhị không thể nói hết ra được mà hình hiện
ở trong lúc ngậm ngùi ngợi than… như không
thôi đi được. ấy tại thế mà có thơ” (kinh thi)
bạch cư dị trên tiệc rượu ngày trùng dương vịnh
hoa cúc trắng; đêm đông chí ở hàm đan nhớ
nhà; từ giang lăng qua từ châu dọc đường gửi
cho anh em. mạnh hạo nhiên ngày hè ở đình
phương nam nhớ anh cả tân. vương xương linh
trên lầu phù dung tiễn tân tiệm. hứa hon nhân
thấy có người tìm chỗ ở không được rồi qua
chơi đất nghiêm lũng nên đề bài thơ này. tào
đường lưu nguyễn lại đến thiên thai không gặp
các nàng tiên nữa… [1]
đinh cường “tôi về đứng ngẩn ngơ” đoạn ghi
ngắn nhớ ngày mai 15 tháng 3 sinh nhật cháu;
cho con dốc sâu xuống thân trọng điền trang;
thăm những nhà ga sắp hồi sinh; thức dậy ngồi
im trong đêm khuya; nhớ về mùa hoa xương
rồng nở khoan hãy nói lời từ biệt; tạm biệt
saigon lần nào cũng mưa chiều nặng hạt; bài
tặng người bạn thiết vẫn nằm ngủ có mùng che;
từ dalat thuê xe taxi cùng bửu ý về thăm sơn núi
ở đại lào; sáng dậy có mấy câu tặng lữ quỳnh
trước khi bạn về saigon; ghi dăm câu trên
napkin như sớ táo quân, hề chi, khi nhớ về tình
bạn… [2]
vậy đó. ngàn năm trước ngàn năm sau. vẫn hình
hiện ở trong lúc ngậm ngùi ngợi than… như
không thôi đi được… qua những note đinh
cường đứng ngẩn ngơ…
đỗ hồng ngọc
………………………………………………
[1] tên tác giả cùng tựa các bài thơ Đường
[2] tựa các note của đinh cường trong cuốn “tôi
về đứng ngẩn ngơ” (2014)
Phương nào
Người về ngẩn ngơ
sơn dầu trên giấy bìa 10×14 in
đinhcường 31-8-2014
gởi Đỗ Hồng Ngọc
Vậy đó. ngàn năm trước ngàn năm sau
chỉ nghe Không Lộ hú dài tiếng thơ
hữu thời trực thượng cô phong đỉnh
trường khiếu nhất thanh hàn thái hư
Tỳ Bà Hành. nhớ năm lớp đệ tam đã học
Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách.
Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu
Bạch Cư Dị đìu hiu. sương mờ. khói tỏa
nhưng làm sao không nhớ Nguyễn Trãi
Đoản trao hệ tà dương. Thông thông
yết thượng phương. Chiều về cột mái chèo con.
Phăng phăng cất bước lên non thăm chùa [1]
La Gi. bờ biển trắng ngà. mấy con thuyền
bạn vẽ. sao nhớ hoài Đỗ Hồng Ngọc ơi
vậy đó. ngàn năm trước ngàn năm sau
người xưa. chốn cũ bây giờ ngẩn ngơ
khi về nhìn ngọn núi kia. mây bay trắng quá
nhà then cửa gài. người đi xa. tận phương nào…
Virginia, Aug 31, 2014
Đinh Cường
[1] Võ Đình dịch
August 30, 2014
Phẩm 10 kinh Pháp-Hoa: “PHÁP SƯ”
23/ 08/ 2014
Thư gởi bạn xa xôi,
Biết thế nào bạn cũng đặt câu hỏi này mà !… Như đã nói ở thư trước, gần đây tôi thường thích lang thang đến các chùa chủ yếu để ngoạn cảnh, để nghe chuông, và gặp dịp thì trao đổi với các Thầy, cùng gặp gỡ bạn bè đàm đạo cũng hay. Gần nhà có chùa Xá Lợi, nơi còn khá nhiều cây cao bóng cả (sáng sáng thường có cà-phê, trà, bắp, khoai…) và đặc biệt thứ Bảy thì có một lớp học của Ban nghiên cứu Phật học về một cuốn kinh sách nào đó. Hiện các bạn đang học cuốn Pháp hoa huyền nghĩa của Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền. Tôi tình cờ đến gặp lúc các bạn đang thảo luận về phẩm thứ 10 của kinh Pháp hoa, phẩm PHÁP SƯ. Biết tôi có viết cuốn Ngàn cánh sen xanh biếc, thấp thoáng về kinh Pháp-hoa, các bạn yêu cầu tôi đóng góp thêm ý kiến. Tôi bèn đặt mấy câu hỏi về phẩm Pháp Sư này, dựa trên Pháp hoa huyền nghĩa và đề nghị các bạn thử « nghiền ngẫm » trả lời xem sao.
Nay xin chia sẻ cùng bạn vậy.
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
10 câu hỏi cho Phẩm 10 kinh Pháp Hoa: PHÁP SƯ
1. Tại sao Pháp sư được coi là người « phiên dịch » ? (L ‘Interprète, theo Burnouf)
2. Tại sao phẩm này Phật lại nói với Bồ tát Dược Vương mà không phải một vị Bố-tát nào khác? (mỗi phẩm trong Pháp-hoa dành nói với một vị Bồ-tát khác nhau).
3. Tại sao khi Phật đã diệt độ rồi vẫn còn thọ ký được? Thọ ký có ý nghĩa gì ? Tại sao chỉ cần một câu kinh, một kệ… của Pháp-hoa cũng đủ để được thọ ký?
4. Tại sao gọi Pháp sư là sứ giả của Như Lai?
5. Tại sao chê mắng Phật tội nhẹ hơn chê mắng người tại-gia hay xuất-gia đọc tụng kinh Pháp-hoa?
6. Tại sao nói Pháp-hoa « khó tin, khó hiểu nhất » trong vô lượng kinh của Phật? Tại sao nói Pháp-hoa là “kho tàng bí yếu” của chư Phật ? Tại sao chư Phật lại giữ-gìn từ xưa đến nay không nói ra ?
7. Tại sao bảo kinh Pháp-hoa « không nên chia sớt trao đưa một cách bừa bãi » ?
8. Tại sao kinh này bị oán ghét ngay khi Phật còn đang hiện tại ?
9. Tại sao nơi nào có người thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói kinh Pháp-hoa, hoặc chỗ nào có kinh này, thì nên dựng tháp cao bảy báu mà thờ, nhưng trong lòng tháp khỏi để xá lợi?
10. Tại sao điều kiện « ắt có và đủ » để có thể làm Pháp sư là phải vào nhà Như-Lai, mặc áo Như-Lai, ngồi tòa Như-Lai ? Ý nghĩa của « vào nhà », « mặc áo », « ngồi tòa » là gì ? Tại sao không nói « vào nhà Phật, mặc áo Phật, ngồi tòa Phật » ?
(ĐHN)
Viết thêm: Lúc ra về, gặp Hòa thượng Hiển Tu, nay đã 93 tuổi, trụ trì chùa, tôi chào Thầy và hỏi « Thầy đã nhận được sách con gởi chưa ? ». Thầy cười tươi nói « Đọc rồi, hay lắm, hài hước nữa, rất vui ! ». Đó là cuốn Gươm báu trao tay hôm nọ thầy hỏi và tôi đã nhờ chị DC, thư viện gởi tới Thầy.
August 27, 2014
ĐINH CƯỜNG: Rosée 1 và Rosée 2
Ghi chú: Lữ Kiều – Thân Trọng Minh là một bác sĩ nhưng trước hết là một nhà văn, một họa sĩ, một người viết kịch… từ những ngày còn rất trẻ. Chúng tôi học cùng trường cùng lớp ở đại học y khoa Saigon, rồi cùng làm báo, viết lách, vẽ vời… từ ngày xa xưa đó. Vài hôm trước, từ Nha Trang, anh gọi về kêu tôi phác cho anh vài bức… chân dung để chèn vào tập thơ sắp in nay mai cho vui, tôi nguệch ngoặc liền mấy nét. Vẽ Thân Trọng Minh quả là không dễ. Hắn có cái đẹp trai đáng chán, không góc cạnh, không xù xì, râu ria… như Phạm Văn Hạng hay Khuất Đẩu… May thay, hơn nửa thế kỷ là bè bạn, tôi biết rõ cái tánh khinh bạc, hào hoa, trầm tư, bẽn lẽn, nhiệt thành… của chàng! Ai ngờ chàng kêu được lắm, được lắm! Đinh Cường, người bạn chung của chúng tôi bên kia nửa vòng trái đất xem bỗng nhớ thuở Couvent, Domaine, thuở như cánh vạc bay, như rừng quỳ vàng dại… đã viết mấy dòng này gởi về.
Thôi thì, chia sẻ giữa chốn thân quen!
Đỗ Hồng Ngọc.
ROSÉE
Người ngồi trên chiếc ghế cũ kỹ 2
oil on canvas 30 x 30 in
đinhcường 8 – 2014
Gởi Thân Trọng Minh,
Những hạt sương mai còn đọng trước mấy bậc thềm nhà.
mấy bậc thềm nhà hoang vắng miền Great Falls. nơi Minh
và tôi ngồi từ ngày khu nhà cao tầng World Trade Center
bị quân khủng bố al – Qaeda đánh phá. Minh và Hằng kẹt
máy bay phải ở lại. mới đó mà đã mười ba năm…
Thời gian như ngút ngàn, và những hạt sương vẫn mãi mỗi
đêm còn rơi để sớm mai đọng trên mấy bậc thềm đá cũ
Rosée. Rosée. tiếng gọi thì thầm từ thuở xa khuất nào chưa
mất dấu. với mái tóc đen xõa trên hai bờ vai thon, đôi mắt
tròn đen. người con gái sống trong nhung lụa. cha là một vị
tướng có đồn điền bạt ngàn cà phê trên Ban Mê Thuột, bây giờ
vẫn còn những thân nhân ở đó .
Và tôi vẽ chân dung Rosée đẹp hơn bao giờ. Rosée còn giữ.
Để nhớ thời 16 tuổi với mối tình đầu cùng anh chàng mê
văn chương sau này là bác sĩ chuyên về tim mạch rất giỏi
cùng với hai người bạn bác sĩ khác Đỗ Hồng Ngọc về nhi đồng,
về y tế cộng đồng. Trương Thìn nghiên cứu đông y châm cứu
lừng danh. nay Thìn đã mất. còn hai người bạn tài hoa kia.
viết và vẽ. và Phật pháp đều thâm sâu. tôi ngả mũ chào…
Nhìn hai phác họa mấy nét Thân Trọng Minh của Đỗ Hồng Ngọc
mới gởi và đọc bài Minh viết về một thời Ý Thức trên blog
Phạm Cao Hoàng mà sao nhớ đến Rosée. chắc tôi sẽ phone thăm
vì cùng ở một nơi mà ít gặp và sẽ cho xem mấy nét Ngọc vẽ
anh chàng ngậm điếu thuốc, mái tóc lưa thưa, khuôn mặt thì
vẫn đắm say. cám ơn Đỗ Hồng Ngọc cám ơn Thân Trọng Minh
đã còn giữ mãi trong nhau một tình bạn đẹp từ bao nhiêu năm nay.
Virginia, Aug 26, 2014
Đinh Cường
Bài Rosée 2
Trước khi đi làm chị Nguyệt Mai nhắn
anh có hứng viết mấy hàng về hai phác
thảo chân dung Thân Trọng Minh anh
Đỗ Hồng Ngọc mới gởi. tôi đi bộ qua
Starbucks kêu ly cà phê, cái croissant
(nhớ Nguyễn Quang Chơn cũng ngồi
Starbucks ở Phú Mỹ Hưng, cũng thích
vẽ phác thảo chân dung bạn bè, khi có
chút rượu thì sắt nét hơn)
Trở lại hai chân dung Thân Trọng Minh
Đỗ Hồng Ngọc vẽ. cái thứ nhất lim dim
nét nhìn u hoài một nostalgia. điếu thuốc
chưa tàn. những nét bút dạ đen đan nhau
như tiếng kèn đồng một điệu blues nào.
cái thứ hai nét màu xanh dương tươi vui
hơn. sẽ gởi cho Rosée xem để nhớ lại
môt chàng trai si tình đứng chờ trước
Couvent des Oiseaux khi cô gái 16, 17
tuổi đôi mắt to đen như con nai ngơ ngác…
Những năm Đà Lạt đẹp như mơ. những
mối tình đẹp như mơ. chẳng hạn của
Nguyễn Xuân Hoàng và Vy. của Lộc
và Phi Anh – ôi Lê Uyên Phương với
tiếng hát cùng tiếng đàn thùng chết điếng
đêm khuya đầy sương mù bên kia Domaine
de Marie. hình như Phạm Cao Hoàng
cũng có lần hẹn người yêu đến quán
Lục Huyền Cầm. để mơ cùng tôi nhé
Cúc Hoa giấc mơ Đà lạt thời chưa biết buồn
và làm sao quên được người nhạc sĩ ấy
đã yêu Đà Lạt như cánh vạc bay. như rừng
quỳ vàng dại. còn tuổi nào cho em…
còn tuổi nào cho chúng ta hỡi Minh hỡi Ngọc.
Virginia, Aug 26, 2014
Đinh Cường
Thân Trọng Minh
phác họa Đỗ Hồng Ngọc 1
Thân Trọng Minh
phác họa Đỗ Hồng Ngọc 2
August 24, 2014
“Một tuổi già hạnh phúc”
MỘT TUỔI GIÀ HẠNH PHÚC
Đỗ Hồng Ngọc
Mãi đến nay nhóm “kỹ thuật” mới “dựng” xong cái đĩa bài nói chuyện của mình về “Một tuổi già hạnh phúc” ở Chùa Xá Lợi trong dịp Vu Lan vừa qua, vào ngày 8-8-2014 tức 13 tháng 7 âm lịch. Xin gởi đến bạn như đã hứa và nếu bạn có nhã hứng và kiên nhẫn thì thử nghe vậy!
Lúc này có tuổi rồi, thỉnh thoảng mình cũng thích đi chùa. Gần nhà có chùa Xá Lợi còn nhiều cây cao bóng cả, sáng sáng đế đó còn có… bắp, khoai, xôi, trà, café và được gặp nhiều bạn hữu để đàm đạo rất hay. Chùa có một Ban nghiên cứu Phật học do thầy Trụ trì phụ trách, mỗi tuần có một buổi học kinh sách, có tạp chí Từ Quang từ thời Cư sĩ Mai Thọ Truyền nay tiếp tục tục bản, lại có “Nhóm học Phật” mấy anh em cùng chia sẻ kinh nghiệm, ứng dụng Phật pháp vào đời sống hiện đại. Cách đây khá lâu, mình được mời nói chuyện về “Vận dụng kinh Kim Cang vào cuộc sống”, lần này, là “Một tuổi già hạnh phúc”. Dĩ nhiên, đây là dịp để mình học và áp dụng lời Phật dạy một cách sâu sắc hơn trong đời sống hàng ngày.
Vẫn như thường lệ, cách nói chuyện của mình dù ở đâu cũng là kiểu “tào lao chi địa” như bạn nói. Buổi này mình đã dẫn từ ông Khai Trí đến Trịnh Công Sơn, từ Sư bà Diệu Không đến Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Bỉnh Khiêm, từ Tuệ Tĩnh Thiền sư đến Trần Nhân Tông, và dĩ nhiên từ sinh y học đến tâm lý xã hội học và… Phật học.
Nhắc lại định nghĩa về sức khỏe của người gìa theo Tổ chức Sức khỏe Thế giới (WHO) : “Sức khỏe của người già là phát triển và duy trì được sự sảng khoái và hoạt động chức năng tốt nhất về tâm thần (mental), xã hội (social) và thể chất (physical)”.
Bạn thấy đó, Phát triển và duy trì được sự sảng khoái (well-being) và hoạt động chức năng (function) , bởi đa số các hoạt động chức năng xài lâu quá đều rệu rả, phần lớn đã quá date, dễ cảm thấy chán nản, tuyệt vọng, lo âu, trầm cảm…nói khác đi là khó mà… hạnh phúc. Thể chất thì “ba cao một thấp” đã đành mà tâm thần thì tám vạn bốn ngàn phiền não! Cho nên đưa vấn đề “tâm thần” lên hàng đầu là hoàn toàn hợp lý.
KHỔ thì dĩ nhiên không thể có hạnh phúc. Con đường của Phật là con đường “Diệt Khổ”, con đường dẫn đến giải thoát: Khổ, Tâp, Diệt, Đạo.
Ở góc độ y sinh học, tâm lý xã hội học, thì những điều kiện để có một tuổi già hạnh phúc gồm:
Có sức khỏe tương đối ;
Tài chánh tự chủ;
Nhà ở an toàn; an ninh, môi trường thuận lợi;
Tự tại: sắp xếp cuộc sống riêng của mình,
Duy trì các mối quan hệ gia đình/ bè bạn;
Có ký ức tốt về tuổi thơ và tuổi thanh niên,
Hoạt động phù hợp để thấy luôn hữu ích;
Gần gũi với thiên nhiên;
Hiểu luật vô thường/ Từ bi hỷ xả với mình!
Ta cũng có thể nhìn theo góc độ của Tháp NHU CẦU của MASLOW, theo đó:
a) Nhu cầu sinh học: gồm những vấn đề cơ bản của tồn tại như : Ăn, Ngủ, Thở, Tình dục… nếu thực hiện đúng thì thân sẽ An, mà thân an thì tâm lạc (physical well-being).
b) Nhu cầu an toàn: nhà ở an toàn, môi trường xã hội tốt đẹp, an ninh, bảo đảm về kinh tế, đời sống quân bình…
c) Nhu cầu xã hội (social well-being): các mối quan hệ xã hội trong gia đình, hàng xóm, cộng đồng tốt đẹp…
d) Nhu cầu tự khẳng định: để luôn có được tôn trọng, đóng góp theo công sức cho xã hội, thấy mình sống có ích…
e) Nhu cầu tâm linh (mental well-being): hướng thượng, có một tôn giáo lành mạnh, tin tưởng ở sự sống thiện, nhân quả, nghiệp báo…
Có thể nhìn ở góc độ “Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức” ta cũng có thể hình dung gần giống với Tháp Nhu cầu của Maslow, và nếu có Chánh kiến để thấy Vô Thường/ Khổ/ Vô ngã/ Không/ Duyên sinh… thì đã có thể “độ nhất thiết khổ ách”!
Hơn hai ngàn năm trăm năm trước, Phật dạy trong Kinh Đầy Đủ (Tăng Chi Bộ) 4 yếu tố xây dựng Hạnh phúc lâu bền (theo bản dịch của Thầy Thích Minh Châu: trích Tuyển Tập “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”)):
1) Đầy đủ Tháo Vát (thiện xảo/ chuyên nghiệp/ cần mẫn)
2) Đầy đủ Phòng Hộ (an toàn)
3) Bạn với Thiện (tín tâm, giới đức, bố thí, trí tuệ)
4) Sống thăng bằng / điều hòa
Thân mến,
ĐHN
PS Trân trọng cảm ơn anh Lưu Bá Tòng đã gởi cho đường LINK.
August 19, 2014
“sao lâu rồi không thấy Quỳnh viết gì”
“sao lâu rồi không thấy Quỳnh viết gì”
Đỗ Hồng Ngọc
Đó là tựa một trong những bài thơ mới nhất của Lữ Quỳnh, từ một câu hỏi của Đinh Cường “sao lâu rồi không thấy Quỳnh viết gì”. À mà, không phải câu hỏi đâu! Tiếng kêu đó. Tiếng kêu thảng thốt, hoang mang như tiếng “lạc bầy kêu sương” thì đúng hơn. Và tôi nữa. Tôi cũng muốn kêu lên như vậy: “sao lâu rồi không thấy Quỳnh viết gì…” với một chút khắc khoải, âu lo, thực ra cũng chỉ vì méo mó nghề nghiệp. Thì ra có một quãng khá lâu, Lữ Quỳnh lặng tiếng. Gần đây, đột nhiên anh bung ra một lúc nhiều bài thơ với một phong cách mới, những bài thơ dành riêng cho bạn bè, gọi tên từng người thân quen. Như một cõi riêng.
Từ trái: Châu Văn Thuận, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyên Minh, Thân Trọng Minh, Nhung và Quỳnh, Trương Thìn
Nhớ Lữ Quỳnh, mỗi khi xa về, thường gặp riêng tôi hay vài bè bạn thân thiết đâu đó ở một quán cà phê vắng, một góc phố xưa. Anh không thích chỗ đông đúc, ồn ào. Lữ Quỳnh vậy đó. Lúc nào cũng nhỏ nhẹ, cũng trang trọng, cũng riêng tư, đầm ấm, bẽn lẽn. Khi thấy anh loay hoay, bứt rứt, tôi hỏi đi đâu gấp vậy? Lên Nguyên Minh có chút việc. Việc gì? Không trả lời. Lúi húi thu gom, tất tả đi cho đúng giờ hẹn. Bí mật. Ít lâu sau, hóa ra là một vài tập sách mới ra lò, thơm mùi mực, bìa cứng chưa khô để kịp mang đi đâu đó.
Nhớ xưa, lần đầu về từ nơi xa, Lữ Quỳnh kêu tôi đến quán TT, cái quán ăn nho nhỏ dễ thương trên đường Trương Định. Hôm đó anh kể mãi về nỗi nhớ nhà, nỗi hoang mang, công ăn việc làm, con cái… với biết bao lo toan. Tôi im lặng ngồi nghe, không nói gì hơn, mỗi nhà mỗi cảnh. Rồi tháng năm qua mau, tóc phai màu, anh nói nhiều về cuốn Nghĩ từ trái tim của tôi, anh nói nó đã… giúp anh nhẹ lòng. Có lần anh giận: sao Quỳnh “meo” mà không trả lời!… Cái người cao lớn dềnh dàng mà hay hờn, hay mát, hay giận, hay lẫy đó thật dễ thương vì chính anh cũng lại là người bạn âm thầm và bền bỉ, hết lòng giúp đỡ mình khi cần… Những tập sách của tôi Gió heo may đã về, Già ơi… chào bạn! lúc đầu, rồi các tập thơ Giữa hoàng hôn xưa, Vòng Quanh đều do một tay Lữ Quỳnh lo chuyện ấn loát. Anh mê văn chương, lại có “gu” làm sách, chăm chút trình bày ruột, trình bày bìa, nhã và đạm, hạp tạng tôi.
Nguyên Minh “ông chủ” Quán Văn nhắc số tới sẽ là số đặc biệt về Lữ Quỳnh. Viết gấp đi. Tôi nói bài đọc thơ Lữ Quỳnh, Sinh nhật của một người không còn trẻ … của tôi năm đó là khá hay rồi, đăng lại được. Nguyên Minh đồng ý, nói bài đó hay thiệt. Nhưng Lữ Quỳnh bảo “phải có bài mới”!
Sáng nay, Lữ Kiều – Thân Trọng Minh, Đỗ Nghê – Đỗ Hồng Ngọc, Lê Ký Thương, Cao Kim, ngồi nhâm nhi café và gió mát bên một hồ nước xanh trong giữa lòng thành phố, tình cờ ra mắt một… “tuyển tập”, số đặc biệt bằng “lời thoại”, độc bản, về người bạn chung Lữ Quỳnh. Mỗi người một ý, mỗi người một góc, nói qua nói lại, nói tới nói lui, một lúc bỗng vẽ nên chân dung một Lữ Quỳnh từ ngày còn thơ cho đến hôm nay liêu xiêu trên đường dốc! Không ai biết rõ Lữ Quỳnh hơn Lữ Kiều. Những anh chàng họ Lữ với nhau từ tuổi tập tễnh bước vào chốn văn chương! Lữ Kiều bảo thơ của Lữ Quỳnh đã hay từ trẻ! Lữ Quỳnh là một nhà thơ hơn là một nhà văn. Họ từng cùng chia ngọt sẻ bùi, ghen tuông hờn giận từ những ngày còn thơ nơi chốn quê nhà cùng dòng sông thơm và những mái tóc thề, những tà áo tím, những đường phượng bay…
Tôi nhớ khi đọc tập thơ Sinh nhật của một người không còn trẻ (Văn Mới, 2009) của Lữ Quỳnh, tôi đã phải kêu lên: Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi! (Vũ Hoàng Chương dịch Hoàng Hạc Lâu, Thôi Hiệu, yên ba giang thượng sử nhân sầu!), vì thơ anh buồn quá, nỗi buồn mà tôi gọi là buồn “nhật mộ”, “ hương quan hà xứ thị”?
Tôi cùng em đứng đợi dưới mưa chiều
Bên kia đường nghĩa địa đìu hiu
Bia mộ liêu xiêu mịt mù trong gió
Cái hương quan hà xứ này hình như ta chỉ chạm mặt giữa hoàng hôn, những hoàng hôn tím biếc, những chập chùng khói sương, bến bờ vực thẳm. Cái “hương quan hà xứ” mà Trịnh Công Sơn bảo: “chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà…”!
Những bài thơ mới nhất của Lữ Quỳnh vẫn là nỗi buồn “nhật mộ”, nỗi ám ảnh khôn nguôi của hoàng hôn, của mùa đông, của giấc mơ:
có thể nào sau những giấc mơ
còn nhớ được
như đang sớm mai mà lòng hoàng hôn
như bàn tay từng đan kỷ niệm
giờ cầm hoa trắng qua nghĩa trang
(sao lâu rồi không thấy Quỳnh viết gì, 2014)
Ám ảnh đó đặc sánh ở thơ Lữ Quỳnh, những khi đông về:
Mùa đông này
Trời trong veo và rất lạnh
Hai bàn tay buốt cóng
Cầm nỗi nhớ nhà
…..
Nhìn bạn bè đứa còn đứa mất
Rượu tràn ly
Nói cười
Chuyện thiên đường địa ngục.
(Mùa đông, những ngày bình yên)
Và không lạ khi những tập thơ, tập truyện, tập nhạc mới nhất của anh đều là Những cơn mưa mùa đông rồi là Thành phố mùa đông !
Và, rồi những giấc mơ. Những giấc mơ ắp đầy mây trắng, “ bạch vân thiên tải không du du” nào xưa:
lời vô ngôn
những giấc mơ nồng nàn
lạ lẫm…
sáng ra không nhớ gì.
chỉ là cõi hoang
chập chờn mây và mây…
2013
(Mây trong những giấc mơ)
Lữ Quỳnh viết cho Trần Hoài Thư :
đêm đủ dài cho một giấc mơ
bầy hải âu la đà mặt biển
ngày tuổi xanh
rồi ngày không còn trí nhớ
vẫn bầy hải âu
có con nào đã rời bầy
trong giấc mơ không thấy.
( 2014)
Bài thơ mới nhất, Biển cát tím ở Big Sur : « đứa bé vừa đi vừa nhìn lại trong giấc mơ là tôi. không đứng vững/ mắt hoa vàng nhảy múa. không biết vì nắng/ hay trái tim đang loạn nhịp thời gian ».
Và : « nửa đêm ở rừng lạnh buốt/ không sao ngủ được/ dậy đốt lửa hơ tay/ hơ trái tim khô/ chỉ đợi ngày bắt lửa ».
(Trái tim khô giữa rừng cây ngàn tuổi, 2014)
Thơ Lữ Quỳnh bây giờ là vậy đó. Là mùa đông. Là giấc mơ. Là trái tim khô. Là những ngày chạy ngược chạy xuôi từ nam Cali về bắc Cali, để rồi càng khắc khoải thêm nỗi buồn “nhật mộ”:
Lần nào thăm anh về
lòng cũng nặng bầu trời mây
những đám mây không có dấu chân Hoàng
cầu mong anh vượt qua, vượt qua,vượt qua được…
Yết đế, yết đế, Bala yết đế, Balatăng yết đế…
câu chú ngày xưa Trịnh Công Sơn thường niệm
nay tìm thấy trong Nghĩ Từ Trái Tim của Đỗ Hồng Ngọc
gửi lại anh, Nguyễn Xuân Hoàng bình an nhé.
(Hãy vượt qua, vượt qua… 2014)
Những năm tháng sau này, dưới mỗi bài thơ tôi đều thấy anh ghi nơi chốn và thời gian, như một níu bắt ngậm ngùi. Nơi chốn và thời gian? Làm gì có Quỳnh ơi. Vĩnh cửu chỉ có trong từng sát-na hiện tại, trong hơi thở vào hơi thở ra, Anapanasati đó thôi.
Bài thơ Lữ Quỳnh Gửi anh Đinh Cường, để trả lời sao lâu rồi không thấy Quỳnh viết gì:
“mà mỗi sát-na đời lênh đênh chốn khác
dưới đám mây đen không chờ cơn mưa đến
rực rỡ mùa xuân là những đóm hoa tàn”
( 2014)
Đâu có. Hãy đọc lại đi, Quỳnh ơi, Mãn Giác thiền sư:
“Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết / Đêm qua sân trước một cành mai!”.
ĐHN
(Saigon 7.2014)
August 18, 2014
Hai Trầu: LỜI TỰ SỰ CỦA CÂY CẦU KHỈ
Ghi chú: Có lẽ vì bạn Mimi Chung đã có nhận xét khi đọc bài “Cứu lấy… cầu khỉ” của tôi trên trang này rằng “cầu khỉ – noi len tinh chat luoi bieng cua dan tinh, chi lap liem vai mieng van de qua vung nuoc sau. neu muon noi la ‘Van Hoa Cau khi’ cua dan toc VN – cau tha , luoi bieng – thi hay “Cứu lấy… Cầu Khỉ!” (05/08/2014) nên anh Hai Trầu từ Kinh Xáng Bốn Tổng đã gởi tôi bài viết này. Xin chia sẻ cùng các bạn.
Cảm ơn anh Hai Trầu nha!
(ĐHN)
LỜI TỰ SỰ CỦA CÂY CẦU KHỈ
“Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắt lẻo, gập ghình khó đi …”
(Ca dao)
Bạn ơi, nhiều lúc tôi cũng không biết tôi có mặt trên ngã ba con rạch Cái Nai này tự lúc nào! Mỗi ngày như mọi ngày, dòng nước cứ chảy ngang qua những chân tôi cấm sâu trong con rạch rào rào; khi thì êm đềm như mơn man, vỗ về, thân ái ; khi thì con nước chảy xiết như giận dỗi làm đung đưa chân cầu rung rinh giống đôi chân một cụ già; khi thì con nước trong leo lẻo như thấy bóng hình mình in đậm xuống dòng nước rồi hắt nhẹ lên bầu trời xanh; khi thì dòng nước ngầu đục như những năm tháng mảnh đời tôi phủ đầy những lớp bùn từ dưới ruộng bám theo bàn chân trần của người nhà quê cơ cực…
Thế đó bạn, mảnh đời tôi tuồng như lúc nào cũng đơn sơ và giản dị như vậy . Với vài ngọn tre, năm ba cây gáo, cây bần, cây cau, cây dừa, cây sao, cây sến và thêm một mớ dây cổ rùa, dây mây rừng, dây choại là tôi có mặt bên dòng đời nơi thôn dã miền sông nước quê mùa này. Không cầu kỳ, cũng chẳng cao sang gì nhưng tôi chan hòa lòng mình vào cuộc sống ở kinh rạch, nối liền hai bờ bên lở bên bồi, bên nghèo bên khá, bên sáng sủa bên um tùm cây cỏ hoang vu hầu mang mọi người qua lại giao hòa cùng nhau mỗi ngày như mọi ngày… Đêm đêm, ngày ngày, năm năm, tháng tháng, cứ mỗi lần tôi nghe tiếng chân ai chạm vào da thịt, lòng tôi mừng lên như đời mình mang đến niềm vui hạnh ngộ đôi bờ của con rạch làng quê… Bạn ạ, ở chỗ những cây cầu khỉ ở là những nơi quạnh hiu, vắng vẻ vô cùng, phần lớn là nơi cỏ hoang vườn vắng, không bến không bờ… Đôi lúc, chúng tôi cũng có mặt gần nơi đình làng, chùa miếu, trường học như những nơi công cộng nơi làng quê. Bởi lẽ, óc mê tín làm cho người ta sợ những cây cầu khỉ bắt ngang sông đâm thẳng vào nhà, rồi gặp những điều không may, nên tôi phải ở những nơi chốn chơ vơ, quạnh vắng như vậy đến mãn đời. Vì thế tôi mừng hết sức là mừng khi có tiếng kẽo kẹt của đôi chân người kéo qua lưng trần đầy nắng mưa, sương gió mà nghe như có bạn ghé thăm nhà… Xa xa, bạn nhìn tôi như một người gầy nằm vắt vỏng qua một dòng sông không hẹn mùa nước trôi, nước cạn… Tôi gầy guộc như những ngọn tre, những khúc cây khô chát thân tròn lớn bằng những bước chân người nhưng mảnh hồn tôi không gầy guộc chút nào! Tôi nằm im lắng tai nghe những tiếng trách thầm cầu khỉ khó qua sông hơn là người ta khen tôi mang nhiều tiện lợi cho nhà quê. Tôi không buồn về điều này, âu cũng là thân phận của mình! Tôi chẳng mong cầu những gì xa xôi và cũng không bao giờ phụ lòng ai khi người ta dò dẵm bước chân lên thân thể mình lúc họ muốn tìm gặp nhau. Từ em bé đến trường đến chị nhà quê đi ra chợ quận, từ anh nông phu ra đồng đến ông làng ông xã lên xã lên làng, từ người ở các tỉnh thành về quê đến người thợ thiến heo xuống ruộng kiếm chút tiền còm, từ vị sĩ quan ghé lại thăm quê cha đất tổ đến chú lính nghĩa quân đi rong trong xóm, trong thôn, từ anh chạy xe đạp qua sông cõng trên vai con ngựa sắt đến ông Cả, ông Hương Hào, Hương Chánh đi họp việc đình Thần, từ ông thầy giáo hiền lành đến đám bắt nhái rầm rầm rồ rộ cũng bước nhẹ lên lưng tôi khi êm êm, khi giậm mạnh như muốn nhừ khúc xương sống khô khốc vỡ tung… Tôi mang họ qua bờ, qua bến không mong lấy một tiếng chào, không mong lấy một tiếng cảm ơn, không mong lấy một tiếng giã từ khi bàn chân họ đặt lên bờ đất nhưng trong lòng tôi lại mong họ thêm những lần trở lại để tôi có dịp cõng họ qua sông trên tấm lưng trần …
Bạn ơi, bạn có lẽ muốn hỏi tôi về nguồn cội đời tôi, một nguồn cội trước mắt bạn nhưng tôi không dễ gì nói cho bạn nghe về ông cha tôi một cách tường tận được. Đại khái, tôi là một sự góp nhặt từ nhiều nơi, nhiều loài cây như gáo mọc bên bờ mương; như bần đứng ngâm chân trong nước với những chiếc rễ từ đất bùn chui lên suông đuột hứng lấy khí trời; như tre non tre già xin được từ tấm lòng từ thiện của chòm xóm láng giềng; như cây sao, cây sến mọc nơi bến chùa mấy mươi năm già cỗi; như cau lão với những mùa hoa nở thơm thơm cùng câu đố dân gian “đầu rồng đuôi phụng le the, mùa xuân ấp trứng, mùa hè nở con”; như dừa lão thân cao sừng sững như chống trời qua bao mùa rồi mang dâng tặng Thiên Hoàng những trái dừa nước ngọt giữa trời cao; như những sợi dây mây đầy gai sau những ngày gần gũi thân thiết với mấy ổ chim dòng dọc ấm êm làm những căn nhà hạnh phúc của loài chim nhỏ giữa bụi mây gai hoang rậm; như những dây cổ rùa bò ngoằn ngoèo quấn quanh thân cây tràm, cây bớm…
“Thân tôi đấy như đời tôi đơn giản,
Vài ngọn tre năm ba khúc gáo bần,
Nắng thì vàng, mưa vẫn ngửa mặt trông,
Nhìn nước chảy, nhìn dòng đời lặng lẽ …”
Tôi là một cái thúng đựng đầy những tấm lòng vị tha, từ thiện vì mọi người, vì ích lợi nhân loài hơn là làm đẹp cảnh vật làng quê khi những con đường bị dòng sông, kinh rạch ngăn đôi, cản bước mọi người… Dòng nước cạn, con rạch nhỏ, thân tôi gọn gàng nối bên này bên kia bằng khúc gỗ gòn gọn gàng. Dòng nước sâu, con sông rộng, thân tôi cũng nối dài thêm nhiều nhịp thành cây cầu lắt lẻo trên dòng nước bao mùa… Những cầu khỉ dài có từ ba nhịp, năm nhịp, bảy nhịp là những cây cầu qua những con rạch có bờ bến xa vời. Đời tôi luôn có những nhịp lẻ như vậy vì người đời muốn dành nhịp giữa ngay giữa dòng nước sâu cho ghe xuồng chở nặng tiện đường qua lại, nên cầu khỉ lúc nào cũng công bằng, chia dòng sông làm hai phần đều nhau, không thiên vị bên nhiều bên ít, bên trọng bên khinh. Vì nắng mưa, sương gió tung hoành tắm ướt mỗi ngày mà thân tôi thì trần trụi dãi dầu nhuần gội với biết bao mùa mưa nắng, nên đời tôi, như bạn biết rồi, chỉ là những cây gỗ tạp không bền, làm sao mà bền bỉ với thời gian. Mới đó mà đầu này đứt dây tay vịn, đầu kia gỗ mục, bù sè, ong bầu khoét đục. Rồi hồi hôm nhịp giữa với những chiếc chân tre bị ghe xuồng đâm sầm té xấp vào làm chân tôi xiêu vẹo, èo uột… Tôi lại phải thay đời đổi lốt nhiều phen, nhưng xin bạn nhớ giùm điều đó cũng không dễ dàng chút nào bạn ạ! Dân vùng tôi ngụ là dân nghèo, cây vùng tôi ở cũng ít khi dư thừa, còn làng nước của vùng tôi đứng, họ ít khi thấy những thân “cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi” khi chúng tôi ngã bịnh trẹo gân gẫy cốt nửa chừng. Thế là, tôi nằm chơ vơ nhiều năm tháng nơi bờ sông vắng ngắt mà chẳng ai màng ngó tới, thăm lom lấy nửa lời. Người ta không đi qua cầu tre, cầu khỉ được chỉ còn có nước vắt quần qua cần cổ rồi lội ngang sông hoặc đón xuồng quá giang, quá bến. Nhiều đêm tôi nghe ê ẩm khắp châu thân mà buồn cho đời mình, mà cũng thương dân vùng quê tôi sao mà nghèo xơ nghèo xác, nên đời tôi cũng theo đó mà “sơ vơ sửng vửng” giữa trời.
Bạn ạ, dường như tôi là bạn của vùng nghèo khó nên tôi cả đời cứ quẩn quanh nơi nghèo khó mãi hoài! Bạn ở chợ, ở thành, có bao giờ bạn thấy tôi lên chợ lên thành bao giờ! Cầu khỉ ở trong kinh, trong rạch, nên tôi mang trên mình cái nét riêng nào đó của kinh, của rạch bùn lầy, quê mùa… Không có bùn trên lưng, không có nắng trên tay vịn, không có mưa trên đầu, không có nước làm đung đưa chân cầu như chân cụ già, có lẽ, tôi sẽ không còn là cầu khỉ lắt lẻo nữa rồi bạn ạ! Tôi luôn đến với người nghèo, tôi cận kề người lam lũ ruộng đồng và tôi cũng bắc nhịp để bạn có lần nào về qua làng, qua xóm nữa mà! Nơi miền thôn dã đó, đêm đêm có ánh trăng, có tiếng chài giã gạo vào mùa lúa mới, có hương thơm ngạt ngào của cớm dẹp tháng chạp, tháng giêng, có tiếng hò vào mùa gặt lúa, có tiếng ca vọng cổ trên đồng vẳng đưa vào những đêm giăng câu mùa nước ngập và có cả những đôi tình nhân hẹn nhau mùa cưới năm nào trúng mùa lúa đầy bồ, mùa khoai nhiều củ, mùa bắp đầy trái, mùa dưa hấu đỏ au ngọt ngào… Tình tự lắm mà cũng thân yêu lắm bạn ạ! Vài chiếc vó cất bên cạnh tôi rào rào nước rỏ xuống dòng sông, cá ơi là cá! Mùa cá lên đồng tháng năm, mùa cá ra tháng chín, tháng mười. Bạn có biết tại sao không? Vì cầu khỉ thường ở những ngã ba rạch, ngã ba sông; mà cá lại theo rạch, theo sông để ra vàm, ra vịnh. Dưới những chân tôi, cá cũng dựa vào làm nhà, làm ổ lút nhút như chỗ không người, vì tôi đâu có la rầy gì, nên cá cũng thân thiện với cầu khỉ quá chừng! Cả tôm càng nữa chứ! Những cái bửng bằng đăng tre được căng dựa vào chân tôi, người ta xây thành những cái rọ và rồi nào là tôm càng lửa, càng xanh, tôm trứng thè lè cái bụng thong dong đi vào cái rọ, chui vào miệng lọp như đang đi vào con đường cùng buồn thảm mà những chị tôm luôn đi lùi này không hề hay biết số phận hẩm hiu. Đó là tôi chưa kể cho bạn nghe những chú chim thằng chài lúc nào cũng đứng trên tay vịn của tôi mà rình cá dưới sông. Thoắt một cái vù, con chim màu tím này nhảy bổ xuống nước và gắp một con cá lòng tong vào cái mỏ nhọn một cách gọn khô như nhà ảo thuật tài tình. Tôi mê nhìn con chim nhỏ khôn ngoan này bắt cá mà quên nó đang đứng trên vai mình tự lúc nào, không thấy mỏi vai… Nếu nơi tôi ở là một bãi cỏ ống um tùm bên bờ kinh với sậy đế chen lẫn vào nhau, đêm đêm tôi ngắm nhìn đàn chuột cơm chạy ào ào trong cuộc đua tìm lương thực, con này theo đuôi con kia kêu “tí tục…tí tục” như đi chợ…Tết. Còn ban ngày, trong cái im vắng của buổi trưa hè, nắng chang chang rát mặt, thỉnh thoảng tôi lại gặp vài chị chim ốc cao, chim chằn nghịch, chim quốc rón rén bước nhẹ trong lùm sậy rồi lẹ làng chạy một mạch xuống mé nước uống vội mấy ngụm nước giữa cơn khát nước cháy cổ… Vào những đêm hè tịch mịch, tôi cũng nghe tiếng chim quốc kêu rả rít đến não nuột mà nhớ hồn vua Thục Đế hay tiếng chim đỗ quyên huyền thoại, rồi nghe văng vẳng trong gió câu Kiều bên tai mà bồn chồn:” Ấy hồn Thục Đế hay mình đỗ quyên?” Và, dĩ nhiên bạn ạ, tiếng kêu thương ấy khác đi nhiều so với tiếng rào rào của đàn vịt tàu về ngang dưới chân tôi vào buổi chiều sau một ngày lên đồng lượm cua, lượm ốc… Và còn nhiều lắm bạn ạ, nói sao cho hết được những tiếng vọng của muôn loài chung quanh tôi vào những sáng, nhũng trưa, những chiều, những tối theo vầng nhật nguyệt tuần hoàn…
Bạn ơi, có lẽ bạn cũng muốn hỏi dòng tộc tôi có mặt tại vùng quê này từ lúc nào? Điều này cũng dễ nhận ra bạn ạ! Từ hồi dân tộc Việt đến vùng đất ngập nước hướng Tây Nam này, cách nay hơn hai trăm bốn mươi năm, ruộng đất nơi đây hoang vu lắm, thú dữ nhiều lắm nhất là cọp, beo, voi, sấu, rắn độc đủ loại. Những con rạch thiên nhiên phần lớn là những con đường do voi đi mà thành rạch, thành sông. Rạch không lớn nhưng cá sấu nằm chờ đầy trong bãi, trong bùn để sẵn sàng cắn bậy vài cái giò, vài cái cẳng của người nào ngây thơ bước xuống. Từ đó những cư dân đầu tiên đến nơi vùng hoang dã này mới tìm cách qua rạch khỏi bị sấu ăn thịt bằng cách trèo lên ngọn cây cặp mé rạch, rồi đu mình qua bên kia bờ giống như khỉ chuyền mình trên cây vậy mà. Bằng chứng là vùng Vàm Nao thời cụ Thoại Ngọc Hầu đào kinh Vĩnh Tế ở Châu Đốc, những dân công đào kinh trốn về nhà qua ngã này, lúc bấy giờ Vàm Nao còn hẹp lắm mà sấu thì nằm đặc sệt dưới nước, nên người ta cũng qua Vàm Nao bằng cách chuyền cây như vậy để tránh sấu chực chờ. Sau này tên gọi cầu khỉ có lẽ bắt đầu từ nguyên thủy như vậy. Dân dần đời sống vùng này mở mang phát triển, nên việc đi lại, giao tiếp là việc tự nhiên như mưa, như nắng. Người ta không thể trèo lên cây hoài để bước qua một con mương, con rạch, do đó, mà có những thân cây bên bờ mương, bờ rạch được chặt cò xuống, nằm dài nối liền hai bờ đất và người ta bước nương lên thân cây vừa ngã mà qua xóm, qua làng, xuống ruộng, xuống nương. Dần dà, cư dân vùng sông rạch chằng chịt này nối những nhịp cầu khỉ mà một thân cây không thể vươn mình gác đủ một bề ngang rộng phình của những dòng sông rạch lớn hơn. Từ đó, bạn ạ, những chiếc cầu khỉ chúng tôi có mặt rầm rộ khắp vùng đồng bằng này.
Bạn ơi, lịch sử đời tôi qua hằng trăm năm cùng với lịch sử vùng sông nước miền quê Lục Tỉnh này, nên nhiêu khê lắm. Là một vật tưởng chừng vô tri nhưng tôi đã chứng kiến nhiều vở tuồng nơi những xóm quê qua mỗi thời kỳ…
Lúc hưng thịnh cũng như thời ly loạn, lúc nào tôi cũng đứng giữa dòng đời nhìn thế cuộc xoay vần, điên đảo mà dưới chân tôi dòng nước cũng nhiều bận đổi dòng… Bạn ạ, một cách thầm lặng, thân cầu khỉ khẳng khiu này đã hiểu thế nào là biển dâu, là dời đổi trong làng, trong xóm. Biết bao phen tôi chứng kiến cảnh ghe xuồng chở đầy những người dân vô tội trên đường tản cư khỏi vùng lửa đạn và cũng biết bao phen họ lại rón rén trở lại ngang cầu thăm mảnh vườn xưa mà không cầm được nước mắt trước cảnh nhà trống, vườn hoang sao quá tiêu điều! Thời chiến tranh còn âm ỉ, ban đêm tôi bị người ta vứt vài nhịp trôi theo dòng nước lớn, nước ròng; rồi ban ngày tôi lại được người dân trong xóm kiếm tìm những khúc gỗ lạc loài vớt lên hoặc chặt thêm một vài thân cây mới để nối lại thân thể tôi lành lặn. Bạn đừng buồn, chẳng qua đó là một trong muôn ngàn trường hợp mà người nhà quê quen gọi “qua sông, rút cầu” thường tình.
Thế đó bạn, vật vô tri như tôi mà còn có kẻ ưa, người ghét, huống hồ gì là con người như bạn, làm sao mà tránh khỏi kẻ ghét, người ưa! Bên này sông, bên kia sông, giữa dòng nước, chiếc cầu tre lắt lẻo biết bao phen nhìn mẹ già tiễn con đi xa mà lòng nghẹn ngào, để rồi ngày con trở về theo “đường xưa lối cũ” thì, hỡi ơi, mẹ già đã ra người thiên cổ từ bao năm rồi! Tôi cũng bao lần nhìn người vợ quê tiễn chồng ra đơn vị những năm tháng còn chiến tranh mà nghe lòng tê tái buổi phân kỳ… Sau khi chiến chinh tàn, “mấy người trở lại?” Và biết bao người chồng lên núi, vô rừng hay về “đầm dạ trạch” phá rừng, đào kinh không hẹn ngày về, phú cho Trời vợ yếu con thơ khắp chốn, khắp nơi cơ hàn, quạnh quẽ nhiều phen! Tôi nghe văng vẳng tiếng người mẹ trẻ hát lại câu ca dao cũ à ơi … nghe sao quá đắng cay:
“Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi,
Khó đi mẹ dắt con đi,
Con thi trường học, mẹ thi trường đời!”
Tôi cũng nghe tiếng thở dài của ông thầy giáo già cõng trên lưng đứa học trò nhỏ qua sông ngày xưa ấy, bên lớp học cạnh đầu cầu, như tình cha con đằm thắm nơi xóm quê. Và còn nhiều lắm, như chứng nhân giữa dòng đời, tôi man mác buồn vui theo từng mảnh đời nơi miền quê lầy lội nhưng nhiều tình tự này… Và rồi, một ngày nào, những thân gỗ tạp làm nên cây cầu khỉ qua dòng sông cạn, sông sâu bị mục, chúng tôi muốn thì thầm cùng bạn một chút niềm riêng:
“Thân tôi đấy, như đời tôi đơn giản,
Vài ngọn tre, năm ba khúc gáo bần.
Nắng thì vàng, mưa vẫn ngửa mặt trông,
Nhìn nước chảy, nhìn dòng đời trôi lặng lẽ!
Khi gỗ mục chiếc cầu tre bấn loạn,
Người ta mang tôi vào bếp vào lò,
Lửa cháy đỏ lòng tôi đây đau đớn
Nhưng không buồn vì viết trọn bài thơ .”
Bây giờ là thời kỳ làng quê đang chạy theo những ngày hết thế kỷ hai mươi, lòng người ta cũng háo hức lắm cho những ngày mới! Có ai trong các bạn đã có lần nào đặt bàn chân lên lưng tôi mà đi chưa? Những bước đi làm bạn run run đôi chân có lẽ một ngày nào bạn sẽ ít có cơ hội bước nhẹ lên chiếc lưng trần của cây cầu khỉ! Những cây cầu ván với loại cây căm xe, cà chất hay cầu đúc bằng xi măng dần dần xuất hiện rải rác hết khúc sông này đến đầu sông nọ, cũng có nghĩa dòng tộc tôi cũng xa dần trên những con rạch quê mùa, những dòng kinh đào khắp miền đồng bằng này… Nhưng trong hồn bạn, có lẽ tôi không như “Chiếc giường cũ ” của Trần Tiêu, bị người chủ vứt bỏ trong chái hè tăm tối, mà tôi mãi hoài ngự trị vào mỗi lần bạn có dịp hồi tưởng lại chốn cố hương, nơi có con đường đất, con rạch cạn, con sông sâu chảy qua ruộng gần, ruộng xa, chảy qua bờ tre, vườn xoài, vườn cam, vườn mận tỏa ngát hương thơm cùng những mùa trái sai oằn, trĩu nhánh mà nghe nhớ quá những cây cầu khỉ gập ghình ngày nào qua câu ca dao mộc mạc, quê mùa như khúc hát ân tình…
“Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi.
……..
Khó đi mượn chén ăn cơm,
Mượn ly uống rượu, mượn đờn kéo chơi.”
(Ca dao)
Hai Trầu
Kinh Xáng Bốn Tổng, tháng 10-98
August 11, 2014
Kẻ lữ hành không mệt mỏi của đường dài đã dừng bước nghỉ ngơi
Kẻ lữ hành không mệt mỏi của đường dài đã dừng bước nghỉ ngơi
Họa sĩ – Bác sĩ Dương Cẩm Chương 104 tuồi đã từ trần giữa khuya 9.8.2014 nhằm đúng Rằm tháng bảy Vu lan. Mười năm trước, tôi có một bài viết về ông, một bậc thầy, một đàn anh… mà khi ông tốt nghiệp ra trường Y khoa thì tôi chưa sanh ra, bài viết có tựa từ một câu của Trịnh Công Sơn: “Kẻ lữ hành không mệt mỏi của đường dài”…
http://www.dohongngoc.com/web/goc-nhi...
Kẻ lữ hành không mệt mỏi của đường dài đến nay có lẽ đã đến lúc cần phải nghỉ ngơi đôi chút rồi thì phải. Cuối năm ngoái (2013), trong ngày sinh nhật thứ 103 của mình ở Chez Nous, ông đã phát hành cuốn “Trăng soi bóng nước”, tập hợp chọn lọc những bài viết của bạn bè, con cháu, học trò mình từ xưa nay như một kỷ niệm. Nhớ lần đó ông còn “buộc” tôi phải viết lời tựa cho cuốn sách, tôi không thể nào từ chối được.
http://www.dohongngoc.com/web/huom-hu...
Tôi vẫn thường thăm hỏi người bạn cùng khóa là bác sĩ – họa sĩ Thân Trọng Minh, cháu ruột bà Thân Thị Ngọc Quế, phu nhân của bác sĩ Dương Cẩm Chương về tình hình sức khỏe của ông. Nhà thơ Thân Thị Ngọc Quế thì đã qua đời trước ông mấy năm, và có lẽ đang đợi, mà ông cứ mãi chần chờ… Khoảng 4 tháng sau này, ông yếu dần, ăn ít đi vì… đau răng và cũng bắt đầu có dấu hiệu rung nhỉ ở tim. Bây giờ sáng sáng ông chỉ ăn được thức ăn mềm, trưa và chiều thì súp, bí đỏ khoai tây cà rốt và thịt xay… người cháu gái cho biết. Tối đó, ăn súp xong ông kêu mệt lúc sau thì ói nhiều lần, ông nói với mấy cô cháu: “Ông trúng thực rồi!”. Thấy mọi người lo lắng, ông bảo không sao đâu, ông không chết đâu đừng lo. Thế rồi ông… chết thiệt, êm ái, tỉnh táo đến phút chót.
Tôi ghi vào sổ tang: “Vậy là chú Chương đã nghỉ ngơi sau 104 năm rong ruổi trên đường dài của người lữ hành không biết mệt mỏi. Chúc họa sĩ bác sĩ Dương Cẩm Chương phiêu diêu miền Cực lạc… và tiếp tục cuộc hành trình.”.
Đỗ Hồng Ngọc
Làm thế nào để thân tâm được an lạc?
Làm thế nào để thân tâm được an lạc?
(Buổi nói chuyện tại CLB 4T Viện Y Dược học Dân tộc ngày 9-8-2014)
BS Đỗ Hồng Ngọc
Người ta ai cũng mong cho “thân tâm thường an lạc”, tức thân thì luôn luôn (thường) AN còn tâm thì luôn luôn LẠC! Mà ta biết thân thì bất tịnh, tâm thì vô thường… nên rất khó mà an lạc được. Tuy vậy, cũng có thể đạt đến một mức nào đó nếu biết cách. Một nhà báo phỏng vấn cụ già trên 100 tuổi bí quyết sống trường thọ mà vui khỏe, cụ nói có bí quyết gì đâu, chẳng qua sáng nào thức dậy tôi cũng tự hỏi mình hôm nay mình nên sống ở “thiên đàng” hay ở “địa ngục”? Rồi lưỡng lự một chút, tôi chọn “thiên đàng”!
Tổ chức Sức khỏe Thế giới (WHO) định nghĩa “Sức khỏe là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái (well being) về thể chất, tâm thân và xã hội, chớ không phải chỉ là không có bệnh hay tật”. Như vậy để “thân tâm thường an lạc” rõ ràng phải gồm cả 3 yếu tố: thể chất (physical), tâm thần (mental) và xã hội (social). Thân an lạc tức thể chất (physical) an và lạc. An và lạc đây hiểu là một trạng thái well-being. Ta biết thân là do “tứ đại” đất nước gió lửa hợp thành, sự hòa hợp của tứ đại là điều kiện để thân được an lạc. Cơ thể ta có hơn chục ngàn tỷ tế bào hình thành, luôn luôn biến dịch. Các chất liệu trong cơ thể tương tác, tương ứng với nhau nếu điều hòa thì sẽ “an lạc”, còn không thì ta mắc bệnh.
Còn tâm an lạc là cái “mental well-being” trong định nghĩa nói trên. Tâm vốn nhảy nhót như khỉ như ngựa (tâm viên ý mã), không lúc nào dừng lại để được yên nên khó mà an lạc! Hai ngàn sáu trăm năm trước, đệ tử đã hỏi Đức Phật “Làm sao để an trụ tâm? Làm sao để hàng phục tâm?” (kinh Kim Cang), Phật bảo “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Nghĩa là đừng có “trụ” vào đâu cả để mà sinh cái tâm! Nhưng “bất thủ ư tướng như như bất động” là rất khó. Chỉ có thể thấy biết khi ta hiểu được Vô thường, Khổ, Vô ngã, Không, Duyên sinh… và điều này có thể thực hiện từng bước trong Thiền định. Nhưng không dễ vì ta sống trong một xã hội quay cuồng, điên đảo mộng tưởng, toàn cầu hóa, thế giới phẳng, tràn ngập thông tin… nên tâm càng bất an.

An lạc về mặt xã hội càng quan trọng. Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, mối quan hệ giữa chòm xóm và rộng ra trong cộng đồng… giúp ta có một đời sống hạnh phúc. Một thì dụ: mối quan hệ giữa thầy thuốc với bệnh nhân cũng góp phần làm cho bệnh tật tăng hay giảm! Yếu tố xã hội phải được quan tâm nhiều hơn vì chính nó tạo ra môi trường sống của ta. Bây giờ ra đường kẹt xe, khói bụi mù trời, đi bộ trên lề đường cũng cảm thấy bất an… Bhutan, một xứ nhỏ ở chân núi Hy Mã Lạp Sơn đã có một chính sách bảo vệ môi trường thật tốt để mang lại hạnh phúc cho người dân. Cả môi trường thiên nhiên và môi trường xã hôi. Họ không đo đạc sự phát triển kinh tế bằng GNP như các quốc gia khác mà đo bằng Tổng hạnh phúc quốc gia (GNH = Gross National Happiness).
Điều quan trọng để được an lạc thân tâm chính là yếu tố bên trong của mỗi chúng ta. Xã hôi ngày nay bệnh hoạn nhiều là do Stress, sự căng thẳng, mất quân bình trong lối sống, do môi trường sống, do thực phẩm… Stress là một phản ứng sinh học, giúp con người thoát hiểm trước thú dữ, hòn tên mũi đạn ngày xa xưa. Thế nhưng trong thời buổi hiện đại, stress chính là sự căng thẳng trong đời sống, khiến cơ thể lúc nào cũng căng cứng, phòng vệ, không thư giãn được trong một thế giới vật chất đua đòi, đấu đá tranh giành nên tình trạng stress đã âm thầm dẫn tới những tác hại đến thân tâm. Một nghiên cứu của Đại học Harvard cho thấy từ 60-90% các trường hợp bệnh đến bác sĩ là do có nguồn gốc sâu xa từ stress. Bác sĩ có thể chữa được cái đau trước mắt nhưng cái khổ chập chùng đằng sau thì bác sĩ không quan tâm. Mà con người thì đau và khổ luôn gắn với nhau, cái này sinh cái kia và ngược lại. Nhờ những tiến bộ “vật chất” mà nay ta có thiên lý nhãn, thuận phong nhĩ, có thể “cân đẩu vân” tứ phương và có đủ 72 phép thần thông chỉ trên một bàn tay với vài cái nút bấm… Vấn đề là ở con người, nhận thức nó ra sao, “thấy biết” (tri kiến) nó ra sao để có thể hạnh phúc.
“Biết tự tại để sống hạnh phúc”. Tự tại là sự tự do bên trong, quay về bên trong, nương tựa chính mình, bởi « bác sĩ tốt nhất là chính mình ». Kiên trì, nhẫn nại để rèn tập. Vượt thoát những ràng buộc, dính mắc.
Có một lời khuyên của Tổ chức sức khỏe thế giới (WHO) nên theo, đó là SAFE, chữ viết tắt của các biện pháp giúp tránh bệnh tật hoặc làm giảm bệnh tật:
Smoking (không hút thuốc lá),
Alcohol (không uống rượu),
Food (dinh dưỡng đúng cách),
Exercise (rèn luyện thể lực).
Sau này tôi thêm chữ R thành SAFER, nghĩa là an toàn hơn:
Chữ R đó là Respiration (thở đúng phương pháp, tức Thở bụng).
Tuệ Tĩnh, thầy thuốc, thiền sư thế kỷ XIV nước ta cũng đã khuyên:
Bế tinh dưỡng khí tồn thần
Thanh tâm quả dục thủ chân luyện hình
Phật hoàng Trần Nhân Tông thì khuyên:
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề không tắc miên
Gia tung hữu bảo hưu tầm mích
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.
Bác sĩ tốt nhất là chính mình. Đúng vậy!
Biết sống “từ bi hỷ xả” và trước hết hãy từ bi hỷ xả với chính mình.
ĐHN
(Ghi chú: Theo yêu cầu của BTC, tôi phải “nộp” trước bài này để các hội viên CLB 4T gồm các bệnh nhân mang bệnh mạn tính và ung thư tham khảo. Khi trình bày, tôi nói: Vì tài liệu đã gởi trước đến qúy vị, cho phép tôi được trình bày những gì không có trong tài liệu này…! Nhờ vậy, buổi nói chuyện đã sôi nổi và hào hứng với những thí dụ cụ thể trong đời sống thường ngày…)
August 9, 2014
MỚI HÔM QUA THÔI
MỚI HÔM QUA THÔI
Nhạc: Vĩnh Điện Thơ: Đỗ Hồng Ngọc
Ghi chú: Năm 1993, tháng 12, mùa tuyết trắng xóa ở Canada, tôi có dịp đến thăm một Nursing home ở Montreal, bên cạnh dòng sông Saint Lawrence. Canada là nơi có chế độ chăm sóc người già rất tốt, có thể nói nhất thế giới, thế nhưng lòng tôi nặng trĩu khi nhìn thấy những kiếp người, mà ngoài kia Như-lai vẫn “như như bất động”… vẫn tuyết rơi trắng xóa, vẫn dòng dòng mênh mông…
Tôi viết mấy câu – thực ra, chỉ là một “ghi chép lang thang” những điều mắt thấy tai nghe giữa lạnh lùng băng giá hôm đó bên dòng sông tuyết trắng… “Trong một nhà giữ lão ở Montreal”.
Hai mươi năm sau, nhạc sĩ Vĩnh Điện gởi về tôi bài hát, phổ từ “Trong một nhà giữ lão ở Montreal” và đề nghị đổi tựa là “Mới hôm qua thôi”. Tôi nghe. Sửng sờ. Mới hôm qua thôi. Mới hôm qua thôi! Với giọng hát thiết tha của Vũ Hoành, với những hình ảnh minh họa đầy sống động của clip nhạc, tôi băn khoăn không biết có nên post lên đây để sẻ chia cùng bè bạn không, vì có người bảo thôi đi, buồn quá, có người bảo rất nên để tự nhắc nhở mình, thấy ra sự thật phủ phàng… . Vậy, bạn cứ tùy… hỷ nhé! Thân mến,
(ĐHN).
Trong một nhà giữ lão ở Montreal
Họ ngồi đó
Bên nhau
Đàn ông
Đàn bà
Không nhìn
Không nói
Họ ngồi đó
Gục đầu
Nín lặng
Ngửa cổ
Giật nhẹ tay chân
Có người
Trên chiếc xe lăn
Chạy vòng vòng
Có người
Trên chiếc xe lăn
Bất động
Họ ngồi đó
Hói đầu
Bạc trắng
Móm sọm
Nhăn nheo
Mới hôm qua thôi
Nào vương
Nào tướng
Nào tài tử
Nào giai nhân
Ngựa xe
Võng lọng
Mới hôm qua thôi
Nào lọc lừa
Nào thủ đoạn
Khoác lác
Huênh hoang
Mới hôm qua thôi
Nào galant
Nào qúy phái
Nói nói
Cười cười
Ghen tuông
Hờn giận
Họ ngồi đó
Không nói năng
Không nghe ngóng
Gục đầu
Ngửa cổ
Móm sọm
Nhăn nheo
Ngoài kia
Tuyết bay
Trắng xóa
Ngoài kia
Dòng sông
Mênh mông
Mênh mông…
Đỗ Hồng Ngọc
(Montréal, 1993).
Mời bạn nghe bài hát:
Đỗ Hồng Ngọc's Blog
- Đỗ Hồng Ngọc's profile
- 12 followers


