Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 106

August 5, 2015

viết cho NGUYỄN BẮC SƠN

 


Chân Không

gửi Nguyễn Bắc Sơn


 


Thơ ngươi hào khí ngất trời


Hơi men ngất đất hơi người ngất ngây


Từng phen ta đọc mà cay


Thương người thơ sống một đời cực Đông


Một gùi đầy ắp chân không


Lênh đênh xuống núi giữa mênh mông người…


 


Đỗ Hồng Ngọc



thủ bút Nguyễn Bắc Sơn

thủ bút Nguyễn Bắc Sơn


 


 Ngàn khơi

Trùng bọt biển tấp chìm vào chân sóng

Em là chim bay thoát tới trời xa

(Nguyễn Bắc Sơn)


Tôi chưa gặp người thi sĩ ấy một lần

nghe qua bạn bè kể nhiều huyền thoại

mới năm ngoái Đặng Tiến nhắn tôi

vẽ bìa cho tập thơ Nguyễn Bắc Sơn

người con gái sẽ in. chờ hoài chưa thấy


sáng sớm dậy đọc e-mail Đỗ Hồng Ngọc

cho hay Nguyễn Bắc Sơn vừa mất ở

Phan Thiết. quê nhà. Phan Thiết. nơi năm xưa

tôi có nhiều lần ra. gió biển mặn. nhớ mùi

nước mắm trong những chiếc vại thật lớn


nhớ lần ra dự đám cưới Hải Phương và Quận

những năm sáu mươi. thanh bình thơ mộng…


sao tôi chưa được gặp thăm người thi sĩ ấy

một lần. chỉ đọc những bài thơ hào sảng

của anh. như một dấu ấn Nguyễn Bắc Sơn

những người bạn thân đã viết về anh, nhiều

bài báo đã viết về anh. sáng sớm dậy được

tin anh mất. tôi chỉ biết ngồi im. ngậm ngùi


chào vĩnh biệt người thi sĩ tôi hằng yêu quý

chào Phan Thiết biển sóng ru anh ngàn khơi…


Virginia, August 4, 2015

Đinh Cường


Bìa tập thơ Nguyễn Bắc Sơn (chưa in) do Đinh Cường trình bày.

Bìa tập thơ Nguyễn Bắc Sơn (chưa in) do Đinh Cường trình bày.


 


Mời đọc NGUYỄN BẮC SƠN, bài viết của Đặng Tiến


https://tranthinguyetmai.wordpress.co...


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 05, 2015 22:09

August 3, 2015

August 2, 2015

Thư gởi bạn xa xôi (8-2015)

Thư gởi bạn xa xôi (8-2015)

Cám ơn bạn đã nhắc nhở, nếu không, mình càng ngày càng có vẻ lười ra. Quả thật, “làm biếng” là sướng nhất đời bạn ạ! Hèn chi mà ông Tổ nghề y của mình tự xưng là Hải Thương Lãn Ông: ông già lười ở làng Hải Thượng!


Chuyện “linh tinh” thì nhiều lắm. Ngoài những buổi đi “tào lao” với nhóm này nhóm nọ, nơi này nơi kia, đề tài này đề tài khác, mình sẽ kể bạn nghe vào một dịp khác. Hôm nay có vài chuyện vui vui, mới thôi.


Kể nghe nhe.


Đỗ Hồng Ngọc. 



 


1.  (26.7.2015)


A DI ĐÀ PHẬT

Kính thưa thầy!


Mail này được viết từ miền hải đảo Lại Sơn thuộc một hòn nhỏ trong tỉnh Kiên Giang.


Cách đây 9, 10 năm, con có dịp mua được những quyển sách của thầy trong đó có: Già ơi… chào bạn, Cành mai sân trước, Nghĩ từ trái tim, Thầy thuốc và bệnh nhân. Con rất thích những quyển đó. Vì không có điều kiên nên mãi đến hôm nay con mới được vào đất liền và mua được vài quyển sách khác của thầy.


Đọc được nửa quyển “Nhớ đến một người” của thầy thì trong lòng con muốn gửi thầy vài điều gì đó na ná như tri ân, như ngưỡng mộ, như trân kính…


Cuối cùng con chỉ biết kính sức khỏe thầy vô lượng an lạc và để thầy biết nơi góc trời hải đảo…có một chú tiểu kính trân trọng những tác phẩm của thầy, tâm hồn thầy lắm.


Con kính ghi


Thích Nữ H.N


 


(28.7.2015)


Đa tạ Thích Nữ H.N. Không ngờ ở một hải đảo hẻo lánh xa xôi tận miền Nam nước Việt lại có một chú tiểu lâu lâu mới có dịp vào bờ mà chịu đọc nhiều sách như thế.  

Đọc email của chú, tôi rất cảm động.

Chú có thể vào www.dohongngoc.com để đọc thêm nhiều bài mới ở đó nhé. Mong có dịp nào chú về Tp HCM (Saigon) thì được gặp chú để trò chuyện và ký tặng chú vài quyển sách mới.

Chúc chú luôn an lạc thân tâm nhé,


Do Hong Ngoc.


 


(29.7.2015)


Kính thưa thầy!


Nhận được mail thầy con mừng lắm. Con không biết là địa chỉ mail của thầy có còn dùng không và một điều con thắc mắc là con không biết con có duyên được đọc mail trả lời của thầy hay không… Giờ thì con đã chắc là con có duyên với thầy rồi. Chắc năm sau con mới có dịp về Sài Gòn. Mấy năm trời con mới vào bờ một lần, nhưng lần đến Sài Gòn này con nhất định sẽ kính gặp thầy.


Nơi con ở không có điện quốc gia. Mỗi ngày máy phát điện tư nhân sẽ phát lúc 8h30 sáng đến 11h trưa thì tắt. Buổi chiều sẽ phát điện lúc 3h30 đến 11h đêm thì trả về cho bóng tối. Mạng internet cũng hụp lặn như điện vậy đó. Những ngày mưa gió thì không tài nào xài wifi được hết. Con sẽ tranh thủ vào trong www đó đọc sách của thầy nhưng con thích cầm trên tay quyển sách hơn là đọc trên mạng. Có cầm được quyển sách, lật từng trang từng trang thì mới  nhấm nháp  được cái thú đọc sách của con, và nhất là cái mùi sách cũ,…nó thơm làm sao ấy. Hồi còn đi học, con thích vào thư viện huyện để đọc sách, vì trong thư viện đó toàn sách lâu đời, ít người tới đọc nên sách bốc mùi nguyên chất của thời gian. Con hay khen thư viện thơm mùi sách quá. Cô giữ thư viện cứ tưởng con chê sách mốc.

Hiện nay con sống nơi biển đảo thì đành phải đọc sách kiểu hụp lặn trên vi tính rồi.


Con cầu nguyện Tam Bảo bảo hộ cho thầy nhiều sức khỏe để thầy tiếp tục yêu cuộc đời, yêu cái đẹp và mang tình cảm ấy đến với đời.


Con kính ghi


Con rất tri ân thầy!


 


(31.7.15)


Thầy hơi ngạc nhiên, sao Thích nữ H.N lại gọi mình là … “chú tiểu” nhỉ? Thầy nghĩ chắc phải là một Ni-cô chứ?


À, H.N mê sách đến thích nghe mùi mực, mùi mốc… như vậy là tốt lắm. Hiếm có. Điện vậy là tốt rồi đó. Đêm trăng sẽ thấy đẹp hơn.


Thầy không biết hải đảo đó có được mấy chùa? có đông dân cư không? nhiều Phật tử không? Chùa H.N đang trú có nhiều ni không? Nếu được H.N cho biết thêm chi tiết nhé. Hình như đó là một huyện đảo? có cả thư viện? cách bờ bao nhiêu hải lý?


Chúc an lạc,


ĐHN.


 


(2.8.2015)


Nam Mô A Di Đà Phật

Kính thưa thầy!

Con kính mong thầy được nhiều sức khỏe và nhiều hỷ lạc.

Nơi con ở là Chùa Hải Sơn nằm trên hòn  Sơn Rái, thuộc một trong số những hòn trong vùng vịnh Thái Lan. Chỉ cách bờ Rạch Giá 53km và diện tích hòn chỉ có11,5 km2. Dân vùng này khoảng 8000người. Chùa thì chỉ có 1 chùa Hải Sơn (chùa ni) là được công nhận hợp lệ. Trên núi cao 405m (cao nhất so với các hòn trong khu vực biển đảo tây nam) có một chùa của sư ông Bác. Sư ông sống một mình, năm nay 89 tuổi mà vẫn leo núi gùi thức ăn.

Chùa con ở thì chỉ có sư cô lớn 60tuổi và con 33 tuổi. Con tự thấy mình lúc nào cũng chỉ như “hạt muối” đối với biển kiến thức và biển pháp Phật nên chỉ thấy mình là “chú tiểu” thôi. Đọc sách của thầy con học hỏi và ngưỡng mộ nhiều vị mà thầy giới thiệu, con càng thấy mình là chú tiểu nhỏ cần học hoài học mãi đó thầy!

Ở đây Phật tử quy y thì nhiều nhưng đến chùa thì khoảng vài chục vị thôi thầy à.

(…)

Năm 2012 con đang học lớp nâng cao tại học viện Vạn Hạnh, năm đó con làm cuộc cách mạng đời mình và bị hoa cỏ mây, cỏ bâng khuâng, núi rừng Lại Sơn… đã níu chân con đến hôm nay đó thầy. (…) Con mê biển, mê rừng, mê từng cọng cỏ lùm cây…

Ngoài này không có thư viện đâu thầy. Dân ở đây còn nhận thức thấp và thấy thương họ lắm. Quê con ở huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long. Con đạp xe 2cây số , qua một con sông thí mới tới được thư viện huyện. Còn ra đây thì sách không có ai bán mà mua, không ai đọc để mà bán. Thế là con tương đối nghèo và đói sách. Lâu lâu dành dụm được ít tiền thì gửi ai đó tìm mua sách gửi ra giùm. Sống đơn giản mà bình yên lắm ạ!

(…)

Con nguyện cầu Tam Bảo bảo hộ thầy nhiều bình an.

Con kính ghi.


…………………………………………………………………………………………………………………………….


2. Bạn nhớ cô nhà báo Thúy Hà không? Trước cô làm ở trang Y tế của báo Tuổi Trẻ, rồi báo Phụ Nữ, mấy năm nay theo chồng qua sống bên Mỹ, đã có 3 con, đứa lớn đã 20, đứa bé mới lên 3. Hồi làm trang Y tế, cô thường xuyên làm việc với bọn mình ở Trung tâm Truyền thông – Giáo dục sức khỏe, nay cô có dịp về thăm nhà, hẹn gặp. Cô hỏi mình có facebook không? Không. Cô nói trên facebook, nhóm bạn tụi em nói về cuốn sách Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng của anh. Em đã có 3 đứa con ở bên Mỹ mà vẫn cứ phải đọc lại. Bạn em thì con đã 18, 20 rồi mà nói gần như thuộc lòng. Bây giờ tuy đầy sách dạy nuôi con, thông tin tràn ngập trên mạng nhưng không có sách nào như “Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng” của anh. Con có chuyện lớn chuyện nhỏ gì, cứ lật sách ra đọc thì sẽ yên tâm, biết phải xử lý thế nào cho tốt nhất…


Vui chớ, phải không?


ĐHN


(29.7.2015)


thuyhabpn@….


subject: Trang facebook tụi em nói về Viết cho các bà mẹ sinh con đầu lòng.


Đây là mấy trang facebook tình cờ tụi em cùng bày tỏ sự yêu quý cuốn sách của anh, cả bài thơ xúc động về La Ngà, như duyên kỳ ngộ…


Screenshot_2015-07-29-14-01-04 Screenshot_2015-07-29-14-00-10 Screenshot_2015-07-29-14-00-20 Screenshot_2015-07-29-14-00-36 Screenshot_2015-07-29-14-00-45 Screenshot_2015-07-29-14-00-57


 


 


 


 


 


 


 


…………………………………………………………………………………………………………………………….


3. (29.7.2015)


Tình cờ gặp HTH ở chùa Xá Lợi, em nhận ra mình và nói lúc nhỏ em bị bệnh “đái huyết sắc tố” do thiếu men G6PD rất nặng, gia đình đưa vào phòng Cấp cứu bệnh viện Nhi Đồng 1 do mình phụ trách lúc đó, và mình đã trực tiếp chữa cho em. Khi em được xuất viện, mình còn ghi vào Sổ khám bệnh của em rằng nếu bệnh tái phát thì có thể vào bất cứ bệnh viện nào cũng được, không cần phải đúng Tuyến (thời đó, thời bao cấp, bệnh nhân phải đi đúng “tuyến”). Dĩ nhiên mình không thể nhớ ra em, vì lúc em bệnh, em mới 9 tuổi, nay em đã 40 tuổi và hiện là một doanh nhân ở Đà Nẵng. Bệnh Thiếu máu do thiếu men G6PD là bệnh rất nặng, thiếu máu trầm trọng, do thiếu men G6PD, di truyền từ người mẹ (Ở người mẹ, gèn lặn, không ảnh hưởng, nhưng truyền cho con trai. Nếu uống nhầm một số thuốc nào đó thì bệnh sẽ bộc phát). Bệnh nhân đái ra huyết sắc tố có đặc điểm nước tiểu đen thui mà các thầy thuốc bọn mình gọi vui là “đái ra hắc xì dầu”…


HTH giữ kỹ Sổ khám bệnh từ ngày đó. Em liền mở ngay laptop, chuyển cho mình cái hình có mấy dòng đã viết khi xưa (1984)!


Cảm động chớ, phải không?


photo(2)


 


Thân mến,


Đỗ Hồng Ngọc


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 02, 2015 04:02

July 28, 2015

Duy-ma-cật 5: CON ĐƯỜNG BỒ TÁT (tiếp theo)

Thấp thoáng lời Kinh


5. Con đường Bồ Tát

(tiếp theo)


Bồ Tát nên an ủi Bồ Tát có bệnh như thế nào?


Hỏi: “Bồ Tát nên an ủi Bồ Tát có bệnh như thế nào?

Đáp: “Nên nói thân là vô thường, chẳng nói chán lìa cái thân. Nói thân có khổ, chẳng nói ưa thích Niết-bàn. Nói thân là vô ngã, nhưng khuyên dạy dìu dắt chúng sinh. Nói thân là không tịch, chẳng nói tất cánh tịch diệt. Nhân bệnh mình, thương xót bệnh người. Nên nhớ các khổ não từ vô số kiếp của mình. Nên tưởng việc làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Nhớ chỗ tu phước của mình. Tưởng tới đời sống trong sạch. Đừng sinh lo buồn. Thường khởi tinh tấn. Nên làm vị vua thầy thuốc, liệu trị các bệnh. Bồ Tát nên an ủi Bồ Tát có bệnh như những cách ấy.”


Bồ-tát có bệnh đương nhiên đã hiểu lẽ vô thường, khổ, vô ngã, duyên sinh, nghiệp báo… Nhưng Bồ-tát sơ cơ, mới phát tâm, dễ hoang mang, khi bệnh khổ thì muốn lìa cái thân cho rồi, muốn nhập Niết bàn cho xong, thấy biết vô ngã, không ta không người thì còn dìu dắt chúng sinh làm chi… Thế thì Bồ-tát “đàn anh” phải “Nên nói thân là vô thường, nhưng không chán lìa thân. Nói thân có khổ, chẳng nói nên nhập Niết-bàn…“  Chẳng những thế lấy bệnh mình mà hiểu bệnh người, ra tay giúp đỡ người bệnh như bậc y vương, không chỉ chữa cái đau mà còn chữa cái khổ, vậy mới là Bồ-tát.



Bồ Tát có bệnh làm cách nào để điều phục tâm mình ?


Lại hỏi: “Cư sĩ! Bồ Tát có bệnh làm cách nào để điều phục tâm mình?

Đáp: “Bồ Tát có bệnh nên nghĩ như thế này: Bệnh này của ta hôm nay là do các phiền não vọng tưởng điên đảo đời trước mà sinh ra. Không có pháp thật thì ai là người thọ bệnh. Tại sao vậy? Do bốn đại hiệp lại, tạm gọi là thân. Bốn đại không có chủ, thân cũng không có ta“.


Bệnh này phát khởi là do sự chấp trước cái ta. Trừ bỏ cái tư tưởng có ta và tư tưởng có chúng sinh. Chỉ vì các pháp khởi, nên thân khởi, chỉ vì các pháp diệt, nên thân diệt. Lại nữa, các pháp ấy đều chẳng biết nhau. Khi khởi, chẳng nói rằng ta khởi. Khi diệt, chẳng nói rằng ta diệt“. Chẳng phải là ta. Chẳng phải của ta. Nó ở ngoài ta. Nó bày trò thôi. Ta chả có chút uy quyền nào với nó cả. Nó khơi khơi vậy. Chẳng buồn chẳng lo, chẳng ăn năn chẳng hối cải vì làm khổ ta. Nó lạnh lùng băng giá. Nhưng nghĩ như vậy thì cũng chỉ mới thấy “nhân vô ngã“, còn phải thấy pháp cũng không, cũng duyên sinh, nên cũng vô ngã nữa. Nhân vô ngã, pháp vô ngã như hai cánh chim lượn bay trên không trung.  Qua sông bỏ bè, vác theo làm chi! “Vị Bồ Tát nào bệnh, muốn diệt cái tư tưởng có các pháp, nên nghĩ như thế này: Cái tư tưởng có các pháp này cũng là tư tưởng điên đảo. Nếu điên đảo, tức là hại lớn, ta nên lìa nó”.


“Thế nào là lìa? Ấy là lìa cái ta và cái của ta“. Nghĩ “là Ta“ thì Sân sẽ nổi lên. Nghĩ “là của ta“ thì Tham sẽ nổi lên. Tham, Sân dẫn ta vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh tức khắc. Sân thì bầm gan tím ruột, đỏ mặt tía tai, đấu đá tranh giành không ngớt. “Thế nào là lìa cái ta và vật của ta? Ấy là lìa hai pháp. Thế nào là lìa hai pháp? Ấy là chẳng nghĩ nhớ những pháp trong và những pháp ngoài, thi hành lẽ bình đẳng ».


« Khi mình được lẽ bình đẳng này rồi, chẳng còn bệnh nào khác nữa ».


Lại nữa, nên quán cái thân: thân chẳng lìa bệnh, bệnh chẳng lìa thân. Bệnh này, thân này chẳng phải mới, chẳng phải cũ. Đó gọi là trí huệ. Ví dầu cái thân có bệnh, nhưng nó chẳng diệt độ mãi mãi ». Sanh bệnh lão tử. Đã có thân thì phải có bệnh, có lão, có tử thôi. Đã lập trình vậy rồi mà. Ngay trong bào thai đã có bệnh rồi cơ mà !


Văn-thù! Bồ Tát có bệnh, nên điều phục tâm mình như thế này: chẳng trụ nơi chỗ điều phục tâm, cũng chẳng trụ nơi chỗ không điều phục tâm. Lìa khỏi hai pháp ấy, đó là hạnh Bồ Tát ». Ấy là Trung đạo. Không điều phục tâm thì là kẻ ngu phu ; chăm bẩm lo điều phục tâm, chẳng biết sử dụng bệnh như một phương tiện thiện xảo để gần gũi giúp đỡ chúng sanh, dễ suy sụp, mệt mỏi, chán nản. « Tham trước mùi vị thiền định, đó là sự trói buộc của Bồ Tát».


Lại nữa, nên quán cái thân là vô thường, khổ, không, vô ngã. Đó gọi là trí huệ. Tuy cái thân có bệnh, nhưng nó thường ở chốn sinh tử, làm lợi ích tất cả chúng sinh, mà chẳng mỏi mệt chán ngán ». Cho nên Bồ-tát có bệnh, đừng buồn. Đã vào chốn « sinh tử » thì dùng bệnh làm phương tiện vậy!


Gốc bệnh vì có phan duyên.


Sao gọi là gốc bệnh? vì có phan duyên. Dính mắc. Dắt dây. Di căn. « Phan duyên với những cảnh nào? Ấy là ba cõi: Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Làm sao dứt trừ phan duyên? Nên dùng lẽ Vô sở trụ, vô sở đắc. Nếu không có chỗ chứng đắc, ắt không có phan duyên ».


« Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh hương vị xúc pháp sanh tâm. Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm » (Kim Cang). Không có chỗ trụ lấy đâu mà phan duyên ? Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền » (Trần Nhân Tông)


Phương tiện phải đi đôi với trí huệ


Bồ-tát muốn giúp chúng sinh không thể không có “phương tiện”. Giống như thầy thuốc muốn chữa bệnh cho bệnh nhân cũng cần có phương tiện để chẩn đoán và điều trị. Thế nhưng, thầy thuốc cũng dễ lạm dụng kỹ thuật cao, lạm dụng thuốc men và hù dọa bệnh nhân. Thầy thuốc giỏi không lệ thuộc nhiều về phương tiện, biết sử dụng phương tiện đúng lúc đúng chỗ, giúp bệnh nhân mau lành bệnh và tìm thấy chất lượng cuộc sống cao hơn, tốt hơn. Điều quan trọng là kiến thức và kinh nghiệm để chẩn đoán đúng bệnh, cho đúng thuốc. Khi cần dùng phương tiện hỗ trợ thì biết nên dùng đến đâu, vì người bệnh là chính (patient-centered approach). Bệnh nhân có thể đòi hỏi này khác, nhưng thầy thuốc giỏi thì không chiều ý bệnh nhân. Primum non nocere !


Chúng sinh nào thì Bồ tát đó, Bồ tát nào thì chúng sinh đó, nên cần có “sức phương tiện”, tùy căn cơ của chúng sinh mà Bồ-tát sử dụng phương tiện phù hợp, thiện xảo. Cho nên phương tiện rất quan trọng đối với Bồ-tát, nhưng phương tiện phải đi đôi với trí huệ. Phương tiện mà thiếu trí huệ thì lợi bất cập hại. Như thầy thuốc không có đủ kiến thức, kinh nghiệm, không chẩn đoán ra bệnh mà cứ bày vẻ, dùng phương tiện cầu kỳ, tốn kém,  để… hù người bệnh vậy!


Văn Thù khen Duy-ma-cật “Huệ và phương tiện của ông ấy đều đến mức vẹn toàn” là ý đó. Huệ phải đi kèm phương tiện và phương tiện luôn cần có huệ. Bày những trò mê tín dị đoan rồi gán cho là  “phương tiện” thì không nên. Phật dạy Bảo Tích “ Tùy sức phương tiện mà giúp cho chúng sinh được thành tựu”. Chiêu thức phong phú đến mấy mà nội lực không có thì cũng như không. Một khi nội lực sung mãn, có càn khôn đại nã di tâm pháp, có cửu dương thần công thì một huơ tay múa chân cũng là một chiêu thức tuyệt luân, mặc sức « tùy duyên hóa độ» vậy !


Cho nên “huệ phương tiện”, “phương tiện huệ” là phần chỉ bày khá kỹ của hai thượng thủ trong buổi giảng thuyết hôm đó.


Vậy, thế nào mới là một Bồ tát ?


“Bồ-tát ở tại sinh tử mà chẳng làm việc ô trược, trụ nơi Niết-bàn mà chẳng diệt độ mãi. Chẳng phải hạnh phàm phu, mà cũng chẳng phải hạnh hiền thánh ! Chẳng cấu uế, chẳng thanh tịnh ».


“Bồ tát tuy vượt khỏi hạnh của ma, mà vẫn thị hiện hàng phục chúng ma. Tuy quán mười hai duyên khởi, nhưng cũng vào các tà kiến! Tuy nhiếp phục tất cả chúng sinh mà chẳng luyến ái chấp trước. Tuy ưa mến cuộc xa lìa, nhưng chẳng nương theo lẽ thân tâm dứt hết »…!

Tóm lại, bài học đã được truyền trao cho các « Bồ tát tại gia » tương lai. Con đường Bồ-tát không dễ. Phải có nội lực (trí huệ). Phải có chiêu thức (phương tiện). Biết dùng «sức phương tiện». Đại bi mà không bị che mờ bởi « ái kiến ». Vô sở trụ. Vô sở đắc…


Phải thấy biết Như Lai. Sống trong  thực tướng vô tướng mà vẫn thấy diệu hữu giữa chân không. Giữ lẽ bình đẳng, không phân biệt. Theo đúng lý mà thực hành nhưng không chấp pháp. Biết bệnh của chúng sanh với bệnh Bồ-tát không hai mà chẳng phải một. Biết « an ủi » một Bồ-tát « bệnh » thế nào để không bị thối chuyển, biết điều phục tâm mà không bám chấp…


Văn Thù và Duy-ma-cật đã sắm vai, tương tác, tung hứng một cách sinh động, nhằm cụ thể hóa những lời Phật dạy, làm hành trang vào đời cho các vị Bồ tát tại gia tương lai, Bảo Tích cùng năm trăm vị con nhà trưởng giả ở Tỳ-da-ly buổi mai hôm đó vậy./.


 


Đỗ Hồng Ngọc


(Văn Hóa Phật Giáo số 230)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 28, 2015 02:45

July 27, 2015

Duy-ma-cật 5: CON ĐƯỜNG BỒ TÁT

Thấp thoáng lời kinh


5. Con đường Bồ tát

Đỗ Hồng Ngọc


Làm sao “ở nơi sinh tử mà chẳng làm việc ô trược, ở nơi Niết-bàn mà chẳng diệt độ mãi mãi », làm sao mặc áo giấy đi với ma, mà vẫn « thị hiện hàng phục chúng ma » ?  Làm sao hành tánh Không mà vẫn trồng các cội công đức ? hành Vô tướng mà vẫn độ chúng sanh ? có tam minh lục thông mà… lậu hoặc vẫn còn ? làm sao đại bi mà không ái kiến ? Con đường Bồ-tát quả là không dễ chút nào!


Nhắc lại hôm đó Bảo Tích, một thanh niên con nhà trưởng giả, cùng năm trăm bạn bè ngựa xe rầm rập đến Vườn Xoài để bái kiến Phật, xin Phật chỉ dạy các “hạnh tịnh độ”. Họ đều đã phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề nhưng chưa thể “xuất gia”, sống nếp sống đầu tròn áo vuông, ngồi yên dưới cội cây già và đi lang thang khất thực… Cùng tham dự buổi hôm đó còn có bậc Bồ-tát, A-la-hán và hằng vạn thính chúng lắng nghe lời Phật thuyết giảng.


Phật dạy: “Lành thay, Bảo Tích! Ông đã vì chư Bồ-tát hỏi Như Lai về hạnh tịnh độ. Hãy lắng nghe, lắng nghe! Hãy suy nghĩ cho kỹ. Ta sẽ vì ông mà giảng thuyết” (…)



Sau khi các vị đại đệ tử Phật từ chối không đi thăm bệnh cho Duy-ma-cật, nêu lý do này lý do khác, thực chất là tự phán về chính mình, những suy tư dằn vặt bấy lâu, nay mới có dịp bộc lộ, Phật quay sang Văn Thù nói “Bây giờ tới lúc ông phải đi rồi đó. Ông đến thăm bệnh cho Duy-ma-cật đi, nhớ nói Như Lai gởi lời ân cần thăm hỏi”.


Văn Thù đánh giá rất cao Duy-ma-cật: “ Ông ấy thấu suốt sâu xa thật tướng; thuyết diễn rành mạch yếu lý của pháp; biện tài; trí huệ không ngăn ngại; biết hết pháp thức của Bồ Tát; đắc nhập tạng bí mật của chư Phật; hàng phục chúng ma; du hý thần thông. Huệ và phương tiện  đều đến mức vẹn toàn”.


 


Nghe vậy, tất cả đều náo nức muốn được tham dự buổi tranh luận chắc chắn sôi nổi, hiển bày “diệu pháp” của hai vị thương thủ, bèn rùng rùng xin theo. Phật im lặng. Mỉm cười.


Duy-ma-cật biết Văn Thù sắp tới bèn chuẩn bị đón tiếp. Dọn sạch nhà cửa làm cho trống trơ trống hoắc, cho gia nhân đi chỗ khác chơi, chỉ còn để một chiếc giường ọp ẹp, nằm rên hừ hừ.


Trông thấy Văn Thù, Duy-ma-cật ôm ngực húng hắng ho vài tiếng rồi chào:


« Lành thay, Văn-Thù mới đến! Tướng chẳng đến mà đến. Tướng chẳng thấy mà thấy.”…


Văn Thù nhẹ nhàng đáp lại: “Như vậy đó, cư sĩ. Đến, chẳng từ đâu đến. Đi, chẳng có chỗ nào tới… ». Rõ ràng Duy-ma-cật tung chiêu « vô tướng công» và Văn Thù đã đáp lại bằng « Như Lai thần chưởng ». Hai vị thượng thủ xuất chiêu chưởng phong ào ào khiến nhiều người không khỏi choáng váng.


Văn Thù bèn bảo : “Nhưng thôi, hãy tạm gác lại việc đó».


“Bệnh của cư sĩ đây, do nhân nào mà phát khởi? Bệnh sinh ra lâu chưa? Nên dứt trừ bằng cách nào? Thế Tôn gởi lời ân cần thăm hỏi ông đó”. Văn Thù nói.


Do vô minh và hữu ái mà bệnh tôi sinh ra. Vì tất cả chúng sinh bệnh, cho nên tôi bệnh. Bồ Tát vì chúng sinh, nên vào chốn sinh tử. Có sinh tử, ắt có bệnh. Nếu chúng sinh được lìa khỏi bệnh, ắt Bồ Tát sẽ không còn bệnh ». Duy-ma-cật đáp lại.


Rõ ràng Duy-ma-cật nói câu này không nói về mình mà nhằm tới các vị Bồ-tát xuất gia và Bồ-tát tại gia « tương lai » đang có mặt lúc đó: « Bồ-tát vì chúng sinh, nên vào chốn sinh tử. Có sinh tử, ắt có bệnh » để thấy con đường chông gai trước mắt.


Sao gọi là vô minh ? Sao gọi là hữu ái ? Duyên sinh khởi đi từ vô minh. Vô thường mà tưởng là thường, khổ mà tưởng là lạc, vô ngã mà tưởng là ngã, thực tướng vô tướng mà không biết, cứ bám chặt lấy cái giả tướng hữu tướng kia… Nhưng gốc thì vô minh mà bệnh chứng thì khởi phát tại « hữu ái ». Sinh sự là ở hữu ái. Hữu ái là cái trục chính của con đường bệnh sinh vậy.


Bệnh cư sĩ đã lâu chưa ư? Vô minh và hữu ái của chúng sanh đã có từ lúc nào thì bệnh tôi cũng lâu chừng ấy, còn phải hỏi!


Cách nào dứt trừ ư ? Dễ thôi. Ba căn bệnh tham sân si đã có giới, định, huệ là những thuốc đặc trị, dùng đơn thuần hay phối hợp tùy bệnh trạng. Bệnh khỏi chưa đủ mà phải làm sao cho bệnh đừng tái phát. Giải thoát chưa đủ mà còn phải giải thoát tri kiến. Phải  từ, bi, hỷ, xả để giúp mình và giúp người.  Không dừng lại ở chữa bệnh chứng mà phải dứt bệnh căn, nâng cao chất lượng cuộc sống, nghĩa là phải : thực hành lục độ ba-la-mật, thực hành thiền chỉ thiền quán, ba mươi bảy phẩm trợ đạo…  tùy căn cơ tùy bệnh trạng mà gia giảm liều lượng…


Vấn đề do vậy, phòng bệnh là chính. « Nếu chúng sinh được lìa khỏi bệnh, ắt Bồ Tát sẽ không còn bệnh ». Làm sao cho chúng sinh đừng bệnh ? Chỉ cần chấm dứt vô minh và hữu ái trên con đường duyên sinh chập chùng duyên khởi đó.


Sanh bệnh lão tử. Tất yếu nó vậy. Đường dây kịch bản sẵn rồi. Bệnh không thể không có. Chết không thể không có.  Do không biết, do vô minh mà tự mình làm khổ mình thôi. « Đời tôi ngốc dại/ tự làm khô héo tôi đây… » (Trịnh Công Sơn). Hữu ái là cái trục chính của đường dây. Có ái mới có thủ. Có thủ mới sinh hữu. Sinh sự mới sự sinh !


Bệnh của Bồ tát xuất phát từ tâm Đại bi. Nếu không có đại bi thì Bồ tát, một khi đã giác ngộ, nhập Niết-bàn cho xong ! Nhưng bởi lòng Đại Bi mà nấn ná ở lại. Đại Bi thì tốt rồi, nhưng đại bi phải không « ái kiến » nghĩa là phải bình đẳng. Đại bi mà còn « ái kiến », còn thấy thương người này ghét người kia, thương người này nhiều người kia ít thì chưa thực sự là đại bi bởi còn chưa thực sự bình đẳng.


Phật nói : « Không có giai cấp trong giọt máu cùng đỏ, trong nước mắt cùng mặn. Mỗi người sanh ra đều có Phật tánh và đều có thể thành Phật ». Phật cũng nói : « Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành». Không có chuyện độc tôn ở đây. Phật không giấu giếm điều chi, sẵn sàng « khai thị chúng sanh ngộ nhập Tri kiến Phật », để thành Phật. Bồ-tát đạo chính là con đường để thành Phật, đầy gian nan nhưng có thể.


Bình đẳng cho nên Phật không chỉ độ cho Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, A Nan… mà còn  độ cho cả Ưu Ba Ly, một người làm nghề gánh phân !


« Như bệnh của ta đây, chẳng phải thật, chẳng phải có. Bệnh của chúng sinh cũng chẳng phải thật, chẳng phải có.’ Do đó mà không khởi đại bi ái kiến đối với chúng sinh, vì đã « đoạn trừ xong phiền não khách trần ».  Còn lòng bi của ái kiến thì đối với cuộc sinh tử ắt có tâm mỏi mệt chán ngán. Nếu lìa được lòng bi ái kiến ấy, ắt không còn mỏi mệt chán ngán. Người làm tham vấn (counseller), người bác sĩ tâm lý mà không đủ năng lực, thiếu kinh nghiệm dễ để mình bị lôi cuốn, dính mắc vào các tình huống của thân chủ (clients), sẽ bị ám ảnh mà sinh mệt mỏi, chán nản, stress, thậm chí dẫn tới trầm cảm. « Vậy nên Bồ-tát không nên khởi ra việc tự trói buộc ».


Văn Thù hỏi: “Nhà của cư sĩ vì sao trống không, không có cả người hầu?”


Đáp “Tất cả quốc độ của chư Phật cũng đều Không.


Bởi vì quốc độ của chư Phật sống trong bản thể, trong thực tướng vô tướng. « Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng ». Cái gì có tướng thì chỉ là giả tướng, chỉ là hư vọng, ảo hóa đó thôi. Cho nên quốc độ của chư Phật là Không.


Lại hỏi: “Vì gì mà Không?


Đáp: “Vì Không mà Không.”


Không bất dị Sắc. Không tức thị Sắc. Dừng lại ở chân không mà chưa thấy cái diệu hữu thì thật đáng tiếc. Khi thấy diệu hữu trong chân không thì đó mới là hạnh phúc, vì không còn bám chấp.


Lại hỏi: « Không sao lại dùng Không?


Đáp: “Vì không phân biệt cái Không cho nên Không.


Lại hỏi: “Không mà có thể phân biệt được ư?”


Đáp rằng: “Phân biệt cũng là Không.”


Làm sao phân biệt được cái Không? Dù thiên hình vạn tượng bày biện ra đó, nhưng thực tướng là vô tướng, là không, là duyên sinh, vô ngã, làm sao phân biệt được? Từ đó mà có sự bình đẳng, thấy sự bình đẳng. « Con sông là thuyền mây xa là buồm, từng giọt sương thu hết mênh mông » (TCS)…


“Thị chư pháp không tướng: bất sanh bất diệt bất cấu bất tịnh bất tăng bất giảm“. Thấy được không tướng thì còn phân biệt chỗ nào mà không bình đẳng cơ chứ? Dĩ nhiên Không tướng chớ không phải không có tướng. Bồ tát thì thấy cả hai, cả chân không lẫn diệu hữu: Cho nên Bồ-tát hành tánh Không mà vẫn trồng các cội công đức; hành Vô tướng mà vẫn độ chúng sanh; hành Vô tác mà tự hiện thọ thân,  hành Vô khởi mà khởi tất cả thiện hạnh…


Lại hỏi: “Không, nên tìm ở đâu?


Đáp: “Nên ở trong sáu mươi hai kiến chấp mà tìm.”


Lại hỏi: “Sáu mươi hai kiến chấp nên tìm ở đâu?”


Đáp rằng: “Nên ở trong các phép giải thoát của chư Phật mà tìm.”


Sáu mươi hai kiến chấp, có khi còn gọi là tà kiến, là những kiến giải, triết thuyết nọ kia ở thời Phật. Bây giờ thế giới phẳng, toàn cầu hóa, kiến giải còn nhiều vô số vô lượng vô biên. Thế nhưng phép giải thoát của chư Phật thì như “độc cô cửu kiếm”, vô chiêu thắng hữu chiêu. Không mới thắng được hữu. Vì diệu hữu nằm trong chân không, và “chân không” thì tìm thấy trong “diệu hữu”.


Lại hỏi: “Phép Giải thoát của chư Phật nên tìm ở đâu?”


Đáp rằng: “Nên ở trong tâm hạnh của tất cả chúng sanh mà tìm.”


Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ. Chúng sanh vô biên vì tâm vô biên. “Nhất thiết duy tâm tạo“. Thiên đàng cũng tâm mà địa ngục cũng tâm. Atula, ngạ quỷ, súc sanh, sáu nẻo luân hồi thênh thang rộng mở cũng do tâm. Phải “diệt độ“ tất cả chúng sanh, bất cứ loại nào, cho vào vô dư Niết bàn sạch trơn nhưng… chẳng có chúng sanh nào được diệt độ cả thì mới thoát! (Kim Cang). Vô lượng vô số vô biên chúng sanh cũng do tâm tạo ra, thì một khi “tâm bất sinh” thì chúng sanh hết cựa quậy! Chúng sanh mà “thành tựu“ được rồi, nghĩa là dẹp yên được rồi thì cõi Phật thanh tịnh hiện ra tức khắc vậy.


 


Duy-ma-cật tiếp: « Ngài lại hỏi vì sao tôi không có kẻ thị giả (giúp việc)? Tất cả chúng ma và các thầy ngoại đạo là thị giả của tôi. Vì sao thế? Chúng ma ưa thích sanh tử, mà Bồ tát thì không bỏ sanh tử; các thầy ngoại đạo ưa thích kiến chấp, mà Bồ-tát thì chẳng lay động nơi các kiến chấp.”.


Bồ-tát tự nguyện dấn thân vào đời thì cũng phải như tất cả chúng sanh thôi, nghĩa là cũng phải sống chung với ma, với các tà kiến ngoại đạo thôi. Họ phải biết “mặc áo giấy” khi cần, nhưng sẵn sàng “thị hiện để hàng phục chúng ma”. Họ cũng phải lăn lộn với các tà kiến, không xa lạ với các tà kiến đó, trái lại nhờ đó mà học được nhiều chiêu thức khác nhau để có thể dùng vô chiêu mà thắng!


Phật thì xa chứ ma thì gần. Cho nên bảo ma là thị giả, là kẻ giúp việc, gần gũi ta nhất. Ma đủ thứ, thiên ma, tử ma, ngũ ấm ma… quậy phá xà quần nên nói là ưa « sanh tử ». « Vô sanh » thì hết ma. Nhưng Bồ-tát đâu có chịu vô sanh. Bồ-tát do thệ nguyện mà nhảy qua nhảy lại hai bờ. Còn ngoại đạo thì đúng là thầy của Bồ-tát. Họ có thể đưa ra đủ thứ kiến giải, cãi nhau chí chóe, nhưng đâu có nhảy qua khỏi bàn tay Như Lai ? « Nhất thiết pháp giai thị Phật pháp ». Cái gì cũng sinh trụ dị diệt, cũng vô thường, vô ngã, cũng duyên sinh, thực tướng vô tướng đó thôi.


Lại Hỏi: “Bệnh của cư sĩ, đó là những tướng gì?

Đáp: “Bệnh của tôi không có hình tướng, không thể thấy.”


Bệnh của chúng sanh thì có… hình tướng: nào vàng da, bụng ỏng, khò khè, viêm chỗ nọ, ung chỗ kia… phải cần đến thầy đến thuốc chớ Bồ-tát đã sống trong thực tướng vô tướng lẽ nào còn thấy tướng linh tinh?

Lại hỏi: “Bệnh ấy hiệp với thân hay hiệp với tâm?”

Đáp: “Chẳng phải thân hiệp, vì tướng của thân là lìa. Chẳng phải tâm hiệp, vì tâm như ảo hóa.

Lại hỏi: “Trong bốn đại: đất, nước, lửa, gió, cái nào là bệnh?

Đáp: “Bệnh này chẳng phải đất, cũng chẳng lìa đất. Đối với các đại như: nước, lửa, gió, lại cũng như vậy. Nhưng bệnh của chúng sinh là nương theo bốn đại mà khởi. Bởi họ có bệnh, cho nên tôi bệnh.”


Chúng sanh vì chưa thấy biết như Bồ tát nên tứ đại rối loạn, bất an thì sinh bệnh thân, bệnh tâm, còn Bồ tát thì “bệnh” là vì đại bi mà bệnh.


Dứt được những nỗi khổ của già, bệnh, chết, đó là Bồ-đề của Bồ Tát. Nếu chẳng được như vậy, sự tu tập của mình không có lợi ích về trí huệ. Tỷ như mình thắng được kẻ oán thù, mới đáng gọi là dũng. Cũng như thế, nếu mình trừ được cả già, bệnh, chết, mới xứng đáng là Bồ Tát”.


Bồ-tát mà còn có tướng ta, tướng người, tướng chung sanh, tướng thọ giả thì chẳng phải là Bồ-tát (Kim Cang). Cho nên Bồ tát phải hành thâm Bát Nhã, phải “chiếu kiến ngũ uẩn giai không“, phải thấy chư pháp không tướng bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Nếu không vậy thì Bồ-tát chẳng khác gì chúng sanh!


Tuy vậy, một trong những cái “bệnh“ đáng ngại nhất của Bồ-tát là bệnh “chấp không”. Một thứ hư vô chủ nghĩa. “Khi mình chưa có đủ Phật pháp, cũng chẳng dứt bỏ các cảm thọ…“.. Nhờ đó mà thấu cảm, nhờ đó mà thực hành đại bi. “Ví như cái thân có khổ, nên nghĩ đến những cảnh ác lụy của chúng sinh, khởi lòng đại bi. Đã điều phục cái ta rồi, cũng nên điều phục tất cả chúng sinh“.


(còn tiếp)


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 27, 2015 20:32

Nhà Giữ… Già!

Nhà Giữ… Già!

ATT00021 Nên đưa cha mẹ già vào viện dưỡng lão không đang được bàn cãi khá sôi nổi. Người bào nên người bảo không. Thật ra, cách nào cũng đúng, tùy điều kiện của mỗi gia đình. Nhưng quan trọng hơn hết là tùy điều kiện sức khỏe của ‘đương sự”. Khi một người già còn có thể “tự tại”, nghĩa là tự phục vụ được cho mình những nhu cầu cơ bản ăn uống, vệ sinh…thiết yếu thì ở nhà mình là tốt nhất, được thấy mặt con cháu mỗi ngày, tuy không có nhiều thì giờ nhưng cũng nói được vài câu với nhau, có khi cằn nhằn bực dọc với nhau đôi chút cũng vui hơn là thui thủi một mình. Khi người già còn có dịp giận hờn, bực bội gây gỗ thì phải coi đó là một niềm… hạnh phúc vì não còn hoạt động tốt. Khi họ hoàn toàn không nhớ, không nghĩ gì nữa, hoàn toàn ngu ngơ thì tình hình đã khác. Dĩ nhiên để bị căng thẳng chuyển sang trầm cảm thì nguy to. Nhưng, tiến trình cuộc sống có lẽ rồi sẽ phải vậy. Đến một lúc sẽ không còn nhớ mình là ai, không còn nhớ những người chung quanh mình là ai, không còn nhớ đường đi lối về thì đã có thể đang an vui ở một cảnh giới khác.



Gia đình neo đơn, con cháu bận rộn, công tác xa, cha mẹ già ở một mình nguy hiểm khi ốm đau, hoặc cơ thể đã hoàn toàn suy nhược, không tự chủ được, tự tại được nữa thì tốt nhất vẫn là vào ở nơi một nhà giữ già, cũng như ngày xưa ta gởi bé vào nhà giữ trẻ. Nhà giữ già dĩ nhiên có người chuyên môn hơn chăm sóc, có người lo cho từ miếng cơm manh áo, tắm rửa, thuốc men. Con cái có thể yên tâm, có kế hoạch “phân công” luân phiên vào thăm viếng để cha mẹ được vui. Ở đó, nơi nhà giữ già họ có những người bạn mới, bạn cùng thời, cùng lứa cùng chia sẻ bao nhiêu kỷ niệm xa xưa, rôm rả biết bao nhiều điều mà ơ trong gia đình riêng không biết chia sẻ cùng ai. Nếu còn đủ sức chơi cờ vua cờ tường, tứ sắc, tổ tôm, mạc chược… với nhau thì càng tuyệt!


Vào nhà giữ già không phải là không đắt đỏ. Xã hội đã đến lúc phải có những tính toán một khi tỷ lệ người già ngày càng đông, càng lệ thuộc. Nhật chẳng hạn cũng đang khổ vì  thế hệ thanh niên không còn muốn lập gia đình, không muốn sinh con cái. Trong khi đó,  tuổi thọ rất cao. Nhiều cụ được máy robot đút ăn, tắm rửa. Tuy nhiên không hiếm trường hợp người già chết không ai hay! Thực tế, tới một tuổi nào đó, cái chết là một giải thoát, để tái sinh như những làm sóng vỗ vào bờ đá, đập vào bãi cát, tan tác để lùi vào biển sâu làm lại một làm sóng khác. Sống không phải là sự khởi đầu thì chết cũng không phải là một kết thúc. Bởi trước khi cha mẹ sinh ra, người ta không biết mình là ai, từ đâu, tại sao? Mỗi giây có hằng trăm triệu hồng cầu già tan vỡ để trăm triệu hồng cầu mới được sinh ra. Những chất liệu của hồng cầu vỡ đó được đưa về tích chứa ở lá lách, gọi là “nghĩa địa hồng cầu” để được dùng lại, tái tạo hồng cầu mới.


ATT00006


Nhiều người Việt ở nước ngoài nói rằng chỉ nghĩ đến Viện dưỡng lão thôi đã là một cơn ác mộng của tuổi già. Ngoài chuyện nền văn hóa không phù hợp từ chuyện ngôn ngữ đến ăn uống, vệ sinh, người già ở đó còn thường bị hành hung. Nhiều dịch vụ và chăm sóc mang tính thương mại, điều dưỡng lạnh lùng, hất hủi, con cháu bỏ rơi, ngày ngày đều thấy những cảnh đau lòng, những rơi rụng.


Thực ra có người sợ hãi, coi là ác mộng nhưng vẫn có người ưa thích vì đã quen sống độc cư, không muốn làm phiền con cháu, được chăm sóc tuy… lạnh lùng nhưng… khoa học!


Phải có thời gian chuẩn bị tâm lý thật tốt cho người già sắp phải từ bỏ gia đình vào viện dưỡng lão (chẳng khác nào chuẩn bị tâm lý cho trẻ vào nhà mẫu giáo!). Người già phải tự nguyện và được chọn lựa cơ sở thích hợp. Dĩ nhiên một khi đã bước vào đây chính thức rồi thì không thể có ngày trở lại đời sống cũ được nữa. Mọi thứ đã lập trình, cứ thế mà tuần tự nhi tiến thôi!  Vấn đề là cần chú ý đến chất lượng cuộc sống, cá nhân hóa sự chăm sóc, dựa trên mẫu văn hóa riêng của từng người nếu được, để làm sao cho nhà giữ nhà trở thành “tịnh độ”, đầy an lạc, và chuẩn bị cho một cái chết có chất lượng có thể có thì mới đem đến hạnh phúc cho tuổi già vậy. Người bạn cùng kháo với tôi, bác sĩ Trần Công Bảo, có hơn 30 năm làm việc ở các Viện dưỡng lão Hoa kỳ với tư cách bác sĩ phụ trách y tế. Anh cho biết có nhiều loại “Nhà dưỡng lão” để tùy chọn. Nursing home, Convalescent home, Rehabilitation and Nursing center, Skilled nursing facility (SNF), Rest home… tùy trường hợp người già đơn thuần, do tuổi cao sức yếu cẫn giúp đỡ chớ không có bệnh mạn tính đi kèm, có người già còn tương đối khỏe, sống tự lập, tự săn sóc cho mình được trong cuộc sống hàng; có người cần thuốc men và phục hồi chức năng, vật lý trị liệu…Có những trường hợp  “ quá lú lẫn” (Alzheimer) đến nỗi không nhận ra người thân như vợ, chồng, con cháu; không biết tự đi vào buồng tắm, phòng vệ sinh, dễ đi lang thang và lạc đường phải được chăm sóc một cách khác, cửa đóng kỹ,  có nơi gắn alarm vào cổ chân v.v… Anh cho biết ở Mỹ hiện có khoảng 1,4 triệu người sống trong hơn 15 ngàn Viện dưỡng lão.  Các viện này được giám sát gắt gao, không đạt tiêu chuẩn thì có thể bị đóng cửa!


Dưới đây là những lời khuyên của Bs Trần Công Bảo:

1- Nếu còn có thể ở nhà được mà vẫn an toàn thì ở nhà tốt hơn. Nếu tài chánh cho phép, thì dù mình không đủ khả năng lo cho mình, mình vẫn có thể mướn người “bán thời gian” (part time) đến lo cho mình vài giờ mỗi ngày, giúp ăn uống, tắm rửa, dọn dẹp trong nhà, thuốc men, chở đi bác sĩ…

2-Nếu không thể ở nhà được, mà tài chánh cho phép thì có thể ở những assisted living facilities. Tại đây thì sự săn sóc sẽ tốt hơn.

3- Có những Group homes (nhà tư): nhận săn sóc cho chừng 4-6 người mỗi nhà. Họ cũng lo việc ăn uống, chỗ ở, thuốc men, chở đi bác sĩ… Thường thì rẻ hơn tùy từng group.

Cuối tuần hay ngày lễ: nên có người nhà vào thăm viếng hoặc đưa về nhà nửa buổi để người già được sống với không khí gia đình dù ngắn ngủi, hay đưa đi ra ngoài hớt tóc, làm đầu, tới tiệm ăn cho khuây khỏa… Con cháu nên có lịch phân công thăm viếng thường xuyên để khỏi có cảm giác bị hất hủi, bỏ rơi.

BS Đỗ Hồng Ngọc

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 27, 2015 20:15

July 20, 2015

Có một tập sách mới: GIÀ SAO CHO SƯỚNG…?

 


IMG_GIA


Lời Ngỏ


Một cụ già trên trăm tuổi được nhà báo phỏng vấn bí quyết, cụ cười: Có gì đâu, sáng nào tôi cũng tự hỏi hôm nay mình nên ở Thiên đàng hay Địa ngục đây, rồi ngần ngừ một lúc, tôi chọn Thiên đàng!


Chất lượng cuộc sống ( Quality of life) được định nghĩa là “ những cảm nhận của cá nhân về cuộc sống của họ trong bối cảnh văn hóa và các hệ thống giá trị mà họ đang sống, liên quan đến các mục đích, nguyện vọng, tiêu chuẩn và các mối quan tâm của họ”. (WHO, Tổ chức Sức khỏe Thế giới).




Có một bảng chỉ số giúp đo đạc chất lượng cuộc sống gồm các yếu tố như về thể chất, tâm lý, tính độc lập, quan hệ xã hội và môi trường sống để mỗi người tự đánh giá và tự điều chỉnh, thích nghi.

Trong 2 tuần qua, bạn đánh giá chất lượng cuộc sống của bạn ở mức độ nào? Rất xấu? Xấu? Không tốt không xấu? Tốt? Rất tốt? Trong hai tuần qua, bạn có hài lòng về sức khỏe của bạn không? Ở mức độ nào? Bạn có cảm thấy vui sống, thấy cuộc sống là có ý nghĩa? Bạn có chấp nhận ngoại hình của bạn hiện nay không? Bạn có đủ tiền để đáp ứng nhu cầu hằng ngày không? Bạn có được vui chơi giải trí không? Bạn có đi lại dễ dàng thoải mái không? Bạn có hài lòng về giấc ngủ của mình không? Bạn có hài lòng về mối quan hệ cá nhân của bạn với người chung quanh? Bạn có hài lòng về những điều kiện sống hiện nay? Bạn có thường cảm thấy chán nản, tuyệt vọng, lo âu, trầm cảm…?

Đó là một số câu hỏi trong hàng trăm câu hỏi của bảng đánh giá chất lượng cuộc sống. Thỉnh thoảng ta cũng nên tự hỏi mình những câu như thế, đừng để kêu lên: “…nhìn lại mình đời đã xanh rêu” (TCS)…


Có người hỏi tôi, ở lứa tuổi “xưa nay hiếm”, người ta hay nhắc đến “quỹ thời gian”, bác sĩ có vậy không? Tôi trả lời không. Tôi không có ý niệm có một quỹ thời gian nào đó, bởi tôi không thể biết trước tôi có được bao nhiêu thời gian, đã xài hết bao nhiêu, còn lại bao nhiêu để… lên kế hoạch!

Lần nọ, tôi có dịp làm MC cho một buổi giao lưu của các vị cao tuổi, có bác sĩ-họa sĩ Dương Cẩm Chương, 103 tuổi, nhạc sĩ Trần Văn Khê, 93 tuổi; nhà giáo Đàm Lê Đức, 83 tuổi, nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương, 76 tuổi. Hôm đó, tôi bỗng trở thành người “quá trẻ”. Kinh nghiệm rút ra là nên thường xuyên gặp gỡ những người già để mình được trẻ! Nhưng theo tôi, được làm bạn với những người trẻ… dễ thương mới thực là hạnh phúc của tuổi già! Trịnh Công Sơn cũng viết trong Gió heo may đã về của tôi: “Không có già không có trẻ. Nói với một người trẻ tôi già rồi em ạ là vô lễ…”.


“Sức khỏe là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái (well-being) về thể chất, tâm thần và xã hội, chớ không phải chỉ là không có bệnh hay tật” (WHO). Đây là định nghĩa chung về sức khỏe. Riêng với người già thì định nghĩa có khác một chút: Sức khỏe của người già chủ yếu là phát triển và duy trì được sự sảng khoái và hoạt động chức năng về tâm thần, xã hội và thể chất của họ. Sự khác biệt ở đây là đã đưa yếu tố “tâm thần” lên hàng đầu. Bởi ở tuổi già, thể chất đã rệu rả, mọi thứ dần quá “date”, nên chất lượng cuộc sống nằm chính ở “tâm thần” !


Nghiên cứu cho thấy tuổi già thường có được hạnh phúc khi: Biết từ bi với mình, chấp nhận mình, hiểu luật vô thường của cuộc sống; có ký ức tốt về tuổi thơ và tuổi thanh xuân; được tự tại sắp xếp cuộc sống theo ý riêng, không bị áp đặt; duy trì tốt các mối quan hệ gia đình, bè bạn… Sức khỏe thể chất tương đối tốt thôi, không mong lúc nào cũng “như xưa” được. Tài chánh được tự chủ. Gần gũi với thiên nhiên. Giữ ngọn lửa nhiệt tình, niềm an lạc, thanh thản trong tâm hồn.


Tự tại có lẽ là con đường hạnh phúc nhất của tuổi già. Cho nên “Quán Tự Tạị Bồ-tát” khi chiếu kiến “Ngũ uẩn giai không” thì đã vượt thoát mọi khổ đau ách nạn:


Gate, Gate, Paragate, Parasamgate…!


Vậy nhé,


Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

(Saigon 2015)


……………………………………………………………………………………………..


Bìa 4:

Già thì khổ, ai cũng biết. Sanh bệnh lão tử! Nhưng già vẫn có thể sướng. Muốn sống lâu thì phải già chớ sao! Già có cái đẹp của già. Trái chín cây bao giờ cũng ngon hơn trái giú ép. Cái sướng đầu tiên của già là biết mình… già, thấy mình già, như trái chín cây thấy mình đang chín trên cây.


Tuy vậy, thực tế, già thì khó mà sướng. Con người ta có khuynh hướng dễ thấy khổ hơn. Một người luôn thấy mình… sướng thì không khéo người ta nghi ngờ hắn có vấn đề… tâm thần!

Nói chung, người già có ba nỗi khổ thường gặp, nếu giải quyết được sẽ giúp họ sống “trăm năm hạnh phúc”:


* Một là thiếu bạn! Nhìn qua nhìn lại, bạn cũ rơi rụng dần… Thiếu bạn, dễ hụt hẫng, cô đơn và dĩ nhiên… cô độc. Từ đó dễ thấy mình bị bỏ rơi, thấy không ai hiểu mình! Quay quắt, căng thẳng, tủi thân. Lúc nào cũng đang như “Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt/ Ta nằm dài nghe ngày tháng dần qua…!”(Thế Lữ).

* Hai là thiếu… ăn ! Chuyện ăn uống nên nghe theo mệnh lệnh của… bao tử: “Listen to your body”. Cơ thể nói… thèm ăn cái gì thì nó đang cần cái đó, thiếu cái đó! Nhưng nhớ, ăn là chuyện của văn hóa ! Món ăn gắn với kỷ niệm, gắn với thói quen, gắn với mùi vị từ thuở còn thơ! Người già có thể thích những món ăn…kỳ cục, không sao. Đừng ép! Men tiêu hoá được tiết ra từ tâm hồn chớ không chỉ từ bao tử.


*Ba là thiếu vận động ! Già thì hai chân trở nên nặng nề, như mọc dài ra, biểu không chịu nghe lời ta nữa! Các khớp cứng lại, sưng lên, xương thì mỏng ra, dòn tan, dễ vỡ, dễ gãy…! Ấy cũng bởi cả một thời trai trẻ đã “Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt…” (Trịnh Công Sơn)! Có một nguyên tắc “Use it or lose it!” . Cái gì không xài thì teo! Bây giờ người ta xài cái đầu nhiều quá, nên “đầu to mà đít teo”. Thật đáng tiếc!


Tóm lại, giải quyết đựơc “ba cái lăng nhăng” đó thì có thể già mà… sướng vậy!


Đỗ Hồng Ngọc

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 20, 2015 01:09

July 17, 2015

Thư gởi bạn xa xôi: NGÀY GIỖ MẸ

Thư gởi bạn xa xôi,


Hôm nay 17.7 là ngày giỗ Mẹ mình. Thấm thoát mà đã 4 năm. Bà mất ở tuổi 94, sáng suốt đến phút chót, chỉ gầy ốm xương bọc da và hai chân yếu liệt, không đi lại được…


Mình vừa bày mâm trái cây và bình bông lên bàn thờ, thắp ba cây nhang…


Và bây giờ viết cho bạn mấy dòng này.


Nhớ lại bài thơ năm nào, mình viết giữa Mùa Vu Lan, khi nhớ Bà:


BÔNG HỒNG CHO MẸ


Con cài bông hoa trắng


Dành cho mẹ đóa hồng


Mẹ nhớ gài lên ngực


Ngoại chờ bên kia sông…


(ĐHN)


Bài thơ chỉ có mấy câu ngắn ngủn chẳng ngờ ngay sau đó nhận được một bài thơ cảm tác đầy xúc động của Bội Hoàng mà mình cất kỹ bấy nay, hôm nay xin chia sẻ cùng bạn vậy:


 


    Tình yêu còn mãi

“Con cài bông hoa trắng


Dành cho Mẹ đóa hồng


Mẹ nhớ gài bên ngực


Ngoại chờ bên kia sông”


(Bông Hồng Cho Mẹ)


Đỗ Hồng Ngọc


 


Đọc bài thơ mà mắt lệ đoanh tròng


Ai thấu hiểu một tình yêu đã mất


Ai tự hào cài hoa hồng lên ngực


Dù đã qua cái tuổi cổ lai hi!


 


          Con chỉ muốn luôn được cài hoa đỏ


          Dù tuổi đời Má đã rất mong manh,


          Dù con Má đã con cháu vây quanh,


          Vẫn muốn được mỗi ngày chăm sóc Má.


 


Được bón cơm, được đút cháo, châm trà


Được tắm rửa, được thay quần áo mới


Được ngồi bên nghe những lời Má nói


Mà dậy lên niềm thương cảm riêng tư


 


               Má bỏ con năm Má chín mươi tư


               Rời cõi tạm, Má lên đường thanh thản


               Con cài hoa cho màu áo Má đỏ


               Để Má về gặp Ngoại vui đoàn viên


 


 Bội Hoàng


Khóa 19 NHS


 


Và cũng thiệt lạ, mấy câu thơ ngắn ngủn đó cũng đã được nhạc sĩ Võ Tá Hân phổ và hát lên với tất cả tấm lòng, bằng một thứ giọng khàn đục của một người đàn ông có tuổi, với tiếng đàn guitar của chính mình…


Mời bạn thử nghe nhé:


 


 


 



 


Thân mến,


Đỗ Hồng Ngọc.


 TB: Xin nói thêm rằng cả Bội Hoàng và Võ Tá Hân mình đều chưa… quen biết!



 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 17, 2015 05:34

July 14, 2015

Đọc “SỢI TƠ NHỆN” của Cao Huy Thuần

Đường bay của hạnh phúc

(đọc SỢI TƠ NHỆN của Cao Huy Thuần, NXB Trẻ, 2015)


Đỗ Hồng Ngọc


Đọc Cao Huy Thuần lúc nào tôi cũng thấy sảng khoái. Mới lướt qua, cứ tưởng anh kể chuyện tào lao trên trời dưới đất, đông tây kim cổ cho vui, nhưng không, đằng sau đó là tầng tầng lớp lớp những ẩn nghĩa, ẩn dụ… được giấu nhẹm bên trong. Cứ như có một cái kho tàng bí mật, nếu chịu khó khui ra từng lớp, từng lớp mới à há!  Vậy mà không phải vậy. Không phải vậy mà vậy. Cho nên đọc Cao Huy Thuần đừng vội. Cứ nhởn nhơ. Cứ nhâm nhi. Ngâm, rồi ngẫm, rồi ngấm.



Đọc Cao Huy Thuần (7.2015)

Đọc Cao Huy Thuần (7.2015)


 Sợi Tơ Nhện (tr 18), tưởng là sợi tơ nhện mà không phải. Giữa mùa Vu Lan, đọc Sợi Tơ Nhện để rùng mình, “hãy có một chút rùng mình khi mặt trời chìm trong nước biển, khi con chim thốt nhiên vẫy cánh kêu lên một tiếng trước hoàng hôn…”.


Bà mẹ Bồ-tát Mục Kiền Liên giấu bát cơm, tên cướp Kandata giành sợi tơ nhện…Thiên đàng hay Địa ngục trong một sát-na đó thôi.  Giá như mẹ đừng tham ăn. Giá như Kandata đừng ích kỷ. Vấn đề là “phát tâm”. Phát tâm Bồ-đề. Vậy là đã đủ, như Duy-ma-cật nói. Chỉ một sát-na đó thôi.


Cao Huy Thuần giăng một sợi tơ, chỉ là cái cớ kéo ta vào đường bay của hạnh phúc. Một thứ hạnh phúc lấp lánh ánh vàng.


Anh nói về cái Chết, về Tình yêu. Bởi hai cái đó vốn là một. Không thể có cái này mà không có cái kia. Trong tình yêu cũng như trong cái chết thì người ta mới nhận ra “vô ngã”. Mà vô ngã là Niết bàn.


Đọc Cao Huy Thuần sảng khoái, như phát hiện giữa những trang sách một kho tàng bí mật, lấp lánh ánh vàng, bởi đó là những lời Phật dạy. Anh làm tour-guide, người dẫn đường, khai thị. Anh nói về cái chết, về linh hồn. Anh dẫn các triết gia đông tây kim cổ để rồi kết luận không có cái chết, cũng chẳng có linh hồn nào bất tử! Trịnh Công Sơn cũng bảo “Không có đâu em này không có cái chết đầu tiên/ và có đâu bao giờ đâu có cái chết sau cùng…”.  Tuệ Sỹ cũng viết đại ý “Cái tử chỉ là chấm dứt của một giai đoạn tạm thời cũng như cái sinh là khởi đầu của một giai đoạn tạm thời khác”.


Tôi hiểu vì sao Bùi Văn Nam Sơn viết trong lời giới thiệu “… sao lạ, cứ đọc xong vài chuyện tôi phải dừng lại khá lâu, có lúc muốn đọc lại. Một cảm giác thật hiếm gặp: vừa bồi hồi, xao xuyến, vừa thấy lòng mình trong trẻo, mát rượi, không gợn một chút bứt rứt hoang mang”. Vậy là thanh tịnh đó. Vậy là hạnh phúc đó.


 


Hoa đào năm ngoái (tr 98), dĩ nhiên “còn cười gió đông” rồi. Cao Huy Thuần luận về chữ “còn” trong câu thơ Nguyễn Du. “Còn” thế nào được cơ chứ? Hoa đào năm ngoái rụng sạch hết rồi. Hoa đào là của năm nay đó chứ. Nhưng với chàng Kim Trọng, nhất định hoa đào năm ngoái vẫn còn đó, còn đó vì vẫn còn thấp thoáng bóng nàng Kiều. Nhưng đừng tưởng Cao Huy Thuần bàn chuyện tình của chàng Kim nàng Thúy. Anh mượn chữ “còn” để luận thời gian.Thời gian của quá khứ hiện tại và tương lai. Luận một lúc, thì ra chả có quá khứ hiện tại vị lai gì cả. Chỉ có cái khoảnh khắc ở đây và bây giờ thôi. Biết sống là sống với cái khoảnh khắc đó. Không thì thôi. “Chỉ có cái khoảnh khắc ấy là có thật. Cái khoảnh khắc ấy chứa đựng tất cả. Thấy để làm gì? Đâu phải để bàn hươu tán vượn triết lý suông. Mà để sống”. Đó là một cách nói khác về một bài kinh của Phật: Người biết sống một mình: Dĩ vãng đã qua rồi/ Tương lai thì chưa tới…


Marc Aurèle của Hy lạp cổ đại có một cách hay: vẽ một vòng tròn nhỏ cho hành động trong một vòng tròn lớn mênh mông của thời gian. Khoanh tròn cái gọi là hiện tại và chia nhỏ ra thành từng khoảnh khắc như những nốt của một bản hòa âm. Hãy đừng muốn cái gì khác ngoài cái ta đang có, thương cái đó, yêu cái đó, amor fati, Nietzsche nói. Nhưng không quên cái vòng tròn lớn của thiên nhiên.


 


Thác là thể phách (tr 167) , lại bàn về chữ “còn” khác: còn là tinh anh. Dẫn từ Socrate tới Sartre, từ Lamartine tới Marcel Proust đến Nguyễn Du…


Cái gì còn? Còn cái gì? Tưởng là linh hồn mà không phải. Không có một cái linh hồn bất biến nào cả. Cao Huy Thuần nói đến tiền kiếp, đến nghiệp, nhân quả, duyên sinh…


“Linh hồn của Socrate đã bay rồi! Linh hồn bay như một cổ xe có cánh do hai con ngựa kéo…” Một ngày đầu thu nghe chân ngựa về chốn xa (TCS) rồi đó chăng? Cao Huy Thuần bèn nhắc lời Phật: hãy niệm tử. Hãy nhớ đến cái chết. Cái chết không xa lạ. Nó thân quen và gần gũi xiết bao. Nhiều điều trong cuộc sống không thể biết chắc nhưng cái chết thì biết chắc, lúc nào đó, cách nào đó. Phật  dạy phải niệm tử. Và nói thêm: Ai làm bạn với Thần chết thì Thần chết chẳng làm khó dễ mình! Đã là bạn bè, ai nỡ làm khó dễ nhau! Bây giờ y học cũng nói đến không chỉ “Chất lượng cuộc sống” mà cả “chất lượng cuộc chết” rồi đó!


 


Nói chuyện triết lý (tr 178), Cao Huy Thuần cũng bàn về cái chết và dẫn Cicéron, trước Tây lịch: “Nói chuyện triết lý, ấy là học chết”, rồi dẫn Epicure, để đi đến cái kết: “luận bàn về cái chết chính là để … trẻ lại. Hơn thế nữa, để bình yên, để hạnh phúc”. “ Và chính vì già trẻ lớn bé gì cũng chết cả, cho nên lúc nào cũng phải nghĩ đến cái chết không đợi đến già”  Sợ chết là vô lý. Nhưng ta vẫn sợ. “Sợ cái không biết”. “Đằng sau cái chết, triết lý đành thoái vị, nhường ngai cho lòng tin, cho tôn giáo.” Cái sợ đó là sợ cái ta tưởng tượng. Thấy sợi dây tưởng con rắn. Chính cái Tưởng gây khổ cho cái Thọ, dẫn đến Hành, Thức không chánh kiến, hại đến cái Sắc trong ngũ uẩn đó vậy. Vì vậy mà phải hành thâm bát nhã để “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”!


 


Phỏng vấn (tr 232) với 3 nhân vật: Người thứ nhất, Descartes, người của ý thức, của lý trí. Khi bàn về sự đam mê trong tình yêu, ông bảo “Hiền nhân không chạy theo đam mê mà hãy suy xét”, hãy dùng lý trí rọi ánh sáng vào đam mê. Người thứ hai. Freud, người của “vô thức”. Vô thức mới quan trọng. Tất cả dồn nén vào vô thức.  Cái “Tôi” quờ quạng “do những xung động, bức bách” gây ra đều là đã bị “Cái ấy” và “Siêu tôi” giật dây! Người thứ ba, một nhà Sư. “Sóng từ đâu đến. Từ biển. Nó trở về đâu. Về biển. Biển và sóng đều cùng một thể”. Và Sư kết luận: Vì thế nên tôi nghĩ phương thuốc để chữa bệnh vướng mắc của ông là học chữ “Không”. Chữ không, tánh không (Sanyata) này dĩ nhiên là chân không của diệu hữu. Chỉ thấy chân không mà chưa thấy diệu hữu cũng không xong. Tiền thức, Mạt-na-thức và A-lại-ya thức phải chuyển thành trí – đại viên cảnh trí hay nhất thiết chủng trí – thì mới giải quyết được vấn đề vậy.


 


Bướm bay (tr 295) tưởng Cao Huy Thuần nói chuyện bay bướm, ái tình chi đó bởi trong bức thư mở đầu khá ướt át: Em chưa quen của tôi…rồi Em bắt đầu quen của tôi và rồi Em đã quen và thương mến của tôi…. cứ tưởng anh đang tán tỉnh một cô nàng tuổi ba mươi như ông lão André Maurois viết cho người đàn bà không quen biết (Lettres à l’inconnue) ngày nào, nhưng không. Đó là chuyện những cánh bướm… chập choạng chết hàng loạt, sẽ có ngày tuyệt chủng vì hóa chất, vì các thức ăn đã bị cấy ghép gene diệt bướm!…“Giận con người đã làm thương tổn thiên nhiên. Con người quá thông minh… chỉ muốn vắt sữa thiên nhiên, hút máu thiên nhiên, cuồng bạo trước thiên nhiên. Con người không biết đọc lời kinh chép trên cánh bướm”.


Phải, chỉ có cái đẹp mới cứu rỗi. Cánh bướm chẳng đẹp sao?  Như Lai đã chép trên đó.


 


Cho nên ta không thể ngắt một bông hoa


Mà không làm rộn một ngôi sao


F. Thompson


 


“Khi con chim bay, nó không cần biết trời là gì, đâu là giới hạn. Nó chỉ bay. Trong bầu trời vô tận” Cao Huy Thuần chia sẻ.


 


Bởi đó là đường bay của hạnh phúc lấp lánh ánh vàng!


 


Đỗ Hồng Ngọc


(Saigon 9.7.2015)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 14, 2015 18:24

July 5, 2015

THỞ và THIỀN

THỞ và THIỀN

BS Đỗ Hồng Ngọc


Lieu Quan (hinh) Tôi đến với Thiền rất trễ. Trước đó, những năm hai mươi tuổi tôi cũng có đọc  thiền, biết thiền qua sách vở, qua Krishnamurti, Suzuki, thầy Minh Châu, thầy Nhất Hạnh… nhưng đọc để biết, để có kiến thức thế thôi. Tôi cảm thấy thiền là cái gì đó huyền bí xa vời, có phần như mê tín dị đoan nên chỉ “kính nhi viễn chi”. Tôi là một bác sĩ, hơn 12 năm làm ở Cấp cứu Bệnh viện Nhi đồng Saigon, rồi hơn 20 năm phụ trách Trung tâm truyền thông và Giáo dục sức khỏe, thực hiện các chương trình Chăm sóc sức khỏe ban đầu (Primary Health Care), tham gia giảng dạy ở đại học Y, viết sách báo v.v… làm việc như điên, cho đến một hôm người ta phải đưa tôi đi bệnh viện để mổ sọ não cấp cứu vì tai biến mạch máu não. Từ lúc lơ mơ đến lúc tỉnh dậy ở phòng hồi sức… hình như tôi đã trải qua một cuộc… phiêu lưu kỳ thú! Khi bước đi được trên nền đất những bước đầu tiên lẩm đẩm như một em bé, tôi thấy quả là một phép lạ. Tôi nhìn tôi trong gương với cái đầu trọc lóc mà thấy tức cười. Bạn bè trong ngành ai cũng thương cho thật nhiều thuốc. Tôi chọn dùng một thứ duy nhất bởi biết bệnh mình không thể chữa bằng thuốc mà phải thay đổi cách sống, cách nghĩ, cách làm. Phải tìm một con đường khác thôi. Rồi tình cờ tôi đọc lại Tâm Kinh “ Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát Nhã ba-la-mật-đa thời chiếu kiến ngũ uẫn giai không, độ nhất thiết khổ ách…”. Những câu kinh xưa mịt mờ bây giờ bỗng sáng rõ lạ lùng với tôi. Phải rồi. Phải tự tại thôi. Phải dựa vào chính mình thôi. Tôi vừa tìm hiểu kinh thư vừa lục toang đống sách y khoa đã học từ mấy chục năm trước để tìm kiếm con đường mới mẻ này. Thì ra đã sẵn có một con đường mà bấy lâu tôi mãi xa lạ. “Đây là con đường độc nhất dẫn tới thanh tịnh cho chúng sanh, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng đắc Niết Bàn…” (Satipatthana, Tứ Niệm Xứ).



Con đường độc nhất ư? Có thể dẫn tới thanh tịnh ư? Còn mong gì hơn khi ta đang sống trong một thời đại đầy “điên đảo mộng tưởng”.  Có thể diệt trừ khổ ưu ư? Còn mong gì hơn khi ta đang sống một nếp sống đầy khổ đau và phiền muộn. Rồi còn thành tựu chánh trí nữa ư?… Thì ra cái “trí” của ta bấy lâu chỉ là cái trí tích cóp, cái “thức” của ta bấy lâu chỉ là cái thức phân biệt, thị phi…


Thầy thuốc chỉ chữa được cái đau mà không chữa được cái khổ, chỉ chữa được cái bệnh mà không chữa được cái hoạn. Do vậy mà dù khoa học y học ngày càng phát triển với những thành tựu đáng kinh ngạc nhưng cũng chỉ là manh mún và thiếu sót, lệch lạc, tình trạng tâm thần, tự tử, bạo lực, bất an và các bệnh do hành vi lối sống gây ra như tim mạch, tiểu đường, béo phì… cứ ngày càng phát triển! Thiền, phải chăng là một lối thoát?


… Và này các Tỳ-kheo, như thế nào là tu tập nhập tức xuất tức niệm?  Ở đây vị Tỳ- kheo đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, ngồi kiết già, lưng thẳng và trú niệm trước mặt. Chánh niệm vị ấy thở vô; chánh niệm vị ấy thở ra. Thở vô dài, vị ấy biết: “Tôi thở vô dài” hay thở ra dài, vị ấy biết: “Tôi thở ra dài” Hay thở vô ngắn, vị ấy biết: “Tôi thở vô ngán” Hay thở ra ngắn, vị ấy biết: “Tôi thở ra ngắn”… (Anapanasatisutta, Thích Minh Châu dịch).


 


Với “kỹ thuật” thiền Anapanasati – Nhập tức xuất tức niệm, An-ban thủ ý hay “Quán niệm hơi thở”-  được dạy trong kinh Tứ niệm xứ (Satipathana): “con đường độc nhất dẫn tới thanh tịnh cho chúng sanh, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí…”, một phương pháp thiền căn bản, có cơ sở khoa học, sinh y học, mang lại sức khỏe, nâng cao chất lượng cuộc sống vừa là con đường tâm linh, giúp “thấy biết” Vô thường, Vô ngã, Không, Duyên sinh, Thực tướng vô tướng…  đưa tới “giải thoát và giải thoát tri kiến” … chẳng phải tuyệt vời sao?


Tôi vừa tìm hiểu Anapanasati trong kinh sách vừa lục lọi lại toàn bộ kiến thức y khoa của mình về cơ thể học, sinh lý học, sinh lý bệnh học và cả mối quan hệ giữa thân và tâm, cơ chế hoạt động của não bộ v.v… rồi có kế hoạch đi vào thiền tập, thực hành, sau khi tham vấn một vài vị sư, thầy mà tôi tin tưởng, quý mến.


Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy thiền định của Phật, từ Tứ niệm xứ (Satipatthàna) tới Thân hành niệm (Kàyagatàsati), rồi Nhập tức xuất tức niệm (Ànàpànasati), đó là THỞ. Kinh viết “Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra. Thở vào dài thì biết thở vào dài, thở ra ngắn thì biết thở ra ngắn…”. Tóm lại, là luôn quán sát hơi thở, đặt niệm (Sati, nhớ, nghĩ) vào hơi thở. Chỉ có vậy. Mà vô vàn. Mà “bất khả tư nghì”!


Nhưng khi đọc câu “Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra…” có thể gây hiểu lầm ở đây, bởi ai mà chẳng biết thở cơ chứ! Mới sinh ra thì đã phải thở rồi kia mà! Thế nhưng ở đây không phải là biết thở, mà là nhận thức được (recognize), ý thức rõ (realize), cảm nhận được (perceive) cái sự thở, cái hơi thở đang đi vào và đang đi ra. Đó mới là điều cốt lõi! Nhận thức, ý thức, cảm nhận, ấy chính là niệm (nhớ), là quán (quan sát, suy tưởng) về sự thở, về hơi thở. Nhờ đó mà một mặt, ta giải thoát tâm ta khỏi những vướng mắc lăng xăng, một mặt ta nhận ra ý nghĩa cuộc sống và từ đó, buông bỏ bao nỗi lo toan, sợ hãi của kiếp nhân sinh để có sức khỏe và hạnh phúc.


Dù gọi là Thiền (Việt) hay Chan (Hoa), Zen ( Nhật)… thì cũng đều có nguồn gốc từ Dhyana (Sanskrit) hay Jhanas (Pali). Theo ngữ nguyên thì Jha là nhìn, là quán sát, là theo dõi và Ana là thở, hơi thở, là khí. Vậy, jhanas hay dhyana chính là “quán sát hơi thở”, “nhận thức hơi thở”.  Vấn đề là tại sao và cách nào để chỉ từ một việc có vẻ rất giản đơn là quán sát hơi thở lại có thể dẫn tới tuệ giác, một sự chuyển hóa từ “khí” mà thành “trí”?


Âu Mỹ mới đi sâu nghiên cứu về thiền chừng khoảng hơn nửa thế kỷ nay nhưng ngày nay thiền đã được coi là một phương pháp trị liệu hiệu quả trong y học. Trong thiền định, hành giả có thể giảm hơn 40% nhu cầu Oxy và giảm 50% nhịp thở. Lúc đầu các nhà khoa học nghĩ rằng thiền cũng giống như giấc ngủ hay nghỉ ngơi tích cực, nhưng qua các nghiên cứu cho thấy thiền khác hẳn, thực sự là một trạng thái tỉnh giác, ở mức tiêu thụ năng lượng thấp nhất tùy trình độ hành giả! Ở những hành giả thực hành thiền dài khoảng 30-40 phút thấy mức lactate trong động mạch giảm, phenylalanine tăng 20%, hoạt động hệ giao cảm giảm trên bề mặt da và nhịp tim cũng giảm đáng kể. Về nội tiết, thấy giảm cortisol (hormone chủ yếu của stress) và ACTH; TSH cũng giảm, trong khi đó arginine vasopressin, được coi là có vai trò trong học tập và trí nhớ lại gia tăng đáng kể. Hiện ngày càng có nhiều nghiên cứu về beta-endorphin, corticotropin, melatonin, DHEA, hứa hẹn giải thích cơ chế tác dụng của thiền trên nhiều mặt về y sinh học…  Hoạt động điện não đồ EEG cho thấy thiền có sự khác biệt với nghỉ và ngủ. Nhờ những tiến bộ về kỹ thuật thăm dò chức năng não bộ như PET (Positron Emission Tomography) và nhất là fMRI (functional Magnetic Resonance Imaging) đo lượng tưới máu não, cho thấy ở thiền giả một số vùng não được tưới nhiều hơn vùng khác, chứng tỏ thiền không phải là giấc ngủ, trái lại là một trạng thái an tịnh tỉnh giác (state of restful alertness). Điều này cho thấy thiền giả không phải tiêu hao nhiều năng lượng cho các hoạt động của vỏ não. Các nghiên cứu về sinh lý học trong thiền vẫn còn đang tiếp diễn, thế nhưng đã chứng minh được thiền có khả năng làm giảm stress, giảm huyết áp, tạo sự sảng khoái… là yếu tố của sức khỏe, của chất lượng cuộc sống.


Thống kê của cơ quan bảo hiểm y tế cho thấy thiền  giúp giảm thời gian nằm viện của bệnh nhân và giảm số lần đi khám bệnh.

Nghiên cứu đối chứng về cơn đau kinh niên, lo âu, trầm cảm, thiền làm giảm 50% các triệu chứng tâm thần nói chung và giảm 70% triệu chứng lo âu.


Một nghiên cứu  trên học sinh cấp 2 có thực tập thiền, cho thấy kết quả học tập tốt hơn, có khả năng tập trung, có thói quen làm việc, cải thiện hành vi (xung đột, hung hãn), tăng lòng tự tín, khả năng hợp tác và quan hệ với người khác.


Thiền cũng giúp làm giảm cân, giảm béo phì, nghiện thuốc lá, rượu và các chất ma túy nói chung. Đặc biệt, một nghiên cứu đối chứng ở 44 bệnh viện cho thấy thiền đã giúp làm giảm sai sót chuyên môn y khoa đến 50%, đồng thời cũng làm giảm 70% các vụ khiếu kiện của bệnh nhân đối với bệnh viện.


Trở lại với thiền Anapanasati, câu hỏi đặt ra là tại sao quán sát hơi thở? Sao lại không chọn các đối tượng khác để quán sát? Thật ra “quán sát” gì cũng được, từ hòn đá, cục sỏi, tới làn sóng, tiếng gió, hạt sương, ánh nắng  … nhưng quán sát hơi thở thì tiện lợi hơn, hiệu quả hơn mà không sợ những tai biến có thể có trong quá trình “hành thiền”. Ngay cả trong cơ thể, tim đập khó theo dõi, hoàn toàn ngoài ý muốn, khó can thiệp. Dạ dày thì làm việc âm thầm, cũng khó mà quan sát. Trừ hơi thở! Hơi thở dễ quan sát nhất vì nó nằm ngay trước mũi mình, ngay dưới mắt mình! Lúc nào cũng phải thở. Ở đâu cũng phải thở. Cái hay nữa là quán sát nó thì không ai nhìn thấy, chỉ riêng ta biết với ta thôi! Mỗi phút lại phải thở cả chục lần. Lúc mau lúc chậm, lúc ngắn lúc dài, lúc phì phò lúc êm dịu. Hơi thở lại rất nhạy với cảm xúc. Trước một cảnh đẹp, ta “nín thở”. Lúc lo âu, ta hổn hển. Lúc sảng khoái ta lâng lâng. Lúc sợ hãi, hồi hộp ta thở nhiều kiểu khác nhau, muôn hình vạn trạng. Và nhờ đó mà thấy vô thường. Nhờ đó mà ta quán sát được cái tâm ta. Thở lại gắn mật thiết với các hoạt động cơ bắp. Khi mệt, ta mệt “bở hơi tai”, mệt đứt hơi, mệt hết hơi; khi khỏe, ta thở nhẹ nhàng sảng khoái! Nhờ đó mà ta quán sát được cái thân ta. Hơi thở chính là sợi dây nhạy cảm nối kết thân với tâm. Thở vừa ý thức, vừa vô thức. Như không cần ta. Như ở ngoài ta. Như không có ta. Ở đó, một trạng thái vô ngã, không thời gian, không không gian. Thở gắn với sự sống chết của kiếp người. Còn sống còn thở, chết hết thở, tắt thở, ngừng thở. Đời người thực ra chỉ là… một hơi thở! Khi chào đời em bé khóc thét lên một tiếng thật to để hít mạnh không khí vào phổi để rồi khi lìa đời, cụ già lại thở hắt ra một cái, trả lại cho đời tất cả những gì đã vay mượn! Giữa hai lần thở vào thở ra đó là những đợt thở… lăn tăn như những làn sóng nhỏ, mà nối kết các làn sóng nhỏ lăn tăn đó lại với nhau ta có cuộc rong chơi trong cõi “Ta bà”! Mỗi hơi thở vào ra trung bình khoảng 5-10 giây. Mỗi giây, trong cơ thể con người đã có hằng trăm triệu tế bào hồng cầu bị hủy diệt và hằng trăm triệu hồng cầu khác được sản sinh. Quán sát hơi thở do đó ta thấy được sự sinh diệt trong từng sát-na.

Thở có thể làm chuyển biến tâm trạng, chuyển hóa cảm xúc, hành vi ta nữa. Đang sôi giận mà kịp nhớ lại, quán sát sự thở của mình thì thấy tức cười, bèn quên giận mà hơi thở được điều hòa trở lại lúc nào không hay: điểm hưng phấn trên vỏ não đã bị dịch chuyển! Nói khác đi, ta có thể dùng cách quán sát hơi thở để tự kiểm soát cảm xúc và hành vi của mình. Quán sát hơi thở cũng lôi kéo ta trở về hiện tại  – không còn đắm mình vào dĩ vãng hay tương lai. Bởi vì thở là thở trong hiện tại. Ở đây và bây giờ.

Phổi ta như một cái máy bơm, lồng ngực như cái xy-lanh (cylindre), cơ hoành là cơ hô hấp chính, như một cái pit-tông (piston) thụt lên thụt xuống ( giống bễ lò rèn). Cơ hoành có thể nhích lên xuống khoảng 7 cm, mà mỗi 1 cm đã hút vào hoặc đẩy ra 250 ml không khí. Thực tế cơ hoành chỉ cần nhích lên xuống chừng một vài cm là đủ… sống. Cũng cần nhớ rằng phổi “phình xẹp” để đưa khí vào ra là nhờ có áp suất thay đổi. Khi áp suất âm trong phổi và các phế nang thì khí bên ngoài tự động lùa vào, tuôn vào, lấp đầy phổi, cho đến một lúc lượng khí bên trong đầy dần lên thì chuyển sang áp suất dương, sẽ đẩy khí ra. Có một thời điểm áp suất cân bằng nhau, hay nói cách khác, áp suất bằng không (0 = zéro), thì khí bên trong cơ thể và bên ngoài vũ trụ chan hòa thành một, không phân biệt. Đó chính là quãng lặng. Quãng lặng đó ở cuối thì thở ra – trước khi thở vào trở lại – thường kéo dài, thong dong, nhẹ nhàng, yên tịnh, vì không hề tốn năng lượng. Như chim lượn bay, không phải vỗ cánh, như xe ngon trớn chạy ở số không, không tốn nhiên liệu! Tôi cho đó chính là giai đoạn “Prana”. Pra có nghĩa là trước và Ana là thở vào (trước thì thở vào cũng có nghĩa là sau thì thở ra). Prana đã được biết đến từ xa xưa. Yoga, khí công, cũng như y học Đông phương đã nói đến Prana từ thời cổ đại. Trong yoga có “pranayama” là kiểm soát hơi thở. Trong thiền định, không còn là vấn đề kiểm soát hơi thở nữa mà hơi thở sẽ tự kiểm soát! Đến một lúc nào đó, khi vào sâu trong thiền định, hành giả sẽ không cảm nhận mình thở nữa (tứ thiền). Hơi thở nhẹ gần như ngưng bặt. An tịnh. Hòa tan. Tan biến. Có thể nói đến một phương pháp thiền – tạm gọi là “Pranasati” ở đây chăng? – tức đặt “niệm” vào quãng lặng. Và thực chất cũng không còn cả niệm, một trạng thái “vô niệm” hoàn toàn chăng? Những hành giả giàu kinh nghiệm (thiện xảo) cho biết có thể vào định ngay hơi thở đầu tiên có lẽ nhờ rèn tập mà khoảng lặng ngày càng dài ra, mênh mông ra như không còn biên giới, như hòa tan vào hư không, lắng đọng, thanh thoát. Lúc đó không còn ý niệm về không gian, thời gian, về ta, về người…


Hô hấp diễn ra trong từng tế bào, nhằm tạo ra năng lượng cho cơ thể hoạt động và tồn tại. Người lao động nặng cần năng lượng gấp ba bốn lần người bình thường, trong đó hoạt động cơ bắp đã chiếm gần một nửa.  Riêng não bộ, với trọng lượng rất nhỏ bé, chỉ khoảng 2% thể trọng mà đã tiêu dùng đến 25% năng lượng của cơ thể. Giận dữ , lo âu, sợ hãi tiêu tốn rất nhiều năng lượng. Cho nên những lúc đó ta dễ cảm thấy kiệt sức, rã rời! Ngủ là một cách giảm tiêu hao năng lượng, nhưng vẫn còn co cơ, vẫn còn chiêm bao. Một đêm ác mộng sẽ thấy bải hoải toàn thân khi thức giấc! Thiền giúp tiết giảm tiêu thụ năng lượng một cách đáng kể, còn hơn cả giấc ngủ. Một khi cơ thể giảm tiêu thụ năng lượng thì các tế bào được nghỉ ngơi, nên toàn thân cảm thấy thấy nhẹ nhàng sảng khoái. Trạng thái nhẹ nhàng sảng khoái đó xảy ra trên từng tế bào của cơ thể. Một cảm giác lâng lâng dễ chịu toàn thân của hành giả, đó chính là trạng thái hỷ lạc (thiền duyệt).


Cơ thể ta có khoảng trăm ngàn tỷ tế bào. Mỗi tế bào thực chất là một “sinh vật” háo ăn, háo làm, háo tiêu thụ Oxy (để kết hợp với thức ăn qua những phản ứng gọi là Oxyt-hóa) nhằm tạo ra năng lượng. Nhưng Oxyt-hóa càng mạnh thì càng tạo thêm các gốc tự do và các chất… bã, làm cho cơ thể mau mệt mỏi, mau già nua! Giống như một thanh sắt để ngoài nắng gió một thời gian sẽ bị Oxyt-hóa thành rỉ sét. Khi cơ thể đã chùng xuống, đã giãn cơ, tức giảm tiêu hao năng lượng một cách đáng kể rồi thì cũng sẽ thấy không cần thiết phải cung cấp các dưỡng chất qua thức ăn (bột, đạm, dầu mỡ)… nữa. Ăn ít mà vẫn đáp ứng đủ nhu cầu năng lượng thì cơ thể đỡ vất vả, các tế bào đỡ hùng hục làm việc, tinh thần sẽ sảng khoái. Các nghiên cứu trên sinh vật bị cho nhịn đói vừa phải thấy sống lâu hơn và trẻ lâu hơn! Hành giả thực hành thiền hơn 5 năm có tuổi già sinh lý trẻ hơn 12 năm so với người cùng tuổi, dựa trên 3 yếu tố là huyết áp, khả năng điều tiết nhìn gần của thị giác và khả năng phân biệt của thính giác.


Ai có thể ‘thở” giùm ai? Ai có thể “thiền” giùm ai?


 


(ĐHN)


(Tập san LIỄU QUÁN, Huế, tháng 5-2015)


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 05, 2015 18:36

Đỗ Hồng Ngọc's Blog

Đỗ Hồng Ngọc
Đỗ Hồng Ngọc isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Đỗ Hồng Ngọc's blog with rss.