Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 108

June 5, 2015

May 31, 2015

Thư gởi bạn xa xôi: MỘT CHUYẾN DÃ NGOẠI

Thư gởi bạn xa xôi,


 Một chuyến dã ngoại

Bạn nói đúng, mỗi chuyến “dã ngoại” của NHP (nhóm học Phật) chùa Xá lợi của bọn mình đều là một dịp để học hỏi lẫn nhau và học hỏi trên thực địa. Mình được anh em tín nhiệm “bầu” làm Trưởng nhóm (do là…niên trưởng) kiêm tour-guide nên thường thiết kế chuyến đi sao cho thoải mái, đơn sơ, không mất quá nhiều thời gian, nhưng được học hỏi với các thầy các bạn gặp gỡ trên bước đường “vân du”. Nhớ chuyến đi đầu tiên năm ngoái đã ghé thăm chùa Viên Không của thầy Viên Minh ở núi Dinh. Mấy cái cốc của quý thầy thấp thoáng dưới những tàng cây bên triền núi, trên các gộp đá rất đẹp, mới nhìn đã thấy một không khí… thoát tục. Lần đó, xuống Phước Hải thăm thầy Thông Luận chùa Trúc Lâm Chân Nguyên. Mình nhớ đã kể chuyện thầy Thông Luận cho bạn nghe rồi phải không? Mười lăm năm trước, một lần thầy Thông Luận tìm đến thăm mình lúc còn đang làm việc ở Trung tâm Truyền thông –  Giáo dục sức khỏe chỉ để… cảm ơn mình về bài viết “Mối tình nhân hậu, thủy chung của Hải Thượng Lãn Ông”! Có lẽ bài đó trúng tâm sự thầy nên thầy muốn gặp… tác giả để chia sẻ! Thời đó chùa của thầy còn nghèo lắm, có tên là Chúa Khỉ. Hằng ngày, cứ khoảng giờ ngọ là có hàng trăm con khỉ trên núi kéo xuống chùa để xin ăn! Có lần mình phone hỏi thăm thầy lúc này còn ở chùa Khỉ không, thầy cực lực cải chánh: “khỉ ở chùa thầy chứ đâu phải thầy ở chùa khỉ!”. Bây giờ thì chùa thầy quá to rồi. Thầy Thông Luận rất hoạt bát, dễ thương, hôm đó đã khoản đãi đoàn bữa cơm chay thịnh soạn! Thú thật mình vẫn thích cái tên gọi chùa Khỉ hơn bạn ạ!



Rồi chuyến về Lagi, Phan Thiết thì mình đưa đoàn ghé thăm một ngôi chùa nhỏ bên cạnh một dòng suối. Dòng suối có tên là Suối Đó, nên chùa được thầy đặt tên là… Chùa Đây. Thầy là nhà thơ Đinh Hồi Tưởng nên chùa có nhiều khách giang hồ đến thăm, có cả Bùi Giáng tiên sinh. Một lần mình đến không gặp thầy bèn viết mấy chữ để lại: Chùa Đây, suối Đó, thầy Đâu? Mây ngàn hạt nội… còn lâu mới về?! Dịp này cũng ghé thăm chùa Phật Quang Phan Thiết được thầy Huệ Tánh cho xem bộ kinh Pháp Hoa khắc trên gỗ thị đỏ hơn 300 năm trước.


Chuyến về Sa đéc thì được gặp thầy Nguyễn Văn Mốt, một vị cư sĩ, làm từ thiện xuất sắc, hơn hai mươi năm lo bữa cơm cho bệnh nhân nghèo trong bệnh viện và phụ trách các chương trình chăm sóc thiếu nhi. Tết rồi, bọn mình lại leo núi Dinh thăm thầy Liên Phương, vị thầy cũng gần chín chục, hàng ngày leo núi thoan thoát trong khi bọn mình bỡ cả hơi tai! Hôm đó là dịp khánh thành cái Thư viện của thầy trên núi! Thư viện coi cũng bề thế nhưng không biết đến nay có mấy ai dám leo núi đọc chưa!


 


Lần “dã ngoại” này, mình quyết định đưa anh em đi Lộc An một chuyến cho vuii. Mình vốn mê Lộc An vì nơi đây có một cái “phá” – như phá Tam Giang – do sông Ray đến gần cửa biển thì khoét sâu vào, núp sau động cát trải dài, nước triều lên xuống hàng ngày rất đẹp. Muốn tắm biển, phải đi thuyền qua phá. Vắng vẻ. Thanh tịnh. Trên đường đi, gần đến Bà Rịa, qua khỏi nhà thờ Kim Hải thì quẹo trái leo núi viếng một cảnh chùa nho nhỏ. Đường ngoằn ngoèo đèo dốc như đi Dalat. Ngang qua Suối Tiên, không có thì giờ tắm, nhưng mình dặn anh em cẩn thận, nếu có tắm đừng ham quá sẽ…biến thành bé thơ như chơi đó!


IMG_la1 VT Đến Vũng Tàu đã hẹn trước, ghé thăm hai vị tu sĩ trường phái Osho, ni cô Thuần Lạc và cô Pháp Châu. Cô Pháp Châu là người đã trực tiếp dịch và in mấy tác phẩm của Osho như bộ Yoga, Trái tim trống rỗng, Tâm lý bí truyền v.v… Chủ nhân ở trong một cái cốc nhỏ, màu xanh da trời, đơn sơ nhưng rất đẹp, một bên là biển, một bên là vách núi, nhìn ra đảo nhỏ không xa. Không ai vào được trừ phi gia chủ chịu ra mở cổng, cách nhà đến vài trăm mét. (Dĩ nhiên có thể đợi nước rút rồi men theo đường biển hoặc dùng bích hổ du tường từ trên vách núi leo xuống cũng vào cốc được!). Một người bạn nói nhỏ cứ y như đi thăm Giang Nam tứ hữu! Ni cô Thuần Lạc nghe có khách đến đã từ tịnh xá ghé qua. Cô Pháp Châu gởi tặng mấy cuốn sách dịch. Cô dịch rất chuẩn xác, ngữ nghĩa nghiêm mật. Mình nói với các bạn: Đọc Osho thú vị lắm, nhưng cần có nội lực thâm hậu Cửu dương chân kinh thì “sự sự vô ngại”.


Trên đường đi Lộc An, ghé thăm bác sĩ Bích Vân, người bạn cùng khóa ở Y khoa đại học đường Saigon hơn nửa thế kỷ trước. Từ ngày bà Năm mẹ chị mất (thọ 97 tuổi) thì chị sống một mình với cây Bồ đề giữa khu vườn rộng lớn. Phải rồi, “Mới hôm qua thôi”, Bích Vân là một cô sinh viên y khoa nhỏ nhắn và xinh đẹp, duyên dáng, nay đã là một “lão bà bà”, tóc bạc phơ, trên tuổi bảy mươi, trông như Thần toán tử Anh Cô, ngoài giờ đi khám chữa bệnh cho bà con, chị một mình sống an nhiên tự tại, thanh thản trong khu vườn rộng bên cội Bồ đề. Chị nói, xoài chín rụng lụp bụp đầy vườn không biết làm gì!


IMG_la 2 BV


IMG_La 3 Bo de Bác sĩ Bích Vân… tu theo thầy Duy Lực từ lúc còn trẻ, trường phái Tổ sư thiền. Trong nhóm có anh bạn cũng từng có thời theo thầy Duy Lực nên trò chuyện rôm rả. Nhưng ấn tượng nhất với mọi người là cây Bồ đề to trước sân.


Lộc An ngày thường biển vắng. Buổi chiều, bắt ghế ra bờ nước, gió mát rượi, đọc sách rất thú vị. Nước cạn rồi nước lên theo thủy triều. Những chiếc thuyền con xanh màu lá mạ, đưa khách qua lại hai bờ để ra biển tắm làm nhớ anh chàng chèo đò trong Câu chuyện dòng sông (Hermann Hess, bản dịch của Phùng Khánh và Phùng Thăng).


IMG_La 4 thuyen


Sáng hôm sau, đang lang thang trên biển thì một bà bán cua ghẹ đi cà nhắc tới chào. Thì ra ông bạn trong đoàn nghe bà kêu đau khớp, đau bắp cơ gì đó đã khuyên bà tìm hỏi “bác sĩ”. Đành phải “hành nghề bất hợp pháp” thôi. IMG_la 6 Kb Nhớ lần trước đi Sadec cũng vậy, cũng phải khám chữa cho một vị Sư.


IMG_La 7 kb2


Trên đường về, mình chọn đi đường mới, qua Ngãi Giao, để ghé thăm cư sĩ Nguyễn Minh Tiến ở xã Sông Xoài, người có trang mạng nổi tiếng rongmotamhon.net.


Mọi người lại một phen… bất ngờ với anh chàng nhỏ thó, gầy gò mà năng lực rất sung mãn, say sưa kể những việc đã và đang làm, góp phần xây dựng tủ sách Phật học. Các bạn trong đoàn khi nghe Nguyễn Minh Tiến trình bày ai cũng quý mến và cảm phục nhiệt tâm của anh.


IMG_La 8 Tien


Tiến đang thu thập toàn bộ các bản kinh đã Việt dịch và sắp xếp thành một hệ thống có thể giúp tra cứu dễ dàng hơn. Chuyện này anh đã làm gần năm nay và đã có ít nhiều kết quả bước đầu: http://rongmotamhon.net/mainpage/mucl...


Ngoài ra Tiến cũng đang cố gắng đối chiếu so sánh “thẩm định” một số bản kinh Việt dịch từ Hán ngữ. Anh nói công việc này phải là do Viện nghiên cứu Phật học tổ chức thực hiện nhưng chờ đợi mong mỏi quá lâu mà không thấy nên đành phải “liều lĩnh” bắt tay vào làm vậy… Tiến cho rằng anh “liều mạng” khởi xướng, làm việc “đội đá vá trời”, chỉ mong sao có thể đặt một viên gạch nhỏ cho những công trình lớn tiếp theo, hiệu quả hơn cho một bộ Đại Tạng Kinh Tiếng Việt trong thời gian tới.


 


Vậy đó, một chuyến dã ngoại vừa chơi vừa học của nhóm học Phật do mình làm “tour-guide” trong hai ngày 20 và 21/5/15 vừa qua, xin “tường trình” cho bạn rõ.


Đừng có thắc mắc hỏi sao lâu quá chả thấy Thư gởi bạn xa xôi gì nữa nhé!


Thân mến,


Đỗ Hồng Ngọc.


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 31, 2015 02:32

May 30, 2015

Duy Ma Cật: Những “Mô hình” (phẩm phương tiện)

Thấp thoáng lời Kinh


 Những “Mô hình” (phẩm phương tiện)

Như đã nói, phương pháp “Tiếp cận dựa vào cộng đồng” (Community-based approach)  đòi hỏi phải có sự tham gia cộng đồng (community involvement), và phải có kỹ thuật học thích hợp (appropriate technology)… mới thành công. Không có sự tham gia của cộng đồng, không sử dụng kỹ thuật học thích hợp (ở đây chính là “phương tiện”)… thì các phương pháp tiếp cận dù hay cách mấy mà áp đặt, xa lạ, cũng trở nên vô ích, thui chột vì không hợp “thổ ngơi”! (*)


Lý tưởng cao đẹp của Phật là giải thoát khổ đau cho chúng sinh, tạo một “cõi Phật” thanh tịnh cho mọi người, mọi loài, bình đẳng, không phân biệt. Không cần phải chia chẽ ở đây. Nào A-la-hán nào Bồ-tát, nào xuất gia nào tại gia, thậm chí cũng chẳng cần phân biệt kẻ nam người nữ… Tại sao vậy? Tại vì ai ai cũng có Pháp thân, có thân Như Lai như nhau, chỉ có người “thấy biết” (tri kiến Phật) người chưa thấy biết! Phật từng bảo: Ta là Phật đã thành còn chúng sanh là Phật sẽ thành đó thôi.



 


Khi ngó xuống thành Tỳ-da-ly nheo nhóc khổ đau dưới kia, Phật nghĩ phải nhanh chóng tìm một cách tiếp cận mới, bởi các vị A-la-hán, Bồ-tát đạo cao đức trọng quanh Phật bây giờ không thể nào tiếp cận được với các quan chức, vương tôn công tử, đại gia, các kiều nữ chân dài, các người trẻ ham chơi nơi các thanh lâu trà đình tửu điếm?


Đối tượng đích (target population) lần này đến thành Tỳ-da-ly không chỉ có năm trăm chàng tuổi trẻ, con nhà trưởng giả, vương tôn công tử, doanh nhân, trí thức – trong đó một số ít người đã biết con đường giải thoát của Phật, đã phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề (Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác) … nhưng không biết cách phải thành tựu thế nào vì họ không thể bỏ mọi việc ở đời mà xuất gia theo Phật – mà đối tượng đích lần này còn là các đệ tử gần xa của Phật, để họ có dịp nhìn lại chính mình mà thay đổi, bởi tuy theo Phật từ lâu, một số vị đã trở nên ngã mạn, tự cao tự đại, luôn có cái nhìn phân biệt đầy ngã chấp, pháp chấp.


Phật dạy Bảo Tích cũng là để cho các đệ tử mình:


“Các loài chúng sinh là cõi Phật của Bồ-tát. Bồ-tát tùy theo chỗ giáo hóa chúng sinh mà giữ lấy cõi Phật. Tùy theo chỗ điều phục chúng sinh mà giữ lấy cõi Phật.. Nhưng nếu muốn xây cất nơi hư không thì không thể được. Bồ-tát cũng vậy, vì muốn giúp cho chúng sinh được thành tựu, cho nên nguyện giữ lấy cõi Phật. Việc nguyện giữ lấy cõi Phật đó, chẳng phải là việc xây cất nơi hư không.”.


 


“Chẳng phải là việc xây cất nơi hư không” nên không thể lý thuyết suông, hình thành pháp này pháp nọ rồi rồi bám chặt lấy mà phải đi vào thực tế đời sống trong cõi Ta bà ngũ trược dưới kia!


Để thực hiện phương pháp tiếp cận dựa vào cộng đồng, qua giáo dục chủ động, cần phải có những mô hình đặc biệt để làm mẫu, giúp đối tượng “bắt chước” được dễ dàng. Trước khi đến Tỳ-da-ly, hẳn đã có một cuộc điều nghiên rất kỹ. Cái đó gọi là Chẩn đoán cộng đồng (Community Diagnosis), để biết rõ đường đi nước bước, phong tục tập quán của cư dân, đặc biệt tìm ra những nhân vật chủ chốt có thể từ đó mà ảnh hưởng đến các đối tượng khác gọi là nhân vật “chìa khóa” (key person), nhân vật “chuyên gia” (resource person). Từ những nhân vật chủ chốt này mà có thể mở toang cánh cửa vào cộng đồng, tạo tác động và gây chuyển hóa.


dmc amba 1 Am-ba-pa-li là một nhân vật “chìa khóa” đó. Nàng là một kỹ nữ nhan sắc tuyệt trần, một “hoàng hậu không ngai” ở thành Tỳ-da-ly mà từ lâu các vương tôn công tử, con nhà trưởng giả, các đại gia thiếu gia, quan chức không ngớt tìm cách mua chuộc. Am-ba-pa-li vừa kiêu hãnh, xa hoa vừa đầy mặc cảm tự ti vì bị coi là hạ tiện, bị khinh miệt, chê bai, chỉ trích.   Nàng đã nghe về Phật. Một thái tử dám từ bỏ ngai vàng, dấn thân vào con đường khổ hạnh, rồi cuối cùng đã tìm ra con đường giải thoát cho mình và người, đã vượt qua tất cả mọi cám dỗ trên con đường tu tập, trở thành bậc Chánh đẳng Chánh giác, đã trở thành Như Lai, Thế Tôn, Thiên nhân sư, bậc Ứng cúng… với 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp…


 


Nàng phải đến diện kiến Phật. Vừa kiêu hãnh, vừa tò mò, vừa run sợ. Trong lòng không khỏi nảy sinh nhiều ngẩm ngợi. Nhưng nàng chưng hửng. Hoàn toàn bị khuất phục. Con người tiếng tăm lừng lẫy với 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp kia sao mà quá giản dị, ngoài sức tưởng tượng của nàng. Áo khoác hờ trên bờ vai như không đủ mặc, chân trần, tự rửa lấy bình bát vừa thọ trai xong, nhẹ nhàng lau chân rồi ngồi tĩnh tọa trên đệm cỏ. Nhìn lại mình ngựa xe lộng lẫy áo quần rực rỡ mà nàng nghẹn ngào. Có cái gì đó đã khác hẳn, vươn lên trong thâm tâm. Phật nhìn nàng. Không hề xa lạ. Thấy ở nàng một đứa bé sơ sinh oa oa lọt lòng mẹ, rồi biết lật biết bò, biết đứng biết đi, biết tắm mưa tắm nắng, rồi trở thành một thiếu nữ nhan sắc tuyệt trần, một kỹ nữ lừng danh, rồi cùng lúc là một lão bà héo úa, da nhăn, mắt mờ, tay run, chống gậy lê từng bước… Không chỉ vậy. Còn thấy ở nàng một bộ xương và những bắp cơ, lục phủ ngũ tạng, những chất liệu đã tạo nên làn da mái tóc, những nguyên tố đã từ đó mà có tấm thân hồng trần này. Phật mỉm cười. Ánh mắt từ bi. Nàng sụp lạy nghẹn ngào. Phủ phục dưới chân Phật. Một tiếng sấm vang động cả thành Tỳ-da-ly hôm ấy.


Bảo Tích, cùng năm trăm vương gia công tử giật mình, tuy đã từ lâu phát tâm Chánh đẳng Chánh giác mà vẫn loay hoay, không sao thoát khỏi trần duyên tục lụy để xuất gia theo Phật đã thấy lóe lên một ánh sáng phía chân trời. Chàng vội vã cùng bè bạn ngựa xe rầm rập kéo đến Vườn Xoài của Am-ba-pa-li kính cẩn lạy Phật.


Phật dạy: “Bảo Tích! Bồ Tát tùy lòng ngay thẳng (trực tâm) mà khởi làm-.  Tùy chỗ khởi làm mà được lòng sâu vững (thâm tâm). Tùy lòng sâu vững mà tâm ý được điều phục. Tùy chỗ điều phục tâm ý mà làm được theo đúng như thuyết dạy. Tùy chỗ làm theo đúng như thuyết dạy mà có thể hồi hướng. Tùy chỗ hồi hướng mà có sức phương tiện. Tùy sức phương tiện mà giúp cho chúng sinh được thành tựu. Tùy chỗ thành tựu cho chúng sinh mà được cõi Phật thanh tịnh”


 


Lòng ngay thẳng – trực tâm- chính là sự bình đẳng, không phân biệt, không kỳ thị. Phải có sự không phân biệt, sự bình đẳng trước đã, rồi mới có được sự tôn trọng, sự chân thành, sự thấu cảm. Khi còn có phân biệt, còn có chia chẽ thì khoảng cách càng rộng ra. Cho nên mới nói “tùy trực tâm mà khởi làm”.  Không kỳ thị, không phân biệt đối xử mới có lòng tôn trọng như Thường Bất Khinh, mới có lòng Từ bi, Thấu cảm như Quán Thế Âm, và mới có lòng Chân thành để “ai thấy cũng vui, ai gặp cũng mừng” như Dược Vương… Tôn trọng, chân thành, thấu cảm phải dựa trên điều kiện tiên quyết là không phân biệt, là bình đẳng. Đó chính là Bất nhị. Với cái nhìn bất nhị, với tấm lòng “trực tâm” thì tức khắc người ta tạo được một không khí thuận lợi để “thành tựu chúng sanh”. Tùy chỗ khởi làm mà được lòng sâu vững (thâm tâm), chánh tín, từ đó mà tâm ý được điều phục, từ đó mà có sức phương tiện, khởi phát từ tấm lòng Từ bi chân thật.


 


Nếu Am-ba-pa-li là một nhân vật “chìa khóa” vừa làm rung chuyển thành Tỳ-da-ly vì không ai ngờ được Phật thu nhận làm đệ tử thì một nhân vật chủ chốt khác, một trưởng giả giàu sang danh tiếng lừng lẫy thành Tỳ-da-ly, một chuyên gia (resource person) am tường Phật pháp, đang rên hừ hừ vì bệnh mà Phật đã phải cử các đệ tử thân thiết hết người này đến người khác đến tận nhà thăm viếng: Đó là Duy-ma-cật, một “Mô hình” đặc biệt, mô hình “Bồ tát tại gia” mà Phật muốn giới thiệu dịp này.


dmc hinh


“Khi ấy ở trong thành lớn Tỳ-da-ly có trưởng giả tên Duy-ma-cật, đã từng cúng dường vô lượng chư Phật và sâu trồng căn lành, được vô sanh nhẫn, biện tài vô ngại, du hý thần thông, được các phép tổng trì, được vô sở úy, hàng phục chúng ma, vào được pháp môn sâu xa vi diệu, giỏi về phép trí huệ, thông đạt phương tiện; thành tựu nguyện lớn, biết rõ chỗ xu hướng trong tâm của mỗi chúng sinh, phân biệt được những căn tánh lanh lợi hoặc chậm lụt… ở lâu trong Phật đạo, tâm đã thuần thục… Mỗi hành vi tạo tác đều khéo suy lường. Giữ gìn oai nghi của Phật, tâm rộng như biển cả, được chư Phật khen ngợi, hàng đệ tử, Đế-thích, Phạm vương, hoặc vua thế gian thảy đều cung kính”.


Duy-ma-cật không chỉ thuần thục Lục độ Ba-la-mật, Tứ vô lượng tâm, Tứ pháp thâu nhiếp, Phương tiện, với tất cả các pháp tùy nghi vô ngại đến Ba mươi bảy phẩm trợ đạo gồm Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ thần túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, Bát chánh đạo…mà tất cả đều đã được tu tập, ứng dụng trong đời sống hằng ngày, không phải chỉ với sách vở suông.


 


Ông đã dùng tài sản nhiều không kể xiết để nhiếp phục kẻ nghèo; dùng giới luật thanh tịnh nhiếp phục những kẻ phạm giới; dùng nhẫn nhục nhu hòa nhiếp phục những kẻ nóng giận; dùng sức tinh tấn mạnh mẽ, nhiếp phục kẻ lười nhác, giải đãi; dùng nhất tâm thiền tịnh nhiếp phục kẻ tâm ý tán loạn; dùng trí huệ nhiếp phục những kẻ vô trí…


Về đời sống riêng tư, Kinh nói rõ hơn:


“Tuy là cư sĩ, nhưng ngài kính giữ luật hạnh thanh tịnh của bậc sa-môn, tuy ở tại nhà, mà chẳng vướng vào ba cõi. Thị hiện có vợ con, mà tu hạnh thanh tịnh; phục sức đồ quý báu nhưng dùng các tướng tốt là để trang nghiêm thân mình, lấy niềm vui hành thiền làm món ăn ngon, đến nơi cờ bạc để hóa độ người. Vẫn thọ học các đạo khác, mà chẳng bỏ chánh tín. Rành sách vở thế gian, mà thường hâm mộ pháp Phật. Tham gia kinh doanh làm ăn lợi lộc mà chẳng lấy đó làm vui. Dự vào việc chính trị, mà cứu hộ tất cả chúng sanh. Thậm chí vào chốn lầu xanh, để chỉ rõ chỗ tội lỗi của sắc dục, vào quán rượu để hướng thiện cho những người nghiện ngập…”.

Vì đã sống nơi thành Tỳ-da-ly nhiều năm, ông quá biết cuộc sống “ngũ trược ác thế” ở đây, một cõi Ta-bà điển hình. Quân vương thì tranh ngôi đoạt vị, không từ một thủ đoạn nào; công hầu khanh tướng thì mua quan bán tước, tàn hại lẫn nhau; doanh nhân đại gia  cá lớn nuốt cá bé, vương tôn công tử trà đình tửu điếm, kỹ nữ chân dài tấp nập ngựa xe… Nhưng những chúng sanh này luôn cang cường, cứng cỏi, lì lợm đâu dễ mà thuyết phục họ với những vô thường, khổ, vô ngã, những duyên sinh, thực tướng vô tướng …! Còn lâu! Dĩ nhiên không phải là không có những thiện tri thức, những bậc cao nhân, những người chân chính và cả những thanh niên trai trẻ như Bảo Tích và bạn bè chàng đã phát tâm Bồ-đề mà vẫn mãi loay hoay chưa biết phải làm sao, bằng cách nào để biến ước mơ thành hiện thực. Duy-ma-cật phải tìm một cách tiếp cận khác, một “kỹ thuật học thích hợp”, một “phương tiện thiện xảo” khác.


Không cách nào tốt hơn “thọ bệnh”. Bởi “bệnh” thì vua quan thứ dân gì cũng có lần mắc phải, không nặng thì nhẹ, không ít thì nhiều trong đời mình nên họ đều có trải nghiệm. Có những thứ bệnh đứng bên bờ vực của cái chết, càng dễ nhận ra những thực tế của cuộc sống. Quân vương cũng bệnh,  công hầu khanh tướng cũng bệnh, doanh nhân đại gia, vương tôn công tử, kỹ nữ chân dài… cũng bệnh. Bệnh không tha thứ một ai, dù là một bé sơ sinh hay một người già lão. Trước bệnh, mọi người đều … bình đẳng!


 


Cho nên Duy-ma-cật “dùng phương tiện hiện ra thân mình có bệnh.” Dĩ nhiên phải là một thứ bệnh thập tử nhất sinh nào đó mới khiến cả thành Tỳ-da-ly giật mình. Với một nhân vật lừng lẫy, đầy uy tín như ông, nên  “các hàng vua quan, trưởng giả, cư sĩ, bà-la-môn, vương tôn công tử…” đều kéo đến thăm.


Không có cơ hội nào tốt hơn nữa! Mọi người sửng sốt thương hại nhìn một trưởng giả giàu sang phú quý thế kia mà sắp sửa từ bỏ cõi trần và rồi, họ nghĩ đến bản thân họ, lúc nào đây rồi cũng sẽ thế thôi. Công hầu khanh tướng mà chi, bạc tiền rủng rỉnh mà chi, lụa là gấm vóc mà chi…


“Các nhân giả! Thân này là không thường tồn, không có sức mạnh, không bền chắc. Nó là vật mau hư hoại, không thể tin vào nó được. Nó là khổ, là não, các bệnh đều tụ tập vào nó”…


Một câu nói của Duy Ma Cật vào thời điểm này đủ làm rúng động những trái tim, khiến họ dầu muốn dầu không cũng không khỏi giật mình!


“Các nhân giả! Như cái thân này đây, bậc minh trí không nương cậy vào nó được. Thân này như bọt đọng mà người ta không thể sờ nắm. Thân này như bọt nổi, không tồn tại lâu dài. Thân này như nháng lửa, nó do sự khát khao ái dục mà sinh ra. Thân này như cây chuối, bên trong chẳng bền chắc gì. Thân này như món đồ ảo thuật, do nơi sự xáo trộn mà khởi ra. Thân này như chiêm bao, thấy nó là hư vọng chẳng thật. Thân này như cái bóng, nó theo nghiệp duyên mà hiện ra. Thân này như tiếng dội, nó phụ thuộc các nhân duyên. Thân này như mây nổi, trong phút chốc đã biến mất. Thân này như tia chớp, chẳng ở yên một phút nào!


Đã đành Phật từng dạy ”Nhất thiết hữu vi pháp/ như mộng huyễn bào ảnh/ như lộ diệc như điện/ ưng tác như thị quán!”. Nhưng, còn lâu mới chịu “quán”! Chỉ có trong hoàn cảnh này, trong lúc thấy ông Duy-ma-cật ngày nào oai hùng thế ấy mà nay da vàng, bụng chướng, ho sù sụ,  rên hừ hừ, run lập lập… mới có thế làm người ta giật mình mà “quán” tưởng lại cái thân bèo bọt của mình.

“Thân này không chủ, cũng như đất. Thân này không phải ta, cũng như lửa. Thân này không sống lâu, cũng như gió. Thân này không phải người, cũng như nước. Thân này chẳng thật, nó lấy bốn đại: đất, nước, lửa, gió làm nhà. Thân này là trống không, nó lìa ta và vật của ta. Thân này không biết chi hết; nó như cỏ, cây, gạch, sỏi. Thân này không làm gì hết, nó bị sức gió chuyển dời. Thân này là bất tịnh, dẫy đầy mọi nhơ nhớp xấu xa. Thân này là hư ngụy, dẫu nó có tạm dùng những việc tắm, rửa, ăn mặc, nhưng rồi nó cũng mòn dứt mà thôi! Thân này là tai hại, mang lấy một trăm lẻ một bệnh não. Thân này như gò đất, giếng nước, nó bị cái già hiếp bức. Thân này không kiên định, có ngày phải chết. Thân này như rắn độc, như kẻ cướp oán thù, như xóm nhà không người, các ấm, nhập, giới phối hợp mà làm thành cái thân”.


Từ chuyện thân bệnh thôi mà đã đề cập tứ đại, ngũ uẩn, duyên sinh, thực tướng giả tướng, vô thường, khổ, vô ngã… rồi đó vậy.

Duy-ma-cật thừa biết nói về tâm rất khó. Cái tâm không nắm bắt được. Tiếp cận qua cái “sắc” thì ai cũng dễ đồng ý chớ qua “thọ tưởng hành thức” thì còn cãi nhau chí chóe. Tứ đại đất nước gió lửa kia chính là những carbon, hydro, oxy, nitrogen đã tạo nên các thứ protein thì ai cũng công nhận. Thân người có bao nhiêu cái xương đều đếm được, sờ nắn được, bao nhiêu bắp cơ đều sờ nắn được, bao nhiêu canxi, phospho, sắt đồng chì kẽm, mangan, manhê… đều đo đếm được. Mà ai cũng như ai thôi. Bình đẳng tuyệt đối. Không phân biệt.


“Các nhân giả! Thân này đáng lo, đáng chán, mà nên ưa thích thân Phật. Tại sao vậy? Thân Phật tức là Pháp thân. Do vô lượng pháp thanh tịnh mà thân Như Lai sinh ra.

“Các nhân giả! Muốn được thân Phật dứt hết các bệnh của chúng sinh, nên phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.”


 


Đỗ Hồng Ngọc.

(*) Cõi Phật đâu xa, Văn hóa Phật giáo số 225, Phật Đản 2015, trang 20-22

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 30, 2015 02:04

May 17, 2015

Thấp thoáng Lời Kinh (1) CÕI PHẬT ĐÂU XA!

Thấp thoáng Lời Kinh (1)


Cõi Phật đâu xa!

Có người cắt tóc lên núi cao tìm cõi Phật. Có người khoác áo nâu sồng vào rừng sâu tìm cõi Phật. Có người xây chùa to, dựng tượng, đúc chuông lớn tìm cõi Phật… nhưng cõi Phật làm gì có trên núi cao, trong rừng sâu, trong chùa lớn?


Duymacat (hinh 1) Khi được hỏi cõi Phật ở đâu? Phật trả lời “Các loài chúng sanh là cõi Phật của Bồ tát” (chúng sinh chi loại thị Bồ-tát Phật độ). Thì ra vậy. Thì ra cõi Phật của Bồ tát không ở đâu xa. Ở nơi các loài chúng sanh thôi. Quanh ta và trong ta thôi. Đó là những chúng sanh muôn hình vạn trạng, nheo nhóc, khổ đau, chằng chịt, quấn quít, xà quần sáu nẻo luân hồi bay nhảy không ngừng sáng trưa chiều tối, kiếp này kiếp khác, quần quật không an. Bồ-tát chỉ cần “thành tựu” chúng sanh đó, tức thì cõi Phật hiện ra ngay. Không phải tìm kiếm đâu xa. Nhưng thật không dễ. Chúng sanh ngoan cường, cứng cõi, lì lợm ở cõi Ta-bà này không dễ mà hàng phục, không dễ mà trụ lại một chỗ an vui. Nhưng cũng chính nơi cõi Ta-bà đầy gian khó này mới cần có Bồ-tát, và ngược lại, cũng là nơi Bồ-tát hoàn thiện chính mình. Không có chúng sanh cũng chẳng cần Bồ-tát! Cho nên khi Bồ-tát “thành tựu chúng sanh” thì chúng sanh cũng “thành tựu Bồ-tát” vậy.



Ý dẫn các pháp. Nhất thiết duy tâm tạo (mọi thứ do tâm tạo ra). Tâm tịnh thì Phật độ tịnh. Tìm kiếm đâu xa. Hãy quay về nương tựa chính mình. Phật đã chẳng khuyên như vậy từ khởi thủy sao? Cớ sao ta cứ mãi loay hoay, mãi chạy vạy, mãi tìm kiếm đâu đâu? Mấy ngàn năm trước, đệ tử giải Không hạng nhất của Phật đặt câu hỏi: “Vân hà ưng trụ? Vân hà hàng phục kỳ tâm?” (An trụ tâm cách nào? hàng phục tâm cách nào?). Phật nói dễ lắm, dễ lắm, chỉ cần “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (đừng có trụ cái tâm vào đâu cả!) là xong. Nhưng đâu có dễ mà “vô trụ”. Ta hết trụ thứ này thì trụ thứ kia, hết trụ người này thì trụ người khác, chỉ quên… trụ vào chính mình. Nghĩa là… trụ vào cái không của chính mình. Phải. Khi Bồ tát Quán tự tại (tức Quán Thế Âm) hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa một cách thâm sâu thì bỗng bừng ngộ thấy rõ ngũ uẩn đều không: “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, tức khắc “độ nhất thiết khổ ách” nghĩa là đưa tất cả khổ đau ách nạn đi chỗ khác, tâm trở nên hoàn toàn thanh tịnh và như thế cõi Phật đã hiện tiền! Từ đó mà đã có thể “từ nhãn thị chúng sanh”, nhìn chúng sanh với con mắt đầy yêu thương, thấu cảm, bởi cõi Phật đó ai cũng sẵn có, chỉ vì không thấy biết mà “luân hồi sanh tử” mãi miết đó thôi!


 


Buổi mai hôm đó, Phật vừa rời khỏi tịnh thất sau ba tháng an cư kiết hạ, đưa mắt nhìn các đệ tử mình nghiêm trang tu tập, người ngồi dưới gốc cây, người ngồi trên tảng đá, tất cả đều tinh cần, chánh niệm, tỉnh giác, tất cả đều sống một đời sống đạm bạc, kham nhẫn, tri túc đúng như lời Phật dạy, ngài rất hài lòng. Đa số các vị này đã là A-la-hán, đã tròn đầy phạm hạnh, đã đặt gánh nặng xuống và đã… vô sinh, không trở lại cõi Ta-bà ô trược này nữa. Một số vị Bồ-tát lớn thì đang rày đây mai đó, bươn chãi nơi này nơi kia, thuyết giảng cho chúng sanh con đường giải thoát còn số Bồ-tát nhỏ mới tu thì đang quét lá, dọn dẹp chỗ trú sau mùa mưa bão.


Nơi Phật an cư kiết hạ mùa này không xa thành Tỳ-da-ly dưới kia, một thành phố lớn, một đô thị giàu có, dân cư đông đúc, nơi chúng sanh người thì nheo nhóc lặn ngụp trong bao nỗi lo toan, sợ hãi, ốm đau, già nua bệnh hoạn…, người thì trọc phú  huênh hoang, nứt đố đổ vách, lặn ngụp trong cảnh xa hoa, lên xe xuống ngựa, kẻ hầu người hạ, bên cạnh là các vương tôn công tử áo gấm quần hoa ăn chơi trác táng, tửu điếm trà đình, và rất nhiều thanh lâu sang trọng với những cô kỹ nữ khuynh thành đón người cửa trước rước người cửa sau và rượu, và thuốc gây nghiện tràn lan; bên cạnh đó là những bậc trí giả ngày đêm tranh luận không ngừng về những triết thuyết cao siêu huyền bí, giải thích mọi hiện tượng của vũ trụ và loài người, ai cũng cho mình đúng nhất hay nhất. Nơi thành Tỳ-da-ly đó không ít kẻ vì tranh ngôi đoạt vị mà tay không ngần ngại nhúng máu nhúng chàm, gây oán chuốc thù, chiếm đất giành dân không ngớt…


Thành Tỳ-da-ly rực rỡ ánh đèn dưới kia khiến Phật thấy đã đến lúc phải thay đổi cách tiếp cận mới mong giải thoát được chúng sinh. Làm sao mà các vị A-la-hán, các vị Bồ-tát đạo cao đức trọng đã xuất gia theo Phật bấy nay đang tĩnh tọa xung quanh Phật bây giờ lại có thể tiếp cận được với các bậc vương tôn công tử, với các quan chức, với các nhà buôn dưới kia? Làm sao mà các vị A-la-hán, các vị Bồ-tát đạo cao đức trọng đã xuất gia theo Phật bấy nay tiếp cận được với các cô nàng kỷ nữ nhan sắc kiêu kỳ ở các thanh lâu trà đình tửu điếm dưới kia? Làm sao mà các vị A-la-hán, các vị Bồ-tát đạo cao đức trọng lại có thể vào tận các ổ mại dâm, động ma túy sa đọa dưới kia để thuyết giảng lời Phật? Nhớ lại có lần một đệ tử đi khất thực suýt nữa thì rơi vào tay một kỹ nữ, Phật không khỏi băn khoăn. Ai đây có thể tiếp cận được? Cách nào đây có thể tiếp cận được? Ai đây sẵn lòng xâm nhập vào chốn bùn nhơ mà đủ năng lực giúp đỡ, hỗ trợ người khác vượt qua, không chỉ với những lời khuyên suông, lý thuyết trên mây, cao ngạo và xa cách, mà từ những thực tế của cuộc sống vì Phật đạo không xa cách thế gian, Phật đạo ở ngay trong lòng thế gian. Làm sao cho những cánh sen xanh biếc mọc lên từ chốn bùn nhơ?


Phật là một nhà sư phạm tuyệt vời, thường dùng phương pháp giáo dục chủ động, dựa vào đối tượng đích mà thuyết giảng, thế mà cũng có lúc hằng mấy ngàn thính chúng đã bỏ đi vì không thể tin, không thể  hiểu được điều Phật dạy. Người ta không dễ tin có viên ngọc trong chéo áo kẻ bần cùng, không thể tin Đề-bà-đạt-đa, một người phạm tội vô gián như thế được Phật thọ ký thành Phật mai sau.


 


Cách tốt nhất để tiếp cận ở đây là phương pháp “tiếp cận dựa vào cộng đồng” (Community-based approach). Cộng đồng Tỳ-da-ly có những đặc thù của nó, phải tiếp cận dựa vào nó, tự trong nó. Không thể đưa các vị A-la-hán đạo cao đức trọng, phạm hạnh tròn đầy, đến thuyết phục được các bậc vương tôn công tử, doanh nhân thành đạt, các cô kỹ nữ lầu xanh… Không thể đưa các vị Bồ-tát trí huệ thâm sâu đến thuyết phục các bậc vương tôn công tử, doanh nhân thành đạt, các cô kỹ nữ lầu xanh… về nhất thiết duy tâm, vô thường vô ngã, thực tướng vô tướng…! Phải có người tại chỗ. Phải từ bùn mà sen mọc lên. Có lần các vị Bồ-tát phương xa đến cõi Ta-bà tình nguyện giúp Phật một tay, Phật từ chối và ngay lúc đó đã có vô số các Bồ-tát “tùng điạ dũng xuất”, tại chỗ, từ đất vọt lên, sẵn sàng lãnh trách nhiệm. Phương pháp tiếp cận dựa vào cộng đồng này đòi hỏi phải có sự tham gia của cộng đồng (community involvement), và có kỹ thuật học thích hợp (appropriate technology)… mới thành công. Không có sự tham gia của cộng đồng, không sử dụng kỹ thuật học thích hợp… thì các phương pháp dù hay cách mấy mà áp đặt, xa lạ, cũng trở nên vô ích, thui chột vì không hợp “thổ ngơi”!


Đối tượng đích (target population) lần này là năm trăm con nhà trưởng giả, trẻ tuổi, vương tôn công tử, đại gia, doanh nhân, trí thức của thành Tỳ-da-ly. Tất cả họ đều đã phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề (Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác) … nhưng chưa biết cách phải thực hành thế nào vì họ không thể xuất gia như các vị Bồ-tát kia.


Vấn đề là làm thế nào để các vị trưởng giả trẻ tuổi, doanh nhân, trí thức… này có thể trở thành Bồ-tát ngay tại cộng đồng của họ mà không cần phải cắt tóc, đầu tròn áo vuông  của một vị sa môn?


Thực ra buổi thuyết giảng đặc biệt hôm nay của Phật tại Vườn Xoài không chỉ dành cho “đối tượng đích” nói trên mà chủ yếu còn dành cho tất cả các vị A-la-hán, Bồ-tát cùng các đệ tử gần xa của Phật, để chính họ tự nhìn lại chính mình và cũng phải tự thay đổi. Bởi thay đổi “cái nhìn” vốn là một sự thay đổi không hề dễ dàng! Phật muốn giới thiệu một phương pháp tiếp cận mới, tiếp cận dựa vào cộng đồng qua một “mô hình” Bồ-tát mới, “Bồ tát tại gia”, qua hình tượng một nhân vật kiệt xuất Duy-ma-cật ở ngay trong thành Tỳ-Da-Ly vậy.


Cho nên lần này đến Vườn Xoài của Am-ba-pa-li có đến tám ngàn Đại Tỳ-kheo, ba mươi hai ngàn vị Bồ-tát, mười ngàn Phạm Thiên Vương, mười hai ngàn vị thiên đế, chư thiên, long thần, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, thảy đều đến ngồi nơi pháp hội. Có đủ các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di.


 


Trong thành Tỳ-da-ly có một chàng con nhà trưởng giả, tên là Bảo Tích, cùng năm trăm chàng con nhà trưởng giả khác, thảy đều cầm những lọng bảy báu,  đến nơi Phật ngự, đầu và mặt làm lễ sát chân Phật. Mỗi chàng đều đem lọng của mình mà cúng dường Phật. Oai thần của Phật khiến cho các lọng báu hiệp thành một cái lọng duy nhất, che trùm cả thế giới tam thiên đại thiên.


Năm trăm vị vương tôn công tử, trí thức, doanh nhân… của Tỳ-da-ly đến diện kiến Phật, ai nấy đều trình bày cái hay cái giỏi của mình, cái “logo” với cờ xí oai hùng của mình nhưng Phật đã  tức khắc “khiến cho các lọng báu hiệp thành một cái lọng duy nhất”. Bởi không có gì chia chẽ ở đây. Bình đẳng tuyệt đối. Buổi thuyết giảng này là về một mô hình mới: Bồ-tát tại gia Duy-ma-cật với Pháp môn Bất Nhị, Bất khả tư nghì!

Bảo Tích thưa: ”Bạch Thế Tôn! Năm trăm chàng con nhà trưởng giả đây, thảy đều đã phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, nay muốn nghe việc được quốc độ thanh tịnh của Phật. Xin đức Thế Tôn giảng thuyết các hạnh tịnh độ của chư Bồ-tát.”

Phật dạy: “Lành thay, Bảo Tích! Ông đã vì chư Bồ-tát hỏi Như Lai về hạnh tịnh độ. Hãy lắng nghe, lắng nghe! Hãy suy nghĩ cho kỹ. Ta sẽ vì ông mà giảng thuyết.”


“Các loài chúng sinh là cõi Phật của Bồ-tát. Tại sao vậy? Bồ-tát tùy theo chỗ giáo hóa chúng sinh mà giữ lấy cõi Phật. Tùy theo chỗ điều phục chúng sinh mà giữ lấy cõi Phật. Tùy các chúng sinh muốn dùng cõi nước nào để vào trí huệ Phật mà giữ lấy cõi Phật. Tùy các chúng sinh muốn dùng cõi nước nào để phát khởi căn Bồ-tát mà giữ lấy cõi Phật. Tại sao vậy? Bồ-tát giữ lấy cõi nước thanh tịnh là vì muốn làm lợi ích cho chúng sinh.  Nhưng nếu muốn xây cất nơi hư không thì không thể được. Bồ-tát cũng vậy, vì muốn giúp cho chúng sinh được thành tựu, cho nên nguyện giữ lấy cõi Phật. Việc nguyện giữ lấy cõi Phật đó, chẳng phải là việc xây cất nơi hư không.”.


“Bảo Tích! Bồ Tát tùy lòng ngay thẳng (trực tâm) mà khởi làm. Tùy chỗ khởi làm mà được lòng sâu vững (thâm tâm). Tùy lòng sâu vững mà tâm ý được điều phục. Tùy chỗ điều phục tâm ý mà làm được theo đúng như thuyết dạy. Tùy chỗ làm theo đúng như thuyết dạy mà có thể hồi hướng. Tùy chỗ hồi hướng mà có sức phương tiện. Tùy sức phương tiện mà giúp cho chúng sinh được thành tựu. Tùy chỗ thành tựu cho chúng sinh mà được cõi Phật thanh tịnh. Tùy cõi Phật thanh tịnh mà thuyết pháp thanh tịnh. Tùy chỗ thuyết pháp thanh tịnh mà trí huệ được thanh tịnh. Tùy trí huệ thanh tịnh mà tâm được thanh tịnh. Tùy tâm được thanh tịnh mà tất cả công đức đều thanh tịnh. Bảo Tích! Cho nên, nếu Bồ-tát muốn được cõi nước thanh tịnh hãy làm cho tâm thanh tịnh. Tùy tâm thanh tịnh, ắt cõi Phật thanh tịnh”.


“Muốn được cõi nước thanh tịnh hãy làm cho tâm thanh tịnh. Tùy tâm thanh tịnh, ắt cõi Phật thanh tịnh”.


Cho nên, cõi Phật đâu xa đó vậy!


 


Đỗ Hồng Ngọc


(4.2015)


 


 


 


 


 


 


 


 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 17, 2015 22:08

May 16, 2015

Nghỉ hè, trẻ nên làm gì?

Nghỉ hè, đừng tước đoạt mùa xuân của trẻ nhỏ

Ngân Hà


Ngan Ha (hinh)


Với những nỗi lo và bằng tình thương rất thật, các bà mẹ ông bố tìm đến bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trong buổi trò chuyện chuyên đề: “Nghỉ hè trẻ nên làm gì?” tại trung tâm ngoại ngữ Eland (TP.HCM), chỉ để củng cố thêm niềm tin rằng: mùa hè, phải cho con đi chơi !


Đó là phía cha mẹ.



Còn con thì sao? Liệu có cha mẹ nào quan tâm đến cảm xúc của con? Thay vì cha mẹ sẽ làm gì cho con, cha sẽ hỏi: Mùa hè này, con muốn làm gì? Ôi trời, đứa trẻ chắc sẽ mừng rỡ. Bởi nó có thể đã tưởng tượng biết bao nhiêu trò ngay từ khi bước vào kỳ thi học kỳ 2. Và sau khi thi xong, điều nghĩ tới sẽ là mùa hè.


Sung sướng quá giờ cuối cùng đã hết


Đoàn trai non hớn hở rủ nhau về


Chín mươi ngày nhảy nhót ở miền quê


Ôi tất cả mùa xuân trong mùa hạ


Một bài thơ Nghỉ hè của nhà thơ Xuân Tâm viết từ năm 1941, đến nay vẫn tràn đầy cảm xúc. Và cho đến nay, tất cả các đứa trẻ của thế kỷ 21 cũng vẫn mong được chín mươi ngày ấy dù sự thật là chúng đã bị tước đi rất nhiều ngày.


IMG_0213


thảo luận sôi nổi

thảo luận sôi nổi


Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã viết lại một câu chuyện cổ tích Giếng nước mùa xuân, kể về cậu bé ốm yếu bệnh tật, có người cha giàu có nhưng không thể chữa bệnh cho con, nên tìm đến vị thầy trên núi nghe nói đang sở hữu một cái giếng thần kỳ. Dòng nước mát trong của nó có thể chữa bách bệnh. Đến nơi, vị thầy nói rằng giếng nước đang cạn, cần phải chờ khơi nguồn. Vì quá thương con nên ông trọc phú chấp nhận điều kiện của vị thầy sẽ để con trai mình ở lại, còn mình thì về tu nhân tích đức. Thay vì trước kia ông chỉ biết kiếm lợi từ mọi người, giờ ông sẽ chia sẻ lại cho những người kém may mắn.


Mỗi sáng vị thầy cho cậu bé ra sân tắm nắng, chạy nhảy và trồng cây, tưới nước… chẳng bao lâu, cậu trở nên rắn rõi và nguồn sức sống từ trong chính cậu đã tuôn trào. Khi người cha đến đón con, ông không nhận ra chàng thanh niên rắn rõi ấy chính là con mình. Lúc này, người thầy mới nói, chẳng có giếng thần nào cả, mà giếng nước mùa xuân ấy ở chính trong con người mình, nếu mình không biết khơi nguồn.


Đó là một trong bảy câu chuyện BS Đỗ Hồng Ngọc viết lại và tập hợp thành một bộ tranh truyện có tên Có một con mọt sách xuất bản đầu tháng 5. Và cũng là những lời gửi gắm của ông đến các bậc cha mẹ hãy để cho con mình được nghỉ, được chơi, được sống hòa cùng thiên nhiên thay vì đưa con đến những cái “hộp” lớp học suốt cả mùa hè.


Phần lớn các phụ huynh đều thắc mắc nếu cho con học đàn, học vẽ, học võ, học bơi, học múa… có học quá nhiều? Hay giữa môn võ và bơi, môn nào chọn cho con mình. Con gái có nên học võ từ lúc nhỏ vì sợ xương to người thô hay không… Câu trả lời: tất cả các môn học, từ ngôn ngữ đến kỹ năng, nên để cho trẻ học từ sáu tuổi. Dưới sáu tuổi chủ yếu là chơi để nhận biết và làm quen với những gì đang diễn ra trong cuộc sống. Cũng cần phải cho con chọn lựa điều nó thích, và trong rất nhiều môn học cha mẹ mong mỏi cho con, hãy quy định hai hay ba thứ mà con có thể chọn, cũng là một sự tôn trọng con.


Nghỉ hè cũng là dịp trẻ thành phố về quê, trẻ quê lên thành phố để làm quen với đời sống đô thị. Những câu hỏi như: “Bà nội ơi, sao bà trồng được mấy con gà nhỏ này vậy?”, hay: “Cái trái khoai này to ghê!” nghe ngô nghê buồn cười, nhưng chính là lúc chúng ta dạy cho trẻ đô thị biết phân biệt và sử dụng ngôn ngữ cho đúng. Còn nhớ, trên một chuyến xe đi du lịch, một bé trai tám tuổi đã la lên: “Mẹ ơi, con heo lớn kìa!” và cháu chỉ đằng xa một con trâu đang gặm cỏ. Những hình ảnh thông thường nhất có thể mất dần trong ký ức và thậm chí ngôn ngữ cũng mất đi nếu trẻ không được sống cuộc sống thực. Ngắm nhìn một ngọn núi sống chắc chắn sẽ gây ấn tượng rất mạnh với một ngọn núi dù được quảng cáo là “rất thật” trên màn hình HD của tivi thế hệ mới.


IMG_0236 Cảnh báo đầu tiên và cũng là xác quyết của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đối với cha mẹ đó là bệnh tâm thần của trẻ con Việt Nam ngày càng tăng. Lý do: bị ép học. Càng bị nhồi nhét càng dễ dàng biến thành nỗi đau và biểu hiện nhanh nhất chính là bệnh tâm thần.


Cho nên bạn đừng nỡ lòng nào tước đoạt đi niềm hạnh phúc của trẻ thơ, khi mà nghe hai tiếng “nghỉ hè” thì


 


Một nét mặt trăm tiếng cười rộn rã


Lời trên môi chen chúc nối nghìn câu


Chờ đêm nay, sáng sớm bước lên tàu


Ăn chẳng được, lòng nôn nao khó ngủ. 


Xuân Tâm


(http://thegioitiepthi.net/gia-dinh/ng...)


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 16, 2015 00:19

May 13, 2015

Nguyễn Thị Khánh Minh viết về Đỗ Hồng Ngọc

 


nguyễn thị khánh minh


ĐỖ HỒNG NGỌC,

LANG THANG NGHÌN DẶM TRÁI TIM


(Bài viết này như một chia vui cùng Nhà Văn Đỗ Hồng Ngọc với tác phẩm vừa xuất bản, Có Một Con Mọt Sách).


Trong Lời Ngỏ sách Nghĩ Từ Trái Tim, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc (ĐHN) có nói, tôi viết bằng cảm xúc, bằng sự thể nghiệm đời sống chứ không phải bằng suy luận lý trí. Theo tôi, không chỉ với cuốn Nghĩ Từ Trái Tim, mà tất cả tác phẩm của ông từ thơ, văn, bàn về kinh sách, hay những đề tài có vẻ chuyên khoa (tôi nói có vẻ vì ngay trong những đề tài ấy, ông viết không đơn thuần là khô khan của khoa học, mà đầy tính văn chương), đều được chữ ông chuyên chở những cảm xúc thực từ trái tim.


Tôi hình dung một chiếc xe -chữ- lọc cọc trên con đường đất nâu quê nhà thơm ngấu mùi bùn cỏ nắng trưa, chở đầy hoa đồng nội -cảm xúc-, trên con đường đi cứ tỏa hương tỏa hương… Đấy, nghìn dặm lang thang của một chàng lãng tử rất đỗi nghệ sĩ, mộng mơ… Và Con Đường mà chàng miệt mài đi, nghe ngóng, kiếm tìm ấy là Trái Tim. Nơi khởi đầu và chung cuộc để con người nhìn ra nhau nhân ái yêu thương. Những điều chàng chắt chiu được trên con đường ấy lại làm quà tặng cho chúng ta -những tác phẩm-. Người nghĩ và sống được như ý nghĩ mình đầy thiện tâm như thế, thật là không dễ. Và không nhiều. Nên chính ông, cũng là một tặng phẩm cho cuộc đời này.



Cũng khởi đi từ nhiệm mầu ấy cộng thêm những trải nghiệm cảnh ngộ trong cuộc đời mà ông đã được người đọc, người nghe, tin cậy. Nếu đọc ông một cách tuần tự rất dễ nhận ra được những tình cảm, kinh nghiệm ấy được nuôi dưỡng, lớn lên, giàu thêm theo thời gian. Giàu thêm chứ không già đi -Cảm Xúc-. Điều lạ ở ĐHN đấy. Kinh nghiệm càng nhiều, càng nghịch cảnh thì cảm xúc càng trẻ trung, cái nhìn về cuộc sống càng giản dị, tình dành cho tha nhân càng thông hiểu bao dung. Phải chăng là một đền đáp của Cảm Xúc cho người biết lắng nghe nó?


Đó là điều tôi cảm nhận về phong cách cùng văn chương của Đỗ Hồng Ngọc.


Tôi cũng có được duyên may để quen và được xem ông như một người anh. Có một ngẫu nhiên, tôi là người thích những ngẫu nhiên đem lại cho mình may mắn bất ngờ, hồi tháng 4. 2014, tôi qua một cuộc mổ cột sống khá nặng, vào ngày phải tập đi thì tôi đã không thể bước được, nằm trên giường sợ và khóc, rồi vào mạng tìm nghe đây đó thì tình cờ tôi nghe được buổi nói chuyện của Bác Sĩ ĐHN trên Hoa Mặt Trời, nói về niềm hạnh phúc khi ông bước đi những bước đầu tiên sau cuộc mổ sinh tử, nghe xong tôi thấy mình bình tĩnh hơn, và sáng hôm sau tôi tập đi được 2 phút, trong niềm vui, càng thấy thấm thía những điều ông nói, hạnh phúc hóa ra là những điều rất giản dị, sáng mở mắt tai nghe được tiếng chim hót, biết được nỗi tuyệt vời của thiên nhiên muôn loài. Bước được bằng hai chân, cảm được hạnh phúc của một thân thể lành lặn. Phone reo nghe tiếng bạn hỏi thăm, nghe được nỗi ấm áp sẻ chia, từ đó thấu được nỗi đau của những mất mát quanh ta… Vậy đó, từ cảm ngộ của người vừa nhảy qua bờ tử kia đã khiến tôi biết tận hưởng, trước hết, là hơi thở của mình. Cái kho báu đang-là ấy chẳng bao giờ vơi. Càng lấy nó cứ càng đầy. Đó là duyên tôi có được sau khi chỉ nghe một buổi ĐHN nói chuyện trên Hoa Mặt Trời. Tôi biết đóa hướng dương ấy luôn cười và chỉ cho anh em, kia mặt trời đang mọc, xin hãy nở…


Đúng như nhà thơ Duyên nói trong một e-mail cho anh em, Đỗ Hồng Ngọc ảnh hưởng tới mọi tầng lớp và mọi lứa tuổi, khi họ tìm đến thơ văn ông để tùy hoàn cảnh mà rút ra được những cần thiết cho mình. Chính vì có trải nghiệm và tu tập chiến thắng nghịch cảnh, bịnh tật, ông mới có được phong thái giản dị và nói lời trầm tĩnh khiến văn chương ông có sức hút lạ kỳ. Ông hóa giải những điều buồn khổ bằng sự hóm hỉnh duyên dáng khiến nó trở nên nhẹ tênh. Rất rất nhiều người đã viết về ông, đều cảm nhận như thế, và người đọc ông cũng không phủ nhận được sức quyến rũ, thuyết phục từ những áng văn uyên áo mà dung dị ấy.


Tôi chỉ muốn góp thêm chút cảm xúc của mình khi nghe nhịp đập lang thang của một thời tuổi trẻ phập phồng cùng chiến cuộc. Thời mà tôi gọi các anh là những chàng lãng tử, của Bi Thương và Mơ Mộng. Mỗi người một cách thế để sống và tồn tại trong quãng thời gian khắc nghiệt ấy. Với ĐHN ngày ấy, là Thơ.


Một tập thơ in cách nay gần nửa thế kỷ (1967) có tên Tình Người, với bút hiệu Đỗ Nghê*, ông nói về một ước mơ,


Súng dòn

Ánh sáng lóe lên

Đạn đan trên nền trời

Thành hai chữ Việt Nam

Những kẻ tử thù nhìn rõ mặt nhau

Khóc vì mừng


Anh em

(Ước Mơ)


Định mệnh một cuộc chiến… Đã biết bao gia đình, trong một nhà anh cầm súng vì bên này, em ra chiến trường cho bên kia. Hai phía ngỡ ngàng khi súng đạn lóe sáng nhìn ra nhau anh em… Người thơ ước sao cho đường đi của súng đạn đan thành hai chữ Việt Nam, để thức tỉnh nhau còn khóc được vì mừng… Và dường như có một đau lòng, nỗi chia cắt đất nước, nỗi phân ly ý thức hệ,


Khi ta đưa các con 50 người xuống biển

Và vợ ta đưa 50 đứa lên rừng

Lòng ta đã rất đỗi băn khoăn

Có một điều gì khiến ta linh cảm…



Các con sẽ không bao giờ quên

Đã cùng sinh ra trong một bọc

Một trăm trứng

Một trăm con

Các con sẽ không bao giờ quên…



Hãy tha thứ cho nhau- tha thứ hết

Rồi nắm tay cùng gầy dựng lại quê hương…

(Tâm Sự Lạc Long Quân)


Bạn ơi, lời ước nguyện này trải qua mấy mươi năm vẫn tươi rói hiện thực tình cảnh quê hương chúng ta. Mảnh sao băng kia đã thành bụi hư vô rồi mà chưa thành tựu được một ước mơ tưởng là rất dễ dàng đối với những đứa con sinh cùng một bọc Việt Nam này! Trái tim người thơ ấy đã thổn thức gần nửa thế kỷ, và vẫn còn theo thời gian,


… Lịch sử sẽ ghi bằng những lời nói dối

Mặc kệ – chúng mình thương nhau



Cho anh, tôi dám nhìn vào mắt nhau

Không một ai cúi mặt


Nếu anh vẫn một mực chối từ

Và nhất định đòi cho tổ quốc một chiếc áo màu -dù xanh dù đỏ-

Hay khoác một định nghĩa -dù trắng dù đen-

Tôi đành nhặt một cọng cỏ rất xưa về làm tổ

Rồi khóc trên đó

Loài chim bỏ đi

(Tổ Quốc)


Nhân bản làm sao và thương cảm làm sao nỗi bé mọn trước tình yêu được gói vào tựa đề là Tổ Quốc. Thân phận khốn khổ nên lớn mãi mộng mơ, ước nguyện. Nên mới có Tình Người. Tác phẩm này theo tôi là một dấn thân của tác giả vào thời cuộc, biểu lộ một thái độ, nhân danh Con Người. Trong đó tôi thích nhất bài này,


Tôi cho mấy người mượn

Con đường độc nhất về quê nội

Để thử những quả mìn mới


Tôi cho mấy người mượn

Những nhà hàng phố xá đông đúc

Để thử lựu đạn, plastic,


Tôi cho mấy người mượn

Cửa nhà vườn tược ruộng nương

Để thử sức tàn phá của bom


Tôi cho mấy người mượn

Tuổi trẻ căng đầy nhựa sống

Làm bia thử vũ khí cá nhân


Tôi cho mấy người mượn

Ông già bà lão con nít thiếu niên

Để thử các chính sách chăn dân cai trị


Tôi cho mấy người mượn

Khối óc linh hồn

Để thử thuốc nhuộm đen nhuộm đỏ


Tôi cho mấy người mượn hết rồi đó

Xin dành lại cho tôi

Những nỗi căm hờn

Và tấm lòng độ lượng rất đông phương

(Cho Mượn)


Tôi trích trọn bài này để thấy được tất tật vốn liếng của người đã cắn răng cho mượn. Rộng lòng hay cam chịu hàm nỗi bất lực? Hỏi tức trả lời. Trước những mất mát và bi phẫn đến nỗi, tự an ủi, thôi thì coi như cho mượn! Và lịch sử cho chúng ta thấy, không lạ gì thói quịt nợ của những tên phú hộ. Và chàng, và chúng ta chỉ còn, chí ít, nỗi căm hờn thường tình. Nhưng, diệu kỳ thay, lại không thường tình chút nào, một tấm lòng độ lượng rất đông phương! Đúng là Đỗ Hồng Ngọc mà ta thấy trong những tác phẩm sau này lấp lánh bóng một thiền giả. Khởi đi từ thời gian viết bài thơ này mới hiểu vì sao mỗi ngày ĐHN mỗi cống hiến những tác phẩm đầy lòng nhân ái, vì người và thương người đến vậy. Và tôi đã nghĩ, cho đến ngày hôm nay thì chắc chắn trong ông không còn “nỗi căm hờn” nào nữa mà lồng lộng cái Đông Phương nhân bản kia. Mặc kệ tất cả, miễn là chúng mình thương nhau, ơi anh em ngọt bùi một bọc… Tôi muốn nói lại lời mà ông đã viết gần nửa thế kỷ trước, Hãy tha thứ cho nhau- tha thứ hết / Rồi nắm tay cùng gầy dựng lại quê hương… … Chợt nghe tiếng thì thầm sâu ý nghĩ / Bàn tay gầy làm dấu quê hương /…


Nhưng để kiếm một tha thứ, để quên đi, sao khó đến vậy? Hết nghiệt ngã này đến khác buộc vào cái quang gánh ốm o chữ S những oan cừu. Nên chàng và những ai kia, cứ mãi lang thang trên nghìn dặm trái tim để nhặt nhạnh những nhịp yêu thương…


Trong tập này còn có một bài thơ khác của ông, rất nổi tiếng, Thư Cho Bé Sơ Sinh, được trích dẫn và nói đến rất nhiều, mỗi người nói một chút, niềm hân thưởng của mình về nó, khiến bây giờ tôi nói một chữ nào thêm nữa thì cũng lọt vào một ý đã nói rồi, thế nên, chỉ biết nói, a, tôi cũng thích bài đó như bạn vậy. Tôi thích hình ảnh tiếng khóc của bé sơ sinh và cái cười của ông mụ (xin lỗi bác sĩ) “Vì từ nay em đã phải cô đơn. Em đã phải xa địa đàng lòng mẹ…” Tôi thấy ở đây ẩn trong tình cảm thiêng liêng -qua những việc làm đón em bé ra đời- là nét nhìn dí dỏm về thân phận con người. Một tâm hồn mẫn cảm và lạc quan. Nhà phê bình văn học Huỳnh Như Phương khi viết về bài thơ này đã nói “Thật kỳ lạ, ở tuổi 25, Đỗ Hồng Ngọc tự đặt cho mình một cột mốc thơ ca mà chính ông không dễ gì vượt qua. Ni sư Giải Nghiêm có lý khi cho rằng nhiều bài thơ và bài viết của Đỗ Hồng Ngọc về sau này dường như là một sự nối dài Thư Cho Bé Sơ Sinh”** Tới đây thì xin thưa với Nhà Thơ Lữ Kiều, ông nói về bạn ông, ĐHN là một người nghiêm túc, tôi muốn thêm, một người mơ mộng nghiêm túc, một người yêu đời nghiêm túc. Một cây viết nghiêm túc giản dị. Thế cho nên, mỗi khi nói chuyện, email với ông hay nghe ông trên những diễn đàn, cái nghiêm túc ấy không làm nặng nề mà luôn đem đến những tiếng cười thoải mái ý nhị, những vui vẻ nhẹ nhàng.


Trên nghìn dặm trái tim ấy, tôi sững sờ đến đau mênh mang, khi nghe bật lên những tiếng đập như từng tiếng đàn đang dồn dập bỗng đứt phựt. Đó là những bài thơ về La Ngà, đứa con gái yểu mệnh,


Con đã lớn lúc nào mà ba má không hay

… Ba dạy con ca dao trước khi học chữ

Con làm thơ trước khi biết nói

… Ba má nhìn con lớn lên

Thấy mình nhỏ lại

… Con đã lớn lúc nào mà ba má không hay

Cứ tưởng con còn nhỏ xíu

Đến khi con mất đi rồi

Mới biết con đã lớn

(Con Đã Lớn)


Trước mộ con còn ướt

Ba nói với bè bạn ba rằng

Từ nay hãy yêu con mình cách khác

Đừng như ba

Giấu kín trong lòng

Bởi tình yêu có bao giờ cho đủ

Có đâu sợ dư thừa…

(Tình Yêu)


Ba viết trăm lần lý lịch

Cứ mỗi lần viết đến tên con

Ba lại ngẩn ngơ

Như một kẻ mất hồn

Biết trả lời sao

Câu hỏi

Hiện con đang làm gì?

Ở đâu?

(La Ngà 2)


Ba dạy con

Mỗi ngày

Một chút

Không bài học nào

Như ba đã học

Từ con:

Nỗi mất

(La Ngà 5)


Hồi đó khi đọc xong những bài thơ này, tôi nhìn hai con mình như nhìn vào kho báu. Tôi biểu lộ một cách sôi nổi hơn tình yêu ấy, với chồng, với con, với gia đình bạn hữu quanh mình, như thể, họ hay chính mình sẽ mất đi bất cứ lúc nào, trước khi kịp làm điều gì đó cho nhịp tim nhau biết được niềm thiết tha, trọn vẹn.


Dường như tôi đã nói được điều tôi muốn nói từ lâu, với Nhà Thơ Đỗ Nghê. Điều đó nếu nói gọn, là hai chữ Hàm Ơn, những cảm xúc tôi có được khi đọc văn thơ ông.

Và ngay lúc này, khi tuổi đang vào lúc đi xuống đồi ngắm mặt trời hoàng hôn, qua những đớn đau bệnh tật, tôi tập tành tu dưỡng, đến với Thiền Và Sức Khỏe***, để học biết được Thiền định qua cách thở. Đến với Nghĩ Từ Trái Tim***, xem thiền giả kia lắng nghe mình ra sao sau khi qua đường ranh sống chết, và trái tim đã mở con đường dẫn người đến Tâm Kinh Bát Nhã. Ngẫm nghĩ rồi nghe ngóng. Nghiền ngẫm rồi ngập ngừng.**** Tôi hình dung được nỗi miệt mài tìm hiểu nghiêm túc này. Và đó là điều cần để đi vào hành trình gian nan ấy. Cái gian nan tủm tỉm một mình… thiền hành mỗi phút mỗi giây. Cũng như những lúc say đọc Gươm Báu Trao Tay. Viết, luận về kinh với một văn phong như thế thật đã kéo được người đọc ngồi lại với mình để nghe như to nhỏ chuyện trò. Ông dùng hình ảnh trong Chinh Phụ Ngâm, Chín tầng gươm báu trao tay / Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh… ví von thanh gươm báu Kim Cương trao cho người thiện tâm để truyền bá đạo giải thoát chặt đứt mọi khổ nạn kiếp người *****. Với những sách như thế đâu chỉ đọc một lần.


Có một ngẫu nhiên hết sức vui, vừa mới đây, vợ chồng em gái Khanh Minh &Wayne mời vợ chồng tôi một chuyến cruise nhân tôi vừa khỏi bệnh, em gái viết, chị nhớ đem quần áo đẹp, rực rỡ để ăn tối. Tôi tần ngần trước tủ áo, rực rỡ là thế nào đây. Chọn bộ cánh để đi dạo công viên, đi ra ngồi quán cà phê với bạn văn chương thì dễ, mình sao mặc vậy rất không suy nghĩ gì, nay nhỏ em bảo phải rực rỡ, thiệt tình… suốt buổi sáng không quyết định được gì, lúc nằm nghỉ, thường theo thói quen, khi nằm xuống giường tôi hay lấy không định một cái gì đó để đọc, tôi vớ tình cờ ra cuốn Những Người Trẻ Lạ Lùng***, và lật ngẫu nhiên, trang 58, có những dòng này, …Ở cái tuổi chín muồi đó, người ta không chỉ biết quan tâm đến mình, mà quan tâm đến những xung quanh, đến tại sao, ai đó, ở đâu, lúc nào…, nghĩa là đến phần hồn kia, người ta biết tìm cái vượt trội hơn những phù phiếm tàn phai…


…Chính cái tuổi chông chênh đó của người phụ nữ, cái tuổi có những cột mốc thì thầm, tuổi chuyển mùa như lá trên cành, từ cái bồng bột sôi nổi, sang cái nền nã dịu dàng, giản dị mà sang trọng…


Tôi bật cười la lên A! Ngẫu nhiên như thể, tôi đang thắc mắc, và có người anh ở cùng nhà, vừa kêu anh ơi, là đã nghe được cách đối phó. Vấn đề của tôi lúc ấy chẳng có gì là đao to búa lớn, chỉ là… và tôi đã biết cách chọn những bộ nào, phải rồi, chỉ có “nền nã” mới trụ được bên cạnh “rực rỡ”. Ông Đỗ Hồng Ngọc này! nói đủ khía cạnh trong cuộc sống mà ta phải chạm đến, ngoài thơ, kinh sách, y học, tâm tình chuyện đời, còn có cả, Thời Trang.


Có phải lang thang qua nghìn dặm Trái Tim mà chàng có được cái lịch duyệt đôn hậu đến thế?


Nguyễn Thị Khánh Minh

Santa Ana, Tháng 4. 2015

(bắt đầu viết sau khi mổ tháng 4. 2014, cách một thời gian viết tiếp)


*Năm 2013, tôi được Nhà Thơ ĐHN tặng một tập thơ được chụp lại, tập Tình Người- Thơ Đỗ Nghê- Bìa 4 có những dòng in: Tác giả trình bày. Bìa Lữ Kiều. Hình Cocteau. Ấn hành giới hạn dành cho bạn bè và anh em. Năm 1967.

**Huỳnh Như Phương- Thơ Đỗ Hồng Ngọc: Ẩn Hiện Giữa Cuộc Đời (Trong phần Phụ Lục tập thơ Thư cho Bé Sơ Sinh Và Những Bài Thơ Khác…)

*** Tên những tác phẩm của Đỗ Hồng Ngọc

**** trích trong Lời Ngỏ, Nghĩ Từ Trái Tim

***** trích trong trang 5, Gươm Báu Trao Tay


Source: PHAM CAO HOANG (http://blackhorseva.blogspot.com/2015...)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 13, 2015 18:24

Handing down the Precious Sword (Gươm Báu Trao Tay) 4-6

IMG_9992

Handing Down the Precious Sword (Gươm Báu Trao Tay)


Tác giả: Đỗ Hồng Ngọc


Người dịch: Giao Trinh Diệu Hạnh


4. That is the way it is but it does not appear so.

 


Once we understand “beings are not beings, therefore they are called beings,” we thought we held the password to enter the Diamond Sutra vaults, but that in fact is not the case, because that it the way it is but it doesn’t appear so.


Let’s revisit the previous episode during which the “precious sword” was being handed down. Seeing scores of people in amazement by his beyond-the-thinking language, the Buddha asked “Why is that?” Then he affirmed: “Because if a Bodhisattva still holds on to the arbitrary illusions of form or phenomena such as an ego, a personality, a being, or a life , then that person is not a Bodhisattva”.



Once again I was dumfounded! I expected an explanation from the Buddha, but what he said seemed to be of no relevance to what was said previously. May be there is something mysterious here.

Initially, I thought about the first, second and third person in singular and plural in the past, present and future as in the grammatical verbs conjugation in order to mark the relativeness between the self with the others, with time and space, but it seemed that was not the way it is! Then I thought that it might be a 3-dimensional chart and a curved line representing the time on which each individual affirms his present status in society, his connection with other “beings” at a certain point, but that still was not right either! What was it then? It took me a long time to realize it: That is the no-self state of a practitioner on his way toward liberation! The practitioner must “meditate on the emptiness of the five aggregates” (skandas) – the true no-self – in order to “overcome all ills and sufferings” [The Heart Sutra].


But he must first overcome all ills and sufferings for himself, then be able to help others to be a worthy Bodhisattva. So this is a compulsory, necessary condition in order to…


This “no-self” doctrine is rather elusive! Even if it is possible to use logic, philosophy of interdependency, of emptiness to understand the meaning of “no-self”, but it is only the result of a theoretic, conceptual body of knowledge. Here, the no-self is a state, a realm that the practitioner can perceive through a long and consistent practice, the meditation!


Meditation exists from time immemorial. When prince Siddharta was still very young, he would sit shaded under a tree to observe the laborers in the distant paddy fields, and unknowingly attained the first dhyana state.


Later, on the path of enlightenment, he studied under two of the foremost meditation masters of his time, and in a short time mastered the 8 dhyana absorptions up to the “neither perception-nor-non-perception” stage, but still did not find peace and yearned to search for a path to call his own, so he left them! It was only when he attained the ninth dhyana realm “the absorption of complete extinction of sensation and perception” that lead to the stage of “all-knowing”, to the “Buddha-hood” in which every delusion vanished. In other words, the dhyana “extinction of sensation and perception” is the only remedy to heal all inflictions and sufferings at their roots, while the previous process only treated the symptoms superficially as and where it was needed and cannot prevent the recurrence of diseases. To treat a disease at its root is to heal it thoroughly, without any risk of recurrence or post-treatment sequela.


The term “extinction” in “dhyana of extinction of sensations and perceptions” does not mean “extinguish (annihilate)” them but prevent them from development further. Destroying a tumor is not as good as preventing it from developing in the first place. Prevention is better than cure. In short, to be worthy of being a Bodhisattva, one must successfully endure this path. In other word, a Bodhisattva must thoroughly “deeply practice meditation” to attain the no-self state. He must relinquish all attachment to the illusions of form or phenomena such as an ego, a personality, a being or a life-span. He must also relinquish all discrimination, all seizing – then he can serenely stroll into the bustle of the market place of the world, immune to any affliction, without fear of being contaminated.

Fortunately, if we listen carefully, we will hear that the Buddha instructed Subhuti very precisely “The Great Bodhisattva should subdue their mind in this way”. All the Great Bodhisattvas have practiced in “that way” to control their minds. As for…“rookie” or lesser Bodhisattvas… please do not be in a hurry. We still must take steps, have patience, strive diligently and persevere … the enduring paths ahead!


“The Buddha told Subhuti”, as a reminder to all who wish to join the Bodhisattva’s path that they cannot allow themselves to skip meditation. Without meditation (or concentration) it is difficult to have wisdom. The ethical disciplines lead to concentration, concentration to wisdom, and vice versa. It is an equilateral triangle with two directions: onward and backward. In my opinion, ethical disciplines, concentration and wisdom are specific antidotes for greed, aversion and delusion; the ethical disciplines to counter greed, concentration to counter aversion and wisdom to counter delusion. If we only treat the symptoms… the disease will not be eradicated, it will recur with sequelae risks. So, in order to eradicate it and cure it thoroughly, one must combine the three remedies to foray the disease on 3 planes. If one focuses too much on concentration, one tends to be out of touch with the real world; on ethical disciplines, one tends to be too intransigent, too rigid; and with an imbalance of wisdom, one tends to brag…


In spite of this, these three healing drugs must be dosed according to the patient’s need. The “aversion type” tends to be over sentimental, easy to love, easy to suffer…

[In the case of]:

When injured, one keeps the arms

Refusing to be healed, to be cures of the poisonous inclination…

Rồi bị thương, người ta giữ gươm đao

Không muốn chữa, không chịu lành thú độc.

(Xuân Diệu)

We parted even before our meeting

My soul follows your shadow…

Chưa gặp nhau mà đã biệt ly

Hồn anh theo dõi bóng em đi…

(Hàn Mặc Tử)

then these situations are best treated by meditative concentration.


Intellectuals who always tend to accumulate and squirrel away information, proud of their “book knowledge”, are best treated firstly by wisdom in order to counter their symptom of delusion. When enlightened by wisdom, one naturally knows that one needs ethical disciplines and meditative concentration as well. Among the three remedies, meditative concentration is the most fundamental. Only by meditation can one attain the “no-self” state and the dhyana of “extinction of sensations and perceptions”, to stop discriminating and be attached to things. Lao Tzu said that enlightened persons always seem somewhat guileless, and that is because they are now different, free from all passions and have attained the perfectly content seclusion or no-rebirth state.


If in his first lesson the Buddha taught that we should eat when hungry and drink when thirsty, in order to emphasize the “ethical discipline”, then this second lesson emphasizes the “meditative concentration”. From the passage: “Then the Buddha addressed the Venerable Subhuti” … to “is not a Bodhisattva” there is a consistency in the meditative process from the sphere of desire, sphere of form and then non-form. Then one must overcome all these too, to eventually attain the dhyana of “Extinction of sensations and perceptions” which is also called the ninth dhyana absorption.


It is like a perfect exchange of martial arts sword play, movements intertwined with harmonious and unbroken transitions from visible to invisible, like trancelike flowing water or chasing clouds, until all but the essence of the art of sword remained; the performers and their moves also disappeared… and that is the ultimate move. At that moment there is no more object nor subject, when the herd as well as the herdsman cease to exist. One must experience this! Not just talk about it. That is what the Buddha taught.

Of course there are many other layers of meanings to experience before one can discover oneself. This is what is called the “infinite meanings” in Buddhist scriptures. The handing of the Precious sword symbolizes the capacity of going beyond convention and constraining. If we are still clinging, or still hold on to any fix meaning tight, then we still are dependent, stuck… how can we attain the mental state of that mind without dwelling anywhere?

Lệnh Hồ Xung’s “sword destroying tactics” in the “Độc cô cửu kiếm” (Technique of combatting alone using 9 swords) defeated 15 trained swordsmen who besieged and outnumbered him. If he used the “No More” technique (vô chiêu thắng hữu chiêu), imagine how more awesome it would be! The way towards destroying the move is only a simple step toward the technique “going beyond convention and constraint”. One day we shall be able to perceive, to discover and to be “aware” to much more layers of meanings. The important thing is to practice, to discover through experience. Only then, will we be able to understand what means “unutterable” (impossible to explain) and “unfathomable” (impossible to comprehend), where even language is not of use!


 


5. The third eye

 


Seeing that Subhuti and other participants of the assembly looked somewhat complacent with the knowledge how to subdue their minds, the Buddha hurriedly called out: “Furthermore, Subhuti…” and so startled everybody. Why, furthermore? The teaching is not yet over? Are there still important things to be learned? Yes, there are. “Furthermore, Subhuti, as to Dharma, a Bodhisattva should not dwell anywhere when he practices the virtue of giving”.

Once again I was dumfounded! As to Dharma? Which Dharma? What does it mean “not to dwell anywhere when practicing the virtue of giving”? Why in the middle of a conversation about bringing beings to extinction or on aloof subjects such as meditation, no-self, the Buddha suddenly jumped into problems of giving and begging, clothes, food and money?

While reading the scriptures, we are easily confused by the term “Dharma”. It can mean a way to do things, a method, but also is one of the 6 objects of the senses: form, sound, smell, taste, touch and dharma (phenomena). Here, this word means method. There are 6 methods of training to help become a Bodhisattva which are called the 6 paramitas (Vertues perfected to the level of transcendence): the Perfection of Generosity (Dana Paramita), the Perfection of Ethics (Sila Paramita), the Perfection of Patience (Kisanti Paramita), the Perfection of Joyous Efforts (Enthusiastic perseverance) (Virya Paramita), the Perfection of Concentration (Dhyana Paramita), and the Perfection of Wisdom (Prajna Paramita).


The perfection of generosity ranks first among the 6 paramitas. To give is the easiest act to perform, anybody can achieve it, but it is also the hardest, the toughest ordeal by anyone’s standard.

Concerning Subhuti’s two questions, how to quiet and how to subdue one’s mind, the Buddha first taught how to subdue it. To quiet it is more difficult, it will be taught later. It’s obvious that the mind is like a restive monkey, a crazy buffalo or an unruly horse. If it is not tamed first, it would be impossible for it to rest. To tame an animal means to control or to conquer it, and when it is overpowered, one can make it “quiet”. One can even send it to an uninhabited island or a deep forest, like shooting crazy elephants in former times with anaesthetic arrows in the Tánh Linh (Bình Thuận) forest so as they can be sent to Daklak to be tamed and pacified, and why not be taught to do something useful?

It is not difficult to subdue the mind but it is the basic, ineluctable step. Ethics and concentration should be enough. Ethics and concentration were familiar to all the persons who took part in this ceremony of Sword Handing, some of them were even “titled”! But why the mind is not yet at peace? Why it is still restive? Because the sedative [on the arrow point] was not strong enough, and the disease [restlessness] was not yet eradicated. It must be combined with a more powerful specific, and that is Wisdom. Ethic and concentration without wisdom are insufficient, the illness would still is at risk of relapsing. The same would happen if you try to subdue without quieting your mind.


You want to quiet your mind? It’s easy! Do not let it dwell anywhere and that’s it! To be quieted, a mind must not dwell anywhere! What a curious thing to say, but so wonderful! One must have an “empty mind”. “Facing the world with a mind that is empty, what use is Zen?” (Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền) (said Trần Nhân Tông).

To have an empty mind doesn’t mean to abandon or to be indifferent. No. The king Trần Nhân Téng had left his kingdom to become a monk at the Mount Yên Tử, but when the Chinese Nguyên army invaded his country, the monk wasn’t indifferent and didn’t leave the matter alone. He immediately descended the mountain, made military strategies and contributed to repel the aggressors. He manifested his “empty mind” by, once the war was over, washing his hands to resume his monastic life in the mountain. To be quieted, a mind must not dwell anywhere, be placid, be empty. It is as simple as that. The six Zen patriarch Huệ Năng had eavesdropped just one sentence and attained the Great Enlightenment, but why are we still embedded in ignorance? Because we are still clinging to things, accumulating them instead of letting go, forsaking or giving them away!


The Buddha still made it clearer: “Not dwelling anywhere” means that a bodhisattva should not dwell in forms when he gives, nor should he dwell in sounds, smells, tangible objects or dharma. In short, “not dwelling in forms”. To dwell means to rely upon, or to be stuck, caught up in. If one is caught up, stuck in or rely on forms while giving, one is not truly giving. If one give while being acutely aware that there is someone who gives and another who receives, that one is likely to appear on a TV show in order to launch one’s good name or to impress others, to “invest” in getting fame, benefits or even merits, then one does not truly give. The genuine way of giving is to do so without expectation, heedless of a giver, a receiver or of the given object. This is the “unattached to forms” way of giving, uncalculated way of giving, which brings …real happiness.

The poet Bùi Giáng said:

We spend our entire life painfully measuring and assessing,

Wearing out our knees by standing up and then sitting down…

(Một đời lận đận đo rồi đếm

Mỏi gối người đi đứng lại ngồi)

The way of giving preconized by the Buddha in order to access to Wisdom is the kind of “gate, gate, para gate, parasam gate” way, crossing to the other shore way, or the paramita, the perfect way of giving.

The Chinese pictograms are real fun. The pictogram “wood” (木), object of the sight, combined with the “eyes” (目), one of our 5 sense organs, will yield the word “form-appearance” (相). Until then, nothing goes wrong. But if the pictogram “mind” (心) is added to this character, it becomes 想 “perception, conception”, and from there troubles begin to arise! That is why it is said that the mind creates everything! So to subdue, to quiet the mind is of the utmost importance.


The new practitioners would look out for high mountains or deep forests to avoid seeing or being involved with worldly matters, in order to separate their minds from forms. They shun the world, cut themselves from world (but do not quit the world) in order to skip troubles or confusion. The awaken ones just light heartedly stroll around in the world like the character Đào Cốc Lục Tiên in a Kim Dung’ martial novels who was a bit soft in the head, and so used to be bossed about but changing every moment, sometimes behaving as an erudite, other times as a crazy, noisy quarrelsome individual. But when the brothers Lệnh mastered the genuine Dịch Cân Kinh, they were no longer scared of Đào Cốc Lục Tiên and became his bosom friends!

It is easy to fathom the depth of a river or a sea, but never judge a book by its cover. It looks like that, but it’s not that. To rely on “forms”, one is doomed to disappointment. The Buddha gave a specific example to explain this.


The Buddha was said to have 32 marks, then whoever has 32 marks can be called a Buddha? How many times Đường Tam Tạng misjudged people in this way! Even Trư Bát Giới and Sa Tăng were so often busy bowing down and worship the Devil!

But not the old Tôn! Bestowed with a third eye, he only needed to open ferociously his eyes to see beyond forms and take hold of people’s inner selves or their true nature! The Buddha repeated endlessly: “Don’t see me by forms, don’t follow me by sounds”! Nowadays people are cheating each other a bit too… frequently. The crafty swindles the naïve one. Advertising is sweet to the ears, marketing is pleasant to the eyes. At time, it is advisable to widely open one’s third eye!


The point is “giving without fixation on appearance, without dwelling on [the giver, the receiver and the act of giving]”. It is not about “not giving”.

Giving must be, needs to be maintained and still is necessary. “If you cannot feed one hundred persons, then just feed one of them” (Mother Theresa). One should give in the way that brings happiness to everybody, freeing them from anxiety and fear. This is this way of giving that the Buddha entrusted the Bodhisattva to teach this sutra to others, even with just “one stanza of four lines”.


Such is the “Perfection of Generosity” and the other perfections are likewise. “One must not dwell on anything while giving”, then one must not dwell on anything while practice the perfection of Ethics, not dwell on anything while practice the perfection of Forbearance, etc… One should not be attached to, nor seize upon anything not only while giving, but also when holding precepts. It is not easy! Because it is not easy that one must practice and train oneself for a long time!


6. A mind of no place to dwell on…

Once I asked a monk “Does the sentence “to dwell nowhere to generate a mind” is the most wonderful one in the Diamond Sutra?”, he gently answered “no, in the Diamond Sutra, every sentence is wonderful!”.


Indeed, I gradually realize that every word in the Diamond Sutra is wonderful, and they seem to be more and more so, above all… when they are, as Edward Conze said, applied to our everyday life. The way they were written and expounded is precise and closely woven, convincing and, in brief …attractive! I have been attracted to the Diamond Sutra as previously was attracted to the Heart Sutra. It seems that the Heart Sutra – a discourse addressed to Sariputra (the Buddha’s disciple foremost in wisdom and insight) was an ultimate answer to the “why”, with a theoretical outlook; as to the Diamond Sutra, expounded to Subhuti (the Buddha’s disciple foremost in Emptiness understanding, formerly quick tempered and irascible but now excelled in pure conduct and in being free from all passions), was meant to answer the “how” in order to guide the practice. These instructions obviously were aimed at the Buddha’s great disciples or at the monastics and not at us, so… small wonder if we are puzzled, bewildered or confused. However, being puzzled, bewildered or confused has its good points.


Thanks to these states, we’ll strive to penetrate, to discover and take part in the process of brooding on or experiencing what we are studying, and if it seems trustworthy to us, we can apply it in our daily life in order to solve countless of our inflictions or entanglements. Isn’t that nice? For example the sentence “to dwell nowhere to generate a mind” is well known to everyone, and everyone mouths it as a mantra when they need some… comfort, or when they are wearied, grieved. It was also the sentence that the 6th Patriarch Hue Nang had eavesdropped more than 1000 years ago and attained the Great Enlightenment, so it’s worth our serious pondering isn’t it! Do not dwell anywhere to give rise to a happy, joyful, contented mind, free from “all ills and suffering”. Is it really so?


Don’t dwell on anything. Dwell on nothing? Hum… that seems reasonable! When I watched a football match of two unfamiliar teams, I praised and enjoyed every fine goals or shootings, but if one of those teams happened to be “mine” (if I am their fan), then I’d be anxious, put out and annoyed with each shot, each player or referee! I’d curse, bellow or shout out then gloat over the success of my team, or grieve or bemoan if it lost the game. I’d have no desire to eat or to sleep because of that beloved… wretched team!

Two Zen students met a young girl at a deep bend of a river, and she was embarrassed, not knowing how to cross it. One of the student took on him to carry her on his back and crossed the river. On their way back to the temple, the other monk asked:

– How come that a monk can be so rash as to carry such a beautiful girl on his back?

– Dear me! I put her down long ago, why is that you are still carrying her?

There are many ways to carry. To carry a girl on one’s back is one of them, but to carry her in one’s mind is another. The girl was put down but the tantalizing thought of her still lingered on, may be would follow us well onto our dreams! The first monk saw a girl as a girl that needed help, so he helped her. But the second monk saw a … beautiful girl, worriedly wondered if it was proper to help her, if he’d thus break the rules, and who know, maybe he sadly wanted to know if it was the “fate” that brought them together! The longer one carries the wearier one feels, and the sooner one gets a hunched back. But it’s far from easy to put down! The younger sister Nghi Lâm (in one of Kim Dung’s martial novels) had carried the injured elder brother Lệnh Hồ just once but for a long time afterwards still carried him in her mind! Therefore, it is not easy to “Generate a mind that should not dwell anywhere”!


The Buddha taught that if one wants to “dwell on nowhere”, one must discard the forms, drop out all the complicated outward shows or go beyond the phenomenon’s appearance to reach the true nature inside. Discard all appearances and you are qualified to be called a Buddha. “If you can see that all forms are formless, then you’ve perceived the Tathagata!” But how to “discard”? Many go to seek refuge in caves on the mountains to discard worldly things! But they are not at peace because their minds are still disquieting. Clearly the point here is not to flee, because how can one run from one’s mind when it is all but pacified? But once it is, where is not a refuge, a cave? So one can say that if one can manage to “discard the form” from the outside to the inside, one achieves quite a transformation from quantity to quality.


“Therefore Subhuti, all Bodhisattvas, lesser and great, should develop a pure, lucid mind, not depending on sound, flavour… A Bodhisattva should develop a mind which alights upon nothing whatsoever; and so should he establish it!”

This is the way, Subhuti, the way in which Bodhisattvas must work to have a pure and lucid mind. Which way? He must leave behind all forms, and no longer discriminate ego, personality, being and life span! He must discard all kinds of phenomena and avoid being blinded by or tangled up in words or concepts, like an enmeshed fish, no matter how much it struggles, it cannot escape from the net! The great Bodhisattva practiced the virtue of giving in a new way: they gave without attachment; they practiced the virtue of discipline, the virtue of forbearance in a new way, and of course they attained a new kind of insight, in the prajnaparamita way: gone, gone beyond, gone altogether beyond!


It is said in the Vimalakirtinirdesa Sutra that once, in a gathering of Bodhisattvas, they were showered with flowers, like nowadays people throw confetti at their idols. Most of the persons present were covered with flowers, except the Great Bodhisattvas. Remember: the Great Bodhisattva! As for… incipient or lesser Bodhisattvas, it does not matter if they have a few confetti stuck on their persons. They can take a while to get rid of them. No need to hurry. The Diamond Sutra packed this in few but very eloquent sentences: Great Bodhisattvas are those who really have nothing to obtain, nothing to do. The word “really” can startle us. They understood that the Buddha’s teaching was the raft which allowed them to cross the river, and the Buddha’s finger helped them to see the moon, but was not the moon itself. In short, they did not dwell anywhere altogether, nor were they caught up anywhere. They have nowhere to dwell anymore, except the carefree, unimpeded state: [that of] the Bodhisattva Avalokiteshvara, the Bodhisattva of Carefree Observance…coursing deeply in the Prajna Paramita…!


“Facing the world with a mind that is empty, what use is Zen?” (Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền). The Trúc Lâm Zen school patriarch had mentioned about this empty mind some 700 years ago and the 6th patriarch Huệ Năng, more than 1300 years, had also broached the notion of “no thought” or “beyond the thinking”.

It is obvious that empty mind does not mean blank mind, no more than no thought means without any thought. Both terms in fact only describe a clear, pure, impartial and not clinging, grasping mind. Trần Nhân Tông still descended from his mountain to repel the Yuan army’s invasion, and after defeating them, went back to it to resume his monk life, free of all clinging. As for Huệ Năng, after enlightenment, still mingled with hunters during several decades to train himself and to help others. Therefore, one can generate a mind, so long as it is a good, beneficial one to oneself and to others. “Do not generate a mind that dwell somewhere” also means “Do not dwell anywhere but… do generate a mind”! There is no point in extinguishing it, destroying it or eradicating it and turn impassive as pebbles and stone or into an absolute half-witted! And “Later on, even pebbles and stones still need to be together!” (Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau) as said Trịnh Công Sơn.


Subhuti asked eagerly: “World Honored One ! What should the sutra named? How should we study and hold it?”

The Buddha said: “This sutra name is Vajra Prajna Paramita!”

But it seemed that after saying this, the Buddha gave a start: “beware, they would cling to [the name] and be done for!” So he went on “Prajna Paramita is not Prajna Paramita therefore is called Prajna Paramita!’


(continued)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 13, 2015 17:20

May 7, 2015

Giúp cha mẹ già vui

Giúp cha mẹ già vui

“Làm thế nào để giúp cha mẹ già được vui? Bác sĩ có những kinh nghiệm riêng gì xin chia sẻ”. Cảm ơn câu hỏi khó của bạn. Như bạn nói, khi bạn gần đến tuổi “tri thiên mệnh” thì cha mẹ đã U80. Thời gian trôi qua lúc nào đó vậy?


gia dinh 2 (hinh)


Khi mẹ tôi mất ở tuổi 94 thì tôi cũng “cổ lai hy” rồi. Tôi nhớ những năm sau cùng của mẹ tôi, bà không đi lại được nữa nhưng vẫn rất sáng suốt. Tôi thường dành thời gian ngồi cạnh bà, tranh luận đủ thứ, nhằm mục đích giúp tế bào thần kinh bà được hoạt hóa, không sớm rơi vào Alzheimer. Tôi nhớ có lần bà bảo tôi là người “ngu nhất thế gian”, vì không biết “mần ăn” gì cả, tôi cãi rằng tôi chỉ có thể “ngu” hạng nhì hay hạng ba thôi. Rồi hai mẹ con tranh luận với nhau… sôi nổi. Có lúc tôi hỏi chuyện ngày xưa đám cưới của bà ra sao, nghe nói rước dâu phải cưỡi ngựa đi dọc biển… Bà hào hứng kể rất vui. Lại hỏi duyên gì gặp Ba, nghe nói ba có thương một cô trước khi gặp bà, “Cô ấy có đẹp không?”, tôi vặn hỏi. Bà ngần ngừ một lúc rồi trả lời: “Cũng đẹp”! Có lúc tôi nhắc  chuyện thời tản cư theo Ba tôi cực khổ trong rừng, thời khó khăn ở trọ trong chùa khi Ba tôi mất, rồi nhắc những việc bà đã làm tốt đẹp cho con cháu, cho người này người kia  v.v… bà rất cảm động. Có dịp tôi đưa bà về quê thăm bà con v.v… Một hôm bà nhìn tôi hồi lâu rồi nói: Má thấy con cũng… già rồi đó! Tôi cười, mới hơn 70, già gì! Lão Lai ngày xưa tuổi này còn làm hề chọc cha mẹ vui! Dĩ nhiên tôi không quên trao đổi với bà những vấn đề về tâm linh, về nhân quả, về nghiệp báo luân hồi…Vì bạn đã hỏi “kinh nghiệm riêng” nên tôi chia sẻ vậy.


Tôi có nhóm bạn già, thường trao đổi “meo” cho nhau. Mới rồi, nhận được cái meo có kèm bài viết không biết tác giả là ai cảm thán về thế hệ chúng tôi, lứa U80 như sau: “ Các lão bằng hữu ơi, cần phải ghi nhớ chúng ta đều là những con người của cái thế hệ cuối cùng hiếu thuận với cha mẹ, lại cũng là những con người của cái thế hệ đầu tiên bị con cái bỏ rơi”. Nghe ngậm ngùi quá đỗi! Vì đâu nên nỗi? Bởi vì thế hệ trước đây của chúng tôi học Quốc văn giáo khoa thư, học Nhị thập tứ hiếu, gia đình nhiều khi “tứ đại đồng đường” (bốn thế hệ cùng sống chung dưới một mái nhà), xóm làng gần gũi, dư luận buộc ràng,  nay thì đời sống đã khác hẳn. Gia đình hạt nhân, nhiều cặp ly hôn ly dị, single mom, single dad v.v…, nhiều gia đình chỉ có một con duy nhất làm sao gánh nổi ông bà nội ngoại hai bên?  Ông cảm thán vì tương lai không xa, rồi đây các thế hệ già sẽ được nuôi trong nhà dưỡng lão, nên ngay bây giờ phải coi chuyện “con cái bỏ rơi” là chuyện bình thường, có hiếu thuận là thỉnh thoảng con cái nhớ mà đến thăm đôi khi. Bạn có nghe bài “Mới hôm qua thôi” chưa nhỉ? (https://www.youtube.com/watch?v=j60Ww...).


Tôi muốn trích thêm một đoạn trong một bức thư viết cho con của một ông lão (cũng không biết tác giả là ai, xin chân thành cảm ơn):


“… Người già sợ nhất cảnh cô đơn nên nếu các con đã hiểu thì hãy thương cho tròn. Tình thương ấy không đánh đổi bằng tấm ngân phiếu kếch xù hay quà bánh đắt tiền mà chính là… thời gian. Một lúc nào đó trong ngày mà các con thấy trống vắng thừa thãi thì hãy mang đến tặng Bố giờ phút vô nghĩa ấy! Bản chất nó vô giá nhưng lại vô cùng quý báu nếu chia sẻ đúng đối tượng… Con dư biết, sáng chiều Bố lủi thủi hết ngồi lại nằm, cô đơn bên cạnh một người trả công chỉ biết im lặng canh chừng. Nếu con đến thăm, nhớ bỏ hết công việc và lo toan ở ngoài xe trước khi vào nhà, tránh cảnh thân tâm mỗi chỗ mỗi nơi để cha con sống thật những kỷ niệm cuối đời bên nhau. Người già như Bố đương nhiên ăn nói sẽ không còn mạch lạc hấp dẫn, xin con đừng nhăn nhó… Hãy nhẫn nại ngồi nghe như thuở nuôi con còn bé, Bố đã từng chăm chú theo dõi tiếng con bi bô học nói… lặp đi lặp lại nhiều lần một chữ từ ngày này qua ngày nọ liên hồi…”.


Các nghiên cứu về người già ngày nay đề ra các cách giúp cha mẹ già được vui như sau:


 


gia dinh (hinh) * Dành thời gian ngồi bên họ, nhắc những việc xưa, như một cách tỏ lòng biết ơn, rằng nhờ họ mà mình có được như ngày nay;


 


* Chụp hình cùng cha mẹ, sưu tầm những hình ảnh kỷ niệm của gia đình từ lúc còn thơ, dán vào một album hay làm một cuộc “triển lãm” nhỏ, để gợi nhớ kỷ niệm: “ngày này năm xưa em còn bé tí teo”, hay “bé lên ba bé vô mẫu giáo”…


 


* Đưa cha mẹ đến những nơi có nhiều kỷ niệm để họ có dịp thăm lại bạn bè, kẻ còn người mất, để cùng nhắc chuyện ngày xưa;


 


* Đi thăm những bà con lâu ngày chưa gặp lại. Có cơ hội thì giúp đỡ bà con nghèo khó của ít lòng nhiều càng có ý nghĩa.


 


* Tổ chức những buổi họp mặt gia đình. Họp mặt bạn bè cùng lứa của cha mẹ. Giữ “bí mật” để tạo những bất ngờ thú vị. Đưa cha mẹ đi xem triển lãm, ca nhạc, phim, kịch nếu có thể.


 


* Sưu tầm những bản phim xưa, bài hát cũ mà họ ưa thích. Sưu tầm các bài báo, hình ảnh… về thành tích của họ trong lãnh vực văn nghệ thể thao nghề nghiệp v.v… làm thành tập tư liệu để cùng nhắc những niềm hãnh diện xưa ít ai còn nhớ!


 


* Có thể đưa họ đến những buổi sinh hoạt của nhóm người già, những câu lạc bộ, hội quán người cao tuổi, thậm chí nhóm bạn chơi bài tứ sắc, mạc chược, cờ vua, cờ tướng…


 


* Những bậc cha mẹ còn tương đối khỏe, thì nên học một trò chơi games mới, một môn ngoại  ngữ… Học như vậy làm cho các tế bào não không bị rỉ sét, các dây nối kết thần kinh hoạt hoá trở lại, sinh động trở lại vì ngày nay người ta biết tế bào não rất nhu nhuyến và có thể sinh sôi!


BS Đỗ Hồng Ngọc.


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 07, 2015 00:16

Đỗ Hồng Ngọc's Blog

Đỗ Hồng Ngọc
Đỗ Hồng Ngọc isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Đỗ Hồng Ngọc's blog with rss.