Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 111

March 4, 2015

Lại đính chính: “SAIGON BÂY GIỜ”

Lại đính chính: “SAIGON BÂY GIỜ”

Ngày 28.4.2012, cách đây 3 năm, tôi có viết bài “Saigon bây giờ” cho báo Saigon Tiếp Thị và sau đó tôi đã post lên trang nhà www.dohongngoc.com: http://www.dohongngoc.com/web/goc-nhi...


Mới đây ngày 1.3.2015 tôi nhận được bài viết này đã bị ai đó xuyên tạc, sửa chữa thêm bớt vào nội dung và phát tán lên mạng. Tôi đã liên hệ ngay với anh Joseph Chu, người đã gởi bài này đến một số bạn bè để yêu cầu đính chính và anh Joseph Chu đã rất có trách nhiệm, có thư xin lỗi tôi và gởi kèm bài đính chính dưới đây (đính kèm).


Tôi định giữ im vụ việc không hay này, nhưng hôm nay một người bạn ở Úc lại tiếp tục gởi bài này về và đặt câu hỏi: “Bài này của Ai?”, vì họ không tin do tôi viết với nội dung và văn phong như vậy!


Vì thế, tôi thấy cần lên tiếng để tránh mọi sự hiểu lầm đáng tiếc.


Trân trọng,


BS Đỗ Hồng Ngọc.



 


Ngoc Do

to:

josechu4491@gmail.com

date:

Tue, Mar 3, 2015 at 1:41 PM

subject:

Đính chính

Kính gởi anh Joseph Chu

Thưa Anh,


Tôi là Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc vừa được đọc bài Sai Gòn Bây Giờ do Anh gởi, xin được phép đính chính rằng bài này đã bị ai đó xuyên tạc nội dung bằng cách viết thêm vào bài sẵn có của tôi rồi phát tán đi chứ không phải của tôi.

Bài với tựa Saigon Bây Giờ của tôi đã đăng trên www.dohongngoc.com ngày 28.4.2012 và cũng đã đăng trên báo giấy.

Rất mong Anh đính chính giùm.


Trân trọng cảm ơn,


BS Đỗ Hồng Ngọc.


…………………………………………………………………………………………….


 


Reply của Joseph Chu


Joseph Chu

Ngoc Do

Tue, Mar 3, 2015 at 5:53 PM

Re: Đính chính

Kính gửi BS Đỗ Hồng Ngọc,


 


Thưa Anh,


Trước hết xin nói ngay là tôi rất tiếc đã làm phiền lòng Anh về sự việc này, tôi sẽ lập tức thực hiện điều Anh yêu cầu và xin Anh đại xá cho về cái tai nạn này. Tôi đã khinh xuất không suy xét thêm và phối kiểm một khi đã cảm thấy cái ngôn ngữ lạ trong một phần bài báo ấy, khác với văn phong của Anh mà tôi đã quen và ngưỡng mộ.  Xin xác định với anh tôi không phải là “đồng tác giả dấu mặt” trong bài này, tôi cũng không có chủ tâm phát tán một tài liệu đã bị cắt dán mạo danh.


Trong cái thời thông tin rất phong phú mà mọi người vẫn thèm khát thông tin như hiện nay, sự chuyển tiếp thông tin vội vã và thiếu năng lực chuyên môn rất dễ đưa đến một  sơ xuất tai hại như thế này. Vì vậy, thưa Anh Đỗ Hồng Ngọc, tôi có lỗi đã vô tình phổ biến tài liệu ấy trong phạm vi các bạn đồng song của mạng Thụ nhân 1-2, mong Anh hiểu cho và tha thứ. Lỗi này hoàn toàn thuộc về cá nhân tôi, không có bạn nào cùng chịu trách nhiệm.


Trân trọng kính chào Anh,


 


Joseph Chu


 


……………………………………………………………………………………………


 


Đính chính của Joseph Chu


Joseph Chu

Thunhan1-2

dohongngocbs@gmail.com

Tue, Mar 3, 2015 at 11:52 PM

“Saigon Bây giờ”: Đính chính của tác giả Đỗ Hồng Ngọc

Thưa các bạn,


Ngày 1-3-2015 vừa qua, Joseph Chu có forward cho một số bằng hữu trong ngoài Thụ nhân 1-2 một bài có tựa đề là  SAIGON BÂY GIỜ  của BS Đỗ Hồng Ngọc, một cây bút trong nước quen thuộc và được nhiều độc giả ưa thích. Thấy đề tài này chắc được nhiều anh em chú ý, tôi đã mau chóng chuyển tiếp. Hai ngày sau, tôi được thư của tác giả cho hay bài viết này đã bị kẻ vô danh nào đó “xuyên tạc nội dung bằng cách viết thêm vào bài sẵn có của tôi rồi phát tán đi chứ không phải của tôi”.


Tôi đã vào trang nhà của BS Đỗ Hồng Ngọc  http://www.dohongngoc.com/web/goc-nhi...  và đọc nguyên tác thì thấy rõ người dấu mặt đã sửa đổi nhiều với dụng ý bất minh, đi ngược lại đạo đức của người cầm bút. Tôi xin nôm na gọi đó là một hành vi ma giáo.


Thể theo lời yêu cầu đính chính của tác giả Đỗ Hồng Ngọc, tôi xin nói lại cho rõ: bài Saigon Bây Giờ mà tôi vừa forward đến quý bạn ngày 1-3-15 vừa qua chỉ là một sự giả mạo, lạm dụng danh nghĩa tác giả với nội dung đã thêm thắt khác nhiều so với nguyên tác đã được posted từ ngày 28-4-2012. Vì không cẩn thận check lại trước khi phổ biến cho quý bằng hữu, JC đã vô tình tiếp tay cho hành vi đáng trách này. Xin chân thành cáo lỗi cùng tác giả Đỗ Hồng Ngọc và quý vị và cũng xin mọi người không phổ biến thêm, để giảm thiểu “tổn thất”.


Lá thư đính chính này cũng được gửi cho người đã trực tiếp forward đến tôi bài Saigon Bây giờ (dị bản) ngày 01-3-2015, với đề nghị forward tiếp cho đến tay người dấu mặt.


 


 


 


………………………………………………………………………………………….


 


Bản gốc bài Saigon bây giờ đã post trên www.dohongngoc.com ngày 28.4.2012


.


http://www.dohongngoc.com/web/goc-nhi...


 


Ghi chép lang thang: Saigon bây giờ…


Author: Bac Si Do Hong Ngoc | » Edit «


Saigon bây giờ…

Đỗ Hồng Ngọc


Saigon bây giờ không thấy có người đẹp nữa! Xưa ra đường cứ thấy người ta vừa chạy xe vừa… ngoái đầu lại nhìn. Bây giờ ra đường người con gái nào cũng trùm kín mặt, mang vớ dài tay, găng tay kín mít, áo khoác sùm sụp, đầu đội mũ bảo hiểm, chỉ chừa hai con mắt lom lom qua kính bảo hộ… !


Ở trên cao nhìn xuống người người dày đặc, từng luồng từng luồng cuồn cuộn trôi đi, lâu lâu cụng mũ bảo hiểm một cái rồi mạnh ai nấy đi, cứ như đàn kiến. Đi bộ trên đường nhiều khi gặp người chào hỏi thân thiện mà chẳng biết ai là ai, đến lúc như chợt nhớ ra họ mới gỡ khẩu trang cười lỏn lẻn. May thay, con gái Saigon bây giờ tuy che mặt mà lại hở đùi! Họ mặc quần short thật ngắn ra đường bất kể sáng trưa chiều tối. Nhờ đó mà cũng có thể nhìn ra người đẹp! Có điều hơi nguy hiểm cho giao thông công cộng vì đường sá không thông thoáng như xưa. Áo dài thì khó mà tìm thấy nữa rồi- trừ trên sân khấu và sàn diễn thời trang. Con gái vì thế mà không còn yểu điệu, dịu dàng, tha thướt nữa. Ngay cả những ngày lễ tết, ở đường hoa Nguyễn Huệ rực rỡ vậy mà cũng khó tìm thấy một tà áo dài. Mọi người trở nên hấp tấp, vụt chạc, căng thằng hơn bao giờ hết. Cái lý do vì sao mất áo dài rồi phải trùm kín mít cả người như vậy thì ai cũng biết. Bụi khói mù trời. Không khí hừng hực. Môi trường đô thị ngày càng xấu đi. Cây xanh tàn rụi. Cao ốc vùn vụt bốc lên!


Saigon bây giờ béo phì ngày càng tăng! Một sự phồn vinh thực chớ không phải giả tạo. Béo phì nhanh nhất ở phụ nữ và trẻ con. Các chuyên gia dinh dưỡng la ơi ới, báo động hoài mà chẳng ai thèm nghe. Nghe chi cho mệt. Các cửa hàng fastfood cứ mọc ra như nấm. Ai cũng biết fastfood tới đâu, béo phì, tim mạch, tiểu đường, huyết áp… theo tới đó. Mà bệnh tật càng tăng thì… càng tốt chớ sao. Thuốc men, thực phẩm chức năng, quảng cáo…ồn ào thì kinh tế càng phát triển. Thức ăn thức uống toàn hương liệu, hoá chất, bột nêm các thứ làm cho chuyện bếp núc trở nên đơn giản. Cứ xem TV thì biết. Người nào người nấy già trẻ lớn bé mặt mũi bóng lưỡng, hí hửng chụp giựt nước uống thức ăn, nhảy nhót mừng vui tưng bừng mọi nơi mọi lúc!


Saigon bây giờ cận thị quá trời! Trẻ con nứt mắt đã cận thị. Mẫu giáo tiểu học cận thị tùm lum. Tiệm kiếng mở ra tràn ngập, góc nào cũng có. “Chỗ nào rẻ hơn trả lại tiền!”. Ấy cũng nhờ vi tính, game online, TV… các thứ ngày càng hấp dẫn. Thế giới nhỏ trong lòng bàn tay. Trẻ con sướng như tiên. Đồ chơi trên trời dưới biển khắp hang cùng ngõ hẹp. Lâu lâu kêu có hóa chất độc hại. Khi biết thì mọi thứ đã muộn rồi. Kể cả thuốc “cam” nổi tiếng một thời nay gây ngộ độc chì không thuốc chữa. Lạ là người ta vẫn cứ tin và vẫn cứ nhắm mắt uống càng! Các loại sữa “thông minh” dành cho trẻ con ngày càng nhiều, khiến các bà mẹ không muốn cho con bú sữa mình nữa. Rõ ràng các thế hệ trước đây không được uống sữa thông minh nên có vẻ kém… thông minh!


Saigon bây giờ loãng xương hơi nhiều. Đi ngoài đường thấy người ta lố nhố, tụ tập, tưởng gì, hóa ra đang túm tụm đo xương! Có người tử tế, vì sức khỏe cộng đồng, đem máy đo mật độ xương ra ngoài đường đo cho ông đi qua bà đi lại. Ai cũng loãng xương kẻ ít người nhiều! Sau đó ai cũng mua một vài hộp sữa, một vài loại thuốc chống loãng xương là xong.


Saigon bây giờ đua nhau sửa sắc đẹp. Ai cũng sửa được, không cần phải học. Ai cũng nên sửa, từ cô hoa hậu đến ca sĩ, người mẫu, cô hàng xén, anh doanh nhân. Bơm vú bơm mông, cắt mắt, xẻ mũi, chẽ cằm rào rào. Ai cũng thành người mẫu ca sĩ Hàn quốc. Nhan sắc rộ lên khiến các nhà thơ… bí không còn làm thơ được nữa!


Saigon bây giờ trẻ con bỗng dậy thì sớm. Không dậy thì sớm cũng uổng! Mọi thứ kích thích cứ rần rật chung quanh. Phim ảnh, internet, sách báo… các thứ. Thức ăn thức uống béo bổ các thứ. Khí hậu nóng lên. Tỷ lệ phá thai vị thành niên tăng một cách đáng ngại. Tình trạng vô sinh cũng nhiều. Ly dị cũng mau. Người ta đua nhau mổ đẻ cho đúng giờ hoàng đạo. Trẻ sanh non, suy hô hấp, thiếu dưỡng khí não, lớn lên tâm thần cũng bộn!


Tóm lại, sức khỏe cộng đồng ở Saigon bây giờ có nhiều điều đáng suy gẫm.


…………………………………………………………………………………………….


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 04, 2015 06:34

February 28, 2015

Một bài viết cũ

mùi ruột bánh mì


Mười hai tuổi tôi mới biết bánh mì. Ở vùng

tản cư chỉ có khoai bắp cơm nguội và thỉnh thoảng

xôi. Từ Bàu Lời mẹ tôi theo người ta

về thành phố qua rừng già Suối Nước nơi có

cọp hay vồ đến Ba Hòn khô khốc Bưng Cò

Ke lạnh lùng ngủ lại một đêm sáng hôm sau

từ rất sớm gánh măng khô củi chổi chà về

Phan Thiết bán để mua chút gì đó tiếp tế cho

chồng con. An toàn qua được Camp Pacific

ai cũng mừng rơn vì Tây hay bố chặn đường

cướp sạch. Lần đó mẹ tôi mang về một cây

đàn mandoline nhỏ xíu giấu trong cuộn

chiếu cói cho ba tôi còn tôi đôi giày vải bata

trắng muốt. Cả nhà chung nhau mấy ổ

bánh mì. Thứ bánh lạ lùng lồi lõm khô đét vỏ nâu

nhạt như sườn đồi sau nhà hằng ngày mẹ tôi

vẫn gánh nước lên tưới bắp tôi lẽo đẽo theo

sau. Thứ bánh lạ lùng khô queo gọi là bánh

mì lại thơm một thứ mùi kỳ dị chưa nghe

thấy bao giờ. Khi tôi bẻ ổ bánh ra thì trời ơi

ruột nó trắng phau bốc mùi men thơm lựng

chua chua hòa với chút ẩm mốc đường rừng

xông lên mũi. Tôi hít đi hít lại mấy lần cho

thỏa cái mùi ruột bánh mì kỳ lạ mới biết lần

đầu. Tôi ngấu nghiến nhai nghiền ngậm tẩm

thật lâu đến khi ruột bánh tan biến lúc nào

không hay….



Đã sáu chục năm qua từ đó mỗi khi ăn bánh mì

tôi chỉ ăn phần vỏ…!


Đỗ Nghê

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 28, 2015 17:09

February 25, 2015

Thư gởi bạn xa xôi (Ất Mùi)

Mùng 8 Tết Ất Mùi (26.2.2015)


Thư gởi bạn xa xôi,


Mấy ngày Tết mình vừa làm một chuyến “giang hồ vặt” với gia đình lên Đà Lạt xuống Phan Thiết về Lagi chưa kịp lấy lại sức thì đã nhận không ít lời trách, sao không “tường thuật” ngay như đã hứa. Riêng Trần Vấn Lệ tung bài thơ…


Đời Là Cõi Phù Vân


Sáng.  Tôi gửi cho anh / một e mail chào sáng.  Chờ cho tới chạng vạng / không thấy cái reply!


…hay tôi gửi cho ai?  Gửi lộn thì thường lắm.  Tuổi tàn rồi hay lẫn (lạ, tôi không quên anh!).


…hay là mộng-không-thành?  Hay là mơ…khi thức?  Hay tôi làm anh bực:  “ngày nào cũng thấy mail”?


Nghĩ vậy, tôi buồn hiu.  Đăm chiêu rồi ướt mắt.  Phải chi đừng xa cách, mình gặp nhau mỗi ngày…


Mình…tay nắm bàn tay, núi sông kia đồ bỏ, cần chi nói thương nhớ, thấy nhau là có nhau!


Mỗi một ngày qua mau.  Tôi cảm ơn Trời Đất.  Tôi thắp nhang bàn Phật.  Nghe chuông Nhà Thờ ngân…


Tôi biết mình bâng khuâng / mà tỉnh hồn không được.  Chúng mình xa Đất Nước…rồi xa luôn niềm vui!


Quả thật tôi ngậm ngùi, trách chi đời dâu bể, trách chi mấy giọt lệ / nghĩ người như cố nhân!


Cố nhân ơi cố nhân!  Cầm bằng đàn lỗi nhịp.  Con đường còn đi tiếp.  Con đường nắng hoàng hôn  (*)


Quả thật tôi có buồn / thấy mình luôn có lỗi.  Anh không chờ không đợi…một tiếng chào thời gian!


Ngồi vê chút tuổi tàn, tôi nghe mình tủi tủi.  Hình như ai đó nói “đời là cõi phù vân”.


 


Trần Vấn Lệ



 


Đừng giận. Đừng “ngồi vê chút tuổi tàn, tôi nghe mình tủi tủi” nữa nhé.


Mình sẽ kể bạn nghe theo kiểu ghi chép lang thang vậy nhé.


 


28 Tết nhận email của NM:


Anh Ngoc kinh,


Em bi benh gan mot tuan roi. Phai an chao khong dam an com. Va nghi ngoi nhieu hon…


…………..


NM


 


Mình đã vội vàng trả lời:


Bệnh gan là sao? Có vàng da vàng mắt, đau hông phải không? Nếu là bệnh viêm gan cấp tính, có thể có cả sốt nữa. Phải nằm nghỉ. Ăn cháo + đường. Tránh dầu mỡ. Chừng 10-14 ngày sẽ… tự khỏi. Dĩ nhiên phải uống thuốc “theo toa bác sĩ”…


Thiệt là bé cái nhầm. NM vôi vàng cho biết tại viết tiếng Việt mà không bỏ dấu nên mới ra nông nỗi: Cô chỉ muốn nói “bị bệnh gần một tuần rồi” mà thành bệnh viêm gan trời ạ! Làm thầy thuốc nhiều khi « hại người » là vậy !


Longriver Dinh, tức Đinh Trường Giang năm con Dê này có mấy bức Thiệp xuân thật tuyệt vời. Người tên D khen lắm và Dinh bảo “cô hại cháu rồi, chú Ngọc sẽ cười cháu chết”. Chú Ngọc không cười. Mà phục lăn. Cái hình con dê của Giang hùng dũng quá! Cứ y như ngựa chiến. Còn hơn cả ngựa chiến. Thấy cái ông ngồi thiền bên dưới lắc lư không?


Mùng Một như thường lệ nhận được bài thơ Đường luật khai bút đầu năm của Chú Khê (GS Trần Văn Khê mình vẫn quen gọi thân tình bằng chú vì ông là bạn thiếu thời của cậu Nguiễn Ngu I). Thơ xướng họa cho vui thôi mà, nhưng hữu ích vì nó sẽ giúp làm chậm tiến trình… lão hóa, giảm tốc độ Alzheimer. Gởi bạn xem cho vui. Có hứng thì họa.


 


Đầu năm Ất Mùi


Khai Bút: TỰ THUẬT


 


Còn năm năm nữa đúng mười mươi


Sống khoẻ nhờ ơn Đức Phật Trời


Nguồn cạn, sông ngòi luôn sống động


Cây già, cành lá vẫn xanh tươi


Ngón đàn có kém hồi trai trẻ


Trí nhớ không thua lúc thiếu thời


Tiếp tục lưu truyền văn hoá Việt


Không quên tận hưởng phút nhàn thơi


 


Ất Mùi Nguyên đán


Giờ Thìn 8g15 19/02/2015


Trần Văn Khê


 


Họa thơ chú Khê


Tết Ất Mùi 2015


 


Đâu ngỡ ông đà quá chín mươi


Dẻo dai sức khỏe hẳn ơn Trời


Phần trên một nửa đầy linh hoạt


Bên dưới nửa phần có kém tươi


Nâng bút hào hoa như phượng múa


Ôm đàn âu yếm vẻ sung thời


Bởi tâm trong sáng vì nòi Việt


Nên dẫu bộn bề vẫn thảnh thơi!


Đỗ Hồng Ngọc


Ấy là nhớ Cô Dược sĩ Tường Vân, bạn chú Khê ở Paris nói chú Khê nửa phần trên thì tốt lắm, trí nhớ tuyệt vời, còn nửa phần dưới thì hết xài, phải đi xe lăn!


Cô Tường Vân đã mất năm ngoái 93 tuổi!


 


Mùng 2 Tết, đang ở ĐàLạt thì nhận cú phone của Nguyễn Lệ Uyên từ Tuy Hòa gọi chúc Tết và kêu vẽ ngay cho một cái chân dung để làm bìa tập sách của bạn do Thư Quán bản thảo Trần Hoài Thư sắp in. Vẽ thì vẽ. Cái kiểu vẽ “trời ơi” của mình không ngờ… đắt khách.


NLU Nào Lữ Quỳnh, rối Khuất Đẩu, Lữ Kiều, Trần Vấn Lệ và bây giờ Nguyễn Lệ Uyên. Nhớ Nguyễn Lệ Uyên có nét khắc khổ, cương nghị mà văn chương thì bay bổng… mình vẽ đại. NLU bảo rất OK!


Đường đi ĐL bây giờ đã khá tốt, trừ đoạn từ Di Linh lên thì chưa sửa xong. Đường cao tốc Saigon-Dầu Giây cũng đã giúp rút ngắn thời gian được cả tiếng đồng hồ. Chuyến đi Đà Lạt nào tới chân đèo Bảo Lộc mình cũng đến cái quán quen bên bờ suối, nằm võng, đọc sách và làm một ly cà phê sầu riêng. Sầu riêng ở đây đặc biệt ngon. Cô chủ quán nói không xài thuốc hóa học, phân hoá học, yên tâm. Đường đèo bây giờ rộng nên không còn thấy sâu và cao như xưa. Nhớ xưa lên đèo Bảo Lộc đã nghe lùng bùng lỗ tai!


Mùng Một, Đalat vắng hoe. Phone đặt bữa ăn tối. Chủ quán nói Mùng 6 mới khai trương. “Chè hé” cũng không hé. Không thấy cả bánh căn! Tối lạnh 16 độ. May thay, cổng chợ, gần hồ Xuân hương vẫn sữa đậu nành, khoai nướng, bắp nướng. Lên khu Hòa Bình, chui vào một cái bar chen chúc. Đalat đây rồi. Các bạn trẻ nam nữ ngồi đầy. Tóc đuôi gà. Áo manteau. Mỗi người loay hoay với chiếc điện thoại thời trang rôm rả.


IMG_DL dem IMG_DL HXH


Vì đi với gia đình, cả nhà đông đúc, không có giờ để thăm bạn bè. Biết Nguyễn Dương Quang đằng kia, Nguyễn Quang Tuyến đằng đó, Nguyễn Sông Ba nữa… mà đành chịu. Hẹn dịp khác nhé.


Sáng Mùng 2 thăm Đường hầm điêu khắc, cũng gọi là Đường hầm đất sét, chỉ ấn tượng với bản nhạc Ai lên xứ hoa đào của Hoàng Nguyên bằng đất sét trên vách núi …


IMG_DL nhac


Chiều, lén trốn mọi người, kêu taxi ra café Tùng. Đã hơn 50 năm rồi đó. Không thay đổi. Vẫn những bức tranh xưa. Cầu thang nhỏ. Quày thu ngân núp một góc. Dãy ghế dài bọc sát tường. Mọi người ai đến cứ thấy chỗ nào trống thì chen vào.  Lạ thành quen. Gần gũi. Thân mật. Ấm cúng. Mấy người bạn già thì thầm bên nhau, tay nắm tay. Hai cô gái trẻ chui dưới gậm cầu thang. Vài người khách nước ngoài. Mọi người vào đó như về nhà. Thở cùng một thứ không khí. Chính cái không khí đó – cái không khí của nửa thế kỷ trước vẫn còn y nguyên đó- làm nên café Tùng. Hai vợ chồng người chủ quán trẻ là cháu của ông Tùng trông tử tế, nhã nhặn và rất dễ thương. Họ chỉ này tranh Đinh Cường, này tranh Cù Nguyễn…Tôi lục trong túi xách chỉ còn một cuốn Một nếp sống hạnh phúc bèn trao tặng. Nhớ năm xưa ra Hà Nội, đến café Lâm cũng thấy cái không khí đó cùng những bức tranh nho nhỏ của Nguyễn Sáng, Dương Bích Liên, Bùi Xuân Phái…, nhưng sau này quán đã thay đổi hẳn, làm mất luôn cà phê Lâm. Thật tiếc.


Mùng 3. Lên đường về Phan Thiết. Ái chà. Hết lên núi lại xuống biển. Đi theo đường mới, quốc lộ 28, từ Di Linh về thẳng Phan Thiết, qua ngã Ma Lâm. Đường khúc khuỷu quanh co ngoằn ngoèo đến chóng mặt. Đèo núi trùng trùng điệp điệp.


IMG_DL Deo Qua Gia Bắc, dừng lại quán bên đèo nghỉ chút. Qua Ma Lâm, rừng dày đặc, âm u, huyền bí, rờn rợn ma Hời. Ghé đập sông Quao. Mười hai năm trước đã đi cùng Má và gia đình đến đây. Nguyên, đứa cháu nội lúc đó chưa đến hai tuổi, nay đã 14 tuổi, cao hơn ông nội rồi!


Đất đá khô cằn. Nhưng ô kìa. Một bầy dê hàng trăm con. Dê ơi là dê. Năm Mùi gặp dê là hên. Người ta nói vậy. Lửng thững là một con dê chúa, hình như đi muốn không nổi!


IMG_DL de IMG_DL de chua


Về Phan Thiết. Tắm biển một chút vì còn lạnh. Rồi Lagi. Ghé qua nhà. Thăm bà con. Dì Hai đã 103 tuổi. Chị Oanh, chị Thủy, chị Lệ, các em Đào, Phượng…


Về đến Saigon đã khuya. Tối mùng 5 còn đi dự buổi họp mặt thân hữu hằng năm của Thầy Giác Toàn ở ngôi chùa mới tận quận 2. Đông vui. Buffet chay khá ngon. Thầy còn gởi tặng chè xôi nước mang về !


Hôm qua mới mùng 7. Vẫn còn Mùng. « Lão y » như mình thì Mùng nào cũng là Mùng. Nhân ngày Thầy thuốc VN, Hội quán Các bà mẹ có sáng kiến tổ chức buổi họp mặt chúc mừng các thầy thuốc nơi một quán cà phê nhỏ. Chủ quán là nhạc sĩ trẻ Trần Đức Tiến hát cho nghe mấy bài mới sáng tác thiệt hay : « Nhớ hộ em, tình tôi » và « Chỉ yêu thôi mà ! ». Mình yêu cầu NH hát cho nghe bài « Nha Trang ngày về » vì lỡ một chuyến về Nha Trang! NH hát thiệt hay, thiệt có hồn. Lại nhắc, sắp đến sinh nhật TCS rồi đó. Mọi người lại hát Diễm xưa, Phôi pha… ! Bác sĩ Thạc cũng góp vui, hát mấy bài TCS và cả Đức Huy: Và tôi cũng yêu em…


Một buổi họp mặt êm đềm.


Về nhà bỗng nhận được món quà quý của GT từ Paris gởi. Xâu chuỗi ngọc lưu ly xanh biếc của Phật Asuc (Aksobhya) tức Phật Dược Sư ở Phương Đông.  Nghe nói xâu chuỗi này vốn của một ông thầy thuốc kiêm… phù thủy ở Tây Á! Vậy là vui rồi !


 


Hẹn thư sau,


Đỗ Hồng Ngọc.


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 25, 2015 19:55

February 17, 2015

Thư gởi bạn xa xôi: LU BU NGÀY TẾT

Thư gởi bạn xa xôi,


LU BU NGAY TET


Hôm nay đã 29 Tết rồi mà mình chẳng “nghe” chút Tết nào cả! Chắc tại không còn mấy xe ba gác đánh trống cắc cắc bùm bum rộn rã bán đầu lân trong các con hẽm nhỏ khu Bàn Cờ như mọi năm, tuy vậy hôm qua mình cũng đã đi kiếm mấy chậu hoa Sadec về chưng cho có Tết.


May thay, có cái thiếp chúc Xuân Ất Mùi tuyệt đẹp của Longriver Dinh vừa gởi về làm mình lại thấy có Tết rồi bạn ơi. Bạn xem có tuyệt không nhé!


IMG_ TGB (De)


Rồi trên blog Nguyệt Mai, đọc được mấy câu thơ rất hay của Khánh Minh:


… Thức dậy với mùa xuân đang đến

Ngày lại mở ra như biển

Làm sao kìm tôi không tràn bờ


Thế là lại sống như mơ


(Thức dậy với mùa xuân, NTKhánh Minh)


Sáng nay mình thức dậy… tuy không thấy tràn bờ gì cả nhưng cũng đi một vòng lên Bình Dương chơi. Đường đã bắt đầu vắng. Ra ngoại ô mới thấy Tết rõ hơn. Ghé thăm một bạn già. Anh Nguyễn Hiếu Học, hơn bọn mình vài ba tuổi. Anh đem bao nhiêu là tài liệu của Bùi Giáng, Sơn Nam… ngày xưa về chơi ở Bình Dương với anh ra khoe. Vui lắm.


IMG_TGB NHH Bọn mình phone nói chuyện với  Mỹ Hiền, dân Lái Thiêu, cô sinh viên vừa trình luận văn Thạc sĩ văn chương tại đại học Khoa học xã hội và nhân văn Tp.HCM, rồi phone cho GS Huỳnh Như Phương, người ngồi hội đồng giám khảo hôm đó…



Sáng hôm qua, 28 Tết, “tranh thủ” đi thăm sớm các gian hàng sách ở Đường Hoa và Đường Sách năm nay ở đại lộ Hàm Nghi. Chỉ đến đường sách thì mình mới gặp nhiều bạn trẻ và độc giả quen thân. Người xin chữ ký, người ân cần dẫn mình giới thiệu chỗ bày mấy cuốn sách “longseller” của mình.


IMG_TGB Sach 6 Ở đây nhộn nhịp lắm, không có vẻ gì là “cô hàng bán sách lim dim ngủ / thầy khóa tư lương nhấp nhổm ngồi” (TX) cả đâu!


IMG_TGB Sach 3


IMG_TGB sach 4


Phải kể chuyện dài dài cả tháng Chạp này cho bạn nghe nữa ư? Ừ thì kể. Bọn y khoa (khóa 62-69) mình tụ tập ở nhà anh Thành chị Hoa tận Thủ Đức để ăn giỗ! Ôi người trẻ nhất cũng đã 72 rồi! Mày mày tao tao một lúc mới thấy cả bọn… trẻ lại không ngờ. Tuần rồi mình lại được mời dự họp mặt “Lão Y” của Sở Y tế. Gặp nhau nhìn một lúc mới… à há! Rồi cùng mà cả cười!


19 tháng Chạp (7.2.2015) theo lời mời của Dương Thụ, mình đến Café Thứ bảy “chủ trì”  buổi nói chuyện của GS BS Nguyễn Chấn Hùng về đề tài “Dàn hòa tấu kỳ diệu!” tức là hệ thống các tuyến nội tiết. BS Nguyễn Chấn Hùng sau bọn mình một lớp nhớ không? Anh thường ví von thú vị như vậy!… Hai bạn già “tung hứng” một bữa cũng vui. Khán thính giả đăt nhiều câu hỏi khá sôi nổi. Mình đặt vấn đề về Mối liên quan giữa hệ thống tuyến nội tiết và các luân xa (?) nhưng phải để lại một dịp khác vì không còn thời gian.


20 tháng Chạp thì dự buổi ra mắt tập san Quán Văn số Xuân của Nguyên Minh ở Café Lọ Lem, Phú Nhuận! Ôi chà, gặp bao nhiêu là bạn bè văn nghệ. Tay bắt mặt mừng!


IMG_TGB QV Từ ngày làm Quán Văn, Nguyên Minh có vẻ… trẻ hẳn ra. Ngồi một lúc, mình lại phải chạy “show” qua nhóm Liễu Quán, tờ Tạp chí tuyệt đẹp của các thầy ở Huế, cũng vừa in xong. À quên, ngày 12 tháng Chạp có buổi kỷ niệm 10 năm báo Văn hóa Phật giáo tổ chứa rất long trọng ở Thiền viện Vạn Hạnh nữa chứ! Mười năm… biết bao nhiêu tình phải không?


Rằm tháng Chạp TS Nguyễn Tường Bách (ở Đức về, cùng nhóm bạn Kailas – vì các bạn đã đi Kailas Tây Tạng mấy năm trước) rủ mình đi thăm thầy Viên Minh ở Bửu Long, một ngôi chùa Nguyên thủy rất đẹp, bên bờ sông Đồng Nai. Cùng đi có “đạo tràng” của Ni cô Pháp Đăng (Khonchog Chodron / Tuyết) phái Mật tông Nepal.


IMG_TGB NTB


Mọi người được nghe HT Viên Minh thuyết pháp một bữa thiệt hay về phương tiện và phương pháp trong tu học. Thầy giới thiệu mình với mọi người là “bạn vong niên” của Thầy, bởi từ nhiều năm qua mình vẫn thỉnh thoảng đến chơi, đàm đạo cùng Thầy khi thì Viên Không, khi thì Bửu Long. Nhân dịp có 2 nhóm cùng đến thăm Thầy, mình đi theo “coi” cho biết!


Có câu chuyện vui cuối năm: NM viết thư nói “bi benh gan tuan nay”, mình đã tận tình chỉ cách chăm sóc sao cho mau khỏi thừ bệnh Viêm gan cấp tính này. Ai dè vì email không bỏ dấu khiến mình hiểu lầm chớ NM chỉ nói bệnh gần một tuần thôi! Tiếng Việt không bỏ dấu thật nguy hiểm bạn thấy không!


Hẹn thư sau.


Đỗ Hồng Ngọc.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 17, 2015 22:56

February 14, 2015

THỬ SƠ PHÁC CHÂN DUNG ĐỖ HỒNG NGỌC (tiếp theo)

THỬ SƠ PHÁC CHÂN DUNG


   ĐỖ HỒNG NGỌC (tiếp theo)


 


Nguyễn Hiền Đức


(Tổng hợp và giới thiệu)


 


4. Nhân sinh quan của Đỗ Hồng Ngọc


Tôi “lượm lặt” từ các cuốn sách, từ các bài viết, trả lời phỏng vấn của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc để tìm hiểu về nhân sinh quan của ông:


1. Trong cuộc sống điều quan trọng nhất có lẽ là thấy mình sống có ích, sống hạnh phúc và sống thảnh thơi. Tôi từ chối nhiều “ghế”, nhiều địa vị khác vì chỉ muốn làm điều mình thích, trong khả năng mình, nhờ vậy mà làm việc gì cũng thấy vui, thấy hăng say. Một người làm việc trong tinh thần bất mãn, không hài lòng với chính mình, căm ghét những người xung quanh hoặc làm việc chỉ vì sợ hãi, vì kiếm sống, vì đồng lương thì rất dễ so đo tính toán, thiếu nhiệt tâm, thiếu sảng khoái… và công việc được giao trở nên một gánh nặng…


2. Tôi sống theo một triết lý… thảnh thơi, hồn nhiên, có người cho là  ngây thơ nữa. Tôi có điều kiện để làm giàu nhưng tôi chỉ làm… vừa đủ. Tôi theo gương và thích phong cách, lối sống của: Nguyễn Công Trứ: “Tri túc tiện túc đãi túc hà thời túc! Tri nhàn tiện nhàn đãi nhàn hà thời nhàn!” (Biết đủ thì đủ, đợi đủ bao giờ cho đủ? Biết nhàn thì nhàn, đợi nhàn bao giờ mới nhàn?). “Biết đủ dầu không chi cũng đủ / Nên lui đã có dịp thì lui” là hai câu thơ của cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị mà tôi rất thích. Tôi luôn nhớ và thực hành lời khuyên của Nguyễn Hiến Lê: “Đừng để nghèo túng, nhưng khi đủ ăn rồi thì đừng ham làm giàu, dành thì giờ làm chuyện khác có ích hơn”. Và với Trịnh Công Sơn: “Nhạc Trịnh với tôi không chỉ để nghe mà để ngẫm, để ngấm. Nhiều ca từ tôi nghĩ phải ở trong thiền định mới thấy được”.



3. Gia đình là cái nôi đầu tiên của một em bé và sẽ còn tiếp nối trong suốt cuộc đời của mỗi con người. Nếu gia đình bền vững, hạnh phúc, thì con cái sẽ có chỗ dựa. Cuộc sống bây giờ nhiều gia đình bị lệch hướng, bị xáo trộn, sẽ có ảnh hưởng đến tâm sinh lý của trẻ thơ và từ đó gây bất ổn cho xã hội. Vì thế, cần thiết phải xây dựng gia đình thành tổ ấm để làm chỗ dựa cho tất cả thành viên…


Bởi chỉ có gia đình mới có thứ tình yêu thương đích thực, mới là bóng mát chở che cho mỗi thành viên. Bởi chỉ có gia đình mới có thể đem lại sự sảng khoái (well-being) về thể chất, tâm thần và xã hội, để từ đó mà có được niềm vui và hạnh phúc. Một bữa cơm sum họp, lành mạnh, đạm bạc trong thời buổi ngộ nghỉnh này… đủ đem lại sức khỏe, niềm vui không phải tự trên trời rơi xuống, không phải bỗng dưng mà có vậy!


4. Đừng bao giờ coi mình là kẻ thù của mình. Hãy biết yêu thương mình, cho nó ăn, cho nó ngủ, và dạy dỗ nó. Nó có hư thì đánh nó vài roi, rồi thương nó nhiều hơn. Một người mà không thể từ bi với chính mình thì làm sao có thể từ bi với người khác được?


5. Tiền rất cần cho cuộc sống. Nhưng biết đến đâu là đủ thì phải có ý thức, biết tự hạn chế, không chạy theo đồng tiền, nhất là đồng tiền phi nghĩa. Sự giàu có do đồng tiền phi nghĩa không bền vững, gia đình có thể đổ vỡ, con cái hư hỏng nữa. Phải chọn lựa. Kiếm tiền chính đáng, tiêu dùng chính đáng thì sẽ có được hạnh phúc. Người giàu có là người ít nhu cầu chứ không phải nhiều tiền, vung tiền qua cửa sổ. Bây giờ nhiều bạn trẻ ỷ lại cha mẹ, chạy theo hàng hiệu, rượu, thuốc… tốn kém thật đáng tiếc. Danh vọng cũng vậy. Cũng cần thiết, nhưng phải chính đáng, và phải biết dừng lại đúng lúc, lui về đúng lúc. Nếu danh vọng xây trên năng lực thực sự của mình là điều đáng mừng. Còn “danh vọng” mà xây trên một cái nền giả tạo rất dễ sụp đổ.


6. Sự thành công nào cũng là kết quả của 95% cố gắng và 5% may mắn, còn vấp ngã thì cũng là một cơ hội. Trong cái rủi có cái may, trong cái vấp ngã có cái mầm của sự… thành công. Vấp ngã, mình càng rèn chí, quyết tâm tự học, đức tính này rất cần cho bất cứ ai.


7. Phải nhìn thẳng vào cuộc sống vốn “quá đỗi bấp bênh” đó đi đã! Nói khác đi, phải thấy “vô thường”. Thấy và hiểu nó, thương nó. Hiểu nó, thương nó thì không cần phải làm cho nó khổ đau thêm. Trịnh Công Sơn từng viết “Đời tôi ngốc dại tự làm khô héo tôi đây… Nửa đêm thức dậy / Ngồi ôm tóc dài / Giật mình lau trắng trong tay…”.


Con người sở dĩ khổ đau chính vì lòng “tham” không đáy của mình. Con người hiện đại lại càng tham lam hơn bao giờ hết. Có người đã bán đất trên mặt trăng, có người định làm bất động sản ở hành tinh khác. Khi lòng tham không đạt được thì nổi giận, hung hăng, đấm đá, thì đó chính là “sân”. Sân thì lọt ngay vào địa ngục! Vì sân thì đỏ mặt tía tai, lửa giận bừng bừng, đốt cháy tâm can đó thôi. Mà nguồn gốc sâu xa cũng chỉ vì “si”, vì tưởng rằng… trời đất này là của ta, biển hồ này là của ta, nhân loại này là của ta, tưởng tượng ta trường sinh bất tử, nhất thống giang hồ, muôn năm trường trị…


8. Không hạnh phúc cũng chính là “chất liệu” của hạnh phúc. Phải trải nghiệm “không hạnh phúc” rồi mới nhận ra hạnh phúc. Hạnh phúc rất đơn sơ. Vấn đề là nhận ra. Nó quanh ta mà nhiều khi ta không thấy biết. Đến khi “mất hạnh phúc” rồi ta mới nhận ra. Cũng như tình yêu vậy. Tình yêu là gì không biết, nhưng khi mất tình yêu thì sẽ nhận ra. Biết sống ở đây và bây giờ, nghĩa là biết sống trong hiện tại, biết nhận ra vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh chính là “thường lạc ngã tịnh”, biết sống với tâm từ bi hỷ xả thì sẽ thấy được hạnh phúc. Ở mặt khác, chân thành, tôn trọng và thấu cảm là những nguyên tắc sống cho người bạn trẻ để tìm thấy hạnh phúc. Em hồn nhiên rồi em sẽ bình minh như một câu hát của Trịnh Công Sơn. Tổ chức Sức khỏe Thế giới (WHO) định nghĩa Chất lượng cuộc sống là một cảm nhận rất chủ quan của mỗi người từ trong nền văn hóa của họ…


9. Cái quan trọng nhất là thái độ sống của mình, dẫn đến cách sống. Đó là một sự chọn lựa. Đừng chờ đợi hạnh phúc, nó chẳng bao giờ đến, mà phải biết nhận ra hạnh phúc ở đây và bây giờ. Hạnh phúc mới là điều cần thiết nhất cho cuộc sống chứ không phải “thu nhập bình quân đầu người” mang tính vật chất. Nó nằm trong nền tảng văn hóa, liên quan đến thể chất, tâm thần của cá nhân và môi trường chung quanh.


Hạnh phúc có khi sờ sờ ra đó mà ta không hay, cứ lo chạy đi kiếm tìm nơi khác. Hạnh phúc đi rồi hạnh phúc đến rồi hạnh phúc đi, cứ như hơi thở vậy. Cứ để nó đến nó đi. Sinh trụ dị diệt. Vấn đề là làm sao để thấy nó, nhìn ra nó. Hạnh phúc có thể định nghĩa như vậy, sự an lạc thân tâm. Nhưng nên nhớ câu hỏi “Làm thế nào để an trụ tâm, làm thế nào để hàng phục tâm” từ ngàn xưa vẫn còn y đó. Loài người vẫn mãi đi tìm hạnh phúc. Nhiều khi dừng lại thì thấy, nhưng đâu có dễ phải không?


10. Tôi thường tự hỏi: Tôi khác gì tôi xưa? Xưa là hôm qua, là mười năm trước… Tôi thấy hình như tôi biết thở hơn (chánh niệm), biết ăn và biết… ngủ hơn (kham nhẫn, tri túc). Tóm lại, nhờ tự hỏi như vậy, tôi dần biết “tự tại” hơn. Và từ đó, “từ bi” với mình và với người hơn!


11. Stress không phải từ bên ngoài. Người ta hay nói đến hoàn cảnh sống căng thẳng, nhưng thật ra, stress từ tâm tị nạnh ganh đua không thiện mà ra. Theo đạo Phật, nghèo hay giàu đều có cách giữ cho tâm lạc. Không được đổ thừa hoàn cảnh. Gọi Phật là “y vương” vì chú ý cả hai: chữa cả bệnh và hoạn. Tôi đã học được điều đó qua lần bản thân bị tai biến mạch máu não phải mổ cấp cứu ở sọ. Khi nằm viện, bác sĩ cho uống rất nhiều thứ thuốc. Tôi biết trong số đó chỉ có vài thứ cần thôi, còn cần chữa thiết yếu là từ nguyên nhân cách sống căng thẳng. Trong kho tàng Phật học, cách điều trị tâm chuyển đổi tâm có kết quả hơn, làm mình thanh thản, sảng khoái hơn.


12. Bừa bộn là một sự sảng khoái khó có được trong thời buổi này, ở lứa tuổi này.


13. Văn chương chẳng đã làm cho người ta rướm lệ, cho người ta hả hê vui sướng đó sao? Nói khác đi văn chương có thể “gây bệnh” hoặc “chữa bệnh”, làm cho người ta thêm đau khổ hay làm cho người ta thêm hạnh phúc được lắm chứ. Nhiều thầy thuốc đã trở thành nhà văn vì có dịp tiếp xúc với “con người” một cách tròn vẹn: thể chất và tâm hồn. Những Tchekov, Lỗ Tấn, Somerset Maugham, Cronin… và ở ta cũng không thiếu.


14. Kahlil Gibran có hai câu thơ thiệt dễ thương: Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy / Ta được thêm ngày nữa để yêu thương. Ngày nữa để yêu thương thấy chưa, chớ không phải ngày nữa để oán thù, căm giận. Dù ở thế kỷ nào đi nữa, mỗi sớm mai thức dậy cũng nên “cảm ơn đời” đã cho ta một ngày mới, một ngày mới để yêu thương. Dĩ nhiên thanh niên phải rèn luyện thể lực. “Bắp thịt trước đã”, có một cuốn sách như vậy. Thanh niên mà đi đứng co ro, lụm cụm, bụng to, thịt nhão, sáng sáng ngồi đốt thì giờ trong quán cà phê nhả khói mù trời thì thật đáng tiếc. Một tâm hồn minh mẫn trong một thân thể tráng kiện, nhớ không? Sau đó phải thực hiện cho được những dự định đã vạch ra từ… ngày hôm trước. Dĩ nhiên phải chọn ưu tiên, linh hoạt. Cái nào phải làm, cái nào nên làm. Vui mà làm, thích mà làm. Hòa mình với bạn bè chung quanh. Buổi chiều, buổi tối, là cơ hội học tập thêm. Nhiều thứ cần phải học lắm. Ngoại ngữ, vi tính, kỹ thuật chuyên môn. Rồi học một thứ để nuôi dưỡng tâm hồn: văn chương, nghệ thuật, âm nhạc, hội họa… ngay cả làm bánh, nấu ăn, cắm hoa… Một giấc ngủ êm đềm sẽ đến thay vì nhậu nhẹt ở quán bia ôm để rồi sáng mai dậy trễ, uể oải và nhìn mọi người với ánh mắt… mang hình viên đạn!


15. Kiểu “sống thử” của một số bạn trẻ bây giờ dễ được nam giới ủng hộ, nhưng sẽ là một nguy cơ cho nữ giới. “Thử” thì thử bao lâu, với những ai? Lúc nào thì “thiệt”? Có thể tin nhau được không?… Đời sống có vẻ bấp bênh hơn. Chưa đám cưới đã tính ngày li dị! Rồi về sinh học. Nhiều em bây giờ lạ, nam không ra nam, nữ không ra nữ. Hồi xưa, nam “râu hùm hàm én” thì cần một người yều điệu thục nữ, còn nữ thì cần một nam nhi đúng nghĩa. Bây giờ hình như khó tìm hơn… Không ai hoàn hảo. Cuộc sống cần chút liều lĩnh, “mắt nhắm mắt mở” nữa… Vả lại, con người luôn thay đổi, khi sống với nhau, người ta có thể dần dần ảnh hưởng đến nhau.


16. Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc. Trái tim có cách nghĩ riêng của mình mà nhiều khi trí óc không sao hiểu được. Thời đại của chúng ta, con người dùng khối óc nhiều quá, nhiều đến nỗi người ta luôn ở trong tình trạng “điên cái đầu”. Hãy tự tại hơn để từ bi hơn!


17. Phải luôn luôn rèn luyện ý chí và nghị lực. Phải coi trọng việc tự học,  và tự học phải có phương pháp, đọc nhiều các loại sách đã được chọn lọc kỹ. Nhưng không chỉ đọc, chỉ học mà phải hành. Có khi phải khắt khe với mình một chút. Nghị lực sẽ tăng tiến dần. Và từ đó mình mới tự tin hơn. Viết văn, dạy học cũng là một cách học.


18. Tôi chỉ viết những gì mình thực sự trải nghiệm. Viết là cách chia sẻ kinh nghiệm chứ không phải từ sách vở mà ra. Khi viết, tôi luôn tưởng tượng như có độc giả đang ở trước mắt mình và đang trò chuyện với mình. Có lẽ kiểu viết như thế làm cho người đọc cảm nhận được người viết và độc giả có sự gần gũi, chia sẻ, trao đổi một cách chân thành với nhau, không kiểu cách, xa lạ.


19. Cái gì biết nói biết, cái gì không nói không. Trong sự giao tiếp, cần nhất là sự chân thành, sau đó sự tôn trọng, và thấu cảm. Khi thấu cảm, tức là đặt mình vào vị trí của người, ta sẽ rất dễ gần gũi, chia sẻ và được chấp nhận.


20. Ai cũng có những lúc đau buồn, tức giận, chông chênh… trong cuộc sống riêng, nhưng cũng phải vượt qua thôi. Những năm có tuổi, nhất là sau đợt bị tai biến, tôi nghiên cứu sâu và thực hành Thiền, thấy có nhiều hiệu quả, góp phần giải stress và giữ đời sống cân bằng hơn.


Có những đau khổ phải biết cách chấp nhận. Nói là thời gian sẽ giải tỏa, thật ra cũng chả nguôi ngoai. Sự an ủi tốt hơn là hiểu nguyên lý cuộc sống, hiểu sinh – tử.


21. Nhỏ thì thích dấn thân, khi có tuổi thì thích an nhàn và về… già thì say mê nghiên cứu Phật học, để ứng dụng vào đời sống, vào nghề nghiệp! Học nhiều mới đã, mới sướng. Bây giờ có tuổi cũng không biết mình già, vẫn còn ham học lắm. Chia sẻ kinh nghiệm, hướng dẫn đàn em là ước mơ lớn nhất… vì đó cũng là cơ hội để học hỏi.


* * *


Đến đây, đọc lại nhiều lần bài viết này, thấy rằng mình đã cố gắng làm được mỗi một việc là ghi ghi, chép chép, tổng hợp và lắp ghép nhiều mảnh, nhiều chi tiết để hình dung đôi điều về chân dung Đỗ Hồng Ngọc. Tôi biết rất rõ những hạn chế lớn của mình khi phải làm một việc quá sức này. Vì vậy, tôi lại phải “vịn” vào người khác, mượn lời của người khác mà thưa xa thưa gần với bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Rằng, nhà văn Hồ Anh Thái trong bài Chân dung người chưa gặp in sau phần Lời nói đầu cuốn Nắng và Hoa của Giáo sư Cao Huy Thuần, có đoạn viết: “Đọc Nắng và Hoa, tôi hình dung ra đôi nét chân dung tác giả Cao Huy Thuần như vậy. Cứ bằng kiến thức triết học Phật giáo mà ông rất thấm nhuần, có lẽ ông sẽ thấy chân dung đó là mình mà chẳng phải mình. Ông đã từng bảo: “Tôi vốn không bao giờ cãi khi người khác nói tôi thế này thế nọ. Không cãi, vì cãi là mắc vào cái bẫy. Cái bẫy của chữ là. Tôi không trắng không đen, cũng không vừa không đen không trắng. Nhưng tôi cũng có trắng có đen mà không phải là dơi chuột. Là cái gì, tùy bạn. Tôi chỉ biết rằng tôi như thế thì tôi nhẹ nhàng trong cuộc đời. Như mây”. (Nắng và Hoa, NXB Văn hóa – Văn nghệ, tái bản lần thứ hai, quý IV. 2013, tr. 13).


Tôi cảm thấy an tâm hơn, trước khi khép lại cái tạm gọi là sơ phác chân dung Đỗ Hồng Ngọc. Vì Cao Huy Thuần và Đỗ Hồng Ngọc là hai người bạn thân thiết, tri âm tri kỷ, đồng bệnh tương lân.


Vâng, tôi nghe như vầy, thưa bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc.


Kính trình,


Nguyễn Hiền-Đức


(2014)


……………………………………………………………………………………..


Thư gởi Nguyễn Hiền Đức


Anh Nguyễn Hiền Đức thân mến,


Trước hết, tôi muốn nói lời chân thành cảm ơn anh nơi đây. Cảm ơn vì thật không ngờ anh đã dõi theo hành trình viết lách của tôi trong nhiều năm tháng, rồi còn chịu khó “góp nhặt” dông dài để làm nên cái gọi là “Tuyển tập Đỗ Hồng Ngọc” này mà bản thân tôi chưa nghĩ đến. Cảm ơn vì anh đã cho phép tôi được “tùy nghi” trích một vài đoạn trong phần 1: Thử sơ phác chân dung Đỗ Hồng Ngọc của tập bản thảo dày cộm để post lên trang này chia sẻ cùng bè bạn gần xa. Như anh thấy đó, tôi đã bỏ đi phần anh viết về gia đình mình và thực lòng cũng định thôi, không post phần “Nhân sinh quan của Đỗ Hồng Ngọc” này, bởi nó có vẻ lớn lao quá với tôi, một người chỉ “lang thang, lõm bõm, thấp thoáng…”. Nhưng anh hình như biết ý đã nhắc tôi không được bỏ, vì đây là  “công phu” của anh không chỉ là chuyện sưu tập mà còn mang tính “sáng tạo” riêng nữa. Sáng tạo bởi chính anh nghĩ ra chuyện “Nhân sinh quan của Đỗ Hồng Ngọc” này chứ bản thân tôi chưa từng dám nghĩ dám viết! Thú thật, tôi không khỏi giật mình khi đọc. Ủa, tôi vậy sao? Hóa ra trong những lúc lang thang, lõm bõm, thấp thoáng mình cũng đã vô tình bày tỏ một điều gì đó về cách sống, cách nghĩ, cách làm… khiến cho một người đọc tinh tế như anh bắt gặp. Tôi cũng ngạc nhiên hỏi anh vì sao lại là “21”? Anh bảo vì Hồi ký Nguyển Hiến Lê cũng có… 21 điều như vậy!


Và càng ngạc nhiên hơn, 5 Hiền ạ, khi anh kết:


“Vâng, tôi nghe như vầy, thưa bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc”.


Một lần nữa, cảm ơn 5 Hiền, Nguyễn Hiền Đức,


 


Đỗ Hồng Ngọc,


(Saigon 14.2.2015)


 


 


 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 14, 2015 20:35

February 13, 2015

THỬ SƠ PHÁC CHÂN DUNG ĐỖ HỒNG NGỌC (tiếp theo)

 


THỬ SƠ PHÁC CHÂN DUNG


ĐỖ HỒNG NGỌC (tiếp theo)


Nguyễn Hiền Đức


(Tổng hợp và giới thiệu)


 


ĐỖ HỒNG NGỌC – TRANG VĂN, TRANG ĐỜI


3.1. « Người đọc thích anh vì tìm thấy trong văn anh sự trong sáng bình an mà ai cũng cần … »


Sau đây, tôi “lượm lặt” một số cảm nhận sâu sắc, giàu ấn tượng của nhiều nhà văn về phong cách, tài năng của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc qua những trang văn, trang đời khép mở của ông:


Học giả Nguyễn Hiến Lê: “Một bác sĩ mà lại là một thi sĩ thì luôn luôn làm cho chúng ta ngạc nhiên một cách thú vị!…”.


Văn ông lưu loát, sáng sủa, giọng ông thân mật, nhiều chỗ dí dỏm, có chỗ mỉa mai chua chát nhẹ nhàng, có chỗ nên thơ. Một bác sĩ mà lại là một thi sĩ thì luôn luôn làm cho chúng ta ngạc nhiên một cách thú vị”.


Và GS Cao Huy Thuần: “Anh Đỗ Hồng Ngọc thân mến, anh tạo ra được một lối viết hợp với tâm hồn của anh. Người đọc mến anh vì trải dài trên giấy là một tâm hồn đẹp. Tác giả trở thành bạn thân của độc giả. Sách của anh là liều thuốc bổ. Thời đại đang cần thuốc bổ đó. Tôi thuộc hạng người “cổ điển”, thường nghĩ rằng viết văn không phải chỉ là tiêu khiển, dù là tiêu khiển cao cấp; nói đại ngôn như người xưa, “văn dĩ tải đạo”, tùy người hiểu chữ “đạo” đó thế nào. Người đọc thích anh vì tìm thấy trong văn anh sự trong sáng bình an mà ai cũng cần. Anh nói những chuyện giản dị. Nhưng mầu nhiệm không nằm ở đâu khác hơn là trong chính những chuyện giản dị đó. Một đôi bài của anh khá đơn sơ, nhưng hồn nhiên là cái duyên của anh, anh làm thơ trước khi viết văn, cho nên đó cũng là những bài thơ…”.



Nhà thơ Đỗ Trung Quân, người bạn thân thiết – người minh họa rất đẹp một số tác phẩm của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã “nhận định” ngắn về Đỗ Hồng Ngọc: “Viết về tâm sinh lý, chuyên môn y học, bằng giọng văn tâm tình, “ướt át” như thế quả là ít khi gặp trong sách y khoa giáo dục”.


Nhà văn Khuất Đẩu: “Ông là người thương yêu quý trọng cuộc sống nhiệm màu và luôn luôn muốn rủ rê mọi người hãy trút hết lo âu, cùng rong chơi với ông cho hết cuộc tồn vong. Và, ông đã được bao nhiêu người vui vẻ đi theo với những cuốn sách xinh xắn như: Nghĩ từ trái tim, Gió heo may đã về, Già ơi… Chào bạn!, Những người trẻ lạ lùng, Thư gởi người bận rộn…”.


Giáo sư, dịch giả Bửu Ý: “Lúc đầu đọc bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chỉ vì tò mò, xem thử bác sĩ viết văn ra sao. Trên thế giới cũng đã có nhiều nhà văn là bác sĩ, ở Việt Nam cũng nhiều, như Nguyễn Khắc Viện, Trương Thìn, Thân Trọng Minh, Đỗ Hồng Ngọc… Có lẽ do nghề nghiệp, được tiếp xúc với nỗi đau khổ của kiếp người, được gần gũi với cái sống cái chết của con người nên bác sĩ mà viết thì viết rất lạ, rất sâu. Đỗ Hồng Ngọc viết nhiều điều thấy rất khó mà thành dễ. Với Đỗ Hồng Ngọc, người ta cứ nhớ ông là bác sĩ mà quên ông là một nhà văn… Văn chương của Đỗ Hồng Ngọc là thứ văn chương lạ lùng vừa thâm sâu vừa đơn giản, anh viết dễ như thở, đọc anh thấy vui sướng mà ngạc nhiên.


Văn chương Đỗ Hồng Ngọc là một thứ văn chương rất lạ. Ngôn ngữ của ông có nhiều cấp độ, không chỉ thứ ngôn ngữ thâm trầm, ngôn ngữ của trí thức, lại lẫn với ngôn ngữ của báo chí, ngôn ngữ của thường dân… mà đi vào với nhau rất nhuyễn, rất đẹp…”.


Cảm nhận về thơ Đỗ Hồng Ngọc, nhà thơ Ý Nhi viết: “Thơ Đỗ Hồng Ngọc là thơ của sự chân thành. Từ những bài thơ tình cảm viết cho cha mẹ, vợ con, bè bạn đến những bài thơ thế sự viết về đất nước, quê hương, từ những chuyện đời thường đến những chuyện cao siêu, những câu hỏi không lời đáp… Đọc anh, tôi chưa khi nào có cảm giác ngờ vực. Sau căn bệnh ngặt nghèo, Đỗ Hồng Ngọc đã viết bài thơ Xin cám ơn, cám ơn. Tôi nghĩ, những độc giả của anh cũng cần nói lời cám ơn anh, bởi chắc chắn, anh đã góp phần giúp chúng ta thanh lọc tâm hồn mình, giữa đời sống nhiều bụi bặm này”.


Ở phần sau, trong tập này, chúng tôi in những bài viết về thơ Đỗ Hồng Ngọc của Thy Ngọc, Huỳnh Như Phương, Đỗ Trung Quân…


Riêng tôi, tôi rất thích những bài thơ ngắn ông viết cho mẹ nhân mùa Vu lan, cho vợ, cho con và đặc biệt cho con gái đầu lòng La Ngà. – đang học y đã bị tai nạn giao thông trong chuyến đi công tác xã hội. Mỗi lần đọc những bài thơ này tôi cảm thấy xốn xang, lòng rưng rưng đau nhói!


Ra trường ba năm, ông viết cuốn sách đầu tay Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò (1972), với lời đề tựa rất trang trọng của học giả Nguyễn Hiến Lê. Được Nguyễn Hiến Lê – người có đặc tài viết Tựa – viết tựa cho là một vinh dự rất lớn vì cụ Nguyễn chỉ viết Tựa cho những bạn văn thân thiết, thực tài có ảnh hưởng lớn trong đời sống văn học nghệ thuật thời bấy giờ như Đông Hồ, Vương Hồng Sển, Quách Tấn, Bàng Bá Lân, Đông Xuyên, Nguiễn Ngu Í, Võ Phiến, Toan Ánh, Nguyễn Văn Hầu, Lam Giang, bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm, thẩm phán Trần Thúc Linh v.v…


Hai năm sau, 1974, ông xuất bản cuốn Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng. Năm 2013, cuốn sách này đã được tái bản lần thứ 20! và đoạt Giải Bạc Sách Hay 2008.


Trong Lời ngỏ, Đỗ Hồng Ngọc viết: “… ở đây không có “ông bác sĩ” viết cho thân nhân trẻ bệnh mà chỉ có người bạn viết cho người bạn, chỉ có người trong gia đình viết cho anh chị em mình, cho nên tôi viết bằng một giọng thân mật và cố gắng tránh những lý thuyết, những danh từ chuyên môn dễ nhàm chán”. Và trong lời Viết thêm ông bày tỏ một cách chân tình với bạn đọc: “Cuốn sách là những lời tâm tình, chia sẻ của một người vừa là thầy thuốc, vừa là người cha những năm xưa, nay đã trở thành ông nội, ông ngoại của mấy nhóc nhỏ rồi! Thời gian trôi nhanh thật”.


Liên tục trong nhiều thập niên và mãi đến giờ, cuốn sách này đã trở thành cuốn  “sách gối đầu giường”, là “bửu bối”, là “báu vật” theo cảm nhận chân thành của nhiều người mẹ qua nhiều thế hệ.


Một điều lạ và mới là cuốn Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng, xuất bản năm 1974, sau 75 đã được Nhà xuất bản Thanh Niên tái bản đến lần thứ mười trong nhiều năm liền và nay Nhà xuất bản Tổng hợp Tp.HCM tái bản liên tục hằng năm. Đỗ Hồng Ngọc thổ lộ: “Không gì vui hơn khi các bà mẹ nói rằng nhờ cuốn đó mà họ đã nuôi con được khỏe mạnh, và đặc biệt đã làm cho họ vơi bớt nỗi lo âu. Đối với tôi, bà mẹ mới thực sự là “trung tâm bảo vệ sức khỏe” của con mình chứ không phải là bệnh viện hay các Trung tâm y tế”.


Tôi xin phép nói thêm, năm 1971, Nhà xuất bản Nguyễn Hiến Lê xuất bản lần đầu cuốn “33 câu chuyện với các bà mẹ”, nguyên tác Dr Spock talks with mothers của bác sĩ Benjamin Spock do Nguyễn Hiến Lê lược dịch. Trong lời Tựa cụ Nguyễn cho biết từ năm 1946, bác sĩ Benjamin Spock bắt đầu nổi tiếng nhờ cuốn Baby and child care  trong đó ông áp dụng những tri thức mới mẻ trong các môn Thần kinh bệnh, Phân tâm và Nhi khoa để cải thiện cách nuôi trẻ và dạy trẻ. Sách được hoan nghênh nhiệt liệt, đứng vào loại bán chạy nhất sau Thánh kinh, được dịch ra hai mươi sáu ngoại ngữ, ở Mỹ đã bán được hai mươi hai triệu cuốn, ở Pháp một triệu rưỡi cuốn.


Năm 1961, bác sĩ Benjamin Spock bổ túc cuốn trên, mở rộng vấn đề, chỉ cho các bà mẹ săn sóc con, dạy con chẳng riêng trong tuổi nhi đồng mà cả cho tới khi chúng 15 tuổi. Lần này ông viết cuốn Dr Spock talks with mothers. Tôi (tức cụ Nguyễn) chưa thấy một cuốn kim chỉ nam cho các bà mẹ nào đầy đủ như cuốn này…”.


Dù rất nổi tiếng và đình đám như vậy ở Mỹ và một số nước trên thế giới, nhưng ở nước ta, 33 câu chuyện với các bà mẹ vẫn không có sức thu hút, sự lan tỏa và lưu lại dấu ấn bền chặt, lâu dài bằng cuốn Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. “Hiện nay dù có nhiều sách dịch từ Âu Mỹ, nhưng các bà mẹ vẫn tìm đọc vì thấy có mình ở trong đó”. Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã viết như vậy.


Sau hai cuốn sách chuyên ngành mang tính phổ thông, thiết thực và có ích đó được đông đảo người đọc đón nhận và yêu thích, Đỗ Hồng Ngọc vẫn luôn luôn âm thầm đọc, học, viết. Có thể nói Đỗ Hồng Ngọc đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn, khéo léo, hiệu quả đối với công việc “bộ ba” của ông: truyền thông giáo dục sức khỏe – dạy học – viết sách. Ông đã nghiền ngẫm viết lách, giảng dạy, chia sẻ với người khác. Để làm được những điều đó ông phải đọc, học, trải nghiệm rất nhiều và ông cho rằng “Viết cũng là học”. Vào thời điểm này, ông đã có ba cuốn sách về lãnh vực nhi khoa được phổ biến khá rộng rãi và một số sách viết cho tuổi già và mảng sách viết về tâm linh.


Trong buổi giao lưu với học trò cũ, ông tâm tình và chia sẻ như sau: “Những năm cơ cực sau 1975, thầy bận rộn suốt ngày với bệnh nhi ở phòng cấp cứu Bệnh viện Nhi Đồng 1, ở nhà trông cậy một mình cô nuôi dạy các con. Nhiều bữa thầy về nhà tối om, đem thịt cá được “Tổ đời sống” chia đã ôi thiu về, cô chỉ biết cười trừ…”.


Tình cảnh khó khăn, bi đát như thế cộng với rất nhiều khó khăn khác chắc chắn là ông rất ít có thì giờ, sức lực, điều kiện để đọc, để học, để viết. Nhà thơ Đỗ Trung Quân cho biết: “Một ngày của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc thật không còn chỗ thở: hội họp, giảng dạy, hướng dẫn chuyên môn, khám chữa bệnh ngoài giờ cho trẻ con. Anh là bạn thân của lứa tuổi Mực tím (Phòng mạch Mực Tím), là “ông ngoại” của những đứa nhỏ đang ốm sốt trong tay người mẹ trẻ. Việc viết lách, viết sách, làm thơ khi trời hừng sáng, dậy sớm, ngồi vào bàn computer gõ, để đó, khi nào rảnh mới xem lại, sửa chữa, sắp xếp. Sức làm việc thật dữ dội và tất nhiên cũng phải… chớm già thôi!’.


Khó khăn, bận rộn là thế nhưng rồi ông đã vượt lên tất cả để viết và viết hàng loạt tác phẩm về y học như: Thầy thuốc và bệnh nhân, Săn sóc con em nơi xa thầy thuốc (1986), Nuôi con (1988), Nói chuyện sức khỏe với tuổi mới lớn (1989), Sức khỏe trẻ em (1991), Viết cho tuổi mới lớn (1994), Bỗng nhiên mà họ lớn, Bác sĩ và những câu hỏi của tuổi mới lớn, Câu chuyện sức khỏe (tháng 6. 1994).


Chúng ta thấy Đỗ Hồng Ngọc rất “lu bu”, rất “bận rộn”. Một học trò cũ của thầy Ngọc đã bày tỏ sự khâm phục sức lao động miệt mài của thầy mình trong suốt 50 năm qua và em muốn biết Thầy làm thế nào để có được một sức khỏe dẻo dai, một tinh thần vững chãi cũng như một tâm hồn trẻ trung để sống và làm việc trong bao nhiêu năm như vậy? Câu hỏi của em hay quá và đúng quá! Vì rằng, ngoài việc phải hành nghề, hội họp, đọc, viết sách, viết báo, tư vấn, tham vấn ra… bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc lại phải đi nhiều nơi để “trò chuyện” với nhiều người, nhiều giới. Lúc thì trao đổi về “văn chương” với lớp học Thạc sĩ Phật học tại Thiền viện Vạn Hạnh [đường Nguyễn Kiệm, Phú Nhuận TPHCM], lúc thì trao đổi về “Thiền và Sức khỏe” ở lớp Cử nhân do thầy Thích Nhật Từ mời, rồi thầy Đồng Bổn [Chùa Xá Lợi] “đặt hàng” nói chuyện với Phật tử về “Vận dung tư tưởng Kim Cang Bát Nhã vào cuộc sống”, lúc thì bay ra Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán (Huế), bay vào Đà Nẵng, rồi Nha Trang cũng với đề tài về Thiền và Sức khỏe, Đức Phật- bậc Y vương, xuống Thiền viện Thường Chiếu, ra Vũng Tàu thăm thiền sư Thanh Từ, lên Bửu Long thăm thầy Viên Minh, xuống tận các chùa ở các tỉnh miền Tây Nam bộ theo lời mời trong một dịp An cư kiết hạ… Đỗ Hồng Ngọc cũng nhận lời Linh mục Lê Quang Huy, có buổi giảng cho lớp Giáo lý hôn nhân ở Nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, và những buổi Nói chuyện sức khỏe “ Stress trong đời sống hằng ngày”, “Thở để chữa bệnh” tại Trung tâm Mục vụ… do Sơ Hồng Quế phụ trách. Ông còn tổ chức Bàn tròn sinh viên Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, mỗi tháng một lần kéo dài suốt 3 năm. Nói chuyện, viết bài cho Chương trình chất lượng cuộc sống của hội doanh nhân trẻ, rồi trao đổi với các thầy cô giáo việc giảm stress trong công việc hay giáo dục giới tính cho học sinh, trò chuyện với học trò cũ, trả lời phỏng vấn của các nhà văn, nhà báo. Rồi lại phải chăm chú một cách say mê và đầy trách nhiệm việc trả lời thắc mắc của độc giả mà phần lớn là những người bà, những người mẹ, những người sắp làm cha, làm mẹ, vì ông ngại… họ nóng lòng chờ đợi! Rồi đọc tham luận trong các cuộc hội thảo chuyên ngành, như cuộc hội thảo với đề tài “Công tác xã hội trong bệnh viện” của Bộ Y tế v.v… và v.v… Rồi ông lại đi đây đi đó để “ghi chép lang thang” qua cuốn sách mới nhất cùng tên dày đến 255 trang (2014). Mấy năm nay ông đỡ vất vả hơn một chút, ít trực tiếp khám bệnh vì đã có cậu con trai “nối nghiệp”. “Bây giờ đọc ít thôi. Mắt kém. Đọc trên mạng nhiều hơn sách báo in vì có thể phóng to lên được. Lạ, từ ngày nghiền ngẫm kinh sách Phật, thấy cũng mê như đọc kiếm hiệp!” ông chia sẻ.


“Xưa viết cho nhiều báo, nay gần như chỉ viết cho Văn hóa Phật giáo, Giác Ngộ, Từ Quang…”. Ông cho biết như vậy, và “Chẳng bao lâu nữa, tôi nghĩ mình cũng sẽ như người bắn cung thiện xạ nọ không còn biết cây cung, mũi tên là cái chi chi! Trái lại, tôi thường được mời đi đây đó để “nói chuyện sức khỏe” (health talk), với các đề tài như Thở để chữa bệnh, Thiền và sức khỏe, Một nếp sống hạnh phúc, Một tuổi già hạnh phúc, Cân bằng cuộc sống, Stress trong đời sống hằng ngày v.v… Mỗi buổi đi nói chuyện như vậy, với tôi, là một cơ hội để giao lưu và học hỏi”.


Ông nói: “Giấc ngủ rất quan trọng. Phải ngủ đủ. Khoảng 7 – 8 tiếng một đêm mới đủ. Khi nào buồn ngủ thì đi ngủ, không thì thôi. Bài  viết Có một nghệ thuật ngủ của tôi được nhiều bạn bè chia sẻ. Nhà văn Hồ Anh Thái ở Hà Nội bảo đã photocopy ra khá nhiều để gởi cho bạn bè vì lúc này nhiều người mất ngủ quá! Trên thế giới thì thuốc ngủ vẫn là thứ thuốc bán nhiều nhất! Tuổi càng cao, càng cần ngủ, như pin điện thoại xài lâu, sạc phải càng lâu. Ăn thì rất đơn giản thôi. Có gì ăn nấy. Tôi thường tự chế biến thức ăn cho mình. Càng ngày tôi càng học tốt hơn hạnh “độc cư”, kham nhẫn và tri túc”.


Các tập tản văn Gió heo may đã về(1997), Già ơi… Chào bạn! (1999), Những người trẻ lạ lùng (2001)… tạo một sinh khí mới lạ, hào hứng và độc đáo trong ngành xuất bản và trong lòng người đọc nhiều lớp tuổi trong và ngoài nước.


Năm 1997, Đỗ Hồng Ngọc bị tai biến mạch máu não. Trong cái rủi có cái may, trong thất bại có mầm mống của thành công. Sau cơn bệnh thập tử nhất sinh này, Đỗ Hồng Ngọc đã “ngộ” ra nhiều điều. Ông đến với thiền, với phương pháp thở của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện và nghiền ngẫm, “hành thâm” Bát Nhã Tâm Kinh. Rồi 5 năm sau là Kim Cang, 5 năm tiếp theo là Diệu Pháp Liên Hoa, hình thành mảng sách mới lạ, độc đáo, cuốn hút người đọc từ các Tăng Ni, Phật tử đến những người “mê” Đỗ Hồng Ngọc ở những tác phẩm: Nghĩ từ trái tim, Gươm báu trao tay, Thấp thoáng lời kinh, Ngàn cánh sen xanh biếc, mà ông đều ghi là: “Thấp thoáng lời kinh…”. Từ những “thấp thoáng” đó, ông “ngộ” ra lẽ huyền vi của “lấp lánh ánh vàng”. Những cuốn sách thuộc loại “thấp thoáng lời kinh” này thực sự là một “hiện tượng” mới lạ, sôi nổi trong sinh hoạt văn học nghệ thuật Phật giáo nhiều năm qua. Tôi không cường điệu chút nào khi nghĩ và viết như vậy!


Đến đây thì chúng ta có thể “nhất trí” với tạp chí Văn hóa Phật giáo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam rằng: “Có một Đỗ Hồng Ngọc là người viết văn, làm thơ, có một Đỗ Hồng Ngọc là người viết về Phật học, có một Đỗ Hồng Ngọc là bác sĩ và cũng là nhà tư vấn tâm lý và sức khỏe cho tuổi mới lớn, doanh nhân, người già… được nhiều người quý mến”.


Phương châm, phong cách của Đỗ Hồng Ngọc khi viết là chân thành, tôn trọng, thấu cảm, thấu hiểu người khác, nhất là về những nỗi mất mát, để tạo nên năng lượng hóa giải sự khổ.


Đỗ Hồng Ngọc tâm sự: “Viết cho tuổi mới lớn, thì tôi… ở tuổi mới lớn, sống cùng tuổi đó, sống với tuổi đó, nghĩ như họ, nói như họ. Tôi viết như mình đang được trò chuyện với họ, như họ đang ngồi trước mặt tôi. Khi viết cho tuổi chớm già… thì tôi đang ở tuổi chớm già… Tóm lại, phải “thấu cảm” (empathy) nghĩa là phải “sống với”, cho thấu suốt nguồn cơn…”. Ông nghĩ rằng: “Y khoa là một khoa học nhưng cũng là một nghệ thuật. Tiếp cận với những cảnh đời, những con người, cũng là một nguồn cảm xúc để cầm lấy cây bút ”.


Đỗ Hồng Ngọc viết cho rất nhiều đối tượng, nhiều lớp tuổi, nhiều đề tài và ông tâm niệm rằng: “Tất cả những ‘con người’ đó đều hòa nhập trong tôi, không có gì phân biệt. Tôi thấy mình không thể chuyên vào một cái gì hẳn. Chính học giả Nguyễn Hiến Lê là người đã khuyên tôi nên học y khoa. Ông nói học y khoa mà giỏi thì sau này có thể đi giảng dạy được, rồi hành nghề nhiều năm, tiếp xúc nhiều cảnh đời, lại có tâm hồn thì có thể viết lách được”. Thế là Đỗ Hồng Ngọc học y khoa, vừa ghi danh học văn khoa, và còn học cả xã hội học ở Viện Đại học Vạn Hạnh. Tóm lại, “… tôi đã thực hiện được ước mơ thuở nhỏ của mình là vừa làm nghề y, vừa đi dạy, vừa viết lách”.


Đỗ Hồng Ngọc được nhiều độc giả quý mến, có lẽ do cách viết của mình. Ông chỉ viết những gì mình thực sự trải nghiệm. Ông viết để chia sẻ kinh nghiệm chứ không phải từ sách vở mà ra. Khi viết, ông luôn tưởng tượng như có độc giả đang ở trước mắt mình và đang trò chuyện với mình. Có lẽ kiểu viết như thế làm cho người đọc cảm nhận được người viết và độc giả có sự gần gũi, chia sẻ, trao đổi một cách chân thành, không kiểu cách, xa lạ. Đỗ Hồng Ngọc được mọi người hiểu, cảm, yêu, mến, vì ông trải lòng mình để chia sẻ cùng người đọc. Ông cho rằng chuyện viết lách là cái tình. “Ta cũng nòi tình, thương người đồng điệu…” (Chu Mạnh Trinh) vậy thôi!


Trong các tác phẩm đã xuất bản của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, chúng ta thấy có ít nhất 17 tác phẩm viết cho tuổi nhỏ. Ông xứng đáng được những bác sĩ bậc thầy có uy tín như bác sĩ Phan Đình Tuân, Trần Hữu Nghiệp và học giả Nguyễn Hiến Lê khen ngợi hết lời là một bác sĩ Nhi khoa tốt, giỏi và yêu trẻ.


Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc là Hội viên Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh. Ông  đã cộng tác với các báo: Bách Khoa, Văn, Tình Thương, Ý Thức, Tuổi Ngọc, Mây Hồng, Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Phụ Nữ, Kiến thức Ngày nay, Mực Tím, Khăn Quàng Đỏ, Sài Gòn Tiếp Thị, Văn Tuyển, Sống Khỏe, Doanh nghiệp Sài Gòn cuối tuần, Văn hóa Phật giáo, Giác Ngộ, Từ Quang, Liễu Quán v.v…


(Một điều bất ngờ với tôi khi tôi về Hội An cuối tháng 9. 2014 gắp Ái Nghĩa – một người bạn gái mê làm thơ khi biết tôi đang “làm” Tuyển tập Đỗ Hồng Ngọc, Ái Nghĩa đã tặng tôi mấy bài viết (bản photocopy) của ông đăng trên một tập san Tin Thư do một số học sinh “già” gốc Hội An, Quảng Nam xuất bản tại Mỹ. Rồi cuối tháng 10 vừa qua, một người bạn nhỏ thân thiết ở Hà Nội gởi tặng tôi tờ Văn Nghệ – Hội Nhà văn Việt Nam –  số 43 ngày 25. 10. 2014, trong đó có đăng bài Một lần ghé quán bên đường… của Đỗ Hồng Ngọc viết về nhà văn Trang Thế Hy kèm tấm hình “lão ông” Trang Thế Hy đang châm điếu thuốc rất ấn tượng do Đỗ Hồng Ngọc chụp!).


Từ năm 2009, Đỗ Hồng Ngọc còn có một trang web www.dohongngoc.com do Phùng Minh Bảo, một độc giả từ thời Mực Tím hỗ trợ. Trang web đã được truy cập rộng rải và nhiều bài đã lan tỏa trên mạng.


 


3.2  Đỗ Hồng Ngọc “tự bạch” về các tác phẩm… “Thấp thoáng lời kinh”…


“Khi viết cuốn Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò, tôi mới ra trường được 3 năm. Tôi thấy tuổi học trò là lứa tuổi bơ vơ, đang thiếu thốn một không gian riêng của mình trong khi ở nước ngoài, người ta có hẳn chuyên khoa dành cho tuổi mới lớn, còn ở Việt Nam mình thì chưa, nên tôi bắt tay vào nghiên cứu và viết. Lúc đó, tôi nghĩ phải viết ngay, chứ không sợ sau này lớn lên sẽ quên đi! Khi viết, tôi nghĩ mình đang nói chuyện trực tiếp cùng các em. Cuốn sách đó đã được độc giả thời bấy giờ rất hoan nghênh. Khi có kinh nghiệm chăm sóc mấy nhóc nhỏ ở nhà, tôi lại viết cuốn sách dành cho các bà mẹ sinh con đầu lòng. Những khó khăn, những trải nghiệm của chúng tôi được chia sẻ. Hiện nay dù có nhiều sách dịch từ Âu Mỹ, nhưng các bà mẹ vẫn tìm đọc vì thấy có mình trong đó. Đến lúc ra ngoài tuổi “tri thiên mệnh” tôi mới viết Gió heo may đã về để sẻ chia cùng bạn bè trang lứa! Rồi đến lục tuần, cảm nhận cho hết cái “tuổi già xồng xộc” tôi mới viết cuốn Già ơi… Chào bạn! Những năm gần đây, tôi nghiên cứu lời Phật dạy và áp dụng vào đời sống. Tôi viết Nghĩ từ trái timGươm báu trao tay, trước hết là để tự chữa bệnh cho mình và sau đó giúp ích phần nào cho bạn bè, đồng bệnh tương lân”.


Theo Đỗ Hồng Ngọc “thấp thoáng” là những cảm nghiệm riêng tư, rất chủ quan của người thầy thuốc, bấy lâu tìm kiếm, thử nghiệm trên mình, rồi mới dám mà sẻ chia cùng bè bạn…”:


Trần Tuấn Mẫn, Phó Tổng Biên tập thường trực tạp chí Văn hóa Phật giáo đã viết:


“… Phải chăng tác giả cũng thấy thấp thoáng chứ không nghe văng vẳng lời kinh vì không trực tiếp nghe được kim thanh của Đức Phật. Anh chỉ tự nghiên cứu kinh điển, tự cảm nghiệm và những dòng kinh chợt đến chợt đi trong tâm tưởng. Có lẽ anh dùng từ thấp thoáng cũng là do sự khiêm tốn, muốn bảo rằng những gì anh viết ra không phải là từ sự nghiên cứu mang tính kinh viện mà chủ yếu là do cảm nhận, do sự suy nghĩ và trải nghiệm cá nhân. Tôi vui vì nghĩ như thế, vì nghĩ mình thông cảm được với anh và được anh truyền cho niềm cảm hứng và mấy phần kiến thức Phật học”.


Cơ duyên nào dẫn dắt Đỗ Hồng Ngọc đến với Phật và kinh Phật? Theo tôi, cái gì đến tất sẽ đến, vì: “Tôi may mắn được những thuận duyên dẫn dắt từ nhỏ. Năm 12 tuổi, về sống với người cô trong một ngôi chùa, nghe được cô tụng kinh mỗi ngày. Sau này, tôi có một ông bác xuất gia. Tôi còn học ở Đại học Vạn Hạnh một thời gian, có dịp tiếp xúc với kinh sách và các thầy, được nghe thầy Thích Minh Châu giảng. Sau này, làm việc nhiều quá, tôi cũng bị xao lãng đi. Đến khi bị tai biến mạch máu não phải nằm bệnh viện, tôi mới có cơ hội nhìn lại quãng đời đã qua của mình. Lúc này, có một người bạn gửi cho tôi bản Bát Nhã Tâm Kinh. Tôi đọc và thấy mình có thể hiểu được, thấm được! Trước đó, tôi cũng đọc các thứ nhưng chủ yếu bằng tri thức mà chưa thấu, chưa hiểu. Phải qua trải nghiệm ranh giới giữa sống chết như thế, tôi mới nhận ra được nhiều thứ hơn. Lần đầu tiên sau khi mổ xong, bước chân được xuống đất đi vài bước, tôi thấy quả là phép lạ! Tôi đã thấy rõ thế nào là hạnh phúc và nhận thức rõ hơn về cách sống như thế nào để thoát khỏi những vướng bận, những khổ đau. Là một người thầy thuốc, tôi mong tìm một phương cách chữa trị bệnh tâm-thân cho chính mình và giúp đỡ mọi người, nên sau Tâm Kinh, tôi tiếp tục học hỏi thực tập thêm nhiều kinh Phật khác”.


“Tôi đọc về thiền từ hồi trẻ nhưng thấy nó bí hiểm, khó khăn quá. Cho đến một hôm, cách đây 14 năm, lúc tôi đang cật lực làm việc thì phải đưa đi cấp cứu vì cơn đột quỵ (tai biến) do xuất huyết não. Mổ xong, tôi thấy mình như tái sinh, tìm lại được cuộc sống tưởng chừng đã mất. Đồng nghiệp cho tôi nhiều thuốc nhưng tôi biết không cần nhiều đến thế. Tôi bắt đầu tự điều trị cho mình. Tôi nhớ lại phương pháp “thở” của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, cũng như đọc lại Tâm Kinh Bát Nhã. Trước tôi có đọc nhưng không hiểu lắm, lạ lùng là sau cơn bạo bệnh tôi thấy hiểu được rất dễ dàng. Tôi kết hợp chúng lại để tự chữa trị cho mình và thấy có hiệu quả”.


“Cuốn Nghĩ từ trái tim tôi viết bằng cảm xúc, bằng sự thể nghiệm đời sống chứ không phải bằng suy luận lý trí. Mất 2 năm để nghiền ngẫm và 6 tháng để viết. Cứ mỗi ngày khám bệnh xong, tôi lại bắt đầu viết, viết “như điên”, có khi tới 2 – 3 giờ sáng. Tôi cứ viết ra tất cả những gì mình nghĩ, mình cảm nhận mình có được. Viết xong, tôi thấy mình như được… giải thoát! Tôi thận trọng đưa bản thảo viết tay cho hai người bạn Phật tử đọc giùm rồi còn nhờ ni sư Trí Hải đọc lại. Ni sư nói hôm đó Tịnh xá ở Hốc Môn bị cúp điện, phải đốt đèn cầy mà đọc “chữ bác sĩ” cho tới sáng, gọi điện ngay góp ý đôi chỗ rồi khuyên tôi nên cho in ra. Tôi nghe lời “liều mạng” in thử, ban đầu nhà xuất bản cũng ngại nhưng sau lần in thứ nhất được độc giả hoan nghênh và đến bây giờ thì đã tái bản rất nhiều lần. Ở Mỹ, một Việt kiều tự in lại để biếu không ở các tiệm cơm chay, sau này có bạn xin phép được ấn tống… Ở Úc, người ta đọc thành 4 buổi trên đài phát thanh và ra CD. Thường thì khi làm xong, người ta mới tặng tôi một mẫu để làm kỷ niệm và cũng gọi là để… xin phép sau! Tôi cũng không ngờ cuốn sách này của mình lại được đón nhận nồng nhiệt như vậy. Có một kỷ niệm cảm động: Một nữ độc giả viết thư nói bà nội cô rất yêu thích cuốn Nghĩ từ trái tim, mỗi ngày đều bắt các cháu đọc cho bà nghe, khi bà mất, các cháu đã đốt cuốn sách đó theo bà…”.


“Tôi thấy nghiên cứu, ứng dụng và thực tập thiền, làm cho cuộc sống của mình uyển chuyển, nhẹ nhàng, thanh thản, vui sống hơn và hạnh phúc hơn. Nhờ bớt vướng bận, mình dễ sáng suốt hơn, nhờ tập trung tốt và ít hao tổn năng lượng vô bổ, mình dễ có hiệu năng hơn. Riêng đối với sức khỏe cũng thấy được cải thiện nhiều hơn”.


“Ngàn cánh sen xanh biếc là những cảm, những nghĩ, những “thấp thoáng” mà tôi đã học được từ trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Pháp Hoa). Hơn 15 năm nay, tôi nghiền ngẫm và thực hành những lời Phật dạy, mong tìm trong đó phương cách chữa cái đau, cái khổ cho mình và cho người với cái nhìn khoa học, y học, hoàn toàn không mê tín dị đoan. Năm 2003, tôi viết Nghĩ từ trái tim từ Tâm Kinh Bát Nhã, rồi năm 2008, viết Gươm báu trao tay từ kinh Kim Cang và nay, 2013, viết Ngàn cánh sen xanh biếc từ Pháp Hoa… Hình như cứ mỗi 5 năm thì tôi nghiền ngẫm được “một chuyện”! Tôi đã tìm thấy ở đó những minh triết và đặc biệt, tấm lòng người xưa. Khi nghiền ngẫm Pháp Hoa, tôi giật mình thấy ông bà mình từ xưa cũng đã “đúc kết” được Pháp Hoa (đã được Phật dạy từ hai ngàn năm trăm năm trước dưới chân núi Linh Thứu) bằng một bài ca dao tuyệt vời: Trong đầm gì đẹp bằng sen / Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng / Nhị vàng bông trắng lá xanh / Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Ở thời “mạt pháp” mà biết sống “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” chẳng phải tuyệt vời sao, chẳng phải hạnh phúc sao, vì đã rời xa mọi thứ tham sân si… Lòng tham con người không đáy, dẫn tới bao khổ đau cho mình và đồng loại. Lòng tham khởi lên chỉ vì thấy lấp lánh “lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng”, tưởng bở, mà thực ra, rốt cuộc, cũng chỉ là “nhị vàng bông trắng lá xanh” đó thôi! Đó chính là điều Tâm Kinh đã nói “bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm”… Các vị Bồ tát trong Pháp Hoa tượng trưng cho những “hạnh” của một lối sống hạnh phúc: Chân thành, Tôn trọng, Thấu cảm, Từ bi hỷ xả… Tâm tịnh thì thế giới tịnh!”.


Một nhà báo hỏi: “Nếu chỉ chọn một cuốn thôi để mang theo bên mình, ông sẽ chọn cuốn nào?”. Đỗ Hồng Ngọc trả lời ngay: “Tôi chọn Thấp thoáng lời kinh, vì đó là viết từ những lời Phật dạy để có thể sống hạnh phúc và sẻ chia được với người khác. Từ những “thấp thoáng” buổi ban đầu này, tôi hy vọng có thể đào sâu thêm, “hành thâm” thêm, để từ đó nhìn ra những huyền vi đằng sau những câu chữ mà tôi gọi là “lấp lánh ánh vàng”. Còn cuốn tôi mong nhiều người đọc nhất lại là cuốn Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng. Tại sao ư? Tại vì nó giúp các bà mẹ nuôi con một cách “sảng khoái”, bớt đi những lo âu, sợ hãi, hoang mang… trong thời buổi hiện nay!


3.3 Đỗ Hồng Ngọc tự “phác họa” đôi dòng về mình


“Đó là một người có cái tên rất “đàn bà” nhưng là một người đàn ông thứ thiệt. Hồi tôi giữ mục Phòng mạch Mực Tím trên báo Mực Tím dành cho tuổi mới lớn, nhiều em viết thư: Thưa cô, em có điều này rất bí mật, không dám nói với ai…


Thứ hai, đó là một ông già mà nhiều người tưởng hãy còn trẻ lắm, nhờ tóc chưa bạc nhiều và viết lách lăng nhăng làm cho người ta cười…


Thứ ba, đó là một bác sĩ nhà quê đến nỗi người ta không biết là bác sĩ, vì toàn nói chuyện làm sao cho người ta biết tự bảo vệ và nâng cao sức khỏe mình, ít lệ thuộc vào thầy và thuốc…”.


Đỗ Hồng Ngọc có rất nhiều bạn thân thiết, vào loại tri âm tri kỷ và “chiến hữu” chí cốt. Bậc thầy, bậc đàn anh, khá nổi tiếng thì có: Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Khắc Viện, Lương Phán, Dương Cẩm Chương, Nguiễn Ngu Í, Ngô Gia Hy, Trang Thế Hy, Trần Văn Khê… đến nhóm bạn văn nghệ sĩ cùng thời, suýt soát lớp tuổi với Đỗ Hồng Ngọc như Cao Huy Thuần, Trịnh Công Sơn, Đinh Cường, Trần Hoài Thư, Trương Thìn, Thân Trọng Minh, Lữ Quỳnh, Phạm Văn Hạng, Tôn Nữ Hỷ Khương, Việt Linh, Từ Thế Mộng, Nguyễn Như Mây, Nguyễn Bắc Sơn v.v… và v. v…


Đỗ Hồng Ngọc là người luôn quan tâm chia sẻ với người khác, luôn được người khác tin yêu và quý trọng vì cái tâm, cái tình, cái tài của ông. Ông được các vị chức sắc trong các tôn giáo, nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà giáo, đông đảo Phật tử và những người “mê” đọc kinh sách Phật giáo ngưỡng mộ. Ông lại có cái thú lang thang đây đó, viếng cảnh chùa chiền nhiều nơi… Rất nhiều bạn trẻ xem ông là người thầy, người anh, người bạn chỉ đường, bảo ban đáng tin cậy.


Rồi ông cũng có nhiều, rất nhiều những người bạn đã quen hoặc chưa quen trong lớp độc giả nhiều thế hệ của ông trong và ngoài nước, đông nhất là các người bà, người mẹ. Có nhiều bạn đọc “theo dõi” ông một cách sát sao, thường xuyên với một niềm tin yêu chân thành và sâu đậm. Họ đọc kỹ từng bài viết của ông, đọc hết các tác phẩm của ông rồi chờ đợi để mua ngay các cuốn sách mới xuất bản của ông. Có độc giả cảm thấy sảng khoái, thích thú đọc bài của ông và mong chóng sáng để vào lớp truyền đạt lại cho học sinh của mình! Cảm động và đáng yêu nhất, theo tôi, là những cảm nhận ngắn gọn, giản đơn, chẳng chút rào đón màu mè gì cả, nghĩ sao, cảm gì thì cứ nói bộc trực. Họ nói về con người và tác phẩm Đỗ Hồng Ngọc, đặc biệt là của những người bà, người mẹ và cả những người sắp làm mẹ đã và đang gắn bó với những trang đời, trang viết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc…


Quả tình Đỗ Hồng Ngọc đã cực kỳ giàu và sang về đường bè bạn. Tôi nghĩ đây là niềm hạnh phúc gần gũi, thân ái nhưng lớn lao và bền chặt mà một bác sĩ, một nhà văn như ông đã có được, đã giữ được nhờ đó mà tinh thần ông sảng khoái, tâm ông tịnh và thế giới trong và ngoài ông cũng tịnh!


Còn gì vinh dự hơn? Còn dấu ấn nào đậm đặc hơn?


            (còn tiếp).


 


Nguyễn Hiền Đức (2014)


 


 


 


 


 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 13, 2015 23:52

THỬ SƠ PHÁC CHÂN DUNG ĐỖ HỒNG NGỌC

THỬ SƠ PHÁC CHÂN DUNG


ĐỖ HỒNG NGỌC


Nguyễn Hiền Đức


(Tổng hợp và giới thiệu)


Bài 2 : “DU HỌC SÀI GÒN”

VÀ HƠN 40 NĂM GẮN BÓ VỚI NGÀNH Y


2.1. Học và hành nghề y

– Đậu Tú tài II, Đỗ Hồng Ngọc băn khoăn trước ngã ba đường: Vừa muốn học y, lại muốn học sư phạm, học văn khoa. Ông được học giả Nguyễn Hiến Lê khuyên “nên học y để giúp đỡ cụ thể cho gia đình, nếu học giỏi sau này có thể làm “thầy giáo” và nếu có năng khiếu, cũng có thể viết lách được…!”, … thế là ông học y, rồi học thêm văn, rồi viết lách, giảng dạy… lai rai mấy chục năm nay.

DAU AN (hinh bia) – Năm 1962, Đỗ Hồng Ngọc đậu vào trường y khoa. Vốn là người ham đọc, ham học, ngoài việc học y, ông cũng đã ghi danh học thêm những ngành mà ông thích như văn khoa, xã hội học. Đỗ Hồng Ngọc tự bạch: “… tôi mê học và học cho đã. Tôi thấy mình hên, thi đâu đậu đó, nhưng phải nói là nhờ biết cách học, nhất là biết cách tự học. Tôi nghĩ học sinh muốn giỏi phải có chí và biết tự học”.

Những năm vào Sài Gòn “du học”, ông ở nhà trọ, ăn cơm tháng trong khu ổ chuột Bàn Cờ (nay thuộc quận 3, Tp. Hồ Chí Minh – NHĐ) và thường xuyên đến thăm Nguyễn Hiến Lê. Cụ Lê luôn động viên, khuyến khích việc học của ông và mong sau này ông dùng ngòi bút để mang lại lợi ích cho nhiều người hơn trong nghề nghiệp của mình.

– Năm 1962, Đỗ Hồng Ngọc đã vào học APM (thay cho PCB trước kia). Sinh viên muốn học y khoa phải thi đậu vào APM. Rất khó. Đậu chừng 10%. Cuối năm nếu đậu sẽ lên học tiếp 6 năm nữa ở Y khoa Đại học đường Sài Gòn, 28 Trần Quý Cáp (nay là Võ Văn Tần). Đó là khóa đầu tiên học theo chương trình mới này…Ông kể ngoài các môn thi Lý, Hóa, Sinh, sinh ngữ… còn có 20 câu hỏi tổng quát như tên ông Tồ ngành y thế giới ? ông Tổ ngành y Việt Nam ? thầy thuốc nổi tiếng thời Tam Quốc ? thầy thuốc nổi tiếng thời Đông Châu liệt quốc ? nhạc, họa v.v… và đặc biệt « giá gạo trên thị trường bao nhiêu một ký ? », « giá than trên thị trường bao nhiêu một ký » ?… những trắc nghiệm như vậy rất có ý nghĩa cho một người thầy thuốc tương lai !




Y khoa thời đó học 7 năm, vì thích ngành Nhi nên từ năm thứ ba, ông thực tập tại Bệnh viện Từ Dũ, sau làm nội trú ủy nhiệm ở Bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn, nên có thể nói là một bác sĩ có kinh nghiệm về Nhi khoa.

Năm 1969, Đỗ Hồng Ngọc tốt nghiệp Y khoa, trình luận án năm 1970 về bệnh Sốt rét ở trẻ em và nhận văn bằng Tiến sĩ y khoa quốc gia. Ông làm việc ở khoa Cấp cứu Bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn (Tp. Hồ Chí Minh) 12 năm, hằng ngày thấy trẻ con chết nhiều quá nên nghĩ cần phải đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục sức khỏe, nâng cao dân trí để người dân tự biết bảo vệ, chăm sóc sức khỏe mình, gia đình mình. Sau đó, rời Bệnh viện Nhi đồng, về phụ trách Trung tâm Truyền thông – Giáo dục sức khỏe Tp. Hồ Chí Minh suốt hơn 25 năm và đã hình thành Bộ môn Khoa học hành vi & Giáo dục sức khỏe tại Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch từ năm 1995 đến nay.

Tóm tắt quá trình hành nghề y của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc như sau:

– Tốt nghiệp Đại học Y khoa Sài Gòn, 1969.

– Tu nghiệp Y tế công cộng tại Đại học Harvard Hoa Kỳ và Giáo dục Sức khỏe tại CFES Paris, Pháp.

– Nguyên Trưởng khu Phòng Khám và Cấp cứu Bệnh viện Nhi Đồng I Tp.HCM.

– Nguyên Giám đốc Trung tâm Truyền thông – Giáo dục Sức khỏe Thành phố Hồ Chí Minh.

– Năm 1971, Đỗ Hồng Ngọc làm bác sĩ điều trị tại Dưỡng đường Nhi khoa Trần Bình Trọng, Chợ Lớn. Từ 1972 tham gia giảng dạy môn Nhi khoa cho trường Nữ Hộ Sinh quốc gia (trong BV Từ Dũ).

– Từ năm 1985, ông về phụ trách Trung tâm Truyền thông và Giáo dục Sức khỏe Thành phố. Ông triển khai hai bộ môn mới do ông làm chủ nhiệm là Bộ môn “Khoa học hành vi và Giáo dục Sức khỏe” của Trung tâm Đào tạo và Bồi dưỡng cán bộ Y tế thành phố (tức Đại học y khoa Phạm Ngọc Thạch sau này) và Tổ Bộ môn Sức khỏe Phụ nữ của Đại học Mở Bán công.

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc bắt đầu thực hiện các buổi nói chuyện trên Đài truyền hình và Đài Tiếng nói nhân dân thành phố. Từ những năm 1984 – 1986, ông triển khai các Chương trình “Săn sóc sức khỏe ban đầu cho trẻ em » (Primary Child Care) phường 13, quận 6 (nay là phường 10), để làm thí điểm phòng bệnh từ xa với một chiến lược mới với sự tham gia của cộng đồng và sự phối hợp liên ngành. Ông được sự đồng tình ủng hộ của nhiều đồng nghiệp và trường Đại học Y dược thành phố lúc đó đã gởi nhiều sinh viên theo học và làm luận văn về hướng Nhi khoa xã hội này. Sau đó tham gia Chương trình Săn sóc sức khỏe ban đầu toàn diện tại xã Hiệp Phước, Nhà Bè. Ông còn thực hiện Chương trình Giáo dục sức khỏe phòng chống HIV/AIDS, và Phòng chống tác hại hại thuốc lá v. v…

– Nguyên Giảng viên thỉnh giảng Bộ môn Nhi, Đại học Y Dược. Trong thời gian ông công tác tại đây từ năm 1981 và đỡ đầu luận văn hơn 10 đề tài cho các bác sĩ Sơ bộ chuyên khoa Nhi. Rồi ông còn viết nhiều cuốn sách phổ cập khác như Những bệnh nguy hiểm thường gặp ở trẻ em, Nuôi con, Săn sóc con em ở nơi xa thầy thuốc.

– Thầy thuốc Ưu tú năm 1999.


Nhân dịp bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chính thức nghỉ hưu, Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh đã cho tái bản cuốn Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng (tái bản lần thứ XX) – được cập nhật và bổ sung – gần 400 trang trên giấy trắng tốt, bìa cứng mà ông xem là một món quà nhỏ gởi đến các ông bố, bà mẹ trẻ mới sinh con đầu lòng…

Trả lời câu hỏi của học trò cũ, trong một buổi giao lưu: “Thưa thầy, kinh nghiệm của thầy khi đi nước ngoài, bài học thầy áp dụng vào ngành truyền thông – giáo dục sức khỏe của Việt Nam”?

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chia sẻ:

“Thầy có không nhiều dịp đi nước ngoài, nên mỗi dịp đều là một cơ hội để được học thêm và rút kinh nghiệm đem về áp dụng những điều hay. Lần nào thầy cũng mang về một lô sách và tài liệu để sử dụng cho ngành mình và kể cả về đào tạo y khoa, như lần đi dự hội nghị về “Đào tạo chuyên viên phát triển sức khỏe” của WHO tại Ai Cập. Thầy được tham gia trong nhóm sáng lập Trung tâm Đào tạo và Bồi dưỡng cán bộ y tế thành phố, sau này là Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch. Nhờ thời gian tu nghiệp ở Đại học Havard, thầy về triển khai hình thành Bộ môn Khoa học hành vi và Giáo dục sức khỏe cho trường. Lúc tu nghiệp ở CFES, Paris, thầy thấy họ làm nghiên cứu về Giáo dục sức khỏe rất bài bản, dựa trên đó xây dựng các chương trình can thiệp có hiệu quả, khi về, thầy củng cố thư viện T4G, lập bộ phận tổ chức tư liệu (documentation) và đẩy mạnh các nghiên cứu khoa học trong lãnh vực giáo dục sức khỏe. Khi đi Ấn Độ dự Hội thảo quốc tế về HIV/AIDS thầy ứng dụng “truyền thông thay đổi hành vi” cho những lớp huấn luyện theo phương pháp giáo dục chủ động, tạo tham gia…

Tóm lại, học đối với thầy bao giờ cũng đi đôi với hành. Học mà không hành thì không thể nào “chín” được. Thầy cũng mong các em: đi học, nhất là du học không chỉ để lấy cái bằng cấp về treo, để “hù” thiên hạ… mà phải rút ra được bài học gì ứng dụng phù hợp vào hoàn cảnh nước ta với sự sáng tạo riêng của mình. Nhân dịp cũng nói thêm với các em rằng khi tiếp các đoàn chuyên gia quốc tế, đừng thụ động đối phó, lo trả lời những câu hỏi của họ đặt ra mà phải chủ động… đặt câu hỏi, đưa ra những ý tưởng của mình để tranh luận, từ đó mới có cơ hội học hỏi lẫn nhau…”.


2.2. Đỗ Hồng Ngọc và những “sở đắc” trong ngành y

Năm 1972, tức là chỉ ba năm sau khi tốt nghiệp bác sĩ y khoa, Đỗ Hồng Ngọc đã xuất bản cuốn Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò trong loại y học phổ cập. “Cuốn sách đầu tay không những được các em học sinh mà cả các bậc phụ huynh cũng nồng nhiệt đón nhận. Nhà văn Trần Phong Giao – Tổng thư ký báo Văn lúc đó – bảo tôi là anh đã bắt con mình học… thuộc lòng cả một chương trong sách! Nhà xuất bản Lá Bối của thầy Từ Mẫn độc quyền phát hành và chỉ vài tháng sau sách đã được tái bản”.

Trong lời Tựa cuốn này, học giả Nguyễn Hiến Lê viết: “Tập này là tác phẩm đầu tay của ông. Ông dùng kinh nghiệm bản thân khi đi học và đi dạy (vì như một số sinh viên khác, ông phải tự túc), cùng những sở đắc trong ngành y để hướng dẫn các bạn học sinh trong việc giữ gìn sức khỏe, ngừa trước những bệnh thông thường và khi bệnh đã phát thì nên làm gì. Yêu nghề và có lương tâm, ông không mách thuốc bừa bãi như thỉnh thoảng chúng ta thấy trên một số báo, ông phản đối thái độ ‘vô trách nhiệm’ đó”.

Từ nhận xét đó, chúng ta có thể thấy, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc tuy mới ra trường 3 năm mà đã dùng kinh nghiệm bản thân khi đi học và đi dạy, cùng những sở đắc trong ngành y để hướng dẫn các bạn trẻ giữ gìn sức khỏe… Ông lại rất yêu nghề và có lương tâm. Tri thức chuyên ngành và lương tâm của người thầy thuốc ngày càng khẳng định “sở đắc”, tầm nhìn mới của ông trong ngành y.

Rồi đến năm 1974, Đỗ Hồng Ngọc hoàn thành bản thảo Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng, lúc ông đang làm việc tại Bệnh viện Nhi đồng Sài Gòn và cũng vừa có đến 3 đứa con “đầu lòng”. Cuốn này được cụ Nguyễn Hiến Lê góp ý, sửa chữa tận tình và “khen” Đỗ Hồng Ngọc là một thầy thuốc nhi khoa tốt, yêu trẻ con.

Tôi thực sự cảm kích và vui mừng cho những bước khởi đầu viết lách của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc khi đọc những nhận xét, “đánh giá” về tác phẩm này của những người đồng nghiệp, những bậc đàn anh, những người Thầy của Đỗ Hồng Ngọc. Trước hết là bài Tựa của Giáo sư Phan Đình Tuân, Giám đốc Bệnh viện Nhi Đồng Sài Gòn, cũng là người đỡ đầu luận án tốt nghiệp Tiến sĩ Y khoa Quốc gia của Đỗ Hồng Ngọc. Bài Tựa có đoạn viết:

“Đọc quyển sách Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, các bà mẹ sẽ tìm thấy những lời chỉ dẫn ân cần về những vấn đề thiết thực, để bớt những bỡ ngỡ băn khoăn, lo lắng vô ích. Thêm vào đó, tác giả còn đả phá những thành kiến sai lầm, những tập quán nguy hiểm từ lâu vẫn lan tràn ở nước ta gây nhiều tai hại cho trẻ nhỏ (…)

Một quyển sách về y học, dù là y học phổ thông, thường thường rất khô khan, ít ai muốn đọc, nhưng quyển sách của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc lại khác. Tác giả có lối hành văn trong sáng, nhẹ nhàng, thân mật, gần gũi, có chỗ dí dỏm nên thơ, đọc không biết chán.

Tôi mong rằng quyển sách này sẽ là sách gối đầu giường không những của các bà mẹ sanh con đầu lòng mà còn của tất cả các bà mẹ vậy”.

(Thư gởi người bận rộn, tập 2, NXB Văn hóa – Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, 2011, tr. 74).

Đến năm 1978, cuốn sách này được Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh tái bản với tên mới Chăm sóc trẻ từ sơ sinh đến 3 tuổi với số lượng in là 10.500 bản, sau khi được một bác sĩ “cách mạng” có uy tín là bác sĩ Trần Hữu Nghiệp thẩm định! Đỗ Hồng Ngọc cho biết: “Về sau, anh Lã Quang Quỳnh [biên tập viên mảng Khoa học của Nhà xuất bản] cho biết: Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp khen hết lời, rằng đây là một cuốn sách quý, cần thiết, của một người thầy thuốc giỏi nghề, yêu trẻ, viết một cách khoa học mà nhẹ nhàng v.v… »

Sau đây tôi xin bạo gan lượm lặt đây đó trong các cuốn sách, các bài trả lời phỏng vấn của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc để nêu lên một vài những “sở đắc” trong ngành y của ông.

– Y khoa là một khoa học nhưng cũng là một nghệ thuật. Kỹ thuật y khoa càng tiến bộ thì càng cần hơn tính nhân văn trong y học vì nó đứng trước cái sống, cái chết, cái đau, cái khổ của kiếp người.

– Đa số cáí bệnh là do cái hoạn, cái đau là do cái khổ mà ra. Cuộc sống đầy stress, căng thẳng, tranh giành, được mất, hơn thua… phát sinh từ lòng tham sân si của mỗi người. Nếu có một trái tim biết “từ bi hỷ xả” thì mọi thứ đã khác hẳn.

– Hai thứ “bệnh” “bệnh do từ tâm bệnh chuyển qua thân bệnh” luôn gắn bó mật thiết với nhau. “Bệnh” luôn đi đôi với “hoạn”, cũng như “đau” luôn đi đôi với “khổ” vậy! Khi tiếp xúc với một bệnh nhân, phải luôn tìm hiểu thêm những nỗi băn khoăn, sợ hãi, lo lắng của họ bên cạnh bệnh chứng. Điều trị như vậy mới có thể toàn diện được. Nhiều khi trên lâm sàng rất rõ là bệnh loét dạ dày, bệnh tim mạch nhưng nguyên nhân sâu xa của nó lại là do những stress chất chồng trong đời sống của họ, những ganh tỵ, ghen tuông, những bất an, bất mãn. Một bà mẹ đang cho con bú chẳng hạn mà khổ vì ghen thì sẽ bị mất sữa đột ngột. Bác sĩ cho thuốc làm tăng tiết sữa vô ích, vì phải chữa ở… ông chồng! Một đứa trẻ bị đái dầm, nguyên nhân sâu xa lại là do sự ganh tỵ với đứa em mới sinh, cảm thấy cha mẹ bỏ rơi mình nên kêu gọi sự quan tâm của họ bằng cách… đái dầm như thế! Trường hợp này phải chữa cho cả nhà! Đây là những thí dụ cụ thể để thấy sự gắn bó giữa thân và tâm.

– Tiếng Việt của mình rất hay! Đau khổ. Bệnh hoạn. Cái đau sinh ra cái khổ, cái khổ sinh ra cái đau… Bác sĩ được học để chữa cái đau. Mấy ai quan tâm đến cái khổ của người bệnh đằng sau cái đau đó? Cho nên bác sĩ chỉ biết “đau đâu chữa đó” thì không bao giờ chữa dứt bệnh, hết bệnh này sinh bệnh khác, vì cái “khổ” vẫn ẩn tàng bên trong! Mà cái khổ không dễ chữa chút nào!

– “Truyền thông trị liệu”, “Truyền thông thay đổi hành vi” là một khoa học, bao gồm cả tâm lý – xã hội – nhân chủng (văn hóa) ứng dụng vào ngành y, giúp cải thiện mối quan hệ thầy thuốc – bệnh nhân và nâng cao y đức. Làm sao người thầy thuốc thấy được nỗi khổ sau nỗi đau, để thấu cảm với người bệnh. Một lời nói, một cử chỉ của thầy thuốc có thể làm cho bệnh nặng hơn hay nhẹ đi, vơi đi. Những kỹ năng ứng dụng này phải bằng cái tâm của người thầy thuốc.

– Muốn giải quyết vấn đề này [bệnh ngày càng nhiều, bệnh viện quá tải…], phải giải quyết cái gốc từ xã hội, tức là phải giải quyết trên vấn đề sức khỏe toàn diện chứ không chỉ là vấn đề y tế đơn thuần. Y tế chỉ cung cấp dịch vụ chữa bệnh, còn sức khỏe bao gồm cả môi trường sống, môi trường xã hội và thiên nhiên, cho đến hành vi, lối sống của mỗi cá nhân. Đã đến lúc cần giải quyết trên một bình diện rộng. Một mặt, ngành y tế tổ chức lại hệ thống chăm sóc sức khỏe tốt hơn, mang tính dự phòng tích cực từ cơ sở, nâng cao dân trí để mọi người biết tự bảo vệ sức khỏe cho cá nhân mình, gia đình và cộng đồng. Mặt khác, xã hội phải coi trọng việc đầu tư chăm sóc sức khỏe người dân hơn là tập trung mở thêm nhiều bệnh viện để hứng bệnh tật, tức là chăm lo bảo vệ môi trường, quan tâm giáo dục từ tuổi ấu thơ nhằm thay đổi hành vi, lối sống với các chương trình Nâng cao sức khỏe (health promotion).

Để làm được điều này không thể một mình ngành y tế làm được mà cần có sự phối hợp liên ngành từ cấp cao nhất!

– Riêng vấn đề y đức phải được quan tâm đúng mức, đặt trong hệ thống đào tạo người thầy thuốc tương lai. Rồi đây, quản lý bệnh viện dần dần sẽ là những doanh nhân chứ không phải là bác sĩ, các bác sĩ sẽ chỉ là người làm công tác ăn lương. Y đức như vậy phải được mở rộng cho giới doanh nhân “khai thác” ngành y.

– Nhà nước có một cơ chế để doanh nghiệp sẵn sàng bỏ một tỷ lệ lợi nhuận của họ vào đầu tư sức khỏe cộng đồng. Muốn vậy, phải miễn giảm thuế một phần cho doanh nhân để động viên họ làm nghĩa vụ, trách nhiệm đối với xã hội, chăm lo sức khỏe cho người dân.

– Nói y đức suông mà không có tay nghề thì… hại người ta nhiều hơn, làm người ta “đau” nhiều hơn. Còn giỏi kỹ thuật chuyên môn mà thiếu y đức thì làm cho người ta “khổ” nhiều hơn.

– Suốt một đời sống và làm nghề, Đỗ Hồng Ngọc luôn băn khoăn về sự phát triển của ngành Truyền thông – Giáo dục sức khỏe (health education) và Nâng cao sức khỏe (health promotion). Ngoài chuyện lãnh đạo chưa nhận rõ vai trò của nó trong thời đại “nhiễu loạn” thông tin, gây hại sức khỏe cho con người, dẫn đến bệnh tật triền miên và phải liên tục mở bệnh viện để đáp ứng… còn vấn đề nhân sự của ngành, vì không chỉ cần có kỹ năng, có học thuật mà còn cần đến tấm lòng, vì đó là con đường của y đức và y đạo.

– Không phải vô cớ mà Phật được gọi là Y vương, vì Phật mới chữa được nỗi khổ của chúng sanh! Ta thấy khoa học y học ngày càng phát triển mà bệnh tật vẫn triền miên, ngày càng có vẻ trầm trọng hơn, nguy hiểm hơn. Sức khỏe không phải chỉ là không có bệnh, tật. Sức khỏe là sự sảng khoái (well-being) về cả ba mặt: thể chất, tâm thần và xã hội. Cho nên môi trường sống – môi trường thiên nhiên và cả môi trường xã hội – cũng như lối sống cá nhân quyết định tình trạng sức khỏe của họ. Một người có “tật” như Nick Vujicic đã cho thấy anh là một người có sức khỏe tốt. Trong khi đó, nhiều ca sĩ, tài tử xinh đẹp giàu có ở xứ Hàn xứ Nhật, một hôm tự tử chết vì những bức xúc khổ đau trong đời sống, vì những vấn đề tâm thần và xã hội không tìm ra lối thoát. Các nghiên cứu gần đây cũng cho thấy có từ 60% đến 90% các trường hợp đến khám bác sĩ vì bệnh này hay bệnh khác thực ra đằng sau đó là stress, sự căng thẳng trong lối sống, sự mất cân bằng trong đời sống. Mà bác sĩ chỉ thấy cái bệnh trước mắt, chữa được cái đau trước mắt, không chữa được nỗi khổ sau lưng vì thế mà không thể chữa dứt hẳn “bệnh” được!

– Khi “chẩn đoán” ra cái bệnh khổ của kiếp người là “tham, sân, si” thì bậc Y vương cũng đề ra cách chữa với các thuốc đặc trị là “giới, định, huệ”. Giới để chữa tham, Định để chữa sân và Huệ để chữa si. Tùy bệnh trạng mà phối hợp cả ba hoặc gia giảm nhiều ít. Đây là một tam giác cân, tác động hai chiều, có hiệu quả rõ rệt. Khi người ta bớt đi lòng tham, dứt lòng tham thì sân cũng tắt ngấm, và “huệ” sẽ phát triển, sẽ có được sự “an tịnh trong tâm hồn, hồi phục những bản năng tự nhiên đẹp đẽ của con người” như vốn có…

– Tôi thấy nghiên cứu, ứng dụng và thực tập thiền, làm cho cuộc sống của mình uyển chuyển, nhẹ nhàng, thanh thản, vui sống hơn và hạnh phúc hơn. Nhờ bớt vướng bận, mình dễ sáng suốt hơn, nhờ tập trung tốt và ít hao tổn năng lượng vô bổ, mình dễ có hiệu năng hơn. Riêng đối với sức khỏe cũng thấy được cải thiện nhiều hơn.

– Bớt kỹ thuật, thêm nhân văn.

Nguy cơ lớn nhất của ngành y hiện nay là đi quá sâu vào kỹ thuật và tách hẳn cái thân ra khỏi cái tâm, thậm chí trong cái thân lại chẻ nhỏ ra thành những mảnh thân nhỏ hơn nữa để đi chuyên sâu. Điều đó có lợi về mặt khoa học nhưng lại làm cho con người không còn toàn vẹn nữa. Thật ra thân và tâm không thể chia chẻ được và không thể nào có cái thân mà không có cái tâm và ngược lại: Hai cái đó vốn là một. Với cái nhìn như vậy, những bệnh thường gặp trong xã hội hiện đại chính là những bệnh từ tâm chuyển qua thân. Bệnh do lối sống, do hành vi cũng chính là nó. Một người thầy thuốc khi chữa bệnh cho bệnh nhân, nếu chỉ thấy cái thân bệnh, mà không thấy cái tâm bệnh, tức là chỉ thấy cái “đau” mà không thấy được cái “khổ” của họ thì không thể chữa thành công. Hiện nay ngành y khoa – tâm thể (médecine psychosomatique) dần phát triển trở lại. Các Trung tâm y khoa lớn ở các nước phát triển đã đưa thiền, yoga vào chữa bệnh rất có hiệu quả. Ngành y, trong hướng phát triển tới cần phải quan tâm nhiều hơn nữa về mảng tâm thay vì chỉ quan tâm tới thân như hiện nay!

– Stress là một phản ứng sinh học giúp con người thoát hiểm trước thú dữ, hòn tên mũi đạn ngày xa xưa. Thế nhưng trong thời buổi hiện đại, stress chính là sự căng thẳng trong đời sống, khiến cơ thể lúc nào cũng căng cứng, phòng vệ, không thư giãn được trong một thế giới vật chất đua đòi, đấu đá tranh giành nên tình trạng stress đã âm thầm dẫn tới những tác hại đến thân tâm. Bác sĩ có thể chữa được cái đau trước mắt nhưng cái khổ chập chùng đằng sau thì bác sĩ không quan tâm. Mà con người thì đau và khổ luôn gắn với nhau, cái này sinh cái kia và ngược lại. Hiện nay các dịch bệnh không lây như tim mạch, tiểu đường… có nguồn gốc từ stress như ta đã biết.

– Đối với các bạn trẻ mong muốn chọn ngành y làm con đường nghề nghiệp, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc chia sẻ:

“Rất hoan nghênh các bác sĩ trẻ này. Đây là một ngành đang có nhu cầu rất lớn của xã hội. Nhưng chọn học y là chọn con đường gian nan, hằng ngày trực diện với những nỗi đau nỗi khổ của kiếp người (sanh, bệnh, lão, tử)… Phải thực sự yêu nghề và có năng lực. Nói chung, học y cần có một lý tưởng nhân đạo, một “tiếng gọi sâu thẳm” (vocation) của nghề nghiệp. Nếu học y để mong đầu tư… làm giàu trên bệnh nhân thì không nên! Thực ra học y cũng rất thú vị, nhiều thử thách đòi hỏi trách nhiệm cao. Luôn đứng trước lương tâm của mình. Hạnh phúc rất lớn khi thấy mình sống hữu ích cho gia đình, cho cộng đồng, cho xã hội. Bà con mình thường nói: “Cứu sống một mạng người bằng… lập năm bảy kiểng chùa” phải không”?

– Y khoa là một khoa học nhưng cũng là một nghệ thuật! Ai bảo người nghệ sĩ không yêu nghề, không nghiêm túc còn vị thầy thuốc sao lại không có tâm hồn bay bổng… nhỉ? Dĩ nhiên khi viết về y học thì phải hết sức thận trọng, chính xác và phải luôn luôn quan tâm tới góc cạnh tâm lý xã hội của vấn đề chứ không đơn thuần ở góc độ bệnh lý. Khi làm thơ, viết tùy bút chẳng hạn thì có thể tự cho phép mình bay bổng hơn… Tiếp cận với những cảnh đời, những con người, chẳng phải cũng là một nguồn cảm xúc để cầm lấy cây bút sao? (còn tiếp).

Nguyễn Hiền Đức

(2014)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 13, 2015 01:42

February 12, 2015

Nguyễn Hiền Đức: THỬ SƠ PHÁC CHÂN DUNG ĐỖ HỒNG NGỌC

 


Ghi chú:


Thứ sáu tuần trước, 6-2-2015 khi đi café với một người bạn trẻ về đến nhà thì nhận được 3 cuốn bản thảo “Tuyển tập Đỗ Hồng Ngọc” dày cả ngàn trang A4 của một người không quen biết gởi tặng. Giật mình, ai vậy nhỉ? Thấy có kẹp mảnh giấy nhỏ, ghi số điện thoại và email, ký tên Nguyễn Hiền Đức. Ai vậy nhỉ? Bèn phone thăm hỏi mới biết đó là một bạn đọc quý mến mình, đã “dõi theo” hành trình viết lách của mình từ lâu, nay tỉ mẫn “ghi chép lang thang” lại cả một tuyển tập đồ sộ gởi tặng và nói còn sẽ gởi tiếp mấy tập nữa! Sau đó được biết thêm anh tên thật là Nguyễn Hiền (5 Hiền), còn Đức là tên vợ, chị Phùng Ngọc Đức, nên lấy bút danh Nguyễn Hiền-Đức, “gốc” Hội An. Anh 5 Hiền trước 75 là Thư ký Tòa soạn của tạp chí Tư tưởng, và là thư ký riêng của HT Thích Minh Châu, phụ trách Tu thư ở đại học Vạn Hạnh. Anh tốt nghiệp Báo chí và Xã hội học, rồi cao học Sử, đại học Vạn Hạnh. Năm nay anh đã 71 tuổi, mà vẫn cứ gọi mình bằng “thầy” làm mình rất ái ngại. Hôm qua hẹn anh đi café cuối năm để anh em được biết mặt nhau. Đó là một người nghiêm túc, cẩn mật, nhiệt tâm, và rất dễ thương…


Anh gởi file Word tập tài liệu và cho phép mình cứ “tùy nghi”… Bèn thử trích một vài đoạn gởi bạn bè coi trước cho vui.


Trân trọng cảm ơn 5 Hiền,


Đỗ Hồng Ngọc


(SG 12-2-2015)


 


THỬ SƠ PHÁC CHÂN DUNG


ĐỖ HỒNG NGỌC


 


Nguyễn Hiền Đức


(Tổng hợp và giới thiệu)


 


Tôi đọc lại các tác phẩm của Đỗ Hồng Ngọc và gom góp những bài ông trả lời phỏng vấn, trò chuyện đăng trên các báo, tạp chí, kể cả trang mạng www.dohongngoc.com, rồi những bài viết, những cảm nhận của nhiều tác giả, nhiều bạn đọc trong và ngoài nước… để mong sơ phác được phần nào chân dung ông. Tôi lúng túng, loay hoay mãi. Bài viết lần đầu là Sơ phác chân dung Đỗ Hồng Ngọc qua những trang văn, trang đời. Rồi bỏ. Đến Sơ phác tiểu truyện Đỗ Hồng Ngọc. Lại thấy không ổn. Và đây là bài viết lần thứ ba.


Tôi cũng đọc lại những bài của học giả Nguyễn Hiến Lê viết về những người bạn văn thân thiết như Đông Hồ, Quách Tấn, Giản Chi, Nguiễn Ngu Í…  trong Hồi ký Nguyễn Hiến Lê. Lại đọc thêm Nhớ bạn của Giáo sư Nguyễn Lương Ngọc, tiếp đến là Bạn bè một thuở của nhà văn Bùi Ngọc Tấn, và cả Buồn buồn Vui vui của người anh chí cốt của tôi vừa đột ngột rời cõi tạm  (13.02.2014): Anh Năm Nguyễn Quang Sáng.


Riêng Đỗ Hồng Ngọc tôi gom lại những bài tạm gọi là “ký sự nhân vật” hoặc “Phác thảo chân dung”… ông viết về Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Khắc Viện, Nguiễn Ngu Í, Dương Cẩm Chương, Ngô Gia Hy, Trương Thìn, Trần Văn Khê, Trịnh Công Sơn, Cao Huy Thuần… đến những người bạn thân thiết của ông đang hoạt động trên nhiều lãnh vực…


Tôi lại tiếp tục đọc, tiếp tục “vịn” vào người khác. Tôi đọc Trí thức tinh hoa Việt Nam đương đại – một số chân dung. Trong Đôi điều tâm niệm, nhà báo kỳ cựu Hàm Châu viết: “… Khi viết về cuộc đời và sự nghiệp một nhân vật cùng thời, tác giả may mắn hơn ở chỗ có thể “diện kiến, phiếm đàm” với chính nhân vật ấy. Nghề làm báo tạo thuận lợi cho việc giao tiếp. Bởi thế có nhà lý luận báo chí cho rằng, một phóng viên giỏi, với cuốn sổ tay, chiếc máy ghi âm – ghi hình và tài năng phân tích, đánh giá, rất có thể trở thành một “nhà chép sử đương đại” qua các tác phẩm ký chân xác, đáng tin về những sự kiện, con người của thời đại anh ta đang sống”.


Rồi tôi lại đọc Nguiễn Ngu Í – Cuộc đời và Văn nghiệp của Châu Hải Kỳ viết về “kỳ công” của Nguiễn Ngu Í khi đi phỏng vấn: “… Với chiếc mô-bi-lết già nua, hay chiếc xe đạp cọc cạch, anh đi sớm, về khuya, bất kỳ mưa nắng, và đôi khi bất kể cả giờ giới nghiêm nữa. Muốn gợi đúng được không khí “Sống và Viết” của người mình tìm hiểu, anh lại phải tới ăn và ngủ với người đó có khi hai ba lượt, có lần tới hai ba ngày. Rồi muốn người được phỏng vấn xác nhận điều mình đã phát biểu và thực sự yên tâm đối với bài báo nói về mình, mỗi khi viết xong, anh lại chịu khó đưa bản thảo tới cho xem lại để tùy tiện sửa chữa…” (Sđd., NXB Văn hóa Thông tin, 1993, tr. 54).


Tôi cứ nghĩ mình phải đọc nhiều như vậy để mong “cảm” được một điều gì đó, “nhập” được một điều gì đó, “ngẫm” được một điều gì đó, “ngấm” được một điều gì đó để mà sơ phác chân dung Đỗ Hồng Ngọc không đến nỗi tệ quá! Vậy mà không phải vậy!


Thưa trình dài dòng như vậy cũng chỉ để nói lên một điều rằng tôi có rất nhiều hạn chế khi sơ phác chân dung Đỗ Hồng Ngọc. Tôi “theo dõi” khá kỹ về Đỗ Hồng Ngọc ít nhất từ năm 1967, khi người bạn thân cùng lớp với tôi ở Đại học Vạn Hạnh là nhạc sĩ Miên Đức Thắng phổ nhạc thơ Đỗ Hồng Ngọc và trình diễn những nhạc phẩm “phản chiến”, nhưng mãi đến nay tôi chưa một lần gặp gỡ Đỗ Hồng Ngọc. Người anh, người bạn đồng hương khá thân với tôi là nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng có lần phone cho tôi: “Ê, Năm Hiền, 9 giờ sáng mai cà phê nghe, tại…. ngồi với Đỗ Hồng Ngọc, Trương Thìn, có cả nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương nữa, và nhiều bạn bè khác. Nói chuyện vui vẻ và thú vị lắm. Nhớ đó”. Tôi dạ vâng nhưng cuối cùng rồi không dám đến vì nghĩ mình hoàn toàn “ngoại đạo”; ngại sự có mặt ngu ngơ và lêu bêu của mình có thể làm hỏng cuộc gặp gỡ vui vẻ của những nghệ sĩ, bác sĩ nổi tiếng đó. Mãi đến nay tôi vẫn chưa một lần “diện kiến, phiếm đàm” với bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc – vốn là người mà tôi yêu thích và kính trọng về nhiều mặt. Không có cơ hội “diện kiến, phiếm đàm” với bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, không có một cơ hội nào học hỏi trực tiếp từ ông, điều ấy có nghĩa là tôi thực sự không có bất cứ một điều kiện nào, một kỷ niệm gì, một “chất liệu” gì để mà bạo gan sơ phác chân dung Đỗ Hồng Ngọc!


Tôi chỉ còn cách là đọc một số bài viết, bài trả lời phỏng vấn của Đỗ Hồng Ngọc, một số bài viết của các tác giả viết về Đỗ Hồng Ngọc, nhặt nhạnh đây đó một số ý kiến, nhớ nhớ, ghi ghi rồi tổng hợp và chắp vá để “làm” bài này. Tất cả những gì trích dẫn sau đây đều là của Đỗ Hồng Ngọc, thỉnh thoảng tôi có nêu lên một số ý kiến cá nhân, một số nhận xét của các tác giả cùng thời Đỗ Hồng Ngọc với mong muốn làm rõ hơn chân dung đa dạng, phong phú, nhiều vẻ rất đáng yêu và đáng trọng của Đỗ Hồng Ngọc.


Vì vậy, tôi mong bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc “từ bi hỷ xả” mà tha thứ và thông cảm cho. Mong người bạn, người em thân thiết của tôi là bác sĩ Huỳnh Kim Hơn (Hội An) mạnh tay sửa chữa, bổ sung. Và, mong các bạn tôi nếu vô tình đọc bài này và bộ Tuyển tập Đỗ Hồng Ngọc thì rộng lòng góp ý, bổ sung và sửa chữa cho. Tôi cung kính biết ơn.


Và, bây giờ là những “ghi chép lang thang” của tôi về Đỗ Hồng Ngọc.



I. TUỔI THƠ Ở QUÊ NHÀ


1.1. Một tuổi thơ côi cút và cơ cực…


Đỗ Hồng Ngọc, là tên thật. Khi làm thơ ký Đỗ Nghê (ghép họ cha và họ mẹ). Sinh năm Canh Thìn 1940, (không ghi ngày, tháng) tại Lagi, Hàm Tân, Bình Thuận. Ngoài ra ông còn một bút hiệu nữa là Giang Hồng Vân khi viết bài Dẫn nhập cho tập Qê hương của người cậu (Nguiễn Ngu Í).


Họ và tên cha: chúng tôi chỉ tìm thấy các chi tiết sau đây:


– “Cha tôi mất khi tản cư ở rừng Bàu Lời vì thiếu thầy, thiếu thuốc khi tôi mới 12 tuổi”;


– Còn nhớ năm 1960, cậu mợ [tức cậu mợ Nguiễn Ngu Í] về Hàm Tân làm mộ cho ông bà, tôi cùng cậu mợ và vài người bà con đi bộ từ Lagi lên Tam Tân (Tân Hải) dọc theo biển, con đường hồi nhỏ tôi vẫn thường đi lại, dài trên mười lăm cây số. Biển mênh mông, rừng dương vi vút. Đến Nước Nhỉ, cậu dừng chân nghỉ và nằm lim dim trên đống cát gạch vụn, dưới bóng mát của những bụi dứa gai um tùm nhìn lên trời mây… Một lúc cậu gọi tôi đến và đọc cho tôi nghe bài thơ cậu vừa làm. Tôi còn nhớ mấy câu:


Nằm đây mà ngó lên trời


Lá cây dứa đã mấy đời đong đưa


Nằm đây mà nhớ mơ hồ


Những xanh tóc ấy bây giờ ở đâu…


Thì ra cậu nhớ mấy người bạn cũ, đã cùng nhau xây cái giếng Nguồn Chung này cho khách bộ hành qua đường nghỉ ngơi, uống nước ngọt nhỉ ra từ động cát, giữa trưa nắng gắt trên đường dọc biển mênh mông đầy nắng và gió. Bài thơ còn dài, tôi không nhớ hết, trong đó có câu “Ới Trì, Di, Thảo xe trâu…”. Trì là ba tôi, đã mất từ lâu (tên đầy đủ của ông là Đỗ Đơn Trì, mất năm 1952).


– và một câu thơ “Tôi còn nợ cha tôi dòng máu đỏ…


Họ và tên mẹ: Nghê Thị Như, nhưng khi đi làm thẻ căn cước, người làm hộ tịch không biết họ Nghê cứ ghi bừa là họ Lê. Theo Đỗ Hồng Ngọc, cụ Như “sống thọ (94 tuổi), vẫn còn sáng suốt tuy hai chân đã yếu liệt. Ngày tôi còn nhỏ, vẫn thường được nghe bà đọc Kiều và ca dao, hát ru… dù bà chỉ biết đọc biết viết”. Cụ bà Nghê Thị Như mất năm 2011.


Quê ngoại của cậu ngay dưới chân núi Tà Cú, nơi có tượng Phật nằm, dài 49 m, xưa thuộc huyện Hàm Tân, Bình Tuy, nay là Hàm Thuận Nam, Bình Thuận, cách Phan Thiết 30 km, một nơi chưa kịp đô thị hóa, nên còn mang dáng dấp “nhà quê”, rất dễ thương.


“Khi Mẹ mất, đưa bà về bên ngoại ở Hiệp Nghĩa cho gần gũi với dòng họ, ông bà, dì cậu, bà con cô bác… Còn Ba thì mất đã hơn 60 năm trước, thời 9 năm kháng chiến cũng được chôn cất nơi đây, chắc chờ đợi cũng đã lâu. Còn quê nội thì ở Lagi, nay đã là một thị xã, cách Hiệp Nghĩa chừng 15 km, đi ngang qua Tam Tân (Tân Hải) là nơi sinh quán của cậu Ngu Í – cho nên ông còn có các bút danh Tân Fong Hiệb (theo lối viết của ông), ghép từ Tam Tân, Phong Điền, Hiệp Nghĩa”.


– Lúc 5 tuổi, cậu bé Đỗ Hồng Ngọc cùng gia đình tản cư lên rừng ở vùng Láng Găng, Bưng Riềng, Xuyên Mộc… Bị sốt rét triền miên, kiết lỵ, suy dinh dưỡng… đủ thứ.


– Khi cha mất, mẹ cậu rời xóm tản cư trong rừng Bàu Lời, dẫn bốn anh em cậu về thị xã Phan Thiết tá túc ở nhà cô Hai, ngụ trong chùa Hải Nam. Cô Hai bị tật nguyền, không đi đứng được, tu ở chùa. Cô có ba người con chết trong lũ lụt năm Thìn (1952). Vào thời điểm này, Đỗ Hồng Ngọc rất ốm o, da xanh mét, lá lách sưng to. Mỗi ngày cậu vẫn thường qua lại bằng đò ngang để đến nhà thương thí chích thuốc! Riết rồi cậu ghiền cái mùi nhà thương. Cô Hai của cậu Ngọc nghèo lắm. Bà sống bằng nghề chằm lá buông, cậu Ngọc phụ phơi lá trong sân chùa và cậu phải ào ào cuốn lá… chạy khi trời mưa! Nhà nghèo nên sáng nào mọi người cũng ăn một chén cháo trắng với muối. Nhưng cô Hai và các chị của Ngọc rất mê truyện Tàu, mê tiểu thuyết đủ loại. Cậu được sai đi mướn truyện nhưng cấm đọc (vì con nít đọc truyện không tốt). Nhưng cậu bé Ngọc thường lén đọc trên đường đi, dưới gốc cây, nơi bệ đá cổng chùa, trên đò, trước khi mang về, kể cả trùm chăn đọc… lén. Cậu đọc tuốt hết, không chừa thứ gì trong tiệm cho thuê sách đó. Cậu mê sách đến nỗi: “Tôi khóc với Chiêu Quân cống Hồ, sảng khoái với Anh hùng náo, buồn bã với Tố Tâm, Anh phải sống… Rồi Tam quốc, Hán Sở tranh hùng, Đông Châu liệt quốc, Thủy Hử… Tôi được dạy phải tôn trọng chữ thánh hiền, không được lấy giấy báo đi vệ sinh! Tóm lại, bao trùm một không khí huyền hoặc trong một cái chùa Tàu với sách vở và chữ nghĩa”.


Cậu bé Đỗ Hồng Ngọc, biết yêu và yêu sớm. Rung động đầu đời lúc lên 8 và yêu, và… “mê” cô bạn cùng lớp lúc 12 tuổi!


Lúc nhỏ Đỗ Hồng Ngọc ít nói, bị cận thị gần 3 độ nên bị hiểu lầm là một kẻ… khinh người! Cậu còn bị bệnh đau bao tử, xuất huyết tiêu hóa phải đi cấp cứu rồi hơn 20 năm sau cậu đã từng được mổ cườm – cườm chấn thương sinh biến chứng. Gần đây thì mổ cườm già ở mắt còn lại… Không chỉ bị cườm già mà còn thoái hóa hoàng điểm nên mắt mổ xong cũng sẽ nhìn kém so với những trường hợp khác. Năm 1997, Đỗ Hồng Ngọc bị một cơn tai biến mạch máu não phải mổ sọ não…


Cậu lại vốn ít cười. Ngay từ nhỏ, người ta đã gọi cậu là “một ông cụ non”, vì lúc nào cũng có vẻ đạo mạo, nghiêm túc quá. Đỗ Hồng Ngọc tự họa mình như sau: “… Cái hình tôi chụp ở Liên Hoa lúc 12 tuổi. Xanh lè, suy dinh dưỡng, cân được 25 kg ở nhà thuốc tây Phạm Tư Tề, mắt lồi (mắt ốc bươu), mũi bự, tai vểnh, mặt quạu đeo…!”.


Đỗ Hồng Ngọc phụ mẹ bán hàng xén tại chợ Lagi (Phan Thiết). Cậu tỏ ra nhanh nhẹn tháo vát trong việc “mua bán, theo xe cá nước đá vào Sài Gòn bổ hàng và lo cơm nước cho mẹ. Khi tản cư về, cậu bị trễ học đến 3 năm và cậu bị mặc cảm vì lớn hơn bạn đồng học cùng lớp đến mấy tuổi! Cậu quyết chí lấy lại “thời gian đã mất”!


Đỗ Hồng Ngọc ngay từ nhỏ đã ham học, ham đọc nên cậu đã viết hai câu Ca dao này treo trước mặt, rồi vừa học vừa tủm tỉm cười:


Những anh mít đặc thôi thời


Ai còn mua chuộc đón mời làm chi!


“Thế rồi, một hôm cậu Ngu Í điên của tôi đến thăm. Người ta nói ông điên vì ngộ chữ, vì học nhiều quá hóa điên… Thấy tôi đã 12 tuổi rồi mà học hành ấm ớ trong rừng, ông dẫn tôi tới trường Tiểu học của một người bạn, gởi cho học. Ông còn tặng tôi một đống sách báo từ Sài Gòn mang về. Tôi mê tít”. Đỗ Hồng Ngọc nhớ lại: “Mười hai tuổi, biết đọc, biết viết, làm toán khá, còn chưa biết chữ “le, la” trong tiếng Pháp, mà hồi đó, học trò tiểu học đã học tiếng Pháp rồi. Tôi hoảng lắm”.


“Cậu Ngu Í gởi tôi vào học ở một trường tư trong chùa [Trường Bạch Vân trong Chùa Bà]. Mới đầu học thử lớp Ba, rồi chỉ bốn tháng sau, vào thẳng lớp Nhất (lớp 5), và học rất giỏi nên được miễn học phí. Năm 1954, Đỗ Hồng Ngọc thi đậu cao [hạng 7, được học bổng] vào Đệ thất (lớp 6) trường Phan Bội Châu [Phan Thiết]… Hằng ngày cậu vừa đi học vừa lo cơm nước cho mẹ và giúp mẹ bán chiếu nón ngoài chợ. Thế rồi, gia đình cậu đột ngột theo cô Hai dời về thị xã Lagi, tỉnh Bình Tuy, quê cũ của họ hàng phía nội cậu. Lúc này cậu đang học Đệ thất trường Phan Bội Châu, sắp lên lớp Đệ lục, vậy mà phải bỏ trường bỏ lớp nên cậu tiếc nuối đến nản lòng.


Tỉnh Bình Tuy mới thành lập, chưa có trường trung học. Hai năm liền không có trường học, cậu giúp mẹ bán hàng xén tại chợ Lagi. Ba năm sau mới có lớp Đệ thất đầu tiên, cậu xin học lại. Lần này trường học trong một nhà thờ xứ đạo. Hết chùa tới nhà thờ! Nhớ lại hồi Tiểu học cậu đã từng học nhảy (bỏ lớp) tưng bừng, cậu tính chuyện học nhảy tiếp để theo kịp bạn bè. Năm học lớp Đệ lục, nhân một chuyến theo xe chở cá nước đá về Sài Gòn bổ hàng cho mẹ, cậu lang thang lề đường nơi bán sách cũ, vớ được cuốn Kim chỉ nam của học sinh của Nguyễn Hiến Lê. Cậu đọc thấy trúng ý mình quá bèn đánh bạo viết thư hỏi ý kiến ông, nói muốn học nhảy, có nên không. Học giả Nguyễn Hiến Lê trả lời ngay: “Cháu có thể học nhảy được, vì đọc thư, thấy cháu có thể học lớp Đệ tứ (lớp 9) rồi đó”. Cùng với Kim chỉ nam của học sinh, chắc Đỗ Hồng Ngọc cũng đã nghiền ngẫm cuốn Bí quyết thi đậu… của Nguyễn Hiến Lê!


Thế là cậu bèn lập chương trình học nhảy (bỏ lớp đệ Tứ -lớp 9). Cậu thi thí sinh tự do Trung học đệ nhất cấp, đậu ngay. Từ “thắng lợi” đó, cậu lại “nhảy” tiếp, bỏ Đệ tam, đậu Tú tài I, được vào học lớp Đệ nhất trường Võ Trường Toản Sài Gòn. Cuối năm cậu được phần thưởng danh dự toàn trường và thi đậu Tú tài II hạng khá, [tôi nhớ thời đó các kỳ thi Trung học Đệ nhất cấp, Tú tài bán phần, Tú tài toàn phần, tùy theo số điểm sẽ được xếp các thứ hạng như sau: Tối Ưu, Ưu, Bình, Bình thứ và Thứ – NHĐ] rồi thi đậu vào Y khoa. Xin được nói thêm rằng: cụ Nguyễn Hiến Lê trong Kim chỉ nam của học sinh cực kỳ “đả phá” việc ‘học nhảy”, “học tủ”. Thế mà Cụ lại “khuyến khích” Đỗ Hồng Ngọc học nhảy và nhảy đến mấy cấp, mấy lớp. Học nhảy như thế mà Đỗ Hồng Ngọc lại học rất giỏi. Rõ là cụ Lê tinh thật!


– Từ những ngày còn học phổ thông ở quê nhà, cậu bé Đỗ Hồng Ngọc đã có những bài thơ đăng trên báo. Bài thơ đầu tiên của Đỗ Hồng Ngọc đăng trên tạp chí Bách Khoa với một cái tên tắt. Khi biết những bài thơ đó là của cháu mình, ông Ngu Í ngạc nhiên và khen ngợi. Sau đó cậu lấy bút hiệu Đỗ Nghê và đăng nhiều bài thơ trên Bách Khoa, Tình Thương… rồi ở trong nhóm chủ trương bán nguyệt san văn học nghệ thuật Ý Thức.


Nhiều bài thơ được bạn bè “đánh giá cao” như Em còn sống mãi, Tâm sự Lạc Long Quân, Thư cho bé sơ sinh, Lời ru, Cổ tích về ngôn ngữ v.v… Sau này ông tập hợp in trong tập thơ đầu tay: Tình người, Ý Thức xuất bản, 1967.


Ngay từ hồi học Đệ thất, Đệ lục (lớp 6, lớp 7 bây giờ), Đỗ Hồng Ngọc đã mê văn chương, mê làm báo, làm thơ, vẽ tranh. Lúc đầu làm báo tường, sau làm báo tập, in ronéo, mỗi năm ra… hai số. Hồi 12 tuổi, cậu đã viết nhật ký, viết nhận xét phê bình này nọ mỗi khi đọc xong một cuốn tiểu thuyết, một truyện ngắn nào đó… Cậu muốn trở thành “nhà văn”, “nhà báo” như cậu mình – ông Nguiễn Ngu Í!


Nhớ lại tuổi thơ cơ cực của mình, Đỗ Hồng Ngọc viết một câu thơ rất lạ, đau buốt vô cùng: “Có ngậm ngùi nghe chút ấu thơ…”.


1.2. Hai người có ảnh hưởng lớn trong quãng đời tuổi trẻ và… trong suốt cuộc đời Đỗ Hồng Ngọc


Đỗ Hồng Ngọc rất dè dặt, kín đáo và kiệm lời khi đề cập đến những người thân. Không thấy ông viết về ngày tháng năm sinh của Ba Mẹ ông. Ông cũng không nói gì về những kỷ niệm và ảnh hưởng của ba mẹ đối với ông và những người ruột rà của ông. Không một chi tiết nào ông viết về anh chị em ruột thịt. Thế nhưng, ông nghĩ, ông viết một cách trân trọng, tràn đầy niềm thương yêu ngưỡng mộ và kính phục đối với hai người gây ảnh hưởng lớn trong quãng đời tuổi trẻ của mình là người cậu Nguiễn Ngu Í (Nguyễn Hữu Ngư) và học giả Nguyễn Hiến Lê.


Nói là ảnh hưởng lớn trong quãng đời tuổi thơ của Đỗ Hồng Ngọc, nhưng cả Nguiễn Ngu Í và Nguyễn Hiến Lê đều là hai người để lại những dấu ấn, những tình cảm, những bài học sâu đậm và quý giá không thể nào quên trong suốt cuộc đời Đỗ Hồng Ngọc!


1.2.1. Nguiễn Ngu Í – Đỗ Hồng Ngọc


Nguyễn Hữu Ngư (1921-1979), nhà văn, nhà giáo, nhà báo có nhiều bút danh trong đó có bút danh Nguiễn Ngu Í (với I cụt). Mẹ ông họ Nghê, tên Mỹ, ở Tam Tân, Phong Điền và Hiệp Nghĩa, nay thuộc huyện Hàm Tân và Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận. Cha ông là nhà giáo Nguyễn Hữu Hoàn gốc Hà Tĩnh, có tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục.


Đỗ Hồng Ngọc cho biết: cậu ông – Ngu Í – “là một nhà báo, một nhà văn, nhà thơ, nhà giáo… và là một người… điên thứ thiệt. Từ năm 1939, lúc 18 tuổi, đang học Pétrus Ký, ông đã vào nhà thương điên Chợ Quán mấy lần và đã có những bài thơ rất điên từ thưở đó. Nhưng mãi đến năm 1973 ông mới chịu cho in một tập thơ lấy tên là Có những bài thơ do Trí Đăng xuất bản”. Dù nhà Trí Đăng không in bìa cho ông nhưng ông vẫn tỉnh queo đem phát hành…


Nguiễn Ngu Í “dấn thân” vào nhiều lãnh vực và lãnh vực nào ông cũng khá “nổi tiếng”. Những người trong gia đình, họ hàng và bạn thân của ông đều mến cái tình, cái tài của ông, nhưng họ cũng rất … ái ngại về cái cá tính quá mạnh mẽ, quá quyết liệt của ông, nhất là cái “điên” và cái “ngông” bất chợt của ông. Đọc mục IV. – “Chân dung dưới mắt người gần, kẻ xa” trong cuốn Nguiễn Ngu Í – Cuộc đời và Văn nghiệp của Châu Hải Kỳ chúng ta sẽ thấy những điều đó qua ý kiến ngắn của những người trong gia đình, bà con và cả những người đã nổi tiếng thời đó như Nguyễn Đỗ Cung, Phạm Văn Đồng, Huỳnh Văn Tiểng, Vũ Khương Ninh, Đỗ Hồng Lan (từ năm 1947), cho đến Lê Văn Trương, Lê Ngọc Trụ, Võ Hồng, Nguyễn Hiến Lê (trong những năm 1960…).


Nghiên cứu Quan niệm sáng tác về Văn, Họa, Nhạc của Nguiễn Ngu Í, Châu Hải Kỳ viết: “Sống và Viết… là một kỳ công có một giá trị đặc sắc mà ở nước ta từ thời kỳ thành lập đến nay chưa ai thực hiện nên một công trình dài lâu về loại này như thế. Có thể nói là cuốn sách phỏng vấn đàm thoại xuất hiện đầu tiên trong Văn học sử Việt Nam đã đem lại cho người đọc sự mê say hào hứng cao độ. Tác phẩm gồm 12 bài phỏng vấn, đàm thoại với các nhà văn, thơ, kịch, biên khảo v.v… đã đăng trên tạp chí Bách Khoa được góp thành sách nhan đề Sống và Viết, xuất bản năm 1966. Lần lượt anh đưa người đọc đi chuyện trò, tâm sự cùng Nhất Linh, Lê Văn Trương, Á Nam Trần Tuấn Khải, Lê Văn Siêu, Doãn Quốc Sỹ, Đông Hồ, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Lê Ngọc Trụ, Vi Huyền Đắc, Nguyễn Hiến Lê, Hồ Hữu Tường. Đi thật nhọc nhằn, vất vả, có khi mệt thở không ra hơi, bất kể trưa chiều khuya sớm… thế mà còn phải chờ phải đợi, hẹn trước, khất sau… Nhưng người đọc không chán, vẫn hăm hở, thích thú, một mực theo bám gót người dẫn đắt. Bởi mỗi nơi khung cảnh mỗi lạ, mỗi gia chủ đón tiếp chuyện trò đối đáp mỗi khác. Mà người đưa đường thì khéo quá, tài tình quá, vừa niềm nở thân mật, vừa vui vẻ dí dỏm, vừa duyên dáng dịu dàng, vừa mê mải hăng say…; người đi theo học hỏi được thật nhiều”. (Châu Hải Kỳ, Sđd., tr. 112-113).


Một số tác phẩm đã xuất bản của Nguiễn Ngu Í: Lịch sử Việt Nam Đệ thất, Nguyễn Huệ Quang Trung – Giấc mộng chưa thành, Suối bùn reo, Khi người chết có mặt (tiểu thuyết), Sống và Viết, Qê hương, Có những bài thơ…Thơ điên (chung với Bùi Giáng và nhiều người “điên thiệt” ở Dưỡng Trí Viện Biên Hòa, 1970). Riêng 2 tập Sống và Vẽ, Sống và Đàn (chưa xuất bản)…


Theo Đỗ Hồng Ngọc: “Năm 1997, gia đình có làm một cuốn Ngu Í qua ký ức người thân với nhiều bài viết của Trần Văn Khê, Huỳnh Văn Tiểng, Bà Tùng Long, Lê Ngộ Châu, Lê Phương Chi, Đỗ Đơn Chiếu, Hoàng Hương Trang, Hồ Trường An, Đỗ Hồng Ngọc, Phan Chính… vẫn chưa được in.


Đỗ Hồng Ngọc nghĩ và nhớ về cậu Nguiễn Ngu Í như sau:


– “Nhiều người biết đến ông như một nhà báo… với loạt bài phỏng vấn văn nghệ sĩ rất tài hoa trên tạp chí Bách Khoa, trên 40 năm về trước; nhiều người biết đến ông như một nhà giáo dạy văn, dạy sử ở nhiều trường tư thục Sài Gòn… Nhưng ông, trước hết là một người làm thơ, một người làm thơ đặc biệt hơn bất cứ một người làm thơ nào khác: Thơ điên. Thơ ông là cuộc đời riêng ông. Có khi là tiếng thét uất hận, có khi là một tiếng lòng thổn thức, có khi là nỗi hờn căm, khi khác là những tiếng hát dịu dàng âu yếm thiết tha, tùy lúc bài thơ được viết giữa các cơn điên hay ngay trong cơn điên, giữa những ngày tháng nằm vùi trong Bệnh viện Tâm thần Chợ Quán hay Dưỡng trí viện Biên Hòa”.


– “Thơ ông có thể người ta thích, có thể người ta không thích, nhưng đọc thơ ông bao giờ cũng có cảm giác rờn rợn. Ông làm thơ rất nhanh. Thơ như túa ra, ứa ra, chạy ra từ trong não chất. Không cầu kỳ, không đẽo gọt, nhiều bài sần sùi, đọc cứ nghe ấm ách, cũng có những bài mượt như nhung. Đọc thơ mà hiểu ông thì thấy thương, thương một con người có chí, có lòng mà không sao đạt được ước nguyện. Rồi thôi, rồi thành tro bụi như hai câu thơ ông viết sẵn cho mình:


Bao nhiêu chí trẻ rồi tro bụi


Một thoáng tình xa cũng ngậm ngùi!


Nhiều bài thơ ông chép vội trên mảnh giấy gói đồ, phong bì, bao thuốc lá… Nhiều đêm ông lên cơn, đến gọi cửa nhà tôi lúc 2 giờ sáng, đọc thơ cho tôi nghe rồi “chửi cả thiên hạ”, cả tôi và ông. Sau đó ông tắm rửa, ăn uống chút gì đó rồi khệ nệ ôm một chồng sách ra đi. Trời cản cũng không nổi! Hỏi đi đâu, ông nói không biết. Có hôm nghe ông nằm giữa xa lộ Biên Hòa cho xe Mỹ cán, họ bắt ông chở thẳng vào Dưỡng trí viện. Đến thăm thấy ông ngủ say như chết sau khi được uống thuốc an thần liều mạnh, đưa mấy ngón chân Giao chỉ to bè ra ngoài ngoáy xoắn vào nhau, tôi vẽ ngay một bức ký họa, ông thích lắm nhưng đã làm mất tiêu. Có lần tôi đưa ông vào Bệnh viện Chợ Quán, người ta chạy điện cho ông, ông giựt đùng đùng như con cá nằm trên thớt. Sau đó bất tỉnh, xụi lơ, tay chân quặt quẹo xùi bọt mép. Rồi khi tỉnh dậy ông làm những bài thơ rất quái dị, nhiều bài rất hay.


Đọc thơ ông mà thương cho một kiếp người tài hoa, bất đắc chí…”.


Đỗ Hồng Ngọc đã “đúc kết” một cách chân thành và cảm động về người cậu có ảnh hưởng lớn trong quãng đời tuổi trẻ của ông như sau:


– “Bây giờ mỗi lần nhớ tới cậu thì tôi thường tự hỏi hồi bằng tuổi cậu, tôi có làm được điều gì đó cho ai như cậu đã làm cho tôi không và tự nhiên tôi thấy lòng mình rộng mở, thanh thản, muốn giúp đỡ, chia sẻ…”.


– “Ông và tôi có tình ruột rà. Mẹ tôi và ông là hai chị em cô cậu ruột. Có lần ông nói, hồi tôi mới sanh, ông đã đưa võng và đọc thơ cho tôi nghe rồi! Có lẽ vì vậy mà khi lớn lên, sống gần gũi với ông, ông luôn luôn chia sẻ cùng tôi những bài thơ ông mới viết…”.


“… Thế nhưng cậu đã làm được nhiều việc hơn cậu tưởng, và những người thân, những bạn bè, con cháu, người quen biết… không ai là không quý mến cậu, không ai là không thấy được cái tình của cậu đằm thắm, mênh mông, thành thục, sâu lắng. Những ai đã gần gũi cậu chắc sẽ cảm nhận được cái tình đó, cái tình vượt trên những cái tình bình thường. Riêng tôi, tôi luôn nhớ cậu và nhớ những ngày còn thơ, cậu đã thay mẹ tôi, dẫn tôi đền trường học, một ngôi trường tiểu học nhỏ bên bờ sông Cà Ty, Phan Thiết. Mới đó mà đã hơn bốn mươi năm”…


Trong lời Tựa cuốn Nguiễn Ngu Í – Cuộc đời và Văn nghiệp của Châu Hải Kỳ, Nguyễn Hiến Lê viết: “Chúng ta ai cũng biết những bài Thơ điên và tài phỏng vấn của Nguyễn Hữu Ngư, nhưng ít ai chú ý tới những tác phẩm lịch sử có tính cách giáo khoa hoặc phổ thông của anh, như cuốn Lịch sử Việt Nam Đệ thất, Hồ Thơm – Nguyễn Huệ – Quang Trung… mà chính trong tác phẩm này anh mới phơi bày hết lòng yêu nước của anh, giọng luôn luôn thiết tha đôi khi “bay bướm”, rõ ràng là của một người vừa có “máu cách mạng”, vừa có “hồn nghệ sĩ” (Sđd., tr. 6).


Hồi ký Nguyễn Hiến Lê có đoạn viết về Ngu Í Nguyễn Hữu Ngư: “Nguyễn Hữu Ngư quả là một kỳ nhân ở nước ta mà tập Quê hương của ông cũng là một kỳ thư: nội dung thật loạn, đủ các thể, đủ thứ tài liệu, không thể đặt nó vào loại nào được cả”. Và: “… nhưng riêng tôi cho nó là một kỳ thư, chưa hề thấy trong văn học Việt Nam, và tất cả những bạn của anh Nguyễn Hữu Ngư tất đều nhận như tôi rằng cuốn này biểu lộ rõ nhất – tuy chưa hết – tâm hồn khả ái và cái tình dào dạt của anh. Người sau có muốn chép lại đời anh – một đời đau khổ nhất mà cũng đặc biệt nhất trong giới văn sĩ hiện đại – tất phải dùng nó làm tài liệu chính…”.


Giới thiệu Nguyễn Hữu Ngư và tập Qê hương, Nguyễn Hiến Lê viết: “Con người của anh hoàn toàn là tình cảm: tình nước, tình nhà, tình bè bạn, tình vợ con, tình thầy trò, tình người, mà văn thơ anh cũng chứa chan những tình cảm đó”.


Nguiễn Ngu Í mất năm 1979, sau khi ở Dưỡng trí viện Biên Hòa về nhà được độ một tháng. Bạn bè ai cũng thương tiếc.


1.2.2. Nguyễn Hiến Lê – Đỗ Hồng Ngọc


Những năm tháng học Trung học ở quê nhà, Đỗ Hồng Ngọc đã nghiền ngẫm những cuốn sách của Nguyễn Hiến Lê như: Kim chỉ nam của học sinh, Bí quyết thi đậu…, Rèn nghị lực để lập thân, Tự học để thành công v.v… Trong đó Đỗ Hồng Ngọc xem Kim chỉ nam của học sinh là một “cuốn sách làm thay đổi cuộc đời” ông. Mặc dù không được học với Nguyễn Hiến Lê ngày nào trên ghế nhà trường nhưng Đỗ Hồng Ngọc luôn luôn xem cụ Lê là một vị thầy lớn, đã dạy ông cách sống, cách học và cách viết. Với Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Hiến Lê xứng đáng được gọi là “Nhà giáo dục”.


Trong bài Ngọn lửa in trong Như thị, Đỗ Hồng Ngọc viết: “Ai cũng có những người thầy trong đời mình, đã nhen cho mình ngọn lửa ấm nồng, cách này hay cách khác. Người thầy đó không nhứt thiết dạy mình trên ghế nhà trường, trên bục giảng đường. Miễn là có một tần số để nhận ra ngọn lửa truyền trao, và nhen nhóm. Đến một lúc nào đó ta bỗng nhận ra “bán tự vi sư” – nửa chữ cũng thầy! Người “đã nhen cho mình ngọn lửa ấm nồng, cách này hay cách khác”, ở đây, theo tôi (NHĐ) đó là ông thầy thuốc bắc, Bác hai Cương, đã chữa bệnh cho cậu bé Ngọc khi ở quê nhà và nhiều vị thầy khả kính khác, nhưng tôi vẫn nghĩ trước hết đó phải là Thầy Nguyễn Hiến Lê vậy!


Đỗ Hồng Ngọc cho biết: “Tôi may mắn được quen biết với ông Nguyễn Hiến Lê từ năm 1957. Tôi gặp gỡ và thư từ qua lại với ông từ năm 1960 cho đến khi ông mất, năm 1984. Đến nay tôi vẫn còn giữ nhiều thư viết tay của ông như một kỷ niệm. Tôi học được ở ông lối sống và lối viết. Ông là tấm gương nghị lực, gương tự học, chọn con đường làm văn hóa suốt đời mình. Câu “châm ngôn” của ông là “Viết để học và học để viết”. Tôi chịu lắm. Chỉ có cách đó mình mới học được nhiều hơn, học được sâu. Tôi bây giờ còn đi dạy và vẫn nghĩ: “Dạy để học và học để dạy”. Ấy là bắt chước ông đó.


Chính ông đã khuyến khích tôi học y khoa và khi trở thành bác sĩ thì tôi là người thường xuyên thăm bệnh cho ông, tư vấn cho ông những vấn đề về sức khỏe, dù ông có người bạn thân là bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm, như là một bác sĩ “riêng” từ trước. Ông mắc nhiều thứ bệnh từ lao đến bao tử, trĩ… Cứ mỗi lần tập trung viết một cuốn sách nào đó ông lại lên cơn đau bao tử…”.


Từ khởi điểm giàu ấn tượng và nhiều ý nghĩa sâu đậm mà Đỗ Hồng Ngọc đã nhận được từ Nguyễn Hiến Lê như đã nói trên, càng về sau, mối quan hệ Nguyễn Hiến Lê – Đỗ Hồng Ngọc thực sự đã là mối quan hệ thầy – trò – bạn -bè – thân – thiết – tâm – giao thực sự chân tình, cảm động. Đó chính là một quan hệ hỗ tương tác động lên nhau. Nguyễn Hiến Lê xem Đỗ Hồng Ngọc là người bạn trẻ thân thiết, một người học trò “chân truyền” của ông, và Nguyễn Hiến Lê coi bài viết “Nguyễn Hiến Lê và tôi” (của Đỗ Hồng Ngọc) nhân tạp chí Bách Khoa ra số đặc biệt kỷ niệm 100 đầu sách là một món quà quý giá nhất của ông. Thầy – trò đối xử với nhau bình đẳng, tự trọng và kính trọng nhau, bổ sung nhau như những người thầy – bạn với ý nghĩa đẹp đẽ và cao quý nhất của từ này. Nhiều chi tiết, nhiều sự kiện trong mới quan hệ thầy – trò này làm chúng ta xúc động, càng quý trọng và kính quý hai ông qua lời kể sau đây của Đỗ Hồng Ngọc:


– “ Thỉnh thoảng khi có chuyện thắc mắc, chuyện vui buồn gì mà không tiện đến thăm, tôi viết thư cho ông. Lần nào ông cũng sốt sắng trả lời, ân cần chỉ dẫn, khuyến khích tôi”.


– “… Lần này tôi cũng mang đến ông Nguyễn Hiến Lê nhờ đọc giùm [tức cuốn Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng – NHĐ]. Đọc xong, ông bảo: “Cháu đúng là một thầy thuốc nhi khoa tốt, yêu trẻ con, nhưng cuốn sách này hình như chỉ nhằm cho các bà mẹ có học ở đô thị, còn ở nông thôn, các bà mẹ ít học thì sao?”. Ông đọc kỹ, cặm cụi sửa cho tôi chỗ dùng từ sai, có thể gây hiểu lầm, nêu các thắc mắc… để tôi làm rõ thêm. Sau này tôi đã viết thêm các cuốn: Nuôi con, Chăm sóc con em ở nơi xa thầy thuốc… cũng chính từ góp ý của ông lúc đó”.


– “Với tôi, ông là một tấm gương sáng. Tấm gương của Nghị lực, của Tự học và của Phụng sự. Ông tận tụy cả đời viết sách, đem kinh nghiệm bản thân ra hướng dẫn thanh thiếu niên, mong giúp được cho người khác chút gì, lúc bỏ cây viết ra thì vớ ngay cuốn sách để đọc, để học không ngừng. Tôi đoán sở dĩ ông đã không nhận một chức vụ gì trong guồng máy công quyền là để giữ cho ngòi bút mình độc lập, để có thể đóng trọn vai trò giám sát của người trí thức mà Alain đã nói. Nhờ đó ông không có mặc cảm, thấy điều gì đáng khen thì khen, điều gì không ưa thì nói. Và ông đã nói bất cứ điều gì từ việc dịch sách, chuyển ngữ đến việc nhân mãn, ô nhiễm… Có thể đôi lúc ông cũng sai lầm, nhưng điều quan trọng là ông đã thành thực với chính ông”.


– “Tôi biết có những tác giả “sản xuất” còn mạnh hơn ông, viết mau và viết mạnh hơn ông, nhưng đọc họ người ta thấy rõ ràng là những tác phẩm máy móc, sản xuất hàng loạt. Ở ông Nguyễn Hiến Lê thì không. Ở ông là con người. Tác phẩm của ông là con người ông. Ông “dạy” cho thanh niên rèn nghị lực thì chính ông là một tấm gương nghị lực; ông viết về tổ chức thì chính nếp sống của ông là một sự tổ chức; ông viết về tự học thì chính ông đã nhờ tự học mà thành công. Nhờ viết từ những kinh nghiệm sống thực đó, người đọc thấy gần gũi với ông và những lời ông chỉ dẫn đều ứng dụng được”.


– “Và với riêng tôi, Nguyễn Hiến Lê còn để lại biết bao niềm trân trọng và trìu mến để tôi được “Nhớ đến một người” giữa “mùa hoa sữa về thơm từng ngọn gió” của Hà Nội hôm nay”. (Đỗ Hồng Ngọc. Nhớ đến một người, NXB Hội Nhà văn, 2010, tr. 7-11).


Đỗ Hồng Ngọc rất được Nguyễn Hiến Lê tin yêu và kỳ vọng. Điều đó thể hiện rõ ở việc Nguyễn Hiến Lê trong Hồi ký đã viết về Đỗ Hồng Ngọc ít nhất là bốn lần (Hồi ký… tr. 298, 402, 421, 438). Đây là điều quý và hiếm đối với một tác giả “trẻ” như Đỗ Hồng Ngọc.


– “Thanh niên đó [tức Đỗ Hồng Ngọc] từ mươi năm nay đã thành một người bạn thân của tôi”. (Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, NXB Văn Học, 1993, tr. 298).


– “Một độc giả, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã nhận thấy điểm đó, viết trong bài Ông Nguyễn Hiến Lê và tôi (Bách Khoa số 426 ngày 20.4.1975): Và cũng nhờ vậy mà loại “Học làm người” của tôi được độc giả tin cậy nhất” (Hồi ký… Sđd., tr. 402).


Đầu năm 1974, Đỗ Hồng Ngọc gởi tặng Nguyễn Hiến Lê bài thơ mới viết: Đi cho đỡ nhớ, ghi lại cảm xúc của mình trong ngày đầu tiên trên chuyến xe lửa nối liền Sài Gòn – Biên Hòa mà mơ một chuyến tàu thống nhất… Cụ Lê liền trả lời: Bài “Đi cho đỡ nhớ” cảm hứng mới mẻ đấy, mà thú. Đọc hoài thơ yêu nhau và nhớ nhau, với thơ chiến tranh, ngán quá rồi. Nhưng cháu làm cho tôi thèm đi quá…


Bài đầu trong cuốn Nhớ đến một người, Đỗ Hồng Ngọc viết: “Nhớ đến một người” đó, với tôi, là nhớ Nguyễn Hiến Lê, một người Hà Nội, một học giả, một nhà trí thức chân chính ngày nay được cả nước biết đến”.


Năm 1978, Nguyễn Hiến Lê nhận được một bưu thiếp Đỗ Hồng Ngọc gởi từ Hà Nội và cụ Lê trả lời: Cảm động nhất là câu: “Cháu đến thăm Văn Miếu, nghĩ đến bác nhiều”. Tôi hiểu rồi, chắc cháu nhớ một đoạn cuối tập Bí quyết thi đậu của tôi. Cảm ơn cháu nhiều lắm. Cháu hiểu tôi. Cháu làm tôi nhớ hồi trẻ tôi học ở trường Bưởi (trường Chu Văn An bây giờ) ngoài đó quá…


Đỗ Hồng Ngọc đã viết nhiều bài về người Thầy / người bạn thân thiết của mình là Nguyễn Hiến Lê: Nhớ đến một người, Ông Nguyễn Hiến Lê và tôi, Nguyễn Hiến Lê – một tấm gương kiên nhẫn, Cuốn sách làm thay đổi cuộc đời, Con đường văn hóa đã nối dài…


Và Đỗ Hồng Ngọc đã khái quát về ảnh hưởng lớn của Nguyễn Hiến Lê đối với quãng đời tuổi trẻ của ông như sau:


– “Cuộc đời ông quả thực là một tác phẩm lớn. Tôi ước mong trong tuổi già ông sẽ viết hồi ký, kể lại đời mình cho bọn trẻ chúng tôi đọc như André Maurois viết Un ami qui s’appelait moi vậy. Tôi là độc giả của ông từ ngày còn là một học trò Đệ thất, lại được quen biết ông hơn mười lăm năm nay, nghĩ lại, nếu trong thời thơ ấu không được đọc những sách đó của ông, không được gặp ông, có lẽ tôi đã khác; nên tuy không được may mắn học với ông ngày nào, từ lâu tôi vẫn xem ông là một vị thầy của mình, hơn thế, một người thân. Tôi đâu có cần phải nói lời cám ơn ông!”


– “Tôi chịu nhiều ảnh hưởng của ông. Cuốn sách đầu tay của tôi Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò, chỉ là phần bổ túc cho cuốn Kim chỉ nam của học sinh. Sau đó tôi viết thêm một cuốn khác, cũng loại y học phổ thông, cũng nằm trong chiều hướng nâng cao trình độ đại chúng mà ông đã vạch…”.


Tôi cảm nhận rằng thầy trò – bạn bè Nguyễn Hiến Lê – Đỗ Hồng Ngọc có những điểm giống nhau và khác nhau như sau:


Rất giống nhau:


– Cha mất sớm (Nguyễn Hiến Lê mất cha khi mới 8 tuổi, Đỗ Hồng Ngọc mất cha lúc 12 tuổi). Cả hai đều nhờ sự buôn bán tảo tần, đức cần kiệm, hy sinh và một tình yêu thương vô hạn của người mẹ mà được học hành và thành nhân. Nguyễn Hiến Lê dù sao cũng còn may mắn hơn Đỗ Hồng Ngọc vì còn có một bà ngoại “tuyệt vời”! Cả hai đều mắc nhiều bệnh từ nhỏ.


– Cả hai đều là tấm gương sáng của nghị lực vượt khó, tự học, tinh thần làm việc nghiêm túc. Nguyễn Hiến Lê và Đỗ Hồng Ngọc đều thể hiện nhân cách của một người trí thức chân chính.


– Tận tụy cả đời viết sách, đem kinh nghiệm bản thân ra mà cống hiến cho đời, tâm huyết với việc nâng cao trình độ đại chúng. Mê đọc sách. Cả đời thực hiện phương châm: Học để viết và Viết để học.


– Luôn luôn thành thực với chính mình trong lối sống và trong tác phẩm.


– Thực hành một triết lý sống tri túc, không ham làm giàu, không cầu chức vị, không ham danh lợi. Cuộc sống luôn đơn giản, trong sạch, khiêm cung, biết đủ. Không rượu chè, bài bạc; không thích nơi ồn ào, náo động. Cả hai thầy – trò đều yêu thích Nguyễn Công Trứ và Tô Đông Pha. “Tôi yêu Nguyễn Công Trứ, một người hào hùng mà khoáng đạt – Nguyễn Hiến Lê). Đỗ Hồng Ngọc yêu thích Nguyễn Công Trứ vì cụ Trứ “lúc làm quan to, lúc làm lính thú đều… vui cả. Cụ là một nhà nho khoáng đạt, một thi sĩ đích thực”.


– Tâm huyết, chân tình, và quan tâm một cách đầy trách nhiệm đối với việc chia sẻ, truyền đạt kinh nghiệm, tri thức, kỹ năng sống cho những người cùng thời và nhất là cho thế hệ trẻ – thế hệ ngày mai.


– Tư tưởng, tâm hướng và tấm lòng hai ông rất trong sáng, rất chính trực thể hiện rất rõ qua những tác phẩm của mình. Hai ông viết đều từ kinh nghiệm bản thân, đều từ sự trải nghiệm bản thân nên lời văn giản dị, dễ hiểu, dễ gần gũi và có tính thuyết phục cao và nhất là trung thực trước hết với chính mình nên được độc giả quý trọng. Những điều hai ông viết, nói và sống đều được độc giả tin cậy, vận dụng và áp dụng được vào đời sống của mình.


Nhà xuất bản Văn Học trong Lời giới thiệu cuốn Hồi ký Nguyễn Hiến Lê đã viết: “… Chúng ta cũng nhận ra rằng Nguyễn Hiến Lê “… Mỗi tác phẩm của ông là một công trình khoa học thể hiện một sự lao động cần mẫn, một trái tim say mê nồng nàn cuộc sống, một tâm hồn nhạy cảm và một trí tuệ uyên thâm tuyệt vời. Tất cả những việc đó cho ông một chỗ đứng đầy trân trọng trong người đọc trong và ngoài nước”. Đây là một nhận xét đúng đắn và sâu sắc dành cho cụ Nguyễn, và tôi nghĩ cũng rất xứng đáng dành cho cả Đỗ Hồng Ngọc.


Có một số điều hai thầy trò Nguyễn Hiến Lê – Đỗ Hồng Ngọc không giống nhau: Khi Đỗ Hồng Ngọc tặng Nguyễn Hiến Lê một bộ kiếm hiệp Cô gái đồ long 6 cuốn của Kim Dung với mong muốn ông xả bớt stress nhưng cụ Lê cố gắng lắm chỉ đọc được một ít rồi trả lại, không sao đọc nổi, bảo phí thì giờ vô ích! Ngược lại, Đỗ Hồng Ngọc thì lại… rất thích đọc Kim Dung, đến nỗi ông bảo: “Từ ngày nghiền ngẫm kinh sách Phật, thấy cũng mê như đọc kiếm hiệp”. Nguyễn Hiến Lê hút thuốc nhiều quá, còn Đỗ Hồng Ngọc chẳng ưa thuốc lá chút nào!


Điều không giống nhau rõ nhất là cụ Nguyễn Hiến Lê không “ưa” đạo Phật, nên cụ chỉ thích nghiên cứu Khổng Tử thôi! Nguyễn Hiến Lê không viết một tác phẩm nào về Phật giáo, không trả lời những ai hỏi ông về Phật giáo, cũng không chỉ cho người khác những kinh, sách Phật học cần đọc. Ông chỉ viết có mỗi một bài Huyền Trang và công cuộc thỉnh kinh vô tiền khoáng hậu của nhân loại, in trong Ý chí sắt đá, nhưng đó lại là một bài hay nhất viết về Huyền Trang mà các vị cao tăng và nhiều độc giả trong và ngoài đạo Phật đều phải công tâm thừa nhận. Trong khi đó Đỗ Hồng Ngọc, vào năm 1997, bị tai biến mạch máu não. Sau cơn bệnh thập tử nhứt sinh này, Đỗ Hồng Ngọc đã “ngộ” ra nhiều điều:


– “Hơn 15 năm nay, tôi nghiền ngẫm và thực hành những lời Phật dạy, mong tìm trong đó phương cách chữa cái đau, cái khổ cho mình và cho người với cái nhìn khoa học, y học, hoàn toàn không mê tín dị đoan”.


– “Tôi đến với thiền, với phương pháp thở của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện và nghiền ngẫm “hành thâm” Bát Nhã Tâm Kinh. Rồi 5 năm sau là Kim Cang, 5 năm tiếp theo là Diệu Pháp Liên Hoa…  Phải qua trải nghiệm ranh giới giữa sống và chết như thế, tôi mới nhận ra được nhiều thứ hơn… Là một người thầy thuốc, tôi mong tìm một phương cách chữa bệnh tinh thần cho chính mình và giúp đỡ mọi người, nên sau Tâm Kinh, tôi tiếp tục học hỏi thực tập thêm nhiều kinh Phật khác”.


Viết đến đây, tôi sực nhớ đến cuốn sách vào loại độc nhất vô nhị trong Văn học sử Việt Nam. Đó là cuốn Quách Tấn – Nguyễn Hiến Lê – Những bức thư đầm ấm, sách khổ 14,5 x 20,5 cm, dày 560 trang, chọn in 170 trong 200 bức thư mà hai học giả uyên thâm đáng kính này viết cho nhau. Rồi bỗng dưng nhớ đến một đoạn rưng rưng của nhà văn Võ Hồng, lúc đã gần 80, khi nghe tin bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc bị tai biến mạch máu não, ông chân thành nguyện cầu: “Mười hai giờ khuya, moa ra sân thượng, quỳ hướng về sao Bắc Đẩu hết lòng cầu nguyện cho toa tai qua nạn khỏi”. Tình bạn sao mà thắm thiết, thiêng liêng thế. Làm sao không yêu quý cuộc đời, không yêu quý con người cho được!.


Nguiễn Ngu Í và Nguyễn Hiến Lê đã có những ảnh hưởng lớn lao và sâu sắc trong cuộc đời của Đỗ Hồng Ngọc ngay từ quãng đời tuổi trẻ của Đỗ Hồng Ngọc, làm cho tôi thèm viết bài tạm đặt nhan đề là: “Nguiễn Ngu Í – Nguyễn Hiến Lê – Đỗ Hồng Ngọc: tỏa sáng trong tôi”.


Năm nay bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã 75 tuổi ta rồi. Cái tuổi đã chín muồi, đã lịch lãm, đã trải nghiệm và chiêm nghiệm được nhiều điều về bản thân, gia đình, bè bạn, nghề nghiệp. Ông cũng đã trải qua những biến thiên dữ dội của thời cuộc. Ông lại có những mối quan hệ xã hội khá rộng rãi và hiểu biết tường tận về nhiều việc, nhiều người dưới cái nhìn, cái cảm của một người giàu Phật tính, thấm nhuần triết học Phật giáo. Vì vậy, tôi kính cẩn thưa trình với ông rằng tôi mong sớm được Hồi ký của ông. Nhớ lại, ông đã nhiều lần “thúc hối” thầy mình là Nguyễn Hiến Lê viết hồi ký như André Maurois đã từng làm với Un ami qui s’appelait moi vậy! Cụ Nguyễn Hiến Lê lúc đầu băn khoăn không biết mình sẽ viết gì trong hồi ký này và chỉ mong viết được vài trăm trang thôi. Thế mà tháng 9. 1980, cụ Lê đã hoàn thành cuốn Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, NXB Văn Học in lần đầu 1993, mặc dù nhà xuất bản “xin để lại sau một thời gian nữa” các chương XXI, XXII, XXIV… nhưng sách cũng đến 800 trang. Trước nay tôi vốn thích đọc Hồi ký, và các cuốn hồi ký mà tôi thích nhất vẫn là cuốn của Nguyễn Hiến Lê, Đào Duy Anh, Quách Tấn, Trần Văn Khê…, và, chắc chắn sẽ rất thích Hồi ký Đỗ Hồng Ngọc. Tôi không dám nói sai lời và cũng như nhiều độc giả “chiến hữu” chí cốt của Đỗ Hồng Ngọc nóng lòng chờ đợi Hồi ký Đỗ Hồng Ngọc.


Tôi nghĩ bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc có nhiều điều kiện thuận lợi, có nhiều cơ duyên tốt lành để khởi sự sớm hoàn thành tập hồi ký được nhiều, rất nhiều người chờ đọc, đón đọc. Xin đề nghị bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc viết, cho in báo, trên mạng từng bài, từng phần hồi ký như cụ Nguyễn Hiến Lê đã từng làm. Và bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cũng đã làm “lai rai” một số bài: Một chút tôi, Ghi chép lang thang, Vài đoạn hồi ký… Mong lắm thay, thưa bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc!  (còn tiếp).


 


Nguyễn Hiền Đức (2014)


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 12, 2015 06:31

February 11, 2015

Một tuổi già hạnh phúc (11)

Người già… “Ăn Tết”

 


Lạ thiệt ! Cứ nói đến Tết là nói đến ăn. Ăn Tết. Có lẽ từ xa xưa, với nền văn minh lúa nước, người dân quê xứ mình quần quật suốt năm, thiếu thốn mọi bề, cơm không đủ no, áo không đủ ấm, mỗi năm chỉ dịp Tết đến mới được mặc quần áo mới, được ăn những bữa ăn ngon và đi chơi đây đó như để bù lại những tháng ngày “công lênh chẳng quản lâu lâu/ ngày nay nước bạc ngày sau cơm vàng…!”. Và do vậy ăn Tết thường kéo dài cả vài ba tháng, đợi đến mùa sau:  “Tháng Giêng ăn Tết ở nhà/ tháng Hai cờ bạc tháng Ba hội hè/ tháng Tư đong đậu nấu chè/ ăn tết Đoan ngọ trở về tháng Năm…”… Người ta tìm đủ cách để có Tết, hết Nguyên Đán tới Đoan Ngọ, rồi Trung Thu để được… ăn!



Bây giờ thì trừ những vùng sâu vùng xa vẫn còn nhiều khó khăn thiếu thốn còn thì nhờ kinh tế phát triển, nhờ “toàn cầu hóa” nên hàng hóa thừa mứa, hàng nội hàng ngoại đầy trong các siêu thị, các chợ búa thì “ăn Tết” không còn mấy ý nghĩa! Ngày nào mà chả ăn như… Tết! Muốn bánh chưng có bánh chưng. Muốn bánh tét có bánh tét. Củ kiệu dưa hành câu đối đỏ lúc nào cũng sẵn. Cho nên Tết mà nghe đến “ăn” thì ai cũng ngán! Vì thế ngày nay người ta hay nói đến “Chơi Tết”. Người ta rủ nhau lên núi, xuống biển và ít ra cũng tập trung vào các khu giải trí nào đó cho trẻ con vui chơi, người lớn nghỉ ngơi. Việc đi nhà này nhà nọ chúc Tết cũng đã giảm bớt, trừ những tiệc nhậu “dzô dzô 100%” của nhóm bạn bè. Những câu chúc Tết cũng trở thành sáo ngữ. Người ta chỉ cần gởi tấm thiếp Xuân hoặc một tin nhắn qua điện thoại, email là đủ.


Người già thì sao?  Già thì “Hàm răng chiếc rụng chiếc lung lay” (Nguyễn Khuyến). Bao tử thì đã teo nhỏ lại. Dịch vị tiết ra chẳng được bao nhiêu. Tiêu hóa khó khăn. Nhậu nhẹt bù khú cũng giảm. Lực bất tòng tâm. “Cuồng phong cánh mỏi”!… Ăn cũng chẳng bao nhiêu, chơi cũng hết nổi rồi cho nên, Tết với người già không phải là Ăn Tết, Chơi Tết mà là “Vui Tết”.


 


Ca sĩ Mỹ Tâm (internet)

Ca sĩ Mỹ Tâm
(internet)


Vui Tết có nghĩa là có một cái Tết đoàn tụ, sum vầy, đầm ấm trong gia đình. Con cháu lớn nhỏ tề tựu về với ông bà cha mẹ, rôm rả một chút rồi “chuồn” cũng được. Cũng bày biện ăn uống nhưng chủ yếu dành cho trẻ con.  Đây là dịp để ông bà cha mẹ già được thấy con cháu hiếu thảo, đoàn kết, thấy thế hệ tương lai sẽ thay thế mình, để lá vàng nhìn thấy lá xanh, tre già mừng thấy măng non, chuối già mừng thấy chuối con xúm xít…


Người già “ăn Tết” là ăn niềm vui đó. Và sẽ buồn biết bao, sẽ nuốt không trôi dù được cung phụng cao lương mỹ vị mà cảm thấy cô đơn, hờ hững!


Ăn uống không phải là tọng là xực là nuốt là ngấu nghiến là tu là nốc…! Ăn uống không phải là nhồi nhét cho đầy bao tử! Ăn trong nỗi buồn phiền, ăn trong nỗi chờ đợi, giận hờn chẳng hạn sẽ là « nuốt không trôi » dù nuốt là một phản xạ đặc biệt của thực quản dưới sự điều khiển của hệ thần kinh. Một người trồng chuối ngược vẫn có thể nuốt được! Nhưng khi buồn lo thì phản xạ bị cắt đứt!  Người ta làm thí nghiệm mỗi lần cho thỏ ăn thì giật điện một cái, chẳng bao lâu thỏ đã bị loét bao tử. Bày thức ăn thức uống ê hề cho ông bà cha mẹ già, rồi nói vài câu đay nghiến, giả lả… chính là giật điện đó vậy !


Cũng đừng quên ăn uống là chuyện của văn hóa !  Món ăn gắn với kỷ niệm, gắn với thói quen, gắn với mùi vị từ thuở còn thơ! Người già có thể thích những món ăn…kỳ cục, không sao. Đừng ép! Mắm nêm, mắm ruốc, mắm sặc, mắm bồ hóc, tương chao… đều tốt cả cho ngày Tết.


Năm nay thử làm một món quà lạ tặng cho ông bà, cha mẹ già vui Tết xem sao nhé : Tìm một số hình ảnh, thư từ, tập vở… ngày xưa của gia đình, trình bày thật khéo trong một quyển Album, rồi đúng vào ngày Mùng Một… mang « lì xì » cho ông bà cha mẹ. Họ sẽ ngạc nhiên và cảm động lắm ! Rồi cùng ngồi bên nhau nhắc những chuyện xưa tràn đầy kỷ niệm buồn vui đó. Chịu khó ngồi nghe ông bà cha mẹ kể chuyện xưa, có khi lẩm cẩm lặp đi lặp lại một chút cũng chẳng sao ! Dĩ nhiên ông bà cha mẹ sẽ nhắc đến dòng họ tổ tiên, truyền thống gia đình, rồi cùng thắp một cây nhang trên bàn thờ… giữa ngày Tết vậy !


Chúc một Tết vui !


BS Đỗ Hồng Ngọc.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 11, 2015 06:26

February 3, 2015

Một tuổi già hạnh phúc (10)

Một góc riêng tư

Chỗ ở của người già cần thiết kế sao cho gọn gàng, gần gũi, ấm cúng, mà đầy đủ tiện nghi. Công-tắc điện vừa tầm tay với, không phải mò tìm, không phải chồm lên để nhấn nút. Đường đi vào toilet không có bậc cấp để tránh trượt chân, té ngã. Cửa toilet đủ rộng nếu phải dùng xe lăn. Thảm trải kín kẽ và bám dính để không bị trơn tuột là những điều tưởng nhỏ mà thật cần thiết để tránh tai nạn.



PN MTGHP 10 Chỗ ở cần thoáng mát, mà lại kín gió lùa, tránh cái lạnh đột ngột. Ở người cao tuổi, mạch máu đã cứng như ống nước lâu ngày bị giòn, dễ vỡ. Khi bị lạnh đột ngột, mạch máu co thắt gây vỡ, vậy là tai biến xảy ra. Kinh nghiệm tránh gió lùa, gió độc của người xưa (tránh trúng gió) là hoàn toàn có cơ sở khoa học. Đừng phiền khi thấy người già tìm thêm cái khăn choàng cổ, cái áo khoác ngoài lúc đi ra đường! Do thị lực ngày càng yếu đi, người già cần có một chỗ ở thoáng, ánh sáng đầy đủ, cửa sổ rộng rãi.


Cũng giống “tuổi mới lớn”, người già thích có sự riêng tư, độc lập, muốn có một góc riêng của mình, không ai xâm phạm vào nơi cấm địa đó. Ở đó là nơi đầy ắp những năm tháng kỷ niệm, từng hình ảnh, từng câu chữ đối với con cháu nhiều khi vô nghĩa nhưng với họ là những nỗi nhớ khôn nguôi. Góc riêng tư đó có thể rất bừa bãi, cũng khó thể rất ngăn nắp tùy cá tánh mỗi người nhưng luôn là cách sắp đặt riêng của họ cần được tôn trọng. Có những mảnh giấy vụn tưởng là “đồ bỏ” mà đối với họ quý như vàng! Chẳng hạn, một nhà thơ có thể gấp một tờ lịch nhỏ, giấu kỹ trong một tập vở học trò long gáy tróc bìa, vứt đi thì nhà thơ giận chết đi được bởi đó là bài thơ “Hôm nay em lấy chồng đây/ Xết tư tờ lịch nhớ ngày em đi/ Bây giờ mới biết mình si/ Đời thơ thêm một bài thi lấy chồng/ Chúc cho má ấy thêm hồng/ Cho duyên ấy đẹp cho lòng ấy tươi/ Chúc cho người ấy quên tôi…” (Hồ Dzếnh). Cho nên người già rất cần một không gian riêng tư với những… bí mật riêng tư của họ để họ có thể “Đập cổ kính ra tìm lấy bóng/ Xếp tàn y lại để dành hơi (Tự Đức?).


Dĩ nhiên góc riêng đó cũng phải trang bị những phương tiện giải trí như Tivi, điện thoại, đầu máy xem vidéo, audio, radio, vi tính, tủ sách… Hiện nay ngày càng có nhiều công nghệ “thân thiện” với người già, giúp họ dễ thấy, dễ nghe, giúp cả trí nhớ, đi lại (xe lăn tự động), điện thoại cầm tay để đỡ di chuyển. Vì đã có trường hợp chạy vội lại để nghe điện thoại bị té ngã một cách đáng tiếc!


 


BS Đỗ Hồng Ngọc

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 03, 2015 23:44

Đỗ Hồng Ngọc's Blog

Đỗ Hồng Ngọc
Đỗ Hồng Ngọc isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Đỗ Hồng Ngọc's blog with rss.