Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 107

July 5, 2015

Hội thảo Y đức

Vài cảm nghĩ của Sinh viên trong buổi Hội thảo về Y Đức


Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Tp.HCM (24.6.2015)


 


NHỮNG NGÀY CUỐI NĂM Y6

TỔ 12 LỚP Y2009A


 


Y Duc hinh Hoa phượng đỏ đã nở rộ trên những tán cây, những cơn mưa đầu hè chợt đến rồi chợt đi trong những buổi chiều vắng lặng. Những sinh viên Y khoa đã và đang trải qua những tháng ngày ôn thi Tốt Nghiệp và cả kỳ thi sau Đại học đều biết SV Y6 không có mùa hè.


Lịch thi căng thẳng, bài vở chất đống…Ngẫm nhìn lại dù đã được tôi luyện, đương đầu với mọi khó khăn, trở ngại trong suốt 6 năm học qua. Ấy vậy chúng tôi vẫn sợ.


Bầu không khi căng thẳng ấy ắt hẳn vẫn bao trùm lên những cái đầu đang nhồi nhét kiến thức…Cho đến khi chúng tôi nhận được thông tin tham gia vào buổi Seminar với chủ đề Y đức ngày hôm nay. Có thể xem như một cột mốc, một trạm dừng để chúng tôi tạm nghỉ một chút, để cảm nhận, suy nghĩ hay đơn giản chỉ là dành một thoáng để lắng lòng mình lại, để nhìn về con đường mà chúng tôi trải qua từ khi rời khỏi ngôi trường trung học phổ thông của mình, để bước qua cái tuổi 18 đẹp nhất cuộc đời vào ngưỡng cửa giảng đường đại học.



IMG_0403


Bước lên một lớp Y cao hơn là thêm một trách nhiệm lớn, và bước lên năm thứ 6 chúng tôi biết rằng mình cần phải học tập thật tốt. Những kiến thức lý thuyết lẫn lâm sàng của cả 5 năm trước đang dần gắn kết lại với nhau thành một khối thống nhất. Không còn là cách học ghi chép, thuộc lòng mà cần biết cách đặt vấn đề, tự suy luận để hiểu tường tận nguồn gốc của những kiến thức mình tiếp nhận. Có những vấn đề mà chúng tôi phải dành nhiều thời gian trong thư viện để đọc các sách Y của các trường khác, tham khảo những Y văn kinh điển, những cuốn sách gối đầu trong giới Y khoa. Hòa mình vào thế giới lý thuyết, nhưng lâm sàng với những kỹ năng và cả những kiến thức lại khác nhiều với những kiến thức trên giảng đường. Chúng tôi phải học từ những người thầy, những thầy thuốc và trong đó có cả những “người thầy” rất đặc biệt- những bệnh nhân của mình…


Là một sinh viên năm thứ 6, chúng tôi đã tiếp xúc nhiều với bệnh nhân để học để hỏi. Qua đó, chúng tôi biết được rằng, mỗi bệnh nhân mà mình gặp đều có những hoàn cảnh riêng, những nỗi niềm riêng. Và chúng tôi học được từ họ những bài học đối nhân xử thế. Tôi sẽ không bao giờ quên được khi thấy những bệnh nhân giúp đỡ nhau, cùng nhau chăm sóc cho một bệnh nhân nằm viện một mình không ai thăm nuôi. Họ san sẻ nhau từng chén cháo. Những người nhà bệnh nhân dìu bệnh nhân đơn độc ấy đi lại. Hay có chăng tôi phải nén lòng lại khi được nghe những tâm sự, được lau những giọt nước mắt của một bà cụ khi đi thực tập Ngoại khoa. Vết mổ trên thành bụng bị bong ra và vì thận trọng các bác sĩ chưa thể đóng vết mổ lại để theo dõi thêm. Gia cảnh khó khăn nhưng không nhờ cậy con cháu được, mỗi ngày tôi lại thấy bà đau đớn trong những lúc thay băng. Những giọt Betadine sát khuẩn vô tình hay những giọt nước mắt đầy cảm động. Một khoảnh khắc mà sinh viên chúng tôi phải chạnh lòng…Những “người thầy” đó đã dạy tôi biết làm một người thầy thuốc giỏi đã là khó, nhưng là một “lương y như từ mẫu” còn khó hơn gấp nhiều nhiều lần nữa.


Là một sinh viên năm thứ 6, tôi đã đi được hết quãng đường dài 6 năm học Y, đã trải qua những ngày buổi sáng thực tập ở bệnh viện, rồi trưa về giảng đường. Gắn bó cùng những đêm tối đi trực. Thỉnh thoảng, có những lúc đêm hôm trước trực cấp cứu thì ngày hôm sau phải đi thi…Nhiều lúc chúng tôi cảm thấy mỏi mệt với áp lực thi cử, rồi thoáng chốc lại suy ngẫm về cái nhìn của xã hội, những bài viết về y đức thỉnh thoảng được đăng lên các mặt báo, đôi lúc có những cái nhìn quá khắt khe với các bác sĩ, với ngành Y mà chúng tôi đang theo học. Những sự khó khăn khi giao tiếp với bệnh nhân, họ không muốn trả lời, họ không muốn cho khám, chúng tôi hiểu họ, hiểu những dòng chữ trên các mặt báo kia nhưng sao vẫn thấy buồn…đôi lúc, tự hỏi rằng, có chọn lầm đường, một con đường quá dài, quá vất vả (…).


Cuộc sống của một sinh viên y tuy nhiều vất vả nhưng thật đặc biệt. Vì có ngành học nào mà chúng tôi được học nhiều kiến thức, được tiếp xúc với nhiều mảnh đời khác nhau và trưởng thành trong suy nghĩ như ngành y, chúng tôi biết ơn ngành y và cuộc đời sinh viên của mình về điều đó! Sẽ có những lúc chùn bước và những phút giây dao động nhưng chúng tôi chắc chắn sẽ không bao giờ bỏ cuộc, chắc chắn là như vậy vì bên cạnh chúng tôi có bạn bè, có gia đình luôn động viên và có những “người thầy”. Đó là động lực để chúng tôi không bao giờ rời bỏ ước mơ và con đường của mình.


 


(Duong Phi Nguyen)


 


Từ trái: Thầy TTHoàng, Cô NTNDung, hiệu trưởng, thầy DHNgọc, thầy NDũng Tuấn, Cô NTMNguyệt... trao đổi với các sinh viên trong buổi Hội thảo Y đức 24.6.2015.

Từ trái: Thầy TTHoàng, Cô NTNDung, hiệu trưởng, thầy DHNgọc, thầy NDũng Tuấn, Cô NTMNguyệt… trao đổi với các sinh viên trong buổi Hội thảo Y đức 24.6.2015.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 05, 2015 01:04

July 3, 2015

Kinh Duy-ma-cật: BỒ ĐỀ TÂM HÀNH (phẩm 4: Bồ-tát)

Thấp thoáng lời kinh


 


4. Bồ-đề tâm hành (phẩm 4 Bồ-tát)

 


Nhắc lại Duy-ma-cật “dùng phương tiện hiện ra thân mình có bệnh”, nhân lúc có “các hàng vua quan, trưởng giả, cư sĩ, bà-la-môn, vương tôn công tử…” kéo đến thăm đã thuyết giảng: “Các nhân giả! Thân này đáng lo, đáng chán, mà nên ưa thích thân Phật. Tại sao vậy? Thân Phật tức là Pháp thân”. “Các nhân giả! Muốn được thân Phật dứt hết các bệnh của chúng sinh, nên phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.”.


Như vậy tức là xuất gia, như vậy tức là đầy đủ”.


 


Thực ra “đầy” thì có đầy mà đủ thì chưa ”đủ”! Mới là điều kiện “Ắt có”, điều kiện tiên quyết – Bồ-đề tâm nguyện- còn phải có Bồ đề tâm hành nữa! Con đường ”Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành” không dễ chút nào!


 


Bấy giờ, Phật  bảo Bồ Tát Di-lặc: “Ông hãy đến nhà Duy-ma-cật mà thăm hỏi bệnh ông ấy.”

Bồ Tát Di-lặc bạch: “Thế Tôn! Con chẳng đủ sức đảm nhận việc đến đó thăm bệnh ông ấy. Nguyên do là thế này. Con còn nhớ lúc trước, con vì vị Thiên vương ở cung trời Đâu-suất cùng quyến thuộc của người mà giảng thuyết công hạnh của địa vị Bất thối chuyển. Bấy giờ, Duy-ma-cật đến bảo con rằng: ‘Thưa Bồ Tát Di-lặc! Đức Thế Tôn có thọ ký cho nhân giả: Một đời nữa, ngài sẽ đắc quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Do đời sống nào mà được sự thọ ký ấy? Đời quá khứ chăng? Đời vị lai chăng? Đời hiện tại chăng? (…) Vậy nên con chẳng đủ sức đảm nhận việc đến thăm bệnh ông ấy.”



 


Phật quay sang bảo Đồng tử Quang Nghiêm: “Ông hãy đến nhà Duy-ma-cật mà thăm hỏi bệnh ông ấy.

Quang Nghiêm bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Con chẳng đủ sức đảm nhận việc đến đó thăm bệnh ông ấy. Nguyên do là thế này. Con còn nhớ lúc trước, con đi ra ngoài thành lớn Tỳ-da-ly. Bấy giờ, Duy-ma-cật mới vừa đi vào thành. Con liền làm lễ ông ấy và hỏi rằng: ‘Cư sĩ từ đâu lại đây?’. ‘Tôi từ đạo tràng lại đây.’Duy-ma-cật đáp. “Con ngạc nhiên hỏi: ‘Đạo tràng nào? Đạo tràng ấy là ở đâu?’(…).


Nên con chẳng đủ sức đảm nhận việc đến đó thăm bệnh ông ấy.


 


Phật quay lại bảo Bồ Tát Trì Thế: “Ông hãy đến nhà Duy-ma-cật mà thăm hỏi bệnh ông ấy.”

Bồ Tát Trì Thế bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Con chẳng đủ sức đảm nhận việc đến thăm bệnh ông ấy. Nguyên do là thế này. Con còn nhớ lúc trước, khi con trụ nơi tĩnh thất, lúc ấy, ma Ba-tuần hóa hình hệt như Đế-thích, có một muôn hai ngàn thiên nữ theo hầu, có cả tiếng âm nhạc, đàn địch ca xướng, đi lại chỗ con (…)


“Vậy nên con chẳng đủ sức đảm nhận việc đến thăm bệnh ông ấy.”


 


Phật phán với Thiện Đức, con nhà trưởng giả: “Ông hãy đến nhà Duy-ma-cật mà thăm hỏi bệnh ông ấy.”

Thiện Đức bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Con chẳng đủ sức đảm nhận việc đến thăm bệnh ông ấy. Nguyên do là thế này (…) .


 


Duymacat hinh 4 Giữa pháp hội Vườn Xoài hôm ấy có vô số các vị Đại Bồ-tát thượng thủ nhưng Phật chỉ gọi bốn vị là Bồ-tát Di Lặc, đồng tử Quang Nghiêm, Bồ-tát Trí Thế và Thiện Đức, con nhà trưởng giả… đi thăm Duy-ma-cật bệnh hẳn phải có lý do nào đó, một thông điệp nào đó chăng?


 


* Thì ra Bồ-tát Di Lặc, Maitreya, A Dật Đa (Ajita), Vô Năng Thắng… là một vị Bồ tát “Nhất sinh bổ xứ“ được thọ ký sẽ thành Phật tương lai, ở cung trời Đâu-suất, chuyên gia về “Duy thức học“, chính danh là Từ Thị – chữ Từ trong Từ, Bi, Hỷ, Xả! “Từ“ này  do hạt giống Như Lai “mọc“ ra, tự nhiên mà có. “Từ“ ở đây là “thương“, nhưng là một thứ thương không điều kiện, thương “vô duyên“, không cần một lý do nào cả, nên còn gọi là “vô duyên từ“.


 


Một thứ “thương vô duyên“, thương bao la rộng lớn, không phân biệt như vậy mà cũng chia chẽ ra “đời quá khứ, đời vị lai, đời hiện tại“ nữa hay sao? Thì vẫn có thứ tình thương chia chẽ đó, tức là tình thương có “điều kiện“. Hôm qua “đẹp“ thì thương, mai xấu, hết thương. Hôm qua “giàu“ thì thương, mai nghèo, hết thương. Cái đó gọi là tình thương “ái kiến“. Tình thương mà có “ái kiến“ thì sinh mệt mỏi! Kinh nói thế. Tóm lại, có thứ tình thương “mệt mỏi“ và thứ tình thương “sảng khoái“. Tình thương sảng khoái là thứ vô duyên từ, khi đã “thấy biết“ tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều do duyên sanh, đều có Pháp thân Phật, thân Như Lai, chỉ vì lâu nay chưa nhận ra mà đành ngụp lặn trong khổ đau, trong “luân hồi sanh tử“ đó thôi.


Tất cả chúng sinh đều là Như. Tất cả các pháp cũng là Như. Các vị thánh hiền cũng là Như. Cho đến Di-lặc cũng là Như. Nếu là Như, thì chẳng hai, chẳng khác (…). 

Bồ đề hành với tâm Từ – hạt giống của Như Lai- thì “Bồ-đề ấy, không thể dùng thân mà được, không thể dùng tâm mà được“. Dùng “thân“ là bày vẻ, là tô son trét phấn cho tình thương, dùng “tâm“ là hì hục, ráng sức mà thương… Cái thương có sự phân biệt, chia chẽ, hì hục, ráng sức… nên “mệt mỏi“ là phải!


‘Tịch diệt là Bồ-đề, vì dứt hết các tướng… Chẳng hai (Bất nhị) là Bồ-đề, vì lìa ý và pháp. Bình đẳng là Bồ-đề, vì bình đẳng như hư không. Vô vi là Bồ-đề, vì không có những sự: sinh, trụ, diệt…


Krishnamurti nói „Tình thương không phải là quá trình của tư tưởng. Ta không thể “nghĩ” đến tình thương, không thể vun trồng, không thể tập luyện được. Tập thương, tập rung động trong niềm tương thân tương ái vẫn còn trong vòng ràng buộc của khối óc, nên đó chẳng phải là tình thương. Chỉ khi nào các thứ ấy dứt đi thì tình thương hiển hiện, và lúc ấy ta mới biết thế nào là tình thương. Tình thương không phải ở phẩm mà cũng chẳng phải ở lượng.


Khi tâm rỗng hết mọi vật của trí, khi trí rỗng hết mọi suy tư thì có tình thương. Chỉ có cái không mới là vô tận. (Trúc Thiên dịch).


 


 


* Đó là Di-Lặc, Từ Thị, “vô duyên từ“ còn Quang Nghiêm thì sao? Quang Nghiêm là một đồng tử, hẳn là một vị tu sĩ trẻ, nhưng cũng có thể là một vị Bồ tát đã thành tựu nhưng có đời sống hồn nhiên, trong sáng. Đó là một đồng tử nghiêm trang và trí tuệ, tu tập tinh cần trong bốn bức tường của đạo tràng, tinh tấn, kham nhẫn, tri túc, phòng hộ các căn… Lúc trên đường từ đạo tràng về thì tình cờ gặp Cư sĩ Duy-ma-cật đang đi vào thành, ‘Cư sĩ từ đâu lại đây?’Quang Nghiêm kính cẩn chào hỏi.

 ‘Tôi từ đạo tràng lại đây.’ Duy-ma-cật đáp.

 ‘Đạo tràng ư? Đạo tràng nào vậy? Đạo tràng đó là ở đâu?’Quang Nghiêm ngạc nhiên.


duymacat hinh 6 Vì đồng tử Quang Nghiêm chỉ biết có mỗi một thứ đạo tràng mà ông thường xuyên lui tới để tu luyện.


Duy-ma-cật cũng ngạc nhiên: Ô hay! Đạo tràng thì chỗ nào mà chẳng là đạo tràng. Chỗ nào có chúng sanh thì hẳn có đạo tràng chứ. Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ ! Chỗ nào có phiền não thì hẳn có đạo tràng chứ. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn. Nơi nào càng có nhiều chúng sanh, càng có nhiều phiền não thì nơi đó càng cần nhiều đạo tràng mới phải chứ! Như vậy mới là lòng Bi rộng lớn, “đồng thể đại Bi” một khi đã nhận ra Pháp thân Phật, thân Như Lai trong tất cả chúng sanh.


“Các phiền não là đạo tràng, vì biết hết thảy như thật. Chúng sanh là đạo tràng, vì biết rằng đó là vô ngã”.


Duy-ma-cật giải thích thêm:


“Lòng ngay thẳng là đạo tràng, vì không có sự hư dối”.


Lòng ngay thẳng, “trực tâm” là sự bình đẳng, là không phân biệt đối xử (non-discremianation), ở đó  không có sự hư dối, ở đó là sự chân thành, thân khẩu ý nhất quán, không phải nói một đàng, nghĩ một nẻo kiểu “bề ngoài thơn thớt nói cười”!


Khởi làm là đạo tràng, vì có thể biện biệt được sự việc. Phải xắn tay vào việc. Vừa làm vừa học. Tu không thể là tu mù, cũng không thể là đãy sách. Tu phải hành.


Bố thí là đạo tràng, Trì giới là đạo tràng, Nhẫn nhục là đạo tràng,  Tinh tấn là đạo tràng,  Thiền định là đạo tràng, Trí huệ là đạo tràng… Từ là đạo tràng, Bi là đạo tràng, Hỷ là đạo tràng,  Xả là đạo trường….


Tóm lại thực hành Lục độ Balamat ở đâu thì ở đó là đạo tràng, thực hành Từ Bi Hỷ Xả ở đâu thì ở đó là đạo tràng.


 


Trong một giây nghĩ, biết hết tất cả các pháp, đó là đạo tràng, vì thành tựu được cái trí biết tất cả. Cái trí biết tất cả là Nhất thiết chủng trí, có được, một khi Mạt-na thức đã trở thành Bình đẳng chánh trí.


Như vậy đó, thiện nam tử! Nếu Bồ Tát dùng các ba-la-mật mà giáo hóa chúng sinh, nên biết rằng mọi việc làm của mình, cho đến những cử động nhỏ như nhấc chân, hạ chân, đều từ đạo trường mà lại, trụ nơi Phật Pháp.

* Thật là sai lầm khi cho rằng Phật giáo tiêu cực, chỉ thấy đời là bể khổ, muốn giải thoát bản thân, muốn rời bỏ thế gian. Nếu vậy thì đã không có Bồ-tát Trì Thế xuất hiện ở đây. Trì là giữ gìn, Thế là thế gian. Trì Thế vì vậy là vị Bồ-tát có trách nhiệm bảo trợ, giữ gìn, làm cho thế gian được an vui, hỷ lạc, hạnh phúc. Bên cạnh Bồ-tát này còn có sự giúp đỡ của các vị thiên vương ở bốn hướng đông tây nam bắc: Trì Quốc Thiên Vương (giúp giữ nước), Tăng Trưởng Thiên Vương (giúp phát triển). Quảng Mục Thiên Vương (giúp có tầm nhìn xa), Đa Văn Thiên Vương (giúp học nhiều biết rộng). Có thể nói Bồ-tát Trì Thế mang đến Hỷ lạc, hạnh phúc cho cõi Ta-bà và nhờ đó có thể biến Ta-bà thành cõi Phật.


 


Nói đến thế gian, không thể không có người nữ. Cho nên ma Ba tuần mới đem mười hai ngàn thiên nữ đến dâng cho Trì Thế Bồ-tát. “Xin ngài thâu nhận mười hai ngàn thiên nữ này, các nàng có thể lo việc quét tước giặt rửa.’

Bồ tát Trì Thế hoảng hốt:“Kiều-thi-ca! Tôi là sa-môn Thích tử, ông đừng yêu cầu tôi nhận những thứ không đúng với pháp tu hành. Điều đó là trái với nghi luật của tôi.’

Thế gian nhiều “ma“ lắm! Ma bên ngoài và ma bên trong. Khi Phật còn ngồi thiền dưới cội Bồ đề mà ma còn dám đến quấy rầy, toàn những ma chân dài, ỏng ẹo, uốn éo vây quanh. Phật nói: Ta không cần mấy cái túi da này đâu! thì “ma“ mới biến mất!


Duy-ma-cật đến đúng lúc: ‘Chẳng phải Đế-thích đâu! Đó là ma đến quấy rối ngài đó.’

Rồi quay sang nói với ma Ba tuần rằng: ‘Các nàng này có thể tặng cho ta. Ta bằng lòng thâu nhận.’ Duy-ma-cật sẵn lòng.

Ma Ba tuần miễn cưỡng giao các nàng cho Duy-ma-cật. Ông liền “tùy theo chỗ thích hợp mà thuyết pháp với các nàng, khiến cho tất cả đều phát đạo ý“. Rồi nói: ‘ Nay các nàng nên phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Có những điều vui theo đúng pháp để cho tự vui lấy, chẳng nên vui với năm dục nữa.’


Tự vui ấy là cái vui sâu thẳm bên trong. Tâm hoan hỷ đến khi rời bỏ các dục, ly dục. Dục thì có năm thứ (ngũ dục): danh, tài, sắc, thực, thụy.: danh tiếng, tiền tài, sắc đẹp, cái ăn, cái ngủ. Những thứ dục đó đều mang đến ưu phiền và sợ hãi. “Dục ái sinh sầu ưu, Dục ái sinh sợ hãi…”. (Pháp Cú).


Phật dạy:”Ham muốn cái danh tiếng thường tình mà không lo học đạo chỉ uổng công mệt sức mà thôi. Giống như đốt hương, khi người ta ngửi được mùi thơm, thì cây hương đã tàn rồi. Tiền tài và sắc đẹp đối với con người giống như chút mật trên lưỡi dao… đứa trẻ liếm vào thì đứt lưỡi” (kinh 42 chương).


Các thiên nữ nhao nhao hỏi: ‘Những gì là vui theo đúng pháp?

Đáp: ‘Vui thường tin Phật, vui muốn nghe Pháp, vui cúng dường Tăng. Vui lìa năm dục, vui quán năm ấm như bọn oán tặc, vui quán bốn đại như rắn độc…


Tam quy ngũ giới, thọ bát quan trai, hiểu tứ đại ngũ uẩn vô thường, khổ, vô ngã, chừng ấy đủ mang lại hạnh phúc thế gian.


 


Vui làm việc bố thí rộng lớn. Vui giữ bền giới hạnh. Vui nhẫn nhục nhu hòa. Vui siêng góp căn lành. Vui thiền định chẳng loạn. Vui lìa cấu nhiễm, tỏ sáng trí huệ. Vui mở rộng tâm Bồ-đề. Vui hàng phục chúng ma. Vui cắt đứt các phiền não…“

Chúng tôi sẽ làm gì khi ở nơi chốn cung ma?’ Các nàng hỏi.


“Duy-ma-cật nói: ‘Này các cô, có một phép tu gọi là Đèn không dứt (Vô tận đăng). Các cô nên học phép tu ấy. Đèn không dứt có nghĩa là, như từ một ngọn đèn, mồi ánh sáng ra trăm ngàn ngọn đèn liên tiếp. Những chỗ tối đều trở nên sáng, mà ánh sáng không hề dứt. (…) Các cô tuy ở nơi cung ma, hãy dùng phép tu Đèn không dứt này mà làm cho vô số thiên tử và thiên nữ đều phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.’


Tùy hỷ mà thực hiện được thì như một suối nguồn tươi mát chảy mãi trong tâm hồn. “Vui gần bạn đồng học. Vui giữa nhóm người chẳng đồng học, lòng không ngăn ngại. Vui hộ trì những kẻ quen biết xấu. Vui gần gũi những người quen biết tốt“ .


Kinh Pháp Hoa đã dành cả một phẩm cho Tùy Hỷ, dành hẳn một đoạn mô tả kẻ tùy hỷ thì « mặt sáng, mắt trong, miệng tươi, môi thơm… » tức là “thành tựu tướng hảo“  như Duy-ma-cật khẳng định. Các nàng thiên nữ từ nay không cần dùng mỹ phẩm, cũng chẳng cần giải phẫu thẩm mỹ làm chi!


* Thiện Đức là một Bồ tát tại gia, thường tổ chức  Hội bố thí, cúng dường cho tất cả sa-môn, bà-la-môn, các thầy ngoại đạo và những kẻ bần cùng, hạ tiện, cô độc, hành khất… Duy-ma-cật vào trong hội, bảo rằng: ‘Chàng con nhà trưởng giả! Nếu là hội bố thí, chẳng nên tổ chức theo như đang làm đây. Nên mở hội thí pháp, cần gì mở hội thí tài như vậy?’

“Sao gọi là Hội thí pháp?’ Thiện Đức hỏi. “Hội thí pháp là không thí cho kẻ trước người sau. Trong một lúc, cúng dường tất cả chúng sanh. Đó gọi là hội thí pháp.’ Duy-ma-cật đáp.

Nhân vì Bồ-đề, phát khởi lòng Từ. Nhân vì cứu độ chúng sinh, phát khởi tâm đại Bi. Nhân vì giữ gìn Chánh pháp, phát khởi tâm Hỷ. Nhân vì nhiếp thâu trí huệ, thi hành pháp Xả… Vì giáo hóa chúng sinh, mà khởi ra lẽ không. Vì chẳng bỏ pháp hữu vi, mà khởi lẽ vô tướng. Vì thị hiện thọ sinh, mà khởi lẽ vô tác. Do hộ trì Chánh pháp, bèn khởi sức phương tiện…


Đó là hội thí pháp. Nếu Bồ Tát trụ ở hội thí pháp ấy, đó là đại thí chủ, cũng là ruộng phước của tất cả thế gian.’.


****


Bồ đề tâm nguyện phải đi đôi với Bồ đề tâm hành. Đó là lúc vào đời, là lúc dấn thân, ngay cả khi chưa “thành tựu” bản thân. Rồi qua kết nối, qua tương tác, qua duyên sinh, con đường thênh thang sẽ ngày càng rộng mở và dĩ nhiên đòi hỏi ở đó một nghị lực không thoái hóa, không lay chuyển. “Thõng tay vào chợ” là một lý tưởng, một mơ ước, nhưng liệu sau đó có bị “chợ hóa” đi không? Trải qua giai đoạn tu thân cam go và khổ hạnh, bây giờ là lúc “xuống núi”, “hành hiệp giang hồ”, cần phải trang bị tâm thế như thế nào để không bị lạc bước, phải trang bị những “sức phương tiện”, kiến thức, kỹ năng nào để “thành tựu chúng sanh” và “thành tựu” chính mình.


Di-Lặc Bồ tát, Đồng tử Quang Nghiêm, Bồ-tát Trì Thế, Thiện Đức… Bốn vị Bồ tát đã truyền đi một thông điệp: Từ, Bi, Hỷ, Xả trên con đường thực hành Bồ-tát đạo vậy.


 


Đỗ Hồng Ngọc


(6.2015)


 


 


 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 03, 2015 06:13

June 26, 2015

Thư gởi bạn xa xôi (6.2015)

Thư gởi bạn xa xôi,


 


Trong bài viết ngắn về GS Trần Văn Khê,“Ngày trở về”, trên báo Tuổi Trẻ sáng nay (26.6.2015) tôi có nhắc chuyện GS Khê hằng năm cứ vào giao thừa thì làm một bài thơ Đường gọi là “Khai bút đầu Xuân” gởi tới bạn bè em cháu rồi mời mọi người họa vận cho vui. Không chỉ mình bạn hỏi thăm thêm về chuyện này mà có khá nhiều bạn gần xa cũng muốn được đọc những bài thơ xướng họa trong chốn thân quen đó. Tôi được biết hiện chỉ có một người cất giữ đầy đủ là nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương. Riêng tôi còn lưu giữ được đôi bài họa vận của mình để đóng góp với ông cho vui. Đó là bài Khai bút Mậu Dần (1998) của ông, lúc ông còn đang sống ở xứ người và bài Xuân Kỷ Mão khai bút tại quê nhà (1999), khi lần đầu ông được ăn Tết ở Việt Nam. Lần đó ông ở khách sạn Majestic nên đã có dịp lang thang đường Nguyễn Huệ, Đồng Khởi, Lê Lợi… được đắm mình trong cái Tết quê hương.


Dĩ nhiên đây chỉ là những “vần thơ” xướng họa mộc mạc, chơn chất, nhưng qua đó cũng thấy được tâm tình của ông.


Xin gởi bạn đôi bài xưa cũ đó,


Thân mến,


Đỗ Hồng Ngọc.


(Saigon, tháng 6.2015)



 


 


Khai bút Mậu Dần 1998

 


Khai bút đầu năm Tết Mậu Dần


Mãi chờ tia nắng để mừng Xuân


Nhờ thơ, tiết lạnh lòng nghe ấm


Có nhạc, quê xa dạ thấy gần


Ra cửa, xuất hành, đầy mặt lạ


Về nhà, chuốc ẩm, vắng ngườ thân


Dạo đàn, chấp bút, hương ngây ngất


Nhắm tới trời Nam thả mấy vần.


 


Trần Văn Khê


(Paris, 1998)


 


Chim Việt cành Nam


(họa vận của Đỗ Hồng Ngọc)


 


Tiếng cọp gầm vang cọp Mậu Dần


Dẫu ngoài ngàn dặm cũng nghe Xuân


Dập dìu phố thị mà xem lạ


Một chút giá dưa mà thấy gần


Ngọn bút hào hoa tung cánh én


Ngón đàn dìu dặt nhẹ tâm thân


Mong cho đất nước vươn mình dậy


Chim Việt cành Nam lại tỏa vần…


 


Đỗ Hồng Ngọc


(1998)


 


 


Xuân Kỷ Mão
Khai bút tại quê nhà

 


Năm nay khai bút tại quê nhà


Đất nước người thân hết thấy xa


Bè bạn mừng xuân nâng chén rượu


Cháu con chúc thọ cạn chung trà


Dạo đàn đón Tết vui câu nhạc


Cất tiếng chào xuân rộn khúc ca


Năm chục năm qua xuân đất khách


Xuân này ta tắm nước ao ta


 


Trần Văn Khê


(1999)


 


 


Chen giữa dòng Xuân


(họa vận của Đỗ Hồng Ngọc)


 


Đã bấy nhiêu năm chẳng Tết nhà


Quê người buốt lạnh bóng chiều xa


Nâng ly thảng thốt môi mềm rượu


Cạn chén sầu dâng lưỡi nhạt trà


Những tưởng rồi thôi đành lỗi hẹn


Nào ngờ còn có phút hoan ca


Giật mình thức dậy quê hương đó,


Chen giữa dòng Xuân chợt thấy ta !


 


Đỗ Hồng Ngọc


(Kỷ Mão 1999)


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 26, 2015 07:29

Vài kỷ niệm với Giáo sư Trần Văn Khê

Vài kỷ niệm với Giáo sư Trần Văn Khê

 


Năm 1997, có dịp đi tu nghiệp ở Paris, tôi đến thăm GS Trần Văn Khê theo lời hướng dẫn đường đi nước bước rất cặn kẻ của ông. Ông ở ngoại ô Paris khá xa, phải đi hai ba chặng xe metro. Nhà ở thì cao chót vót, tận từng 9, “trên đầu không còn ai nữa”, ông nói. Tôi ở chơi trọn ngày hôm đó. Ông một mình loay hoay hấp lại nắm cơm do cô Tường Vân gởi cho để hai chú cháu cùng ăn trưa. Hôm đó, tôi cao hứng lén vẽ “tốc họa” cho ông bức chân dung trên mảnh giấy lau tay, đã vậy còn làm một bài thơ thất ngôn bát cú tặng ông làm kỷ niệm. Hôm sau, ông đọc cho tôi nghe bài họa vận của ông và sau đó có nhiều nhà thơ cùng họa rất vui, nào Tôn Nữ Hỷ Khương, Tường Linh, Vân Trang, Nguyễn Hải Phương (Bố của Hải Phượng), và cả nhà thơ Huy Cận… nhắc những ngày cùng Xuân Diệu gặp Trần Văn Khê ở Sầm Giang (Mỹ Tho).


Tôi chỉ ghi lại được một số bài, xin chia sẻ nơi đây cùng bè bạn.


Thân mến,


Đỗ Hồng Ngọc.



 


TVK hinh ve


Thăm nhà Chú Khê


 


Kính tặng GS Trần Văn Khê


 


Nhà chú: chòi cao suốt chín từng


Trên đầu chỉ có gió và trăng


Rào tre rào sắt nào đâu thấy


Đàn gáo đàn dây khắp chốn giăng


Đi lại tuổi già chưa lụm cụm


Nấu nung chí trẻ vẫn say nồng


Nắng chiều rực sáng bên thềm kiếng


Nhà chú: chòi cao suốt chín từng!


 


Paris 7/1997


Đỗ Hồng Ngọc.


 


Thảo lư chín từng


 


Cháu đến thảo lư tận chín từng


Là nơi chú đón gió chờ trăng


Băng từ đầy thảm dường hoa rụng


Đàn sáo ngập tường thể nhện giăng


Ca hát vịnh ngâm còn thích thú


Sưu tầm nghiên cứu vẫn say nồng


Cám ơn cháu đã tìm thăm chú


Chẳng ngại trèo cao tận chín từng!


 


Trần Văn Khê


21.7.1997


 


Một cõi riêng cao


 


Trang họa bài “Thăm nhà chú Khê” của Đỗ Hồng Ngọc.


Thân kính tặng tác giả và nhạc sư Trần Văn Khê


 


Một cõi riêng cao chót vót từng


Tha hồ hóng gió với chờ trăng


Nắng mai, nhạc trỗi mây hồng tụ


Mưa tối, thơ ngâm lệ ngọc giăng


Lên xuống tuổi chiều chưa thấy mỏi


Đi về mộng cũ mãi thêm nồng


Bồi vun quốc nhạc, người xa xứ


Một cõi riêng cao chót vót từng.


 


Sai-Gòn gác khuya 22.7.97


Nguyễn Hải Phương


 


 


 


Anh ở cao từng


 


Bao năm Anh ở chốn cao từng


Bạn với nàng thơ với gió trăng


Kệ tủ chất đầy phim sách đọng


Tường nhà lủng lẳng dây đàn giăng


Tiếng ti tiếng trúc say hồn mộng


Dây vũ dây văn đẹp giấc nồng


Bốn biển năm châu chưa mỏi gối


Trở về Anh lại ở cao từng…


 


Tôn nữ Hỷ Khương


Tp.HCM 22.7.97


 


Lòng gởi mây cao


 


Ngọc đá vàng thau vốn đã từng


Vui buồn thoắt thoắt áng mây trăng


Giận thương nước chảy thành âm điệu


Quên nhớ tơ lòng kỷ niệm giăng


Nắn phim đơn côi nghe gió lạnh


Nhạc thơ hòa quyện ấm hương nồng


Không lơi chí cả thuyền xa xứ


Lòng gởi mây cao biết mấy từng!


 


Vân Trang


Gia Định 26.7.97


 


Tự tại


 


Lều cỏ, lầu cao vốn đã từng


Cửa hồn sáng mãi những mùa trăng


Năm cung sóng hải triều âm dậy


Tám tiết mây đài vọng xứ giăng


Hiên cúc vẫn màu hoa cũ thắm


Phòng văn còn ý thiệp xưa nồng


Xuống, lên, trên, dưới… lòng đâu bận?


Lều cò, lầu cao vốn đã từng.


 


Tường Linh


7.97


 


Chữ tình


 


Tao nhã hào hoa sống đã từng


Tiếng tơ đàn nhị lẫn đàn trăng


Đi về cố quận lòng vương vấn


Dạo khắp hành tinh trí bủa giăng


Cái nợ tài ba chưa trả hết


Chữ tình xuân độ hãy còn nồng


Tào Khê nước chảy bao giờ cạn


Có nhớ Sầm Giang nhớ mấy từng!


 


Huy Cận


1.8.97


 


 


 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 26, 2015 02:37

Giáo sư Trần Văn Khê: NGÀY TRỞ VỀ

Ngày trở về

 


Tôi gọi GS Trần Văn Khê bằng chú, chú Khê, như người trong gia đình vì từ nhỏ đã quen gọi như vậy. Chú Khê là bạn thiếu thời với cậu tôi, ông Nguiễn Ngu Í, khi hai người còn chung lớp chung trường ở Pétrus Ký ngày xưa.



TVK hinh 29.5.15 Khi được tin ông phải vào bệnh viện, tôi ghé thăm sớm vì biết ông tuổi đã cao, lại thường xuyên đau ốm. Hôm đó ông hãy còn được xếp nằm tạm bên khoa ngoại tổng quát. Nhân có mấy sinh viện y khoa đang thực tập ở đó, tôi bảo mấy em theo thầy vào thăm một nhân vật hết sức đặc biệt. Các em mừng rỡ khi biết đó là GS Trần Văn Khê vì nghe danh đã từ lâu mà chưa được diện kiến. Chú Khê hôm đó vui lắm. Ông tỉnh táo và rất hoạt bát, kể cho các sinh viên nghe trường hợp của ông bị Viêm ruột thừa hoá mủ, gây biến chứng Viêm phúc mạc được các bác sĩ Pháp thời đó chữa trị ra sao. Thật là thú vị khi thấy một bệnh nhân đang nằm viện giảng bài cho  sinh viên y khoa! Thật ra chú Khê đã học y khoa đến năm thứ hai ở Hà Nội trước khi sang Pháp.


Người đồng nghiệp, vị bác sĩ tim mạch đang thăm bệnh cho ông, đưa tôi xem kết quả ECG (điện tâm đồ) và nói: phải đặt Pace Maker mới xong. Tim ông đã loạn nhịp, có những quãng ngưng hẳn…


Hôm sau, ông đã được đưa vào khoa Săn sóc đặc biệt và dù các bác sĩ đã tận tình cứu chữa, tình trạng của ông cũng không thể hồi phục được nữa. Ông được gắn máy tạo nhịp tim, phải thở máy, phải chạy thận nhân tạo liên tục…


Nhớ những ngày căn nhà Trần Văn Khê ở Bình Thạnh luôn có tiếng cười rộn rả, tiếng đàn, tiếng sáo, giọng ngâm thơ… của biết bao bạn bè học trò thân quý quanh ông. Từ nay đã vắng bóng một ông già phúc hậu, luôn ân cần nhã nhặn với mọi người, luôn sẵn sàng chia sẻ với mọi người cái kiến thức bác học của mình, đặc biệt trong lãnh vực âm nhạc truyền thống Việt Nam.


Năm nào giữa giao thừa ông cũng có một bài thơ Đường gọi là Khai bút ngày xuân, gởi đến bạn bè em cháu gần xa để cùng họa vận cho vui. Năm nay thôi đã hết.


Tôi nhớ người em kết nghĩa huynh muội với ông mấy chục năm qua là nhà thơ quận chúa Tôn Nữ Hỷ Khương, con cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị,  năm nọ, lúc tiễn ông ra phi trường về Pháp đã buột miệng đọc mấy câu: Còn gặp nhau thì hãy cứ vui/ Chuyện đời như nước chảy hoa trôi/ Lợi danh như bóng mây chìm nổi/ Chỉ có tình thương để lại đời… Phải, “chỉ có tình thương để lại đời”. Ông mất đi, ai cũng qúy cũng thương.


Được biết Thầy Thích Lệ Trang đã chuẩn bị một tấm liễn to với bốn chữ: “Thiên nhạc vinh quy” dành cho ông trong tang lễ.


Vậy là ông đã thành tựu đạo tâm của mình, nay “vinh quy” về lại chốn xưa.


Chúc ông thượng lộ bình an.


 


Đỗ Hồng Ngọc.


(Báo Tuổi Trẻ 25.6.2015)


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 26, 2015 02:28

June 22, 2015

Bùi Thức Phước: Lưu giữ chút hồn quê

Ghi chú: Thầy giáo Bùi Thức Phước hai hôm trước đây khệ nệ mang đến tặng tôi một ôm sách văn học của thầy vừa được một nhà làm sách ưu ái cho xuất bản nhằm “lưu giữ chút hồn quê”! Thầy làm tôi cảm động quá! Mươi năm trước nghe thầy khoe sắp có bộ sách “văn học” một thời của bọn mình cho đám trẻ bây giờ được làm quen, thế mà hằng chục năm qua không ai chịu in cho thầy vì sợ ế, sách không bán được. Lần này nhờ một nhà làm sách trẻ có lòng với văn học “cổ”, thầy đã được toại nguyện. Nhớ cái thời bọn tôi, lớp Tú Tài I đã học hết đống sách văn học này, còn Tú Tài II thì học triết học với Luận lý học, Tâm lý học, Xã hội học, Siêu hình học… mà  tội nghiệp cho thế hệ con em bây giờ! Cho nên đây là một tủ sách đáng quý, đáng trọng, để đọc thêm bên cạnh bài học ở nhà trường cho con em chúng ta.


Bùi Thức Phước không phải là ai xa lạ, chính là nhà thơ Bùi Nghi Trang. Chúng tôi đã quen biết nhau gần nửa thế kỷ. Nhớ hồi đó anh than cưới vợ đã 6 năm mà chưa có mụn con, tôi bèn “tư vấn” chút xíu, anh có liền bé gái đầu lòng, rồi thừa thắng xông lên, thêm hai cu cậu nữa, nay đã là những kỷ sư, kiến trúc sư… Còn ông bạn già nhà thơ thì hom hem dần, tâm sự “bây giờ mình làm ô-sin cho lũ trẻ”. Từ ngày rời cái “chuồng cu” ở khu ổ chuột Bàn Cờ, ông về Gò Vấp, gió mát trăng thanh nên mới có dịp khệ nệ ôm đống sách đến tặng bạn hiền. Ông nói.


Bèn vui có mấy dòng gởi tới anh em,


Đỗ Hồng Ngọc.


(22.6.2015)



Bui Nghi Trang


Lưu giữ chút hồn quê

Bùi Thức Phước


Chúng tôi quen nhau từ đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, qua lời giới thiệu của Lâm Quốc Trung. Lúc ấy, Nguyễn Đình Sơn (chủ nhà sách Hồng Ân bây giờ) mới bước vào nghề kinh doanh sách; còn tôi vẫn tiếp tục nghề dạy học từ năm 1966.


Được học và lớn khôn từ nền giáo dục cũ, nay tiếp xúc với nội dung nền giáo dục “mới lạ” (nhất là nội dung các môn Ngữ Văn, Lịch Sử, Địa Lý, Giáo dục công dân) theo từng bước thăng trầm của lịch sử, tôi có đôi chút ngỡ ngàng, băn khoăn…


Tháng 7-1990, nhân phát hành cuốn truyện dài Tình thơ trên đồi sim – của tôi, bên ly cà phê ở tòa soạn báo Văn Nghệ TP.Hồ Chí Minh (đường Nguyễn Thị Minh Khai), Nguyễn Đình Sơn có nêu lên chuyện những tác phẩm được đưa vào sách giáo khoa cũ nay đã không còn. Tôi nhớ đến Bích Câu kỳ ngộ, Nhị độ mai, Trê Cóc, Lục Súc Tranh Công, Gia huấn ca,…Từ đó, tôi sưu tầm những tác phẩm văn học cổ, và lưu giữ chúng trong tủ sách gia đình như lưu giữ chút hồn quê.


Các tiệm mua bán sách cũ ngoài Kỳ Thư ở đường Võ Văn Tần, tôi còn đặt mua ở các tiệm khác dọc đường Điện Biên Phủ (quận 1), Lê Quang Định (Bình Thạnh), Nguyễn Thái Sơn, Phạm Ngũ Lão (Gò Vấp). Loại sách này thường được các nhà xuất bản Tân Việt, Á Châu, Trường Thi,… in và phát hành.Công việc âm thầm ấy cứ kéo dài theo thời gian và bất cứ nơi đâu tôi có dịp đặt chân đến.


Năm đầu thế kỷ XXI, Nguyễn Đình Sơn nhắc lại những cuốn sách xưa. Tôi cho Sơn biết rằng đã bàn chuyện ấy với một số bằng hữu là nhà giáo, nhà văn. Họ sợ rằng đối tượng đọc loại sách không nhiều, in ra sẽ bị lỗ nên không mặn mà lắm về việc sưu tầm và biên soạn lại những cuốn sách này.


Chuyến xe buýt dừng lại. Một nhóm trẻ xuống xe, vội vã dưới cơn mưa đi về hướng trường Đại học Khoa học Xã hội &Nhân văn. Tôi lặng nhìn. Sơn nhấp một ngụm cà phê rồi nói :


– Chuyện in ấn, mua bán là chuyện của em. Trong kinh doanh sách, có những việc chủ nhà sách làm không phải vì lợi nhuận.


Tôi vừa nghe Sơn nói vừa nhìn theo nhóm bạn trẻ kia, chợt lóe lên tia hy vọng rằng biết đâu trong số 100 bạn trẻ sẽ có vài bạn tìm về những cuốn sách xưa như tìm về với ca dao, tục ngữ và truyện cổ dân gian. Từ đó, tôi nhận ra sự đồng cảm của Sơn trong ước muốn lưu giữ chút hồn quê từ những tác phẩm văn chương cổ.


Sưu tầm, biên soạn, in ấn và phát hành những tác phẩm này chẳng những là lưu giữ được chút hồn quê ấy có từ nội dung của từng tác phẩm về nghĩa vua-tôi, tình cha-con, chồng vợ, tình bằng hữu, … ; về tín ngưỡng của người xưa ( Phật giáo, Khổng giáo, Đạo giáo ), mà còn lưu giữ ngôn ngữ, hình thức nghệ thuật văn chương của thời chữ Nôm đang trên đường phát triển. Nếu để những tác phẩm ấy lụi tàn thì hồn quê cũng mai một. Và thế hệ tương lai sẽ được thừa hưởng quốc sản tinh thần nghèo nàn, một truyền thống khập khiển, mất cân đối. Và nhiều hệ lụy tất yếu sẽ xảy ra từ tri thức ngôn ngữ mẹ đẻ đến đạo đức.


Và nghĩ đến những sinh viên chọn đề tài văn học chữ Nôm khuyết danh làm luận án tốt nghiệp; nghĩ đến người nước ngoài (ít thôi) muốn tìm hiểu văn học thời Trung đại của Việt Nam. Tôi mang những suy nghĩ ấy trình bày với một số nhà giáo, nhà văn quen thân.


Giữa năm 2007, chúng tôi cùng gặp Nguyễn Tôn Nhan, Phạm Đình Thống (Phạm Chu Sa) cùng một số anh em, bắt tay vào việc biên soạn để hình thành tủ sách Hồng Ân Tùng Thư nhằm cung cấp tư liệu, văn bản về tác phẩm cho bạn đọc có nhu cầu chứ không là tác phẩm văn học chuyên sâu.


Về phần mình, tự thấy sở học có hạn,tuổi đời đã ngoài bảy mươi, vào độ “già lú lẫn”, chân yếu tay run, nhưng vì luyến chút hồn quê mà cố gắng,nhẫn nại sưu tầm, chọn lọc và sắp xếp tư liệu, biên soạn từng tác phẩm, từng tác giả theo một cấu trúc thống nhất đã định cho bộ sách này như Nhà xuất bản đã giới thiệu (ở đầu mỗi tập).


Việc biên soạn mỗi tập sách theo trình tự như sau:


1- Đọc kỹ tác phẩm,tra cứu và chú thích các từ Hán Việt, tiếng Nôm, tiếng địa phương khó hiểu và tóm tắt nội dung truyện.


2- Đọc kỹ ý kiến của các nhà nghiên cứu-phê bình về nội dung và hình thức của tác phẩm được in trong các sách báo đã sưu tầm được.


3- Từ đó nêu suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về một điều nào đó có ở nội dung, hình thức của tác phẩm.


Trong ba công việc trên, dù rất cẩn trọng nhưng chắc còn chút sai sót, riêng công việc thứ hai chưa được trọn vẹn. Xin được tri ân và tạ lỗi với các vị tiền bối cùng quý thức giả có bài được trích in trong tập sách mà người biên soạn chưa thể liên lạc được để xin phép trước. Kính mong quý vị niệm tình tha thứ cho.


Bạn tôi, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc (nhà thơ Đỗ Nghê), một thời “tương tư” tiếng còi tàu (xe lửa) nên đến ga Hòa Hưng mua vé đi Biên Hòa cho đỡ nhớ khi đường xe lửa vừa mới được mở lại một đoạn ngắn từ Sai Gòn lên Biên Hòa trong thời buổi chiến tranh (Đi cho đỡ nhớ, Thơ Đỗ Nghê 1974). Tôi vốn “mê”những bài ca dao từ thuở nách kẹp cái mo cau làm cái cặp đựng giấy bút đến trường Tiểu học. Bước vào Trung học Đệ nhất cấp (Trung học cơ sở) lại vương vấn “tiếng nước tôi, bốn ngàn năm ròng rã buồn vui, khóc cười theo mệnh nước nổi trôi…”(Tình ca, Phạm Duy), lớn lên lại là thầy giáo dạy Ngữ văn nên tìm chút hồn quê trong chồng sách cũ đã cho tôi nên người biết kính trên nhường dưới, ứng xử phải chăng, làm việc lành, tránh điều dữ… Ấy là duyên nợ với đời!


Sau một thời gian dài âm thầm buồn vui, nay chút hồn quê ấy đến với bạn đọc. Xin được cảm ơn bằng hữu đã bổ sung tư liệu, cảm ơn chủ nhà sách Hồng Ân đã đồng cảm và hỗ trợ tích cực, cảm ơn Nhà xuất bản đã tạo điều kiện thuận lợi cho tủ sách Hồng Ân Tùng Thư được ra đời. Như trên đã tâm sự, sức lực có hạn, tác gia và tác phẩm văn học chứ nặng hồn quê thì khá nhiều và đồ sộ, kính mong quý thức giả tiếp tay để hồn quê nồng đượm hơn giữa thời cả nước hội nhập cùng thế giới.


 


Gò vấp cuối xuân Quý Tỵ-2013


(BÙI THỨC PHƯỚC)


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 22, 2015 03:53

June 19, 2015

Đôi điều về bản dịch Anh ngữ GƯƠM BÁU TRAO TAY

 


Ghi chú: Bản dịch Anh ngữ Gươm Báu Trao Tay  (Handling down the Precious Sword) do Diệu Hạnh Giao Trinh (Paris) thực hiện sẽ được Thiện Tri Thức ấn hành song ngữ trong thời gian tới. Diệu Hạnh Giao Trinh đã viết thêm đôi dòng như một “Lời ngỏ” cho bản dịch này.


Trân trọng cảm ơn Diệu Hạnh và họa sĩ Duy,


Và xin được chia sẻ cùng bạn bè thân hữu.


DHN.



 


 


TRANSLATOR’S INTRODUCTION


 


Like most of Dr Do Hong Ngoc readers outside of Vietnam, I began to read his writings on his blog. First I was amazed, then interested, finally I was hooked, and became his “fan”. Why so? Because a doctor and scientist who is interested in Buddhism is not a rarity but it is not common either. Above all when he expressed it in a gently humorous and beautiful style.


Once Dr Do Hong Ngoc told me that many of his friends would like his books to be translated for the younger generation living abroad, but his style is so “unique” that no one wanted to attempt it. Forever prone to be game for challenges, I was unsuspectingly willing to make a try. I chose Guom Bau Trao Tay (Handling down the Precious Sword) because it is about the Diamond Sutra, and I believe I have strong affinities with this sutra.


The Diamond Sutra is known for being very difficult, even for the “professional” Buddhists or Buddhist scholars, let alone for “new born” ones.


But Dr Do Hong Ngoc, a scientist as well as a newly Buddhist student (his words), has “decoded” expertly the difficulties in this sutra to facilitate its reach to the mass of young readers, who most of them are his students.


Prior to the “Handling down the Precious Sword”, he had studied the “Heart Sutra” and ended up writing “Thinking from the Heart”. Recently he studied the Lotus Sutra and wrote “Green are the Thousand Lotus Petals”. But he also immersed himself into meditation studies to write “Meditation and Health”. As I just learned, he is now dabbling into the awesome Vimalakirtinirdesasutra…


His writings, not really Buddhist (but still very Buddhist in nature) and not really scientific (but still scientific in his explanations) are like the leaves and blades of herbs that the physician of olden times ascended the highest mountains to gather. These crops would then be transformed into medicine, to be sampled and treat his own ailments first before sharing with acquaintances and friends.


This book is my offering to all the young Vietnamese who were born or grew up out of Vietnam, and who unfortunately do not read their mother tongue.


Translating Dr Do Hong Ngoc’s book is not an easy task.  Not everyone can  faithfully express in another language his deep love for the Vietnamese culture, his broad understanding of Buddhism (all of which coated in a light humorous yet profound style…) not to mention the countless puns that he seemed to be delighted to use.


I would like to thank my brother Vo Ta Huân to whom I am indebted for his kind help and invaluable advice, and to Dr Do Hong Ngoc’s for his patience and gentle encouragement whenever I happened to lose heart before the difficulties of this translation.


This is the first translation of Dr Do Hong Ngoc’s numerous books, and although it is well known that “translation is betrayal”, even if I I’ve been as careful as possible in not betraying the Vietnamese text, I still am responsible for any errors that may have occurred in this work.


Dieu Hanh Giao Trinh


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 19, 2015 19:01

June 18, 2015

Thấp thoáng lời kinh 3. TINH THẦN PHÊ PHÁN (phẩm Đệ Tử)

3. Tinh thần phê phán  (phẩm Đệ tử )

Phật sai La-hầu-la đến thăm Duy-ma-cật bệnh, La-hầu-la bạch Phật rằng: “ Con còn nhớ lúc trước, một số chàng con nhà trưởng giả ở Tỳ-da-ly có đi lại chỗ con ngụ, đảnh lễ con và hỏi rằng: ‘Dạ, thưa ngài La-hầu-la! Ngài là con của Phật, đã bỏ ngôi Chuyển luân vương xuất gia học đạo. Việc xuất gia của ngài có những lợi ích gì?’

“Con liền y theo pháp, nói với những người ấy về lợi ích, công đức của việc xuất gia.

“Bấy giờ, Duy-ma-cật đến bảo con rằng: ‘Dạ, thưa ngài La-hầu-la! Ngài chẳng nên nói những lợi ích công đức của việc xuất gia. Người ta có thể nói pháp hữu vi có lợi ích, có công đức, nhưng xuất gia là pháp vô vi. Trong pháp vô vi, không có lợi ích, không có công đức.


Duy-ma-cật liền đó nói với các thanh niên con nhà trưởng giả:


Các ông nên cùng nhau xuất gia, ở trong Chánh pháp. Tại sao vậy? Vì rất khó gặp Phật ra đời.’

“Những người con nhà trưởng giả nói rằng: ‘Cư sĩ! Chúng tôi có nghe Phật dạy rằng: Cha mẹ chẳng cho phép, chẳng được xuất gia.’

“Duy-ma-cật nói: ‘Đúng vậy! Các ông nên phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Như vậy tức là xuất gia, như vậy tức là đầy đủ.’.



 


Phương pháp tiếp cận dựa vào công đồng bắt đầu với Chẩn đoán cộng đồng, nhằm tìm ra các vấn đề, từ đó mà có giải pháp phù hợp. Đồng thời qua chẩn đoán cộng đồng tìm ra những nhân vật “chìa khóa”, những “chuyên gia”, xuất thân từ  cộng đồng, những “Bồ-tát tùng địa dũng xuất”, hiểu rõ vấn đề, hiểu rõ thổ ngơi, phong tục tập quán để can thiệp hiệu quả. Am-ba-pa-li, Duy-ma-cật… là những con người như vậy ở Tỳ-da-ly (*).


Các vị A-la-hán, các vị Bồ-tát đạo cao đức trọng rõ ràng không thể tiếp cận được với các vương tôn công tử, quan chức, nhà buôn, kỷ nữ… không thể dấn thân vào nơi trà đình tửu điếm ở Tỳ-da-ly để thuyết giảng lời Phật. Vậy ai đây sẵn lòng dấn thân vào chốn ác trược mà đủ năng lực giúp đỡ, hỗ trợ người khác vượt qua, không chỉ với những lời khuyên suông, lý thuyết trên mây, cao ngạo, xa cách, mà từ thực tế của cuộc sống vì Phật đạo không xa thế gian.


Cần có một thế hệ Bồ-tát mới, trẻ trung và năng động. Từ đó, các vấn đề xuất gia, thiền định, khất thực, thần thông, giới luật… được đặt ra với cái nhìn mới, với cách nghĩ cách làm mới.


 


Bảo Tích, một thanh niên con nhà trưởng giả, cùng năm trăm bạn bè ngựa xe rầm rập đến Vườn Xoài để bái kiến Phật, xin Phật chỉ dạy các “hạnh tịnh độ”. Họ đều đã phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề nhưng chưa thể “xuất gia”- hiểu theo nghĩa  từ bỏ gia đình vợ con, từ bỏ tất cả công ăn việc làm trong xã hội, để sống nếp sống đầu tròn áo vuông, ngồi yên dưới cội cây già và đi khất thực hàng ngày?


Phật dạy: “Lành thay, Bảo Tích! Ông đã vì chư Bồ-tát hỏi Như Lai về hạnh tịnh độ. Hãy lắng nghe, lắng nghe! Hãy suy nghĩ cho kỹ. Ta sẽ vì ông mà giảng thuyết.”(…)


“Muốn được cõi nước thanh tịnh hãy làm cho tâm thanh tịnh. Tùy tâm thanh tịnh, ắt cõi Phật thanh tịnh”.


DMC hinh


 


Nhắc lại Duy-ma-cật đang “dùng phương tiện hiện ra thân mình có bệnh”, nhân lúc có “các hàng vua quan, trưởng giả, cư sĩ, bà-la-môn, vương tôn công tử…” kéo đến thăm đông đủ, giữa không khí đầy xúc cảm đó, ông thều thào:


Các nhân giả! Thân này là không thường tồn, không có sức mạnh, không bền chắc. Nó là vật mau hư hoại, không thể tin vào nó được. Nó là khổ, là não, các bệnh đều tụ tập vào nó”…


Rồi khẳng định: “Các nhân giả! Thân này đáng lo, đáng chán, mà nên ưa thích thân Phật. Tại sao vậy? Thân Phật tức là Pháp thân”.


Nhưng, làm thế nào để có được thân Phật? Làm thế nào để có được Pháp thân?


Duy Ma Cật bảo: “Các nhân giả! Muốn được thân Phật dứt hết các bệnh của chúng sinh, nên phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.”


Như vậy tức là xuất gia, như vậy tức là đầy đủ”.


 


Một cách ”xuất gia” kiểu mới: phát Bồ-đề tâm, tức tâm xuất gia mà thân vẫn ở nơi trần tục: Cư trần lạc đạo! Thật ra “đầy” thì có đầy mà đủ thì chưa ”đủ”. Mới chỉ là điều kiện “Ắt có”, điều kiện tiên quyết – Bồ-đề tâm nguyện- còn phải có Bồ đề tâm hành nữa! Con đường ”Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành” không dễ chút nào!


Không đợi hỏi, Duy-ma-cật liền chỉ rõ con đường Bồ-tát hành đó:  Pháp thân Phật do vô lượng cúng dường trí huệ mà sinh ra;


Đại Từ bi phải đi với Đại Trí huệ.  “Cúng dường vô lượng” là chăm sóc, là nuôi nấng, là vun trồng, tưới bón… cho Trí huệ ngày càng phát triển, ngày càng thẩm sâu (thâm tâm). Nhưng, để có trí huệ đó, phải thực hành từng bước: giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, phải thực hành từ, bi, hỷ, xả; phải thực hành lục độ ba-la-mật bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ…


Pháp thân Phật do chỉ quán mà sinh ra... (thiền chỉ và thiền quán), con đường Thiền Phật giáo, không thể thiếu sót. Nhờ đó mà có sức phương tiện để thực hiện Từ Bi, nhờ đó mà có tam minh, lục thông, mà vẫn không rời ba mươi bảy phẩm trợ đạo, những bước đi căn bản của Bồ-tát hành.


Duy-ma-cật là một hình mẫu của thế hệ Bồ-tát mới này. Tuy là cư sĩ nhưng ông:


“kính giữ luật hạnh thanh tịnh của bậc sa-môn,


tuy ở tại nhà, mà chẳng vướng vào ba cõi.


Thị hiện có vợ con, mà tu hạnh thanh tịnh;


phục sức đồ quý báu nhưng dùng các tướng tốt là để trang nghiêm thân mình,


lấy niềm vui hành thiền làm món ăn ngon,


đến nơi cờ bạc để hóa độ người.


Vẫn thọ học các đạo khác, mà chẳng bỏ chánh tín.


Rành sách vở thế gian, mà thường hâm mộ pháp Phật.


Tham gia kinh doanh làm ăn lợi lộc mà chẳng lấy đó làm vui.


Dự vào việc chính trị, mà cứu hộ tất cả chúng sanh.


Thậm chí vào chốn lầu xanh, để chỉ rõ chỗ tội lỗi của sắc dục, vào quán rượu để hướng thiện cho những người nghiện ngập…”.


 


Các vấn nạn được đặt ra: Thuyết pháp là gì? Cho ai? Cách nào? Để làm gì? Thiền có phải là ngồi yên hằng giờ dưới cội cây không? Khất thực có phải là đi “xin ăn” không? Giới luật là gì? Pháp thân Như Lai và hóa thân của Phật có phải là một?…


 


Các đại đệ tử Phật hơn ai hết từ lâu đã suy gẫm, ray rứt, băn khoăn về những điều này. Đã đến lúc cần phải thay đổi, nếu không sẽ là một dính mắc, xơ cứng.


Một tinh thần phê phán, phản biện rất đáng được trân trọng.


1. Về Thiền định:


Không phải cứ ngồi yên là thiền. Không phải cứ ngồi trong rừng dưới gốc cây suốt ngày mới gọi là ngồi thiền.


Thiền là “Không dính mắc tam giới mà thân tâm vẫn sinh hoạt mới là thiền.


Hiện các oai nghi mà không rời diệt tận định mới là thiền.


Làm mọi việc như kẻ phàm phu mà không xao lãng đạo pháp mới là thiền.


Tâm không trụ trong mà cũng không trụ ngoài mới là thiền.


Trước bao nhiêu tà kiến, bao nhiêu dị thuyết, bao nhiêu chuyện mê tín, hoang đường mà tâm không bị lay động, không bị mê hoặc, cám dỗ, xiêu lòng, vững tâm trong 37 phần trợ đạo, mới là thiền.


Không khởi tâm đoạn trừ phiền não mà vẫn có Niết bàn, mới là thiền”.


Hơn ngàn năm sau, Lục Tổ Huệ Năng bảo: “Thiện tri thức, sao gọi là Tọa Thiền? Trong pháp môn này vô chướng, vô ngại, bên ngoài đối với tất cả cảnh giới thiện ác tâm niệm chẳng khởi gọi là Tọa, bên trong thấy tự tánh chẳng động gọi là Thiền.

Thiện tri thức, sao gọi là Thiền Định? Bên ngoài lià tướng là Thiền, bên trong chẳng loạn là Định. Ngoài nếu chấp tướng, trong tâm liền loạn, ngoài nếu lià tướng thì tâm chẳng loạn. Bản tánh tự tịnh tự định, chỉ vì thấy cảnh chấp cảnh thành loạn, nếu người thấy mọi cảnh mà tâm chẳng loạn, đó là Chơn định vậy”.


2. Về Thuyết pháp:


Phải nắm bắt thật đúng đối tượng thì “thuyết pháp” mới có hiệu quả. Nhưng, như Phật dạy “Ta chẳng có pháp gì để thuyết cả!”.  Vì “Pháp thuận với không, tùy theo vô tướng, ứng với vô tác. Pháp lìa khỏi tốt và xấu. Pháp không có thêm và bớt. Pháp không có sinh và diệt…Tướng pháp là như vậy, há thuyết diễn được sao?”. Phàm nói pháp phải nói pháp “NHƯ” của pháp. Luận đến chỗ cứu cánh của thuyết pháp thì người nói không nói gì hết, không phô bày gì hết. Người nghe không nghe gì hết và không được có một sở đắc nào. Như nhà ảo thuật thuyết pháp với người ảo hóa. Nên lập xong cái ý niệm ấy rồi mới thuyết pháp…”.


Chư pháp không tướng. Bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.  Lục tổ Huệ Năng nói: “Thiện tri thức, đạo cần phải linh động, chớ nên làm cho ngăn trệ. Tâm chẳng trụ pháp thì đạo được linh động, tâm nếu trụ pháp, gọi là tự trói”.


3. Về Khất thực:


“Không phải vì ăn mà khất thực thì mới nên đi khất thực”. Khất thực “nhằm hoại diệt cái thân tướng hòa hiệp này mà nhận lấy thức ăn nắm vắt. Phải sử dụng cái ý tưởng không thọ nhận, mới thọ nhận thức ăn…Biết tướng của các pháp như huyễn, xưa vốn không sanh cho nên nay không có diệt. Người khất thực ở nơi vật thực có tâm bình đẳng, ở nơi các pháp cũng có tâm bình đẳng. Ngược lại, ở nơi các pháp có tâm bình đẳng, ở nơi vật thực cũng có tâm bình đẳng. Khất thực được như thế, người khất thực mới xứng đáng nhận lấy vật thực của người thí chủ cúng dường. ”Bỏ nhà giàu để đến nhà nghèo mà khất thực là có lòng từ bi, nhưng lại chẳng rộng khắp. Hãy trụ nơi pháp bình đẳng, theo thứ tự nhà cửa mà đi khất thực. Vì chẳng ăn, mới nên đi khất thực…”


Khất thực là tạo duyên cho người bố thí đoạn trừ lòng tham, nêu gương tri túc, kham nhẫn. Người đi khất thực tâm trí bình đẳng, trừ ngã mạn, trừ lòng tham…


4. Về Thần thông:


“Chỗ thấy của thiên nhãn là tướng tạo tác hay tướng không tạo tác? Giả sử là tướng tạo tác, thì cũng như năm phép thần thông của ngoại đạo. Nếu là tướng không tạo tác, tức là vô vi. Như vậy, chẳng nên thấy.’

Có vị thiền sư ngoại đạo thách Phật dùng thần thông đi trên mặt nước để qua sông,  Phật hỏi ông mất bao nhiêu năm để có thần thông này? – 30 năm! Phật bảo tôi chỉ cần 3 xu đi đò là qua sông được ngay!


Thần thông tốt nhất là thấy… thân vô ngã và pháp vô ngã, như hai cánh chim hồng chim hộc sãi bay giữa bầu trời. Thấy biết vô thường, khổ, không, vô ngã, duyên sinh, vô tướng thực tướng… mới là thần thông chân chánh. Từ đó mà có “lậu tận thông” vậy!


5. Về Giới luật:


“Tâm tướng mà được giải thoát, há còn có sự dơ nhớp nữa chăng?”.

“Tâm cấu cho nên chúng sanh cấu. Tâm tịnh thì chúng sanh tịnh. Tâm cũng không ở trong, không ở ngoài, không ở chặng giữa. Tâm vốn đã NHƯ, tội cấu cũng NHƯ và các pháp cũng NHƯ. Tất cả không vượt ngoài tánh NHƯ… Tất cả các pháp sinh diệt chẳng ngừng, chúng như ảo hóa, như lằn chớp. Các pháp đều là vọng kiến, như chiêm bao, như nháng lửa, như mặt trăng dưới nước, như hình trong gương. Chúng đều do vọng tưởng mà sinh ra. Ai biết như vậy, gọi là người phụng trì giới luật”.


6. Về Pháp thân và hóa thân:


Thân của Như Lai là pháp thân, chẳng phải là thân do ái dục sinh. Thân của Phật là hóa thân, thị hiện để độ thoát chúng sinh.

Một khi Phật đã thị hiện nơi cõi Ta bà đầy ác trược này để thi hành pháp giải thoát chúng sanh thì Phật cũng phải… bệnh và cũng phải… uống sữa như chúng sanh, cũng như sau này phải già phải chết như chúng sanh với tấm thân tứ đại ngũ uẩn chứ!


Cái tồn tại vĩnh hằng chính là Pháp thân Phật, cái thân Như Lai đó vậy.


 


***


 


“Trực tâm” – cái tâm bình đẳng, không phân biệt – phải là điều kiện tiên quyết của Bồ-tát đạo. Từ cái tâm bình đẳng, không phân biệt đó mà có sự tôn trọng con người, biết ai cũng là Phật sẽ thành như Bồ-tát Thường Bất Khinh, có sự chân thành để “ai thấy cũng vui, ai gặp cũng mừng” như Bồ-tát Dược Vương và có sự thấu cảm, đại từ đại bi, nghìn tay nghìn mắt như Bồ-tát Quán Thế Âm… Có cái tâm không phân biệt đó thì mới có thể “vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai”. Phải thấy Pháp thân Phật là thân Như Lai, thấy Phật với chúng sanh đều có Pháp thân không khác, chỉ khác ở chỗ giác ngộ và chưa giác ngộ trên bước đường tìm ra chân lý. Đó cũng chính là con đường của Pháp môn Bất nhị (không hai) bất khả tư nghì.


 


Xá-lợi-phất, Phú-lâu-na, Ca-chiên-diên, Mục-kiền-liên, Ca-diếp, Tu-bồ-đề, Phú-lâu-na, A-na-luật, Ưu-ba-ly, A-nan… đều đã xuất sắc trong buổi giảng dạy bằng phương pháp sắm vai (role playing) này, một phương pháp giáo dục chủ động (active education) thường được Phật dùng để dạy cho các đệ tử mình cũng như khuyến khích họ phải luôn phản quan tự kỷ, phải có tinh thần phê phán, nhờ đó mà Phật pháp luôn phù hợp với sự phát triển của xã hội con người.


“Này các Kalama, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì kinh điển truyền tụng; chớ có tin vì lý luận suy diễn; chớ có tin vì diễn giải tương tự; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình…”


(Kinh Kalama, Thích Minh Châu dịch).


Duy-ma-cật được nhắc tới như là một cái cớ, một “phương tiện thiện xảo” để các Đại đệ tử sắm vai lần lượt trình bày những phản biện của mình về những vấn nạn bấy nay ray rứt trên con đường phát triển Phật đạo.


Phật tủm tỉm cười. Không nói.


 


Đỗ Hồng Ngọc


(5.2015)


………………………………………………….


 


(*) Xem “thấp thoáng lời kinh 1,2″, báo Văn hóa Phật giáo Số 225 và 226


 


 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 18, 2015 21:47

June 12, 2015

thơ Trần Vấn Lệ: Mai Kia Mốt Nọ

Mai Kia Mốt Nọ

Người già ở Nursing Home, xung quanh bè bạn lại buồn, là sao?  Không ai nói một tiếng nào, người quen thăm chẳng cười chào cho vui…


Phải chăng đây chẳng cõi người?  Sáng không thấy ánh mặt trời chiếu ngang…Tối thì chỉ ánh điện vàng, cô y tá nhẹ bước bàn chân bay…


Tôi thăm bạn vào ở đây, ai thăm tôi nhỉ một ngày mai, kia?  Hộp quà, tôi bảo bạn chia, bạn đưa tay nắm để về một bên…


Tôi dìu bạn tôi đứng lên, xin phép y tá ra hiên ngó vườn.  Lần đầu tôi níu khói sương, níu bàn tay bạn, níu hồn của tôi…


Góc sân, hai đứa tôi ngồi, ngôi nhà thủy tạ bèo trôi dưới gầm.  Bạn không nói, nhìn xa xăm, tôi như có nói cũng gần như im…


Ba mươi phút, không thể thêm;  đồng hồ tôi lấy ra xem…hết giờ!  Đưa bạn vào lại lối mơ, đưa tôi về lại chỗ mờ khói sương…


Đi thăm bạn, tôi, không thường.  Nursing Home đó, bạn buồn…Trời ơi!  Tôi ra xe, hạ kính, ngồi, Mai kia mốt nọ, khứ hồi ngẩn ngơ…


 


Trần Vấn Lệ


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 12, 2015 17:55

June 6, 2015

Giới thiệu trang “Hỏi bác sĩ Nhi Đồng”

Giới thiệu trang “Hỏi bác sĩ Nhi Đồng”

http://www.hoibacsinhidong.net/


https://www.facebook.com/Hoibsnhidong


Do bác sĩ Trương Hữu Khanh, bệnh viện Nhi đồng 1, Tp.HCM sáng lập và phụ trách là một trang Web và Fanpage đáng tin cậy, nhằm giúp giải đáp thắc mắc của các ông bố bà mẹ trong việc nuôi con, chăm sóc con.


Đúng như bác sĩ Trương Hữu Khanh đã công bố, “Hỏi bác sĩ Nhi Đồng” là trang tư vấn sức khỏe, nhằm góp phần chăm sóc bảo vệ và nâng cao sức khỏe trẻ em chớ không phải để chẩn đoán và điều trị, không thay thế người bác sĩ trực tiếp thăm khám, chẩn đoán và chữa bệnh cho trẻ.


Vậy các thân hữu trang www.dohongngoc.com từ nay khi có các thắc mắc gì về sức khỏe trẻ em, vui lòng gởi câu hỏi đến “Hỏi bác sĩ Nhi Đồng” để được tư vấn nhé.


Cảm ơn BS Trương Hữu Khanh và trân trọng giới thiệu đến các thân hữu,


BS Đỗ Hồng Ngọc


(7.6.2015)



 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 06, 2015 19:58

Đỗ Hồng Ngọc's Blog

Đỗ Hồng Ngọc
Đỗ Hồng Ngọc isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Đỗ Hồng Ngọc's blog with rss.