Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 103
October 19, 2015
THƯ CHO BÉ SƠ SINH, nhạc Phạm Trọng Cầu, tiếng hát Thu Vàng
thơ Đỗ Hồng Ngọc, nhạc Phạm Trọng Cầu, tiếng hát Thu Vàng
Sau 1975, một hôm, nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu chống nạng đến tìm tôi tại nhà nói là gặp “để tặng cho tác giả thơ” bài nhạc “Thư cho bé sơ sinh” mà anh đã phổ ngày còn ở trong tù, nhờ đọc được bài thơ này của tôi trên một tạp chí y học của bác sĩ Lương Phán (1973)! Anh nói anh viết bài này dành cho giọng hát Thái Thanh, nhưng bây giờ tình thế đã khác! Rồi anh hát thử tôi nghe với cái giọng ồ ề dễ thương của anh! Tôi rất cảm động. Và đó là lần đầu tiên chúng tôi quen nhau.
Bài thơ Thư cho bé sơ sinh tôi viết năm 1965, trong một đêm trực ở Bệnh viện Từ Dũ, sau một ca đỡ đẻ đầu tiên trong đời của một sinh viên y khoa thực tập. Hồi đó, phải học đến năm thứ ba y khoa chúng tôi mới được phép đỡ đẻ trên người. Mỗi sinh viên phải đỡ ít nhất 20 “ca” sanh thường, không bệnh lý. Tối tối, chúng tôi túc trực ở phòng nhận bệnh để “bắt ca”. Một hôm, tôi bắt được ca “4 cm”, nghĩa là ca mà cổ tử cung đã nở gần trọn, sắp sanh. Tôi đưa sản phụ lên phòng sanh, thăm khám, làm vệ sinh các thứ, theo dõi cơn co tử cung, ghi chép cẩn thận vào hồ sơ bệnh án rồi ngồi bên trò chuyện cho sản phụ quên đau. Tôi nghĩ đến mẹ mình, đến những giọt mồ hôi của biết bao bà mẹ chờ sanh khác. Đến gần sáng thì cơn đau đã rột. Lúng túng một cách lành nghề, tôi cũng đã đỡ được ca đầu tiên mẹ tròn con vuông! Lòng lâng lâng tôi đẩy xe cho hai mẹ con về phòng, rồi viết bản “phúc trình”. Trời đã hửng sáng. Bên ngoài khung kính cửa phòng sanh, Sài Gòn tấp nập và hừng hực không khí ngột ngạt những ngày tháng này của năm 1965. Đột nhiên, một cảm xúc trào dâng, tôi viết liền một mạch ngay sau phần bệnh án một bài thơ nhỏ: Thư cho bé sơ sinh.
Sáng hôm sau, giáo sư Hoàng Ngọc Minh đọc bản phúc trình của tôi, gọi tôi vào rầy: “Đỡ đẻ không lo đỡ đẻ, lo làm thơ!”. Chẳng ngờ bài thơ viết vội trong đêm trực đã phổ biến nhanh trong giới sinh viên và nữ hộ sinh thời đó. Không biết ai đã viết lên bảng đen! Bài thơ được đăng trên báo Tình Thương, rồi in lại trong tập thơ “Tình Người” của tôi, năm 1967.
Khoảng năm 1995 tôi có dịp làm việc với ba vị bác sĩ, là giảng viên của Trường Trung học Y tế tỉnh Phú Thọ ở miền Bắc lần đầu vào Saigon. Trong lúc chuyện trò, có người tình cờ nhắc bài thơ “Thư cho bé sơ sinh” của tôi thời sinh viên thì thầy Nguyễn Hồng Hải, một trong ba vị bác sĩ đến từ Phú Thọ bỗng chồm lên, ôm lấy tôi, mừng rỡ: “Thế ra anh là tác giả bài thơ này đó ư?”. Rồi thầy đọc liền một mạch. Thầy nói gần 20 năm nay, năm nào dạy lớp nữ hộ sinh ở Phú Thọ, thầy đều đọc cho họ nghe bài thơ mà thầy không biết tác giả là ai, chỉ nói “khuyết danh” thôi.
Gần đây, tôi tình cờ phát hiện trên mạng, có một bản dịch sang tiếng Anh bài Thư cho bé sơ sinh của Phát (Phat’blog), một người không quen biết, với những lời bình thật sâu sắc! Rồi cô Diệu Hạnh Giao Trinh ở Paris cũng đã dịch sang tiếng Pháp.
Phạm Trọng Cầu sinh ở Phnom-Penh 1935 và mất ở Tp. HCM (Saigon) 1998, tốt nghiệp nhạc viện Paris, còn có bút danh Phạm Trọng. Anh là tác giả của những ca khúc nổi tiếng như Trường làng tôi, Mùa thu không trở lại: Em ra đi mùa thu/ Mùa thu không trở lại/ Em ra đi mùa thu/ Sương mờ giăng âm u…
Bài “Thư cho bé sơ sinh” gần đây cũng đã được nhạc sĩ Võ Tá Hân phổ nhạc và đưa lên youtube. Riêng bài nhạc Phạm Trong Cầu đến nay mới có ca sĩ Thu Vàng hát… “nháp”, với tiếng đàn guitar đệm đơn sơ. Theo Thu Vàng, bài hát không dễ thể hiện vì Phạm Trọng Cầu đã viết bằng nhiều điệu thức như một bài “hát kịch” tùy theo cảm xúc ở mỗi đoạn thơ…!
Thư cho bé sơ sinh
Khi em cất tiếng khóc chào đời
Anh đại diện đời chào em bằng nụ cười
Lớn lên nhớ đừng hỏi tại sao có kẻ cười người khóc
Trong cùng một cảnh ngộ nghe em
Anh nhỏ vào mắt em thứ thuốc màu nâu
Nói là để ngừa đau mắt
Ngay lúc đó em đã không nhìn đời qua mắt thực
Nhớ đừng hỏi vì sao đời tối đen
Khi anh cắt rún cho em
Anh đã xin lỗi chân thành rồi đó nhé
Vì từ nay em đã phải cô đơn
Em đã phải xa địa đàng lòng mẹ
Em là gái là trai anh chẳng quan tâm
Nhưng khi em biết thẹn thùng
Sẽ biết thế nào là nước mắt trong đêm
Khi tình yêu tìm đến
Anh đã không quên buộc étiquette vào tay em
Em được dán nhãn hiệu từ giây phút đó
Nhớ đừng tự hỏi tôi là ai khi lớn khôn
Cũng đừng ngạc nhiên sao đời nhiều nhãn hiệu
Khi em mở mắt ngỡ ngàng nhìn anh
Anh cũng ngỡ ngàng nhìn qua khung kính cửa
Một ngày đã thức giấc với vội vàng, với hoang mang,
Với những danh từ đao to búa lớn
Để bịp lừa để đổ máu đó em
Thôi trân trọng chào em
Mời em nhập cuộc
Chúng mình cùng chung
Số phận
Con người…
Đỗ Hồng Ngọc ( Đỗ Nghê, Bv Từ Dũ, Saigon 1965)
Dưới đây là bản nhạc viết tay của Phạm Trọng Cầu (1973):
Và tiếng hát Thu Vàng: Thư cho bé Sơ Sinh
(Xin phép Thu Vàng cho phổ biến hạn chế nơi đây giữa bạn hè anh em).
October 13, 2015
Duy-ma-cật 09: VÀO CỬA BẤT-NHỊ
Thấp thoáng lời Kinh
Duy-ma-cật 09: Vào cửa Bất Nhị
Đỗ Hồng Ngọc
Vào cửa Bất Nhị (Không-hai) là mục tiêu buổi huấn luyện dành cho Bảo Tích và bạn bè, những vị “Bồ-tát tại gia tương lai” hôm đó tại Tỳ-da-ly. Họ là những vương tôn công tử đầy quyền uy cùng các thiếu gia con nhà viên ngoại giàu có tuy đã phát tâm Bồ đề: “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ/ pháp môn vô lượng thệ nguyện học…” mà vẫn loay hoay chưa tìm được phải bắt đầu từ đâu.
Phật dạy Bảo Tích: “Bồ Tát tùy lòng ngay thẳng (trực tâm) mà khởi làm. Tùy chỗ khởi làm mà được lòng sâu vững (thâm tâm). Tùy lòng sâu vững mà tâm ý được điều phục…”.
Nghĩa là phải luôn bắt đầu với “trực tâm” – lòng ngay thẳng, không phân biệt, không thiên lệch, kỳ thị – thì mới hành được Bồ-tát đạo. Lòng còn thiên lệch, còn kỳ thị, còn quanh co thì còn lâu mới là Bồ-tát! Bởi khi còn chia chẽ, còn phân biệt đối xử (discrimination) thì còn đấu đá, còn tranh giành, còn hơn thua, không thể nào tạo được một “cõi Phật thanh tịnh”!
Thực ra, Bồ-tát tự bản chất đã là bất nhị: “ ở tại nơi sanh tử mà chẳng làm việc ô trược, trụ nơi Niết-bàn mà chẳng diệt độ mãi; hành tánh không mà vẫn trồng các cội công đức; hành vô tướng mà vẫn độ chúng sanh; hành vô khởi mà khởi tất cả thiện hạnh… ”. Bồ-tát luôn đứng giữa đôi bờ, “trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt/ rọi suốt trăm năm một cõi đi về” (Trịnh Công Sơn), vẫn luôn “đi bên cạnh cuộc đời” như thế, dẫu rằng đã có thể qua luôn bên bờ kia, nhưng hãy “hượm”. Muốn vậy, phải được trang bị Chánh kiến mới có cái nhìn không phân biệt nhờ đó mà “thành tựu” được chúng sanh, như Thường Bất Khinh gặp ai cũng vái chào “ngài sẽ là vị Phật tương lai”, như Dược Vương đốt hai cánh tay ngàn năm để không còn thiên kiến. Bồ-tát mà không vào được cửa Bất Nhị, còn phân biệt, còn kỳ thị, còn thấy có ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả thì… chưa phải là Bồ-tát (Kim Cang).
Duy-ma-cật nói với các vị Bồ-tát đang có mặt: “Thưa các nhân giả, Bồ-tát nhập pháp môn Bất-nhị như thế nào? Xin các ngài tùy ý nói ra.”
Câu hỏi đặt ra nhằm mời gọi các vị Bồ-tát trình bày phương cách đã trải nghiệm, thành tựu đã đạt được trong quá trình nhập pháp môn Bất Nhị của mình làm mẫu cho các vị Bồ-tát tại gia tương lai « học tập ».
Bồ-tát Pháp Tự Tại, nói: “Các nhân giả! Sanh và diệt là hai. Pháp vốn không sanh, tức không diệt. Đắc vô sanh pháp nhẫn ấy là nhập pháp môn Bất nhị.”
Sanh tử là chuyện lớn ! Tu là để giải thoát sanh tử. Cho nên chuyện lớn phải đề cập trước hết.
Giải thoát sanh tử là thấy biết sanh tử « không hai ». Không hai dĩ nhiên không phải là một. Sanh có chứ. Tử có chứ. Nhưng sanh tử không hai bởi là một dòng chảy liên tục do duyên sinh, không khởi thủy không chấm dứt. Ta sanh ra vì có cha có mẹ. Cha mẹ mà không duyên với nhau thì còn lâu mới có ta! Cũng vì được sanh ra nên ta được “lập trình” bệnh, lão, tử. Không khác đi được. Như sóng từ nước , nhưng nước và sóng không phải là một. Sóng tùy duyên mà khởi, tùy duyên mà sinh, có sóng to sóng nhỏ, có sóng hung hãn đập vào bờ đá tung bọt trắng xóa, có sóng lăn tăn cuộn mình theo bãi cát dịu êm. Sóng có “kiếp sống” riêng của nó, cũng do cái nghiệp cái duyên nào đó. Nhưng rồi khi sóng về với nước, sóng vẫn là nước, không cần phải “phân biệt đối xử”.
Sóng và nước bất nhị, sanh với tử bất nhị thì cao với thấp, giàu với nghèo, sang với hèn, da xanh da đỏ da vàng da đen đều “bất nhị”.
Nhưng làm sao để vào cửa Bất nhị? Làm sao để sống “bất nhị”? Thì phải “hành thâm” Bát Nhã thôi. Phải thiền định. Phải thấy không, thấy duyên sinh, thực tướng vô tướng… Gaté, gaté, paragaté… Vượt qua, vượt lên, vượt ra …
Bồ-tát Đức Thủ nói: “Ta với vật của ta là hai. Nhân có cái ta nên có vật của ta. Nếu không có cái ta, ắt chẳng có cái gọi là vật của ta. Đó là vào pháp môn Bất nhị”
Có “ta” và có cái “của ta” nên lòng tham và lòng sân mới khởi lên. Khi biết “không phải là ta/ không phải của ta/ không phải là tự ngã của ta” thì gánh nặng đã được đặt xuống!
Bồ-tát Đức Đỉnh nói: “Cấu và Tịnh là hai. Thấy được thật tánh của nhiễm ô thì không có tướng thanh tịnh, bèn tùy thuận với sự tịch diệt của các tướng. Đó là vào pháp môn Không-hai.”…
Có “chiếu kiến ngũ uẩn giải Không” (thấy biết rõ năm uẩn đều không có tự tính riêng biệt, chỉ là do duyên sinh mà hình thành) thì mới thấy thực tướng các pháp là vô tướng, nếu chưa vậy thì vẫn thấy có sanh có diệt, có nhơ có sạch, có tăng có giảm.
Thế rồi các vị Bồ-tát lần lượt nói về Hữu lậu và Vô lậu, Hữu vi và Vô vi, Tận và Bất tận, Minh với Vô minh, Động với Niệm, Ngã và Vô ngã, Sinh tử và Niết bàn… Từng cặp từng cặp có vẻ đối kháng nhau chan chát vậy mà thực ra là “bất nhị”, không-hai. Người đời thì vẫn mãi khổ đau vì cứ so đo, tính toán, này cao này thấp, này sang này hèn, này đẹp này xấu…
Một đời lận đận đo rồi đếm
Mỏi gối người đi đứng lại ngồi!
(Bùi Giáng)
Bồ-tát Thiện Túc nói: “Động với Niệm là hai. Nếu chẳng có động, ắt không có niệm. Không niệm, tức là không phân biệt. Thông đạt lẽ ấy tức là vào pháp môn Bất nhị”
Bồ-tát Sư Tử Ý nói: “Phiền não với không phiền não là hai. Nếu đạt đến chỗ các pháp đều bình đẳng, ắt chẳng sinh khởi những tư tưởng có phiền não hay không có phiền não. Chẳng chấp trước tướng, cũng chẳng trụ nơi không tướng. Đó là vào pháp môn Bất nhị.”
Bồ-tát Tịnh Giải nói: “Hữu vi với vô vi là hai. Nếu lìa khỏi tất cả tính đếm thì tâm như hư không. Nhờ trí huệ thanh tịnh, nên không có chi trở ngại. Đó là vào pháp môn Bất nhị.”
Bồ-tát Điện Thiên nói: “Minh với Vô minh là hai. Thật tánh của Vô minh chính là Minh. Cái sáng suốt cũng không thể nắm giữ, lìa khỏi sự tính đếm. Đối với lẽ ấy, lòng bình đẳng chẳng phân hai. Đó là vào pháp môn Bất nhị.”
Vô minh thực tánh tức Phật tánh
Ảo hoá không thân tức pháp thân
(Chứng đạo ca)
Bồ-tát Đức Tạng nói: “Có chỗ “đắc”, tướng là hai. Nếu không có chỗ “đắc” thì không có giữ lấy hoặc bỏ đi. Không giữ, không bỏ, đó là vào pháp môn Bất nhị.”
Vô vô minh diệc vô vô minh tận nãi chí vô lão tử diệc vô lão tử tận …Vô trí diệc vô đắc…(Tâm kinh)
Và dĩ nhiên, không nên có sự phân biệt Thanh văn với Bồ-tát:
“Tâm Bồ-tát với tâm Thanh- văn là hai. Khi quán tướng của tâm vốn không, chỉ như ảo hóa, thì không có tâm Bồ-tát, không có tâm Thanh văn. Đó là vào pháp môn Bất nhị.” Bồ-tát Diệu Tý nói.
cũng không nên có sự phân biệt tại gia với xuất gia…
“Thế gian với xuất thế gian là hai. Tánh của thế gian là không, như vậy là xuất thế gian. Trong đó chẳng có vào, chẳng có ra, chẳng có sự đầy tràn, chẳng có sự lìa tan. Đó là vào pháp môn Bất nhị.” Bồ-tát Na-la-diên nói.
Bồ-tát Hoa Nghiêm nói: “Do theo cái ngã mà khởi ra hai pháp, đó là hai. Thấy được thực tướng của ngã, thì chẳng khởi ra hai pháp. Nếu chẳng trụ nơi hai pháp, thì không có cái thức, sự nhận biết. Không có chỗ nhận biết, đó là vào pháp môn Bất nhị.”
“Thế nào là lìa cái ta và vật của ta? Ấy là lìa hai pháp. Thế nào là lìa hai pháp? Ấy là thi hành lẽ bình đẳng Khi mình được lẽ bình đẳng này rồi, thì (Bồ-tát) chẳng còn bệnh nào khác nữa » !
Bồ-tát Hỷ Kiến nói: “Sắc với không là hai. Sắc tức là không, chẳng phải sắc diệt mới là không, mà tánh của sắc tự nó là không. Thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy”.
Sắc bất dị không/ Không bất dị sắc/ Sắc tức thị không/ Không tức thị sắc (Tâm kinh).
Bồ-tát Diệu Ý nói: “Mắt với hình sắc là hai. Nếu hiểu được thật tánh của mắt, đối với hình sắc chẳng khởi tham trước, chẳng khởi giận hờn, chẳng khởi si mê, đó gọi là tịch diệt. Cũng vậy, tai với âm thanh, mũi với mùi hương, lưỡi với vị nếm, thân với cảm xúc, ý với các pháp đều là hai. Nếu hiểu được thật tánh của ý, đối với các pháp chẳng khởi tham trước, chẳng khởi giận hờn, chẳng khởi si mê, đó gọi là tịch diệt. Trụ yên ở lẽ này là vào pháp môn Bất nhị.”
Mắt với sắc, nếu thấy biết tánh thấy của mắt, tánh nghe của tai, tánh ngữi của mũi… mà rời bỏ được tham sân si thì đã bình an vô sự. Ấy chính là con đường cư trần lạc đạo, “Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền” (Trần Nhân Tông). Lục căn lục trần dầu tiếp xúc, mà không khởi lên tham sân si thì đã là thanh tịnh, đã là “bất nhị”. Lục căn mà thanh tịnh rồi thì Mạt-na-thức mới trở thành Bình đẳng chánh trí được.
Danh xưng của các vị Bồ-tát thật ra là các Hạnh, các Đức của Bồ-tát. Bồ-tát Pháp Tự Tại nói về sanh diệt là hạnh vô úy thí của Quán Thế Âm, Bồ-tát Đức Thủ giữ giới nói về vô ngã; Tịnh Giải thì chẳng phân biệt Vô vi – hữu vi, Hỷ Kiến thì học hạnh Dược Vương, Diệu Ý thì chuyển các giác quan Thành sở tác trí đến Diệu quan sát trí…
Danh của các vị Bồ-tát thực chất là ngõ vào Phật đạo, thấy biết Bất nhị, thấy biết Như Lai của họ . Có vô số pháp môn được giới thiệu cho các thanh niên trí thức hôm đó ở Tỳ-da-ly để tùy căn cơ mà chọn lựa hành Bồ tát đạo.
Con đường tất yếu vẫn là Tứ niệm xứ “Đây là con đường độc nhất dẫn tới thanh tịnh cho chúng sanh, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí…”, rồi Tứ diệu đế, Bát chánh đạo, Thập nhị nhân duyên, Bát-Nhã Balamat, để thấy biết không, vô ngã, duyên sinh, thực tướng vô tướng… “tâm vô quái ngại, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng!…” (Tâm Kinh).
Các vị Bồ tát mỗi người trình bày con đường tu chứng nhập pháp môn Bất Nhị của mình rồi, bèn thưa hỏi Bồ-tát Văn Thù:
“Thưa ngài Văn Thù, thế nào là Bồ tát vào pháp môn Bất Nhị?”
Bồ-tát Văn Thù nói: “Thưa các vị, theo như ý tôi, đối với tất cả các pháp thì không nói, không thuyết, không chỉ danh, không giải thích, lìa khỏi mọi sự vấn đáp. Đó mới là nhập pháp môn Bất Nhị.”
Văn Thù liền quay sang hỏi Duy-ma-cật: “Chúng tôi mỗi người đều nói ra cả rồi, vậy nhân giả cũng nên nói ra, thế nào là Bồ-tát nhập pháp môn Bất nhị?”
Duy Ma Cật làm thinh. Chẳng nói chẳng rằng!
Văn-thù bèn vỗ tay khen: “Tuyệt diệu! Thật là tuyệt diệu! Cho đến không có cả ngữ ngôn, văn tự, đó mới thật là nhập pháp môn Bất Nhị vậy.”
Lúc đó mọi người mới ngớ ra. Thì ra là vậy! Cứ tưởng Duy-ma-cật… bí!
“Pháp thuận với không, tùy theo vô tướng, ứng với vô tác. Pháp lìa khỏi tốt và xấu. Pháp không có thêm và bớt. Pháp không có sinh và diệt…Tướng pháp là như vậy, há thuyết diễn được sao?”.
Và “Luận đến chỗ cứu cánh của thuyết pháp thì người nói không nói gì hết, không phô bày gì hết. Người nghe không nghe gì hết và không có được một sở đắc nào. Như nhà ảo thuật thuyết pháp với người ảo hóa…”.
Thì ra “nhập” được vào cửa Bất Nhị thì sẽ thấy Như Lai “như như bất động”.
Duy Ma Cật đã “mô tả“ Như Lai như sau: “… chẳng ở bên này, chẳng ở bên kia, chẳng ở giữa dòng; không tối, không sáng; không danh, không tướng; không mạnh, không yếu; không sạch, không nhơ. Chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi… Chẳng lại, chẳng đi. Chẳng ra, chẳng vào, chẳng thủ, chẳng xả…“.
“Không phải hữu tướng, không phải vô tướng, không tác, không khởi, không sanh, không diệt, không sợ, không lo, không mừng, không chán; không phải đã tồn tại, không phải sẽ tồn tại, không phải đang tồn tại…”.
Có người lùng sục truy tìm Như Lai mà không thấy, có người tình cờ thấy biết Như Lai qua tiếng gió, tiếng sóng, tiếng ngói vỡ, tiếng lá rụng ngoài sân, mảnh trăng treo đầu bẹ chuối, sương mai lấp lánh hạt kim cương…
Cho nên với Như Lai “Chẳng thể dùng trí mà hiểu, chẳng thể dùng thức mà biết“. “Không thể dùng tất cả ngôn thuyết để hiển thị hay phân biệt, tất cả ngôn ngữ đàm luận đều dứt tuyệt“ Đến với Như Lai chỉ còn cách ú ớ, quơ tay quơ chân, đánh đấm la hét thôi… hoặc giỏi lắm thì im lặng cười một mình. Ờ há! Vậy hả? Thì ra thế! Cười đây là tự cười mình, tự chế giễu mình bấy nay ngờ nghệch, tưởng bở, tưởng có thể thấy có thể biết, có thể nói năng đàm luận về Như Lai.
Duy-ma-cật lặng thinh là phải. Nói không được chớ không phải được không nói hay không được nói. Thấy mà nói không được. Biết mà nói không được. Chỉ có Phật với Phật mới hiểu nhau thôi. Văn Thù cất tiếng ngợi khen Duy Ma Cật vì họ đang cùng sống trong Như Lai, sống với Như Lai
“Chúng sanh trong cõi này cang cường, khó chuyển hóa, nên Phật phải giảng thuyết bằng ngôn ngữ cứng rắn để điều phục. Đây là Niết bàn, kia là Địa ngục… Bày ra thiên đàng địa ngục, ngạ quỷ súc sanh cho họ sợ, để họ tự sửa cái tâm mình”. Chớ sau cùng Phật dặn: Ta chưa hề nói điều gì cả!
Hạt giống Như Lai bao giờ nó cũng vẫn phải “mọc” ra như thế. Nó vậy là nó vậy. Như thị tướng, Như thị tánh, Như thị thể, Như thị lực… Bổn mạt cứu cánh như thị!
Duy-ma-cật, dù gánh nặng cha mẹ, vợ con, nhà cửa, sản nghiệp…mà vẫn tu hành thành Bồ-tát được là nhờ thấy: « Trí Bát-nhã là mẹ/ Tùy nghi phương tiện là cha/ Pháp hỷ là vợ nhà/ Từ bi là con gái/ Tâm thiện là con trai/ Trần lao là đệ tử/…/Trong lửa sinh hoa sen/ Tại năm dục hành thiền…
Vô lượng ức đấng Như Lai/
Chư Phật với thân mình đây/
Không khác chi đừng phân biệt!”
Không khác chi. Đừng phân biệt! Ấy là “Bất Nhị”!
Phật mở toang kho tàng bí mật của Như Lai, “khai thị” cho chúng sanh “ngộ nhập”. Từ bi là đó. Trí huệ là đó. Bình đẳng là đó. “Thấy biết” Như Lai, sống với Như Lai, Phật tủm tỉm cười một mình. Thôi nhé. Đừng làm phiền Ta nữa nhé. Ca Diếp cũng cười được như vậy nên Phật truyền trao Ca Diếp tiếp tục con đường:
“Bên trời xanh mãi
Những nụ mầm mới
Ðể lại trong cõi thiên thu
hình dáng nụ cười…” (Trịnh Công Sơn).
(ĐHN)
October 12, 2015
“Chời ơi… Áo zài!”
Ghi chép… lang thang
“Chời ơi! Áo zài!”
Chủ nhật rồi, 4.10.15 Hội quán Các Bà Mẹ mời tôi dự buổi ăn sáng đặc biệt tại Bảo tàng Áo dài của họa sĩ Sĩ Hoàng, Long Phước, cách chỗ tôi ở chừng…20 km! Gọi là bữa ăn sáng đặc biệt vì có bắp luộc, khoai mì, khoai lang, dĩ nhiên có nhiều bông hoa và… áo dài!
Nghe có khoai mì khoai lang bắp luộc là tôi khoái rồi! Nơi Sĩ Hoàng thì tôi không lạ. Vì đã mấy lần Sĩ Hoàng mời đến trò chuyện cùng phụ huynh và các em học sinh về tuổi mới lớn. Gần đây nghe anh lập Bảo tàng áo dài, cũng có ý đến tham quan xem sao. Tiếc quá, bảo tàng cửa đóng kín mít!
Trong bụng thế nào hôm nay cũng gặp Sĩ Hoàng, cũng có dịp ngắm anh trong bộ áo dài nam truyền thông. Nhưng không, anh bận đi chấm thi… hoa hậu, áo dài, dạ hội, bikini gì đó chưa về kịp.
Chuyến đi sáng nay còn có nhà thơ Hồ Đắc Thiếu Anh, nhà báo Ngân Hà, bác sĩ Lan Hải, cô giáo Cẩm Vân, bà “bầu” Thanh Thúy và nhiếp ảnh gia Vo Son…và khá đông bạn trẻ!
Đến nơi, đã thấy thấp thoáng nhiều áo dài màu sắc lộng lẫy. “Tranh thủ” nhồm nhoàm khoai bắp các thứ xong, tôi định chuồn nhưng bị níu lại đề nghị phát biểu đôi lời về áo dài rồi hẳn đi, vì mọi người đều biết tôi có viết mấy bài ca ngợi… áo dài!
Không chuẩn bị trước, tôi ngập ngừng đọc mấy câu thơ Nguyên Sa: Có phải em mang trên áo bay/ Hai phần gió thổi một phần mây/ Hay là em gói mây trong áo/ Rồi thở cho làn áo trắng bay… Trời ơi, tôi phục nhà thơ quá! Nhà thơ thấy em thở cách nào mà áo bay lên? Nguyên Sa còn viết “Nắng saigon anh đi mà chợt mát, bởi vì em mặc áo luạ Hà đông…” còn Hoàng Nguyên thì “một chiều lang thang bên dòng Hương Giang, tôi gặp một tà áo tím”, còn Trịnh Công Sơn thì “Ôi áo xưa lồng lộng. đã xô dạt trời chiều…”
Võ Phiến kể chuyện nhà văn Linh Bảo, lần nọ đi dự Hội nghi gì đó ở Mỹ, gặp một ông khách nhìn thấy kêu lên: “Áo zài. Chời ơi!”. Rồi Võ Phiến “luận”: Áo dài mà đi mà múa thì người con gái mới linh động hẳn lên! Vì áo dài nó cho thấy… gió! Những tà áo nhẹ ve vẩy phất phơ trong gió làm cho một thân hình nặng nề nhất, cục mịch nhất, cũng hóa ra thanh thoát (…). Chiếc áo dài VN là một sự dung hòa giữa tự nhiên và văn hóa. Phần trên của nó đề cao thân người, đã có phần dưới rất thanh, thoát hẳn thân người. Nhìn vào người nữ mặc áo dài, sau khi bị lôi cuốn vì cái phần trên, mắt lần dò nhìn xuống, thì ở phần dưới lại chỉ thấy…gió! Vâng, ở đây mắt chỉ thấy có gió, có cái thướt tha, cái bay bướm mà thôi”. (Đất nước quê hương, 1973)…
Ghê chưa! Cho nên áo dài mà mặc thấy cứng đơ cứng ngắc thì không còn là áo dài nữa. Thời trang bây giờ áo dài có khuynh hướng tô vẽ trên nền vải cứng đơ cứng ngắc như vậy nhằm cho thấy tài hội họa của họa sĩ chớ không cho thấy cái hồn của áo dài nữa. Cao Huy Thuần bảo “áo dài và nước mắm” là hai món quốc hồn quốc túy của Việt Nam. Nơi nào có áo dài (dĩ nhiên phất phơ trong gió) thì thế nào cũng nghe ai đó kêu lên “Chời ơi… Áo zài!”.
Còn tôi, tôi có thể khẳng định rằng ngoài chuyện thơ ca, quốc hồn quốc túy gì đó thì áo dài còn là một thứ… thuốc tuyệt vời! Đó là thuốc phòng chống béo phì. Cả thế giới chẳng đang la hoảng “Đại dịch béo phì” đó sao? Béo phì kéo theo cả lô bệnh tật ai cũng biết! Áo dài, đảm bảo phòng chống béo phì tốt nhất, hiệu quả nhất, ít tốn kém nhất, mà lại tăng thêm nữ tính, tăng thêm vẻ đẹp, vẻ dịu dàng cho người phụ nữ VN: “dịu dàng quá dịu dàng không chịu nổi”.
Cả dãi đất miền Trung nổi tiếng từ xưa: ôi quê hương xứ dân gầy… chẳng phải là nhờ chiếc áo dài đó sao? Quyền quý cao sang cũng áo dài, buôn gánh bán bưng cũng áo dài! Chưa kể nữ sinh mà mặc áo dài thì ít đánh nhau, ít quậy phá, nhu mì lễ độ hẳn ra!
Trần Thiên Dũng ở Úc gởi tôi: Đọc hiền huynh, tôi nghĩ nếu nữ sinh mình không được mặc áo dài nữa thì ngoài chuyện thấy trước một tương lai “béo phì”, mà hậu quả trước mắt có thể là phố phường VN vắng bóng áo dài, sẽ mất đi một cái gì đó đặc biệt về văn hóa Việt nam.
Thấy mọi người chăm chú lắng nghe, tôi… hào hứng kể thêm một chuyện áo dài trong “Quốc văn giáo khoa thư”. Ông quan nọ đến tiệm may may một chiếc áo dài. Chủ tiệm hỏi ngài làm quan đã lâu chưa? Tôi làm quan lâu hay mau ông hỏi làm gì? Thưa, nếu ngài mới làm quan, tôi phải may vạt trước dài hơn vạt sau, còn nếu làm quan đã lâu thì tôi phải may vạt sau dài hơn vạt trước mới vừa. Sao lạ vậy? Thưa, mới làm quan thì người ta hãnh tiến, kiêu căng, ưỡn ngực, vạt trước phải dài hơn. Còn làm quan lâu rồi thi lưng thường khom xuống, vạt sau phải may dài hơn vạt trước…
May thay tôi còn kịp chụp được vài tấm hình áo dài trắng của các nữ sinh viên dịu dàng bên thảm cỏ xanh…!
Đỗ Hồng Ngọc.
October 11, 2015
Tài liệu đọc thêm: Y1 (2015) Đại học y khoa PNT
Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
TP Hồ Chí Minh
Bài đọc thêm 1
CHĂM SÓC SỨC KHỎE BAN ĐẦU
(SĂN SÓC SỨC KHỎE BAN ĐẦU)
PRIMARY HEALTH CARE
BS. Đỗ Hồng Ngọc
Cố vấn Bộ môn Y đức- Khoa học hành vi
Nguyên Trưởng Bộ môn KHHV & GDSK,
Mục tiêu: Bài đọc thêm này nhằm giúp SV Y1 hiểu rõ bài giảng tại lớp và làm bài thi được tốt hơn vào cuối Học phần Sức khỏe Cộng đồng (niên khóa 2015-2016):
1) Lịch sử và Thuật ngữ Chăm sóc sức khỏe ban đầu (CSSKBĐ);
2) 8 yếu tố nội dung CSSKBĐ của Alma Ata;
3) 4 nguyên tắc tiếp cận CSSKBĐ.
I . LỊCH SỬ: Hội nghị Alma-Ata 1978 về CSSKBĐ:
Trước Hội nghị về Chăm sóc sức khỏe ban đầu (CSSKBĐ) tại Alma-Ata, 1978,
Tổ chức Sức khoẻ Thế giới (WHO) nhận định:
– 80% dân chúng không được chăm sóc sức khỏe một cách thỏa đáng và tình trạng sức khỏe nói chung là không thể chấp nhận được;
– Nhân sự, kinh phí và trang thiết bị phân phối không công bằng – tập trung chủ yếu ở đô thị trong khi đa số dân chúng sống ở vùng nông thôn;
– Hệ thống y tế rập khuôn theo tây phương, là một hệ thống chủ yếu dựa vào điều trị, vào bệnh viện với kỹ thuật học cầu kỳ, tốn kém, không quan tâm đến bối cảnh kinh tế văn hóa và nếp sống của người dân địa phương;
– Đào tạo theo kiểu cũ, không phù hợp;
– Môi trường xã hội và thiên nhiên thay đổi. Nhiều bệnh tật mới xuất hiện, phức tạp, phản ánh tình trạng kinh tế – xã hội – chính trị, nên không thể giải quyết vấn đề đơn thuần bằng cách tiếp cận lâm sàng, cá thể như trước mà đòi hỏi phải có một phương pháp tiếp cận mới;
Hội nghị quốc tế về Săn sóc Sức khỏe Ban đầu (SSSKBĐ) được tổ chức từ ngày 6-12 tháng 9-1978 tại Alma-Ata, Kazakhstan, do WHO và UNICEF bảo trợ, với 134 nước- trong đó có Việt Nam- và 67 tổ chức quốc tế tham dự.. Hội nghị đưa ra Bản Tuyên ngôn nổi tiếng về SSSKBĐ là Tuyên ngôn Alma-Ata, gồm 10 điểm, là chiến lược y tế toàn cầu nhằm đạt mục tiêu “Sức khỏe cho mọi người” (SKCMN)..
Từ Hội nghị Alma-Ata 1978 đến nay, đã có 4 hội nghị quốc tế khác xem xét lại toàn bộ chiến lược CSSKBĐ để điều chỉnh cho phù hợp với tình hình mới.
Tại Madrid, 2003, Hội nghị đã đưa ra những định hướng chiến lược cho CSSKBĐ nhằm đạt Mục tiêu SKCMN ở thế kỷ 21 và Mục đích Phát triển Thiên niên kỷ (Millennium Development Goals) do Liên Hợp Quốc đề ra.
Tại Argentina, 8/2007, Hội nghị quốc tế về Sức khỏe cho Phát triển của WHO khẳng định lại, CSSKBĐ là chìa khóa để đạt mục đích Phát triển thiên niên kỷ với nhiều cơ hội và thách thức mới.
Tại Canberra, Astralia (Úc) tháng 7/2014, một Hôi nghị về Nghiên cứu trao đổi kiến thức lồng ghép nhằm cải thiện hiệu quả CSSKBĐ, đã trình bày kết quả các Nghiên cứu, thảo luận về Phương pháp học, về Chính sách, tiếp tục duy trì và phát triển mạng lưới lồng ghép giữa Nghiên cứu, Thực hành, Chính sách để nâng cao hiệu quả CSSKBĐ.
CSSKBĐ hiện vẫn là nền tảng triết lý và chính sách y tế của Tổ chức sức khỏe thế giới (WHO), nhằm xây dựng một hệ thống y tế phù hợp, đáp ứng tình hình mới với sự thay đổi nhanh chóng về mô hình bệnh tật, về dân số học và về kinh tế- xã hội. Hằng năm các nước đều có những hội nghị, hội thảo rút kinh nghiệm, đưa Lý thuyết vào Thực tiễn sinh động và hiệu quả phù hợp với từng quốc gia.
Việt Nam là một trong những nước đầu tiên cam kết thực hiện Mục đích Phát triển Thiên niên kỷ, với quan điểm xuyên suốt: Con người là vốn qúy của xã hội và sức khỏe là vốn quý của con người; Lấy phòng bệnh làm gốc, điều trị là quan trọng. Mạng lưới y tế 4 cấp với nhiều thành tựu; Nhưng cũng đang gặp nhiều khó khăn trong tình hình mới.
Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch (tiền thân là Trung tâm Đào tạo và Bồi dưỡng Cán bộ Y tế TP. HCM) với mục tiêu đào tạo những bác sĩ đa khoa hướng về cộng đồng, có khả năng làm tốt công tác điều trị ở bệnh viện đồng thời thực hiện tốt các chương trình sức khỏe tại công đồng.
II. NỘI DUNG
2.1 Thuật ngữ CSSKBĐ
Chăm sóc Sức khỏe Ban đầu được định nghĩa:
“ là sự săn sóc sức khỏe thiết yếu, dựa trên những phương pháp và kỹ thuật học thực tiễn, có cơ sở khoa học và được chấp nhận về mặt xã hội, phổ biến đến tận mọi cá nhân và gia đình trong cộng đồng, qua sự tham gia tích cực của họ với một phí tổn mà cộng đồng và quốc gia có thể đài thọ được ở bất cứ giai đoạn phát triển nào, trên tinh thần tự lực và tự quyết. Nó là một bộ phận hợp thành vừa của hệ thống y tế Nhà nước – mà trong đó, nó giữ vai trò trọng tâm và là tiêu điểm chính – vừa của sự phát triển chung về kinh tế xã hội của cộng đồng. Nó là nơi tiếp xúc đầu tiên của người dân với hệ thống y tế, đưa sự chăm sóc sức khỏe đến càng gần càng tốt nơi người dân sống và lao động, trở thành yếu tố đầu tiên của một quá trình săn sóc sức khỏe lâu dài “ ( Tuyên ngôn Alma-Ata, 1978).
Để hiểu rõ thuật ngữ trên, cần chú ý các điểm sau đây:
Chăm sóc sức khỏe ban đầu = Primary Health Care = Soins de Santé primaires, gồm các khái niệm:
Care = Soins = Săn sóc, Chăm sóc
Săn sóc là đáp ứng nhu cầu.
Health = Santé = Sức khỏe
Sức khỏe khác Y tế, WHO (1946) định nghĩa: “Sức khỏe là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái về thể chất, tâm thần và xã hội, chứ không phải chỉ là không có bệnh hay tật”.
Primary = Primaires = Ban đầu
Từ “Ban đầu” này dễ gây nhầm lẫn là “sớm, mới đầu, còn nhỏ, sơ bộ, cơ sở…”, thực ra không phải vậy mà bao gồm những ý nghĩa như sau: Đó là sự săn sóc sức khỏe:
1. Thiết yếu;
2. Kỹ thuật học thực tiễn, khoa học, được xã hội chấp nhận;
3. Phổ biến đến tận cá nhân và gia đình;
4. Tự lực, tự quyết;
5. Tham gia tích cực;
6. Phí tổn vừa phải;
7. Gần gũi nơi người dân sống và lao động;
8. Nằm trong sự phát triển chung về kinh tế – xã hội của địa phương.
2.2 Các yếu tố nội dung của CSSKBĐ:
Có 8 yếu tố nội dung tối thiểu của CSSKBĐ do Alma-Ata đề ra:
1. Giáo dục sức khỏe
2. Dinh dưỡng
3. Môi trường – Nước sạch
4. Sức khỏe bà mẹ trẻ em – Kế hoạch hóa gia đình
5. Tiêm chủng mở rộng
6. Phòng chống bệnh dịch địa phương
7. Chữa bệnh và chấn thương thông thường.
8. Thuốc thiết yếu.
Ngoài 8 yếu tố tối thiểu trên, mỗi quốc gia đề thêm các yếu tố cần thiết khác,
như Việt Nam đề thêm 2 yếu tố sau đây (trở thành 10 yếu tố):
9. Quản lý sức khỏe
10. Xây dựng và củng cố mạng lưới y tế cơ sở.
2.3 Nguyên tắc tiếp cận CSSKBĐ:
Như vậy CSSKBĐ không phải là sự săn sóc sức khỏe cơ bản, ở tuyến trước, chỉ dành riêng cho các nước chậm phát triển, cho người nghèo, dân quê; trái lại nó là một chiến lược y tế nền tảng, xuyên suốt hế thống y tế, có tính phổ quát, nhân bản, công bằng và bình đẳng, trong đó sức khỏe được coi là yếu tố của sự phát triển, mang tính chính trị với sự cam kết của mỗi quốc gia (political commitment).
Để thực hiện thành công CSSKBĐ, phải dựa trên các nguyên tắc :
2.3.1 Cam kết chính trị (Political commitment):
Sức khỏe là yếu tố của sự phát triển, tạo sự ổn định về chính trị- xã hội, không thể coi chăm sóc sức khỏe là một việc làm tốn kém mà phải đầu tư tương xứng. Phải có một hệ thống y tế đạt đến sự công bằng và bình đẳng, mang tính nhân văn. Đây là sự cam kết chính trị của mỗi quốc gia.
2.3.2 Tham gia cộng đồng (Community Involvement)
Sự tham gia tích cực của cá nhân và cộng đồng là một yếu tố quyết định thành công trong CSSKBĐ: tự trách nhiệm, tự lực, tự quyết. Sự tham gia tích cực bao gồm từ giai đoạn lập kế hoạch, đến triển khai và kiểm tra giám sát, tận dụng mọi tài nguyên sẵn có của cộng đồng.
2.3.3 Phối hợp liên ngành (Multisectoral Cooperation)
Phát triển sức khỏe phải là sự phối hợp hoạt động trong khu vực y tế và những hoạt động của các khu vực khác, đặc biệt là giáo dục, nông nghiệp, chăn nuôi, công nghiệp, nhà ở, giao thông, công trình công cộng…
2.3.4 Kỹ thuật học thích hợp (Appropriate Technology)
Là sự phối hợp giữa phương pháp, kỹ thuật và trang thiết bị, cùng với người sử dụng chúng – góp phần giải quyết các vấn đề sức khỏe một cách phù hợp và có hiệu quả;
2.4 Chiến lược CSSKBĐ trong tình hình mới:
Thế giới biến động nhanh chóng, tạo ra nhiều thách thức mới:
2.4.1 Vấn đề sức khỏe:
– Các bệnh dịch mới: HIV/AIDS, SARS, H5N1…
– Bệnh cũ bộc phát: Lao, Sốt rét, Ung thư, Tiểu đường, tâm thần…
– Bệnh mạn tính gánh nặng lâu dài
– Bệnh do hành vi lối sống
Yếu tố nguy cơ: môi trường, rượu, thuốc lá
Dinh dưỡng
Thiếu vận động
Thương tích: bạo hành, vũ khí, chiến tranh, tai nạn giao thông
Trẻ tật nguyền (bệnh thai nhi)
– Hệ thống y tế lỗi thời, lạc hậu, đào tạo không phù hợp.
2.4.2. Dân số thay đổi:
– Xã hội già đi bệnh mạn tính, gánh nặng xã hội- y tế
– Trong khi đó, tuổi thọ rút ngắn (HIV/AIDS) ở một số quốc gia nghèo khó
2.4.3.Kinh tế- Xã hội biến chuyển:
Toàn cầu hóa, Kỹ nghệ hóa và Đô thị hóa Ngoài 8 yếu tố tối thiểu trên, mỗi quốc gia đề thêm các yếu tố cần thiết khác, như Việt Nam đề thêm 2 yếu tố (trở thành 10 yếu tố):
Môi trường sống biến chuyển (xã hội và thiên nhiên)
Di dân làm thay đổi cấu trúc cộng đồng
Chọn giới tính, xáo trộn cân bằng sinh học
Gia tăng khoảng cách giàu nghèo, nhu cầu săn sóc sức khỏe phức tạp.
Hệ thống giá trị gia đình, cộng đồng bị sói mòn
Lối sống cạnh tranh, căng thẳng, ít vận động
Yếu tố nguy cơ: Rượu, thuốc lá, ma túy, mại dâm, sai dinh dưỡng…
Kỹ nghệ hóa, đô thị hóa rệu rã hệ thống y tế cơ sở, trang thiết bị, xáo trộn về nhân lực
Toàn cầu hóa di dân, hợp tác lao động, yếu tố nguy cơ gia tăng
Thị trường lao động mở: mất nguồn nhân lực, cạnh tranh giữa công và tư, giữa y tế
và các ngành khác, giữa nước giàu và nghèo.
2.4.4 Mô hình CSSKBĐ trong tình hình mới:
– Do vậy, chính sách và mô hình CSSKBĐ trong tình hình mới phải:
· Mềm dẽo, uyển chuyển.; Mô hình đa dạng, phù hợp, sáng tạo;
· Đáp ứng nhanh nhu cầu và đòi hỏi ngày càng cao, ngày càng phức tạp của người dân, trên tinh thần gần dân; tiếp cận dựa vào dân số mục tiêu ( population-based) thay vì chỉ dựa vào cộng đồng; chú ý nâng cao chất lựơng cuộc sống (QOL);.
· Dựa trên chứng cứ (evidence-based indicators), không áp đặt;
· Đặt trọng tâm chăm sóc sức khỏe đúng nơi, đúng lúc, đúng chuẩn;
· Kết hợp CSSKBĐ và các chức năng Y tế công cộng ( giám sát YTCC, nâng cao sức khỏe, phòng bệnh, công bằng trong chăm sóc sức khỏe…);
· Quan tâm bệnh mạn tính do dân số ngày càng già đi;
· Quan tâm kinh tế y tế, quản lý y tế và đào tạo nhân lực.
III. KẾT LUẬN
Tóm lại, trong tình hình mới, với những thay đổi nhanh chóng về mô hình bệnh tật, về dân số học, về kinh tế xã hội, CSSKBĐ vẫn là một chìa khóa của chính sách y tế tòan diện, nhân bản, gắn sức khỏe vào phát triển đất nước.
Từ góc độ đó, CSSKBĐ mang ý nghĩa chính trị, tạo sự bình đẳng và công bằng xã hội, các quốc gia ý thức vấn đề này:
Đặt vấn đề sức khỏe lên vị trí hàng đầu của nghị sự, chương trình phát triển;
Y tế không chỉ khu trú trong điều trị bệnh tật mà phòng bệnh là chính. Sức khỏe do nhiều yếu tố tác động, do vậy, một mình y tế không thể mang lại sức khỏe cho mọi người.
Phát triển sức khỏe không phải là một gánh nặng của quốc gia mà trái lại, sức khỏe là yếu tố tối cần thiết để phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xã hội, đầu tư đúng mức, tấn công vào nghèo đó, dốt nát và bệnh tật.
Tp HCM, tháng 10 năm 2015.
BS Đỗ Hồng Ngọc
dohongngocbs@gmail.com
Bài đọc thêm 2:
Khác biệt giữa Chăm sóc sức khỏe ban đầu (Primary Health Care)
và Chăm sóc ban đầu (Primary Care)
BS Đỗ Hồng Ngọc
Không ít người nhầm lẫn giữa Chăm sóc sức khỏe ban đầu (CSSKBĐ) và Chăm sóc ban đầu (CSBĐ). Đây là hai thuật ngữ mang hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, cần được phân biệt rõ để có hướng triển khai đúng nhằm bảo vệ và nâng cao sức khỏe người dân. Sự khác biệt nằm ở từ “Sức Khỏe”. Trong tiếng Anh cũng phân biệt rõ Primary Health Care (PHC) và Primary Care (PC). CSSKBĐ có mục tiêu làm sao cho người dân khỏe mạnh, ít phải bệnh tật, trong khi CSBĐ lại có mục tiêu là chữa bệnh sớm khi đã có bệnh.
Như ta biết “Sức khỏe là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái (well-being) về thể chất, tâm thần và xã hội chứ không phải chỉ là không có bệnh hay tật”( Tồ chức sức khỏe thế giới -WHO, 1946), do vậy chuyện làm sao cho người dân có sức khỏe – CSSKBĐ – không thể là chuyện của ngành y tế mà là chuyện của nhà làm chính trị- dân biểu, nghị sĩ, nhà lãnh đạo. Chính vì thế mà một trong các nguyên tắc chủ yếu để thực hiện CSSKBĐ thành công ở mỗi quốc gia, mỗi địa phương là sự cam kết chính trị (political commitment). Một nhà chính trị biết vì dân, biết lo cho hạnh phúc của dân thì quan tâm phòng bệnh, chứ không phải thấy dân bệnh nhiều thì mừng, gấp gấp mở nhiều bệnh viện để kiếm tiền, coi y tế là một “mũi nhọn kinh tế”! Trái lại họ sẽ lo xây dựng hệ thống dự phòng sao cho hiệu quả, lo nâng cao dân trí, an toàn vệ sinh thực phẩm, phòng tránh tai nạn, cung cấp nước sạch, vệ sinh môi trường… Những chuyện như vậy làm sao y tế một mình làm được? Cho nên cần phải có sự phối hợp liên ngành, cần có giao thông công chánh, thông tin truyền thông, giáo dục đào tạo, tài nguyên môi trường v.v… Ai có thể điều khiển nổi « dàn nhạc » này ? Hỏi tức là trả lời vậy.
Mặt khác, vì con người thì phải già, phải bệnh (sanh lão bệnh tử), nên khi có bệnh thì y tế phải có trách nhiệm chăm sóc “ban đầu” cho dân, không xong thì phải lo chăm sóc… “ban cuối”. Y tế phải chịu trách nhiệm tổ chức mạng lưới chăm sóc sao cho tốt, gần dân, thầy hay thuốc giỏi, đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh rất bức xúc của dân một cách ít tốn kém, công bằng và bình đẳng. Nhà chính trị sẽ hỗ trợ, tạo điều kiện cho y tế làm. Nhớ rằng “thầy hay thuốc giỏi” nằm ở chỗ nguồn nhân lực. Đào tạo thầy thuốc- người chịu trách nhiệm trước sinh mạng người dân mà chỉ trông vào số lượng thì chỉ càng làm mất lòng tin, càng gây thêm cái gọi là “quá tải” bệnh viện!
Về phía người dân cũng phải tự bảo vệ và nâng cao sức khỏe của bản thân, gia đình và cộng đồng chứ không thể “khoán trắng” cho y tế, lệ thuộc vào thầy vào thuốc, nên mới cần phải có sự tham gia cộng đồng. Đây là các nguyên tắc căn bản của CSSKBĐ!
Ngày nay với những thay đổi nhanh chóng về mô hình bệnh tật, toàn cầu hóa, đô thị hóa, già hóa dân số, bất bình đẳng trong chăm sóc sức khỏe thì CSSKBĐ vẫn là nền tảng, chìa khóa của một chính sách y tế nhân bản, gắn sức khỏe với phát triển của một đất nước.
Như vậy, CSBĐ thực chất là chăm sóc y tế (medical care) ngay khi người dân ốm đau, bệnh hoạn, cấp cứu, chấn thương… sẽ là chuyện của hệ thống y tế công cũng như tư, tây y cũng như đông y, hệ thống nhà thuốc, chữ thập đỏ… Hệ thống y tế này chăm sóc, điều trị các bệnh cấp tính và mạn tính thường gặp ở tuyến đầu cũng như tham gia các chương trình sức khỏe bà mẹ trẻ em, kế hoạch gia đình, tiêm chủng, chăm sóc người cao tuổi. ( Phân loại quốc tế về Chăm sóc ban đầu International Classification of Primary Care– ICPC).
***
Biển Thước (401-310 trước Công nguyên) là một thầy thuốc người nước Triệu thời Đông Chu liệt quốc nổi tiếng là “thần y”. Một hôm Ngụy vương hỏi Biển Thước: “ Ta nghe nói ba anh em nhà thầy đều giỏi y thuật, thử nói ta xem trong ba người, y thuật của ai cao minh nhất?”
Biển Thước đáp: “Anh cả của thần y thuật cao minh nhất, anh hai của thần thứ nhì, còn thần kém nhất trong ba anh em”.
Ngụy vương ngạc nhiên: “Vậy sao thầy nổi tiếng trong thiên hạ còn hai anh thầy không ai biết đến?”
Biển Thước đáp: “ Vì anh cả thần chữa bệnh cho người khi bệnh chưa xảy ra, người bệnh trông như không có bệnh gì cả cho nên người ta không ai biết anh thần đã phòng bệnh cho họ từ trước; còn anh hai của thần trị bệnh ngay khi người ta mới phát bệnh, nên người ta cho rằng anh hai thần chỉ chữa được bệnh vặt mà không biết rằng nếu để bệnh trầm trọng thì nguy hiểm tính mạng nên chỉ nổi tiếng ở vùng quê, còn thần thì chữa khi bệnh tình người ta đã nguy ngập, tính mạng bị đe dọa… Điều thần làm là phá huyết mủ, phẫu thuật, đắp thuốc, những việc dính đến máu me, nên thần mới vang danh thiên hạ, nhưng dù bệnh có cứu được cũng thường để lại di chứng… Thần thua xa hai anh thần nhưng thiên hạ ít người biết vậy! (theo Trang tử tâm đắc, Yu Dan, bản dịch Lê Tiến Thành – Dương Ngọc Hân, NXB Trẻ 2011).
Vậy có thể nói người anh cả của thần y Biển Thước thực hiện CSSKBĐ, anh hai thực hiện CSBĐ còn Biển Thước làm công tác điều trị ở tuyến… trên vậy!
(ĐHN)
October 10, 2015
Năm học mới
Thư gởi bạn xa xôi (10.2015),
Đúng như bạn nói, vài tuần nay mình khá bận! Năm học mới đã bắt đầu tại trường Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Tp.HCM (Saigon). Hai năm nay, năm nào cũng có cả ngàn sinh viên Năm thứ nhất bạn ạ! Đông quá, không đủ chỗ, phải chia ra làm 4 giảng đường ở các tầng khác nhau. Sinh viên chỉ trực tiếp nghe thầy ở một giảng đường (508) còn các giảng đường khác (407, 507, 602) chỉ… nghe tiếng và nhìn slides qua màn hình. Năm ngoái còn tệ hơn vì thậm chí nghe cũng không rõ. Năm nay có tiến bộ, nghe đã tốt hơn, và có gắn một cái camera… để sinh viên có thể nhìn bóng thầy thấp thoáng! Chỉ có vậy!
Sinh viên Y1 Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch (2015)
Đây là những buổi học qua video, còn thì có thể 4 thầy (cô) cùng lúc giảng cho 4 lớp với cùng một nội dung. Dĩ nhiên với số lượng sinh viên quá đông như vậy, thầy trò đều phải hết sức cố gắng. Hy vọng nhà trường sẽ được quan tâm “đầu tư” tương xứng trong thời gian tới để chất lượng đào tạo được nâng cao, đặc biệt với ngành y, thiết thân với sức khỏe và sinh mạng con người. Nhớ lại thuở ban đầu, Trường chỉ có 44 sinh viên cho năm thứ Nhất. Những năm sau đó, nhiều nhất cũng chỉ đến vài ba trăm!
Với mình, năm thứ Nhất y khoa là năm vô cùng quan trọng. Đó là điểm khởi hành, là thời “nhập môn”. Sinh viên mới vào trường, đầy bỡ ngỡ nhưng cũng đầy lý tưởng, ước mơ. Đây là lúc cần “truyền trao”… một ít kiến thức và rất nhiều tấm lòng. Trong các buổi giàng, mình dành thì giờ để “kể chuyện” cho các em nghe, chuyện về nghề, về nghiệp, về nghĩa vụ, về phương pháp học hành, thi cử… Bài giảng năm nay, do sinh viên đông, học như học “từ xa”, mình thu gọn nội dung (cốt lõi), sử dụng nhiều hình ảnh, dùng phương pháp kể chuyện… để giảng bài thay vì “nhồi nhét” kiến thức. Dĩ nhiên SV sẽ phải tự học qua bài giảng được cung cấp và tài liệu đọc thêm. Sinh viên cũng có những buổi thảo luận nhóm để có dịp tương tác, trao đổi. Với thời công nghệ thông tin tiến bộ như hiện nay, việc tự học trở nên ngày càng quan trọng. Vai trò của người thầy là “chỉ đường dẫn lối” thôi. Nhưng dù thế nào, y khoa vẫn là “dạy nghề”, phải thực hành bằng cách “cầm tay chỉ việc” là rất quan trọng.
Trong các tuần lễ “nhập môn” này, mình vẫn phụ trách các bài “Chăm sóc Sức khỏe Ban đầu” (Primary Health Care), Khoa học hành vi và Giáo dục sức khỏe, Y đức… cùng với thầy Trương Trọng Hoàng. ThsBs Hoàng đã làm việc chung với mình hơn phần tư thế kỷ nên rất hiểu nhau. Do tuổi tác, mình dạy ngày ít dần đi và giao cho thầy Hoàng đảm nhận nhiệm vụ chính.
Gởi bạn vài tấm hình để trả lời thắc mắc sao lâu không thấy thư bạn xa xôi gì cả, bận lắm hay sao nhé!
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
October 4, 2015
“Một cốt cách ở đời” *
Đỗ Hồng Ngọc
(Vài cảm nghĩ khi đọc Cuối Cùng của Võ Phiến, NXB Thế kỷ 21, 2009)
Cuối Cùng của Võ Phiến là sự Mộc Mạc.
Suốt một đời người đeo đẳng văn chương chữ nghĩa, chẽ sợi tóc làm tư, lặn lội vào những nẻo u uẩn ngóc ngách của lòng người, bỗng dưng cuối cùng hiện ra trước mắt một vầng sáng: Mộc Mạc.
Phải, Mộc Mạc. Đó là tựa của một bài Thơ đặt ở trang cuối cùng của cuốn Cuối Cùng, như một khép lại: Những hẹn hò từ nay khép lại. Thân nhẹ nhàng như mây… Chút nắng vàng giờ đây cũng vội… (Trịnh Công Sơn). Với tôi, Cuối Cùng là bài thơ, một bài thơ Thiền. Nhiều người tưởng Võ Phiến là một nhà văn, hóa ra ông là một nhà thơ. Đọc kỹ đi rồi thấy. Có người mắt tinh đời sớm nhận ra điều đó: “Võ Phiến là thi sĩ. Mà là thi sĩ của trần gian nữa. Dù có khi anh viết bằng văn xuôi”. (Đặng Tiến).
Cuối Cùng của Võ Phiến là một tập sách trang nhã. Bìa cứng cổ điển. Nhưng bìa bọc ngoài lại là một mầu trời xanh và mây trắng với những cái bóng của Võ Phiến. Không phải hình, mà bóng. Một cái lõi, xưa cũ, cứng cáp bên trong; một cái vỏ, bay bỗng, tuyệt mù.. bên ngoài.
Trang cuối không đánh số trang của Cuối Cùng như đã nói là một bài thơ. Mộc Mạc là tên bài thơ đó. Một sự trở về. Về với mộc mạc, với chất phác. Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt (Trịnh Công Sơn). Chắc vậy rồi. Với Võ Phiến, chốn về đó là xóm là làng, có con trâu, con chó, con gà, đàn cò, lũ sẻ, bà con cô bác…
Xưa từng có xóm có làng
Bà con cô bác họ hàng gần xa
Con trâu, con chó, con gà
Đàn cò, lũ sẻ, đều là cố tri.
(Mộc Mạc)
“Đều là cố tri”. Họ thân thiết nhau quá, gần gũi nhau quá mà! Đi sao nỡ. Xa sao đành. Chẳng qua gặp thời thế thế thời thôi. Một người như Võ Phiến hẳn “chân bước đi mặt còn ngoảnh lại, từ cái mái nhà cái thềm nhà cho đến bụi cây khóm cỏ…:” (Quốc văn giáo khoa thư). Rứt sao ra.
Rồi Võ Phiến viết tiếp sau khi ngậm ngùi nhớ những “cố tri” đó của mình:
Múa may mãi chẳng ra gì
Mỗi lâu thêm một cách ly rã rời.
( Mộc Mạc)
Ra gì là ra gì? “Múa may” coi cũng được quá đó chứ! Mọi người đều nhìn nhận Võ Phiến, dù không nói ra mà ai cũng phải gật gù. Đông Hồ khen “nhất” miền Nam. Nguyễn Hiến Lê khen tùy bút sâu sắc, tự nhiên, dí dỏm, đa dạng…Đặng Tiến bảo tác giả hàng đầu, Nguyễn Hưng Quốc kêu nhà văn của thế kỷ… Vậy mà múa may mãi chẳng ra gì sao? Tới bây giờ, nhớ Đêm xuân trăng sáng hay Thác đổ sau nhà của ông đọc từ hồi còn trẻ, tôi vẫn còn như nghe nhột nhột ở đùi trong…
Tuyệt vời nhất ở hai chữ: mỗi lâu. Vừa mộc mạc vừa sâu thẳm. Sao lại “mỗi lâu”? Ấy là bởi ông đã đợi chờ, đã nghe ngóng, đã mong mỏi nó “rụp rụp” cho rồi, ai dè nó cứ dùng dằng dủng dẳng, bực cả mình. Rụp rụp như cái dao phay chặt thịt mà ông từng thấy ở một người đàn ông mặc áo thun, bán hủ tíu, quơ dao múa may mấy cái rồi rụp rụp ngon lành. Đầu này nó cứ đủng đỉnh, cứ lằng nhằng. Nó càng đủng đỉnh, càng lằng nhằng ông càng bẽn lẽn vì đã có đôi lần ông làm thơ “giã biệt” gởi cho “những người ở lại’ rồi, thế mà, chính ông lại ở lại. “Quê” quá chứ phải không? Nhưng mỗi lâu rồi thì sao? Thì, khổ thay, cứ mỗi lâu nó lại thêm một cách ly, rã rời! Cách ly? Rã rời? Ông thấy hình như mọi người đâu đó đã sẵn sàng cả rồi, hồi hộp chờ đợi cả rồi, vậy mà chuyện lại không tới. Tẻn tò, tản ra, xa dần, quên lãng… ? Tự ông, ông cảm thấy “ngượng ngập vu vơ”. Ngượng ngập. Vu vơ. Văn viết không ra, chỉ có thơ mới “nói lên” được: mỗi lâu thêm một cách ly rã rời…
Thân tàn đất lạ chơi vơi
Trông lên chỉ gặp bầu trời là quen.
( Mộc Mạc)
Người ta thì gần đất xa trời, ông thì gần trời xa đất. Đất lạ, trời quen. Với người xa xứ “lạc loài đến đây” như ông thì cách ly với con trâu, con chó, con gà, đàn cò, lủ sẻ đã đành là khổ, mà cách ly với những thân tình càng khổ hơn: “Gần đây nhiều lần nghe những trao đổi tưng bừng về các hướng thơ văn cũ mới, bị không khí sôi nổi lôi cuốn mạnh, tôi xum xoe nhấp nhỏm. Bỗng chợt buồn, tặc lưỡi: Mình còn được bao nhiêu ngày tháng? Những chuyện … như thế… trên đời… ối dào! ( Người ơi người ở dài dài, tr45)”. Mãn Giác thiền sư chẳng đã từng than “Sự trục nhãn tiền quá/ Lão đầu tùng thượng lai…” đó sao? Còn “rã rời”. Làm sao mà không rã rời cơ chứ? Có cái gì gắn với cái gì đâu. Toàn tạm bợ, lắp ráp cả đó chứ. Ngũ uẩn giai không mà! Bài thơ “Cũng Hợp” –lại Thơ- mở đầu cho cuốn Cuối Cùng, ông chẳng bảo “lắp ráp” xài chơi, lâu ngày chầy tháng thấy “cũng hợp”, cũng OK. Rồi đến một lúc nghĩ hay là ta… ở lại trần gian luôn chừng nghìn năm nữa cũng được. Để rồi giật mình: đã lắp ráp thì hẳn có lúc phải rời ra. Một câu hỏi đặt ra: Lắp ráp để chi? Để “trưa nào cũng bay” ( tr 139) chớ chi. Hoàn thành nhiệm vụ rồi thì rã. Rã rồi lại ráp không chừng. “Cả năm uẩn chúng quấy ta là thế” (Cũng Hợp). Võ Phiến hiện nguyên hình thành một… thiền sư!
Dặn lòng lòng vẫn nao nao
Ta đi mây ở, trưa nào cũng bay
Nhưng thiền sư mà có cái chuyện dặn lòng này mới lạ! Dù sao thì cũng chỉ nao nao thôi. Nao nao khác với bừng bừng. Đó là khi ông nhìn những phút “ân tình” của chim câu: “…cái đuôi con chim mái, vẹt qua một phía… “. Xong. Rồi bay. Trưa nào cũng bay. Ông thấy “nao nao”. Nao nao quá chớ. Nó đến nó đi hờ hững thản nhiên. Sao trời nỡ đọa đày nhau đến thế? (Cũng Hợp, tr 17).
*
“Cái còn lại của một cốt cách : ít ỏi quá, mong manh quá”. (Hình bóng cũ, tr 32).
Không đâu. Cái cốt cách ở đời của Võ Phiến theo tôi không ít ỏi quá, cũng chẳng mong manh quá. Nó đáng cho ta ngã mũ chào. Với một nụ cười tủm tỉm, hân hoan.
Đỗ Hồng Ngọc
(2010)
………..
(*) Hình bóng cũ, Võ Phiến.
“Một cốt cách ở đời” (*)
Đỗ Hồng Ngọc
(Vài cảm nghĩ khi đọc Cuối Cùng của Võ Phiến, NXB Thế kỷ 21, 2009)
Cuối Cùng của Võ Phiến là sự Mộc Mạc.
Suốt một đời người đeo đẳng văn chương chữ nghĩa, chẽ sợi tóc làm tư, lặn lội vào những nẻo u uẩn ngóc ngách của lòng người, bỗng dưng cuối cùng hiện ra trước mắt một vầng sáng: Mộc Mạc.
Phải, Mộc Mạc. Đó là tựa của một bài Thơ đặt ở trang cuối cùng của cuốn Cuối Cùng, như một khép lại: Những hẹn hò từ nay khép lại. Thân nhẹ nhàng như mây… Chút nắng vàng giờ đây cũng vội… (Trịnh Công Sơn). Với tôi, Cuối Cùng là bài thơ, một bài thơ Thiền. Nhiều người tưởng Võ Phiến là một nhà văn, hóa ra ông là một nhà thơ. Đọc kỹ đi rồi thấy. Có người mắt tinh đời sớm nhận ra điều đó: “Võ Phiến là thi sĩ. Mà là thi sĩ của trần gian nữa. Dù có khi anh viết bằng văn xuôi”. (Đặng Tiến).
Cuối Cùng của Võ Phiến là một tập sách trang nhã. Bìa cứng cổ điển. Nhưng bìa bọc ngoài lại là một mầu trời xanh và mây trắng với những cái bóng của Võ Phiến. Không phải hình, mà bóng. Một cái lõi, xưa cũ, cứng cáp bên trong; một cái vỏ, bay bỗng, tuyệt mù.. bên ngoài.
Trang cuối không đánh số trang của Cuối Cùng như đã nói là một bài thơ. Mộc Mạc là tên bài thơ đó. Một sự trở về. Về với mộc mạc, với chất phác. Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt (Trịnh Công Sơn). Chắc vậy rồi. Với Võ Phiến, chốn về đó là xóm là làng, có con trâu, con chó, con gà, đàn cò, lũ sẻ, bà con cô bác…
Xưa từng có xóm có làng
Bà con cô bác họ hàng gần xa
Con trâu, con chó, con gà
Đàn cò, lũ sẻ, đều là cố tri.
(Mộc Mạc)
“Đều là cố tri”. Họ thân thiết nhau quá, gần gũi nhau quá mà! Đi sao nỡ. Xa sao đành. Chẳng qua gặp thời thế thế thời thôi. Một người như Võ Phiến hẳn “chân bước đi mặt còn ngoảnh lại, từ cái mái nhà cái thềm nhà cho đến bụi cây khóm cỏ…:” (Quốc văn giáo khoa thư). Rứt sao ra.
Rồi Võ Phiến viết tiếp sau khi ngậm ngùi nhớ những “cố tri” đó của mình:
Múa may mãi chẳng ra gì
Mỗi lâu thêm một cách ly rã rời.
( Mộc Mạc)
Ra gì là ra gì? “Múa may” coi cũng được quá đó chứ! Mọi người đều nhìn nhận Võ Phiến, dù không nói ra mà ai cũng phải gật gù. Đông Hồ khen “nhất” miền Nam. Nguyễn Hiến Lê khen tùy bút sâu sắc, tự nhiên, dí dỏm, đa dạng…Đặng Tiến bảo tác giả hàng đầu, Nguyễn Hưng Quốc kêu nhà văn của thế kỷ… Vậy mà múa may mãi chẳng ra gì sao? Tới bây giờ, nhớ Đêm xuân trăng sáng hay Thác đổ sau nhà của ông đọc từ hồi còn trẻ, tôi vẫn còn như nghe nhột nhột ở đùi trong…
Tuyệt vời nhất ở hai chữ: mỗi lâu. Vừa mộc mạc vừa sâu thẳm. Sao lại “mỗi lâu”? Ấy là bởi ông đã đợi chờ, đã nghe ngóng, đã mong mỏi nó “rụp rụp” cho rồi, ai dè nó cứ dùng dằng dủng dẳng, bực cả mình. Rụp rụp như cái dao phay chặt thịt mà ông từng thấy ở một người đàn ông mặc áo thun, bán hủ tíu, quơ dao múa may mấy cái rồi rụp rụp ngon lành. Đầu này nó cứ đủng đỉnh, cứ lằng nhằng. Nó càng đủng đỉnh, càng lằng nhằng ông càng bẽn lẽn vì đã có đôi lần ông làm thơ “giã biệt” gởi cho “những người ở lại’ rồi, thế mà, chính ông lại ở lại. “Quê” quá chứ phải không? Nhưng mỗi lâu rồi thì sao? Thì, khổ thay, cứ mỗi lâu nó lại thêm một cách ly, rã rời! Cách ly? Rã rời? Ông thấy hình như mọi người đâu đó đã sẵn sàng cả rồi, hồi hộp chờ đợi cả rồi, vậy mà chuyện lại không tới. Tẻn tò, tản ra, xa dần, quên lãng… ? Tự ông, ông cảm thấy “ngượng ngập vu vơ”. Ngượng ngập. Vu vơ. Văn viết không ra, chỉ có thơ mới “nói lên” được: mỗi lâu thêm một cách ly rã rời…
Thân tàn đất lạ chơi vơi
Trông lên chỉ gặp bầu trời là quen.
( Mộc Mạc)
Người ta thì gần đất xa trời, ông thì gần trời xa đất. Đất lạ, trời quen. Với người xa xứ “lạc loài đến đây” như ông thì cách ly với con trâu, con chó, con gà, đàn cò, lủ sẻ đã đành là khổ, mà cách ly với những thân tình càng khổ hơn: “Gần đây nhiều lần nghe những trao đổi tưng bừng về các hướng thơ văn cũ mới, bị không khí sôi nổi lôi cuốn mạnh, tôi xum xoe nhấp nhỏm. Bỗng chợt buồn, tặc lưỡi: Mình còn được bao nhiêu ngày tháng? Những chuyện … như thế… trên đời… ối dào! ( Người ơi người ở dài dài, tr45)”. Mãn Giác thiền sư chẳng đã từng than “Sự trục nhãn tiền quá/ Lão đầu tùng thượng lai…” đó sao? Còn “rã rời”. Làm sao mà không rã rời cơ chứ? Có cái gì gắn với cái gì đâu. Toàn tạm bợ, lắp ráp cả đó chứ. Ngũ uẩn giai không mà! Bài thơ “Cũng Hợp” –lại Thơ- mở đầu cho cuốn Cuối Cùng, ông chẳng bảo “lắp ráp” xài chơi, lâu ngày chầy tháng thấy “cũng hợp”, cũng OK. Rồi đến một lúc nghĩ hay là ta… ở lại trần gian luôn chừng nghìn năm nữa cũng được. Để rồi giật mình: đã lắp ráp thì hẳn có lúc phải rời ra. Một câu hỏi đặt ra: Lắp ráp để chi? Để “trưa nào cũng bay” ( tr 139) chớ chi. Hoàn thành nhiệm vụ rồi thì rã. Rã rồi lại ráp không chừng. “Cả năm uẩn chúng quấy ta là thế” (Cũng Hợp). Võ Phiến hiện nguyên hình thành một… thiền sư!
Dặn lòng lòng vẫn nao nao
Ta đi mây ở, trưa nào cũng bay
Nhưng thiền sư mà có cái chuyện dặn lòng này mới lạ! Dù sao thì cũng chỉ nao nao thôi. Nao nao khác với bừng bừng. Đó là khi ông nhìn những phút “ân tình” của chim câu: “…cái đuôi con chim mái, vẹt qua một phía… “. Xong. Rồi bay. Trưa nào cũng bay. Ông thấy “nao nao”. Nao nao quá chớ. Nó đến nó đi hờ hững thản nhiên. Sao trời nỡ đọa đày nhau đến thế? (Cũng Hợp, tr 17).
*
“Cái còn lại của một cốt cách : ít ỏi quá, mong manh quá”. (Hình bóng cũ, tr 32).
Không đâu. Cái cốt cách ở đời của Võ Phiến theo tôi không ít ỏi quá, cũng chẳng mong manh quá. Nó đáng cho ta ngã mũ chào. Với một nụ cười tủm tỉm, hân hoan.
Đỗ Hồng Ngọc
(2010)
………..
(*) Hình bóng cũ, Võ Phiến.
October 2, 2015
THIỀN với SỨC KHỎE NGƯỜI CAO TUỔI
Thư gởi bạn xa xôi,
Nhân Ngày Quốc Tế Người Cao Tuổi (IDOP) 1.10, mình nhận lời mời của nhóm các bạn trẻ SGC (Phùng Minh Bảo, Thùy Linh, người đã giúp thực hiện trang nhà www.dohongngoc.com) và Nha khoa Apona (Hồng Anh), có buổi giao lưu thân mật về THIỀN với SỨC KHỎE NGƯỜI CAO TUỔI cho một số bạn bè thân hữu.
Hóa ra người cao tuổi thì ít (có lẽ do đi lại khó khăn) mà người chưa cao tuổi thì nhiều! Lúc đầu dự kiến 25 bạn thôi, để có thể trao đổi sâu nhưng sau đó có hơn 40 bạn đến tham dự. BTC cũng có trực tuyến để các bạn ở xa cũng tham dự được.
Phần mình chỉ giới thiệu một phương pháp thiền có tính khoa học cao, lại đơn giản, an toàn và hiệu quả… là Quán Niệm Hơi Thở (Anapanasati), rất phù hợp cho người cao tuổi, hay mắc nhiều bệnh mạn tính cùng lúc, nếp sống lại nhiều căng thẳng, lo âu…
Dĩ nhiên cũng dựa trên bảng nhu cầu của Maslow áp dụng cho người cao tuổi, gồm nhu cầu sinh lý (ăn, ngủ, vệ sinh….), nhu cầu an toàn, tình cảm, nhu cầu khẳng định mình và nhu cầu tâm linh.
Các bạn trẻ trong BTC
Phương pháp Thiền được giới thiệu để thực hành gồm các bước: THỞ BỤNG + NIỆM + QUÁN hơi thở. Phần “trình diễn” nhờ Bảo thực hiện và sôi nổi nhất là phần trả lời thắc mắc, chia sẻ kinh nghiệm của mọi người.
Dưới đây là phần quay film buổi giao lưu do Trần Quang Hiếu thực hiện và đã đưa lên youtube. Chân thành cảm ơn Hiếu.
Có điều Hiếu quay tài tử, hình ảnh và âm thanh chưa được tốt lắm nhưng cũng xin chia sẻ trước với các bạn nơi đây.
Hy vọng phần quay film của BTC sẽ tốt hơn, sẽ giới thiệu sau. Vậy nhé!
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
September 29, 2015
Duy-ma-cật 8. PHẬT ĐẠO
Thấp thoáng lời Kinh
8. Phật đạo
Đỗ Hồng Ngọc
Văn-thù hỏi Duy-ma-cật: Bồ-tát làm cách nào để thông đạt Phật đạo? (Bồ-tát vân hà thông đạt Phật đạo?).
Duy-ma-cật đáp: Nếu Bồ-tát làm những việc trái đạo thì sẽ thông đạt Phật đạo (Nhược Bồ-tát hành ư phi đạo, thị vi thông đạt Phật đạo).
Thiệt là choáng váng! Bồ-tát phải làm những việc “trái đạo” mới thông đạt Phật đạo ư? Mà đúng vậy! “Phật đạo” ở đây không phải là Đạo Phật. Phật-đạo là con đường trở thành Phật. Cũng như Bồ-tát đạo là con đường trở thành Bồ-tát. Do vậy, câu hỏi của Văn Thù đặt ra là “muốn thành Phật thì Bồ-tát phải làm những gì?”. Duy-ma-cật trả lời muốn thành Phật thì Bồ-tát phải làm những việc “trái đạo”, không như người ta vẫn nghĩ, dám làm những việc ngược thói đời, những việc không giống ai… thì mới hy vọng thành Phật được! Nếu cứ trốn lên núi cao rừng thẳm, chui vào hang đá, ngồi dưới gốc cây, ôm bình bát đi khất thực… thì còn lâu mới thành Phật!
Đây vẫn là buổi thuyết giảng chủ yếu dành cho các vị “Bồ-tát tại gia tương lai” hôm đó tại thành Tỳ-da-li, ở nơi thất “trống trơn” của đại gia Duy-ma-cật. Đối tượng đích vẫn là Bảo Tích và năm trăm vị thiếu gia, vương tôn công tử, xuất thân từ các gia đình quyền quý, từng tranh bá đồ vương, có người tay từng trót nhúng chàm, nhúng máu, và các thiếu gia con nhà trưởng giả, không ít người giàu sang bất chánh, mặc dù nay đều đã “phát tâm Bồ-đề” nhưng chưa thể cắt ái từ thân vì còn nặng gánh gia đình, xã hội…
Đức Phật và các Đại Bồ-tát, Đại đệ tử “xuống núi” lần này đến tận Tỳ-da-ly nhằm mở rộng con đường Bồ-tát đạo, đưa đạo vào đời, tạo nên một “cõi Phật thanh tịnh” nơi chốn Ta-bà đầy ô trược mà thành Tỳ-da-ly là một điển hình. Phương pháp tiếp cận dựa vào cộng đồng với tham gia cộng đồng, kỹ thuật học thích hợp… đã được triển khai với các Bồ-tát tại chỗ “tùng địa dũng xuất” như Am-ba-pa-li, Duy-ma-cật… Các buổi thuyết giảng bằng phương pháp giáo dục chủ động với cách hỏi-đáp sinh động, sắm vai (role playing) hào hứng đã mang lại những chuyển biến tích cực không chỉ cho các Bồ tát tại gia tương lai mà cả các đệ tử lâu nay còn nhiều vướng mắc trong cách nghĩ, cách làm.
Huệ Năng từ phương Nam tới Hoàng Mai, lễ bái Ngũ Tổ, Tổ hỏi:
– Ngươi là người phương nào? Đến đây muốn cầu chuyện gì?
Huệ Năng đáp:
– Đệ tử là người quê mùa ở đất Lãnh Nam. Từ xa đến bái kiến Đại sư, chỉ cầu làm Phật mà thôi, không cầu chuyện gì khác!
Tổ dạy:
– Ngươi là người đất Lãnh Nam, lại là kẻ quê mùa, sao làm Phật được?
Huệ Năng thưa:
– Bạch Hòa thượng, người có Nam bắc, chứ Phật tánh không có Bắc nam. Thân quê mùa của con không giống với thân Hòa thượng, nhưng Phật tánh nào có khác gì?
(Pháp bảo đàn kinh, Trí Hải dịch).
Chỉ muốn làm Phật, không muốn làm gì khác ư? Có tham vọng quá đó không? Không. Phật muốn vậy mà! Phật muốn ai ai cũng thành Phật. Phật chỉ đường dẫn lối. Không giấu giếm điều chi. Sẵn sàng “khai thị” cho tất cả chúng sanh “ngộ nhập” Tri kiến Phật. Nào đây là kho tàng bí mật của Như Lai, nào đây là Như Lai tạng… Phật vẫn nói “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”, bởi chúng sanh đều có Phật tánh như Phật, không sai khác.
Bồ-tát làm cách nào để thành Phật ư? Bồ-tát phải làm những việc trái đạo (phi đạo), nghĩa là những việc trái với thói thường, thấy vậy mà không phải vậy, thì mới… thành Phật được! Dĩ nhiên để có thể làm được những việc “phi đạo” đó, Bồ-tát phải được trang bị tận răng, phải thực hành đầy đủ “giới định huệ” tới nơi tới chốn, phải hành thâm Bát Nhã “chiếu kiến ngũ uẩn giai Không”, thấy biết duyên sinh, vô ngã, thực tướng vô tướng… thấy biết chân không mà diệu hữu, đại bi mà không ái kiến! “Ở nơi sinh tử mà chẳng làm việc ô trược, ở nơi Niết-bàn mà chẳng diệt độ mãi mãi; đi với ma, mà vẫn thị hiện hàng phục chúng ma; hành Vô tướng mà vẫn độ chúng sanh…”.
Khi Phật thành đạo dưới cội Bồ-đề, Ngài nghĩ khó truyền đạt cho ai khác con đường giải thoát khó tin, khó hiểu này, vì nó ngược đời quá… May thay sẵn lòng từ bi rộng lớn Phật nhìn thấy trong đầm sen bùn lầy hôi thối kia những cánh sen vẫn nở đẹp tuyệt vời, và những cánh sen còn hé nụ, lấp ló trong bùn đất. Từ đó mà có con đường “Chuyển pháp luân” suốt 49 năm không mệt mỏi cùng với lớp đệ tử này, lớp đệ tử khác, mong mang an vui hạnh phúc đến cho “Cõi người ta”.
Ngày nào nửa đêm rời bỏ kinh thành, vợ đẹp con ngoan, ngôi vị thái tử, Cồ Đàm quyết chí ra đi tìm con đường giải thoát:
“Dòng Anoma sóng nhấp nhô bờ lau xanh
Nhìn làn nước biếc Thích Ca ngài lòng vững bền
Thôi con hãy về để ta vui ánh vàng
Ta đã quyết tìm đạo sáng cứu chúng sanh…”
(Hoàng Trọng Cang).
Thiện Tài đồng tử được Bồ tát Văn Thù khai ngộ, lên đường tìm thầy học đạo, bắt đầu học với Tỳ kheo Đức Vân, Hải Vân, Thiện Trụ để có được những bước đi căn bản của giới, huệ, định, làm hành trang lên đường, dấn thân vào đời, học cùng các thiện tri thức, từ người buôn bán lăn lóc giữa chợ đời đến các trưởng giả giàu sang nứt đố đổ vách, đến các tiên nhân ngoại đạo, các Ưu-bà-di, kỹ nữ lầu xanh, cả vua chúa, thần linh, trời đất trăng sao, cây cỏ… cuối cùng đến với Phổ Hiền. Tri hành hợp nhất, sau khi trải qua 53 chặng đường gian khó đầy cạm bẫy, ở đâu và lúc nào Thiện Tài cũng tìm thấy bài học đã được truyền trao.
Đồ tễ buông dao thành Phật. Buông dao là quay đầu lại. Là thay đổi nếp nghĩ nếp làm. Kẻ phạm tôi vô gián như Đề bà đạt đa, A-xà-thế, rồi cũng được độ, một khi đã sám hối, bởi “quay đầu là bờ”.
Bồ-tát đi trên con đường thành Phật bằng những cách riêng của mình. Với lời nguyện “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”… nên nấn ná cõi Ta-bà, thấy sinh tử – niết bàn không hai, phiền não bồ-đề không khác. Tìm thấy trâu, cỡi trâu về, thổi sáo trên lưng trâu, mất cả người lẫn trâu, vẫn chưa xong, còn vác dép xách cá, thõng tay vào chợ.
Duy-ma-cật là một “mô hình” của vị Bồ-tát tại gia đó: Thị hiện có vợ con, mà tu hạnh thanh tịnh; phục sức đồ quý báu nhưng dùng các tướng tốt là để trang nghiêm thân mình, lấy niềm vui hành thiền làm món ăn ngon, đến nơi cờ bạc để hóa độ người. Vẫn thọ học các đạo khác, mà chẳng bỏ chánh tín. Rành sách vở thế gian, mà thường hâm mộ pháp Phật. Tham gia kinh doanh làm ăn lợi lộc mà chẳng lấy đó làm vui. Dự vào việc chính trị, mà cứu hộ tất cả chúng sanh. Thậm chí vào chốn lầu xanh, để chỉ rõ chỗ tội lỗi của sắc dục, vào quán rượu để hướng thiện cho những người nghiện ngập…”.
Văn Thù vặn hỏi: “Thế nào là Bồ Tát làm những việc phi đạo?”
Duy-ma-cật đáp: “ Nếu Bồ Tát làm năm tội… vô gián mà chẳng có buồn giận!”
Vô gián là tội sa địa ngục vĩnh viễn mà Bồ-tát vẫn dám làm để được vào… địa ngục. Bồ-tát mà không vào thì ai vào cho? Muốn thành tựu chúng sanh, muốn tịnh Phật quốc độ đâu có cách nào hơn… vào địa ngục, vì ở đó chúng sanh đang nheo nhóc, khổ đau nhất! Khi Duy-ma-cật nói ra điều này, hẳn không ít các vị vương tôn công tử có mặt buổi hôm đó đã thở phào, nhẹ nhõm!
Vào địa ngục mà còn được thì vào các cõi súc sanh, ngạ quỷ, Atula, thiên, nhân, sáu cõi luân hồi rộng mở đâu có khó khăn gì! Thế nhưng,
“…đến súc sinh mà không vô minh; đến ngạ quỷ mà đầy đủ công đức. Lên cõi trời sắc giới, vô sắc giới mà chẳng chút kiêu mạn…”
“… làm như tham dục mà lìa mọi nhiễm trước; làm như sân nhuế mà chẳng chút giận hờn; làm như ngu si mà dùng trí huệ điều phục tâm mình…”
“Làm như” thôi! Giả đò, giả bộ… vậy thôi. Bồ-tát luôn ý thức rõ việc mình làm, biết chỉ là “thị hiện” để “thành tựu chúng sanh”, như người mẹ hiền giả vờ nổi giận đánh mắng con là để dạy con nên người, không phải vì ghét bỏ.
“Làm như keo lận mà thí xả hết. Làm như bất tuân giới cấm mà trụ nơi hạnh thanh tịnh. Làm như nóng giận mà từ hòa, nhẫn nhục; làm như giải đãi mà thật siêng tu công đức; làm như động loạn mà thường trụ nơi niệm và định; làm như ngu si mà thông đạt cả trí huệ thế gian và xuất thế gian; làm như dua nịnh dối trá mà giỏi về phương tiện…
Làm như kiêu căng ngạo mạn mà như chiếc cầu chịu cho người người giẫm đạp, làm như đầy phiền não mà lòng thường trong sạch…”
“Làm như già cả, ốm yếu, bệnh hoạn, tàn tật, cùng khổ, hạ tiện…ăn mặc rách rưới, gầy gò, dơ dáy mà thiệt ra không phải vậy, lúc nào cũng ung dung tự tại, đầy đủ công đức, bố thí, trì giới, vượt thoát mọi sợ hãi, lo âu cái già cái chết cái bệnh cái đau…
Làm bộ như ngu đần, dốt nát mà biện tài vô ngại, tùy cơ ứng biến, vào chốn gian tà, hang hùm nọc rắn mà không sợ hãi…”.
Duy Ma Cật hỏi lại Văn Thù để làm rõ tại sao Bồ-tát lại phải hành phi đạo mới mong thông đạt Phật đạo.
“Những gì là hạt giống Như Lai?” (Hà đẳng vi Như Lai chủng?)
Văn-thù đáp: Có thân này là hạt giống Như Lai.
Thì ra vậy! Thân là hạt giống của Như Lai. Không có sắc thì làm gì có thọ, tưởng, hành, thức? Có thân mới có thọ, có thọ mới có tưởng, có tâm mới có pháp. Thân bất tịnh/ thọ thị khổ/ tâm vô thường/ pháp vô ngã. “Vô thân hữu hà hoạn?” Lão Tử nói vậy! Nên Bồ-tát phải hành thâm Bát Nhã, chiếu kiến ngũ uẩn giai Không mới xong.
Vô minh với ái là hạt giống Như Lai.
Không có vô minh thì mọi sự đâu có xảy ra! Còn ái dục là gốc của khổ đau. Ái tận thì hết chuyện! Nhưng… còn lâu mới tận! Nghiệp báo oan gia đời này kiếp khác thì có.
Tham, sân, si là hạt giống Như Lai.
Thì ra vậy! Ai bày ra tham sân si? Như Lai chứ ai.
Bốn điên đảo, năm triền cái, sáu nhập, bảy thức xứ, tám tà pháp, chín não xứ, mười bất thiện… đều là hạt giống Như Lai.
Tóm lại, hạt giống của Như Lai toàn thứ… dữ, thứ độc…! Nào điên đảo, nào triền cái, nào tà pháp, não xứ, bất thiện… và trăm ngàn vô số vô lượng vô biên thứ dữ thứ độc khác đều là “hạt giống” của Như Lai cả!
Như Lai xấu ác vậy sao? Không, Như Lai chẳng xấu ác, chẳng thánh thiện. Như Lai là Như Lai. Tathagata. Vô sở tùng lai diệc vô sở khứ. Chẳng từ đâu đến chẳng đi về đâu. Nhưng… nhờ có Như Lai mà chúng sanh có phiền não, nhờ có phiền não mà có Bồ-đề. Bồ-đề mọc từ phiền não như sen mọc trong bùn.
Văn Thù kết luận: “…sáu mươi hai kiến với tất cả phiền não đều là hạt giống Như Lai.”
Hạt “giống” Như Lai như vậy nên nó sẽ “mọc” lên đủ thứ như vậy, buộc Bồ-tát phải thực hành “phi đạo” mới có cách giải quyết. Bố-tát sẵn sàng “…hiện làm dâm nữ/ Dắt dẫn kẻ háo sắc/ Trước lấy dục dụ người/ Sau khiến vào trí Phật”; rồi giả làm mệnh quan, giả làm phú thương… “Vào kiếp có bệnh dịch/ Hiện làm các cây thuốc/ Vào kiếp có đói khát/ Hiện làm đồ uống ăn/ Trước là cứu đói khát/ Sau giảng dạy chính pháp”.
Nhưng oan cho Như Lai quá, bởi Như Lai là Như Lai: chẳng ở bên này, chẳng ở bên kia, chẳng ở giữa dòng. Chẳng phải thế này, chẳng phải thế kia. Chẳng trí, chẳng ngu. Chẳng thành thật, chẳng dối trá. Chẳng lại, chẳng đi. Chẳng ra, chẳng vào, chẳng thủ, chẳng xả, không vẩn đục, không phiền não, không tác, không khởi, không sanh, không diệt, không sợ, không lo, không mừng, không chán… !
Phật quá biết Như Lai, nhưng vì sao vẫn phải tận lực tìm cách “thành tựu chúng sanh”? Vì: “Chúng sanh trong cõi này cang cường, khó chuyển hóa, nên Phật giảng thuyết bằng ngôn ngữ cứng rắn để điều phục. Phật nói: Đây là địa ngục. Đây là súc sinh…Đây là tà hành của thân; đây là quả báo của tà hành của thân…Đây là hữu lậu, đây là vô lậu. Đây là chánh đạo, đây là tà đạo. Đây là hữu vi, đây là vô vi. Đây là thế gian, đây là Niết-bàn…”. Bày ra mà nói vậy thôi. Với người trí, Phật im lặng.
Văn Thù kết luận.
“ Tất cả phiền não đều là hạt giống Như Lai” (nhất thiết phiền não giai thị Phật chủng). Đúng vậy. Hoa sen phải nảy sinh trong chốn bùn lầy, cây cối chỉ tốt tươi nơi đất có nhiều phân.
Đại Ca-Diếp lên tiếng khen Văn Thù: “ Khoái thay những lời ấy! Đúng thật như lẽ mà ông đã nói. Đám trần lao là những hạt giống Như Lai…”.
Lúc ấy, trong Pháp hội, có một vị Bồ-tát tên là Phổ Hiện Sắc Thân hỏi Duy-ma-cật rằng: “Cha mẹ, vợ con, thân thích quyến thuộc, bạn bè… của ông là những ai? Tôi trai tớ gái, voi ngựa xe cộ của ông…?”.
Hỏi rất hay. Đại gia Duy-ma-cật – cũng như các “Bồ-tát tại gia tương lai” kia đùm đề gánh nặng cha mẹ, vợ con, nhà cửa, sản nghiệp… “con là nợ, vợ là oan gia, cửa nhà là nghiệp báo…” làm sao mà tu hành để thành Bồ-tát cho đặng?
Duy-ma-cật bèn tủm tỉm cười đọc mấy câu kệ:
« Trí Bát Nhã là mẹ
Tùy nghi phương tiện là cha
Pháp hỷ là vợ nhà
Từ bi là con gái
Tâm thiện là con trai
Không tịch là nhà
Trần lao là đệ tử
Đạo phẩm là bạn hiền
Các pháp độ là bạn
Bốn nhiếp là ca nương
Pháp ngôn là vịnh ngâm
Tổng trì là vườn tược
Đại thừa dùng làm xe
Nhất tâm là điều ngự
Bát chánh đạo dạo chơi…”
* *
*
« Anoma vẫn còn nhớ ghi gương sáng ngời… »
(ĐHN)
(ĐHN)
September 27, 2015
Thư mời tham gia giao lưu với Bs Đỗ Hồng Ngọc
Nhân Ngày Quốc tế Người Cao Tuổi (IDOP) 1-10, Công ty SGC và Nha Khoa Apona tổ chức một buổi giao lưu thân mật, trao đổi về đề tài THIỀN với SỨC KHỎE NGƯỜI CAO TUỔI cùng Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, tác giả của các quyển sách Thiền và Sức khỏe, Già ơi… chào bạn! và Già sao cho sướng (Để có một tuổi già hạnh phúc).
Thời gian: 9h -11h sáng, Thứ năm, 1-10-2015
Hình thức tham gia:
Tham gia trực tiếp (Offline): tạị 128 Nguyễn Công Trứ, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh .
Tham gia từ xa (Online) bằng smartphone, tablet & máy tính tại: http://www.dohongngoc.com hayhttp://giaoluu.bietthubien.com
Nội dung chương trình:
9h -10h phần trình bày của Bs Đỗ Hồng Ngọc
10h -10h30: Chia sẻ kinh nghiệm.
10h30 -11h Trao đổi, giải đáp thắc mắc.
Vì số chỗ ngồi giới hạn nên ưu tiên cho quý bạn đăng ký trước, cho khách hàng, bạn bè của Công ty SGC và Nha Khoa Apona.
Chú ý: Việc tham gia online không giới hạn số lượng người xem.
Xin vui lòng đăng ký trước tại đây hay email cho linh@sgc.vn. Mọi thắc mắc, vui lòng gọi 01233.246247 ( 7 line)
Đỗ Hồng Ngọc's Blog
- Đỗ Hồng Ngọc's profile
- 12 followers

