Đỗ Hồng Ngọc's Blog, page 102

November 14, 2015

“Dã quỳ thương nhớ” Trần Vấn Lệ

Ra mắt tập thơ Dã Quỳ Thương Nhớ
của Trần Vấn Lệ

Sau buổi ra mắt tập Dã Quỳ Thương Nhớ tuần trước tại Đà Lạt, thứ bảy tuần này, 14.11.2015, Hội quán Các bà mẹ đã tổ chức buổi ra mắt Dã Quỳ Thương Nhớ tại café Đồng Ca Nhỏ của nhạc sĩ Tiến ở Tp HCM (Saigon) với nhóm bạn thân quen… trong ngày bày “Chợ trời sách cũ” tại quán café này.

Phan Dũng, một người học trò cũ của Trần Vấn Lệ từ Đalạt đến dự, phát biểu đôi lời rất cảm động. Nhà thơ nữ Thùy Trâm ở Dran đọc một bài thơ… Nhà báo Ngân Hà, Thanh Thúy, nhà thơ Trần Tiến Dũng, nhà văn Nguyệt Lâm…


Tôi, với tư cách bạn cũ của Trần Vấn Lệ, 61 năm về trước khi cùng học lớp Đệ thất (lớp 6) Phan Bội Châu Phan Thiết được mời phát biểu đôi lời về bạn mình. Tôi nói tôi nhớ TVL là cậu bé con 12 tuổi chạy long nhong quanh bờ sông Cà Ty, còn hơn 60 năm nay chưa gặp lại. Thơ bạn đầy ắp quê hương Phan Thiết, Đà lạt, Dran, Pleiku… những dòng thơ chan chứa tình người tình quê…



 


Đỗ Hồng Ngọc phát biểu về thơ Trần Vấn Lệ trong buổi ra mắt Dã Quỳ Thương Nhớ (14.11.2015)

Đỗ Hồng Ngọc phát biểu về thơ Trần Vấn Lệ trong buổi ra mắt Dã Quỳ Thương Nhớ (14.11.2015)


 


Anh Phan Dũng có đôi lời về người thầy cũ của mình...

Anh Phan Dũng có đôi lời về người thầy cũ của mình…


 


Cô hàng bán sách... to đôi mắt!

Cô hàng bán sách… to đôi mắt!

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 14, 2015 19:48

“Thơ làm chứng rằng”

 


Thơ làm chứng rằng

Xưa đọc truyện thường thấy có “Thơ làm chứng”, ý rằng “chuyện kể ở đây là có thiệt” chớ không phải… hư cấu (như văn!).


Họa sĩ Đinh Cường có những bài thơ, là những notes độc đáo, chuyện về bạn bè anh em, một lối thơ mà tôi gọi là “Thơ làm chứng rằng”…


Xin được chia sẻ.


ĐHN


 


Nguyễn Quốc Thái đi Mỹ thăm Đinh Cường về cho biết sức khỏe Đinh Cường lúc này đã khá lên nhiều lắm. Sáng chemo thì chiều đã lái xe đưa NQT đi café, còn hẹn tháng Hai tới sẽ về Saigon triển lãm…


Bèn có “Thơ làm chứng” rằng:


 


Café chemo

gởi Đinh Cường


 


sáng chemo một mình


chiều café cùng bè bạn


thứ café chemo khó kiếm


ngon hơn mocha


ngon hơn espresso


pacamara jember


có hương thơm bạn bè


có vị nồng bè bạn


vị đắng thời gian


vị ngọt không gian


tối chui vào hang


vẽ cùng người tiền sử


hẹn ngày tái ngộ


bày tranh giữa saigon


cho người mắt xanh


thưởng thức


café chemo…


đậm đà


hương sắc!


 


đỗ hồng ngọc



 


Bài chemo

gởi Đỗ Hồng Ngọc,


 


Tôi nằm. từng giọt chemo


rơi như hạt lệ hao mòn chiến tranh


 


những ngày bom đạn Trung Đông


phá tan tượng Phật. nổ tung xác người


 


giọt kia rơi. mùa thu ơi


bạn chờ hai tiếng đồng hồ đón tôi [1]


 


về ngang qua Starbucks ngồi


vẫn tiếng kèn ấy. bồi hồi nhớ ai …


 


Virginia,   November 11, 2015


Đinh Cường


[1] Nguyễn Thế Toàn chở đi và đón về


nằm chờ trong xe hai tiếng đồng hồ…


 


Lời chào khi người về Saigon Dakao

gởi Nguyệt Mai và thăm Đỗ Hồng Ngọc,


 


Người đã về chưa Sài Gòn – Đa Kao


tháng mười một nhiều chim én lượn


những mái nhà trăm năm không còn


những mái nhà ngói đỏ những cửa sổ


 


Sài Gòn của chúng tôi tháng cuối năm


ngồi Givral uống vài chai bia Heineken


nhìn trời nhìn đất. ông đi qua bà đi lại


nay Sơn và Chỉ không còn. Givral mất


 


Lữ Quỳnh như sông sương mù. thung


lũng hoa vàng ấy. nơi núi non thì buồn


trên này nhìn rừng lá rụng. mùa thu chết


tôi nói thầm cùng lòng mình. ôi thời gian…


 


tháng cuối năm người về Sài Gòn – Đa Kao


hẹn bạn bè ăn cơm chay ở tiệm Mandala


cho tôi gởi một cành hoa sen búp xanh tươi


và lời chào. chắp hai bàn tay niệm Phật.


 


Virgina,   November 8, 2015


Đinh Cường  


DC hinh 3


Tranh sơn dầu Dương Đình San


 


Khi nhìn ảnh các bạn chiều thứ sáu
ở cà phê Rose Đông Hồ – Sài Gòn

 


Chị về thăm. vui với má. với gia đình


vui với nắng Sài Gòn. xóm cũ Đa Kao


vui với những người bạn kính yêu. nể trọng


hẹn nhau mời nhau ăn chay tiệm Mandala


 


uống cà phê ở Rose Đông Hồ. tên cũng lạ


gợi nhớ con đường Rose – Đà Lạt ngày xưa


nơi có căn phòng tôi thuê làm xưởng vẽ


có ngọn đèn vàng thắp sáng cả đêm .


 


có tên Đông Hồ – Hà Tiên. hay tên người


thi sĩ nổi tiếng hay chít khăn đóng áo dài đen


chị cũng mặc chiếc áo tay ngắn lụa đen. nụ


cười tươi với bức chân dung Đỗ Hồng Ngọc vẽ


 


và Nguyễn Quang Chơn luôn say đắm sắc màu


vẽ Đỗ Hồng Ngọc mái tóc bồng chút sóng La Gi


nhìn ba người bạn bên nhau. một chiều ấm. vui


mà thấy lòng mình phơi phới khi sớm mai thức dậy …


 


Virginia  November 14. 2015


Đinh Cường


Nguyệt Mai- Đỗ Hồng Ngọc- Nguyễn Quang Chơn (13.11.15)

Nguyệt Mai- Đỗ Hồng Ngọc- Nguyễn Quang Chơn (13.11.15)


DC hình 2


Nguyệt Mai với dessin Đỗ Hồng Ngọc vẽ


mấy nét mà lột tả được khuôn mặt rất hay


(Đinh Cường)


 


Người vẽ bông sen trắng

gởi Nguyễn Quang Chơn,





Người vẽ bông sen trắng


trong đêm khuya thấy gì


tay lấm lem màu sắc


hồn tràn đầy chân như




hồn tràn đầy minh tâm


chiều mặt hồ gợn sóng


mùa này vắng bóng sen


Rose Đông Hồ gặp bạn




hôm sau về Sông Hàn


đêm khuya vẽ sen trắng


tinh khiết Nguyệt Mai khen


Đỗ Hồng Ngọc trầm lắng




khi đi thuyết giảng về


mấy Sơ  tìm Kinh Phật


như tôi Yêu Chúa Vàng [1]


Paul Gauguin bất tử…




Virginia  Nov 14. 2015


Đinh Cuờng



Bông sen trắng, tranh Nguyễn Quang Chơn

Bông sen trắng,
tranh Nguyễn Quang Chơn



 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 14, 2015 16:49

November 13, 2015

Duy-ma-cật 11: BỒ-TÁT HÀNH

Thấp thoáng Lời Kinh


Duy-ma-cật 11: BỒ-TÁT HÀNH

Đỗ Hồng Ngọc


 


DUYMACAT hìnhLúc ấy, Phật đang thuyết pháp trong vườn cây Am-la. Cảnh đất ấy bỗng nhiên trở nên rộng lớn, nghiêm đẹp. Tất cả chúng hội đều ánh lên màu vàng ròng.

A-nan bạch Phật: “Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà có điềm lành ứng hiện: Cảnh này bỗng trở nên rộng lớn, nghiêm đẹp. Tất cả chúng hội đều ánh lên màu vàng ròng?

Phật bảo: “Ấy là Duy-ma-cật và Văn-thù với đại chúng muốn đến đây, cho nên ứng hiện ra điềm lành ấy.”


Thì ra, Duy-ma-cật và Văn Thù cùng đại chúng đã thực hiện xong buổi huấn luyện đặc biệt về Bồ-tát đạo tại căn thất trống của Duy-ma-cật sắp trở lại vườn xoài bái kiến Phật để được nghe dặn dò, giao nhiệm vụ cụ thể…


Đối tượng đích vẫn là các Bồ-tát tại gia tương lai, gồm Bảo Tích và năm trăm vị vương tôn công tử, thiếu gia, con nhà trưởng giả đã phát tâm Bồ đề nhưng còn nhiều ưu tư, nên Phật đã giao cho Văn Thù, Xá-lợi-phất cùng Duy- ma-cật mở một lớp huấn luyện đặc biệt với phương pháp giáo dục chủ động cho thấy một mô hình thực tế sống động tại Tỳ-da-ly hôm ấy. Bấy giờ lớp học đã xong phần… lý thuyết, đã trang bị đầy đủ kiến thức và thái độ, nay xin đến bái kiến Phật để được chỉ dạy thêm và giao nhiệm vụ cụ thể để thực hành con đường Bồ-tát hướng về Phật đạo đầy cam go trước mặt.



Bây giờ thì họ đã nắm vững thế nào là Phật đạo, Bồ-tát đạo, đã được trang bị nào pháp môn giải thoát bất khả tư nghì, sự sự vô ngại, nào pháp môn bất nhị, bình đẳng không hai, nào từ bi hỷ xả, nào bố thí ái ngữ lợi hành đồng sự… Họ cũng đã rõ biết những thứ bệnh thường gặp của Bồ-tát để tránh là bệnh chấp không, bệnh đại bi ái kiến, biết rõ thế nào là huệ và phương tiện  để sử dụng sao cho hiệu quả, đúng chánh pháp. Đặc biệt, họ đã học được pháp tu rèn giới đức để có được hương thơm lan tỏa từ chút cơm thơm nơi cõi Chúng Hương mang về…


Bấy giờ cái nhìn họ đã khác, cái thấy cái nghe cái nghĩ của họ cũng đã khác. Bấy giờ đất tâm của họ đã rộng lớn bao la, mảnh đất tâm đã được cày xới, bón phân , gieo hạt, chờ đơm hoa kết trái. Họ náo nức muốn được bái kiến Phật để được giao nhiệm vụ phải làm khi vào đời với lời ước nguyện: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ / Phật đạo vô lượng thệ nguyện thành…


Cảnh đất ấy bỗng nhiên trở nên rộng lớn, nghiêm đẹp. Tất cả chúng hội đều ánh lên màu vàng ròng… là vì thế.


Nhớ lại, có lần Xá-lợi-phất từng làm bộ hỏi: “…tôi thấy cõi này toàn là gò nỗng, hầm hố, gai góc, sỏi sạn, núi đất, núi đá dẫy đầy mọi nhơ nhóp xấu xa…” thì Phạm vương Loa-kế đã bảo: Ấy vì lòng của nhân giả có cao có thấp, chẳng y theo huệ Phật…Nếu ông giữ lẽ Bình đẳng, lòng dạ sâu vững thanh tịnh… ắt thấy cõi này thanh tịnh!


Gò nỗng, hầm hố, gai góc, sỏi sạn, núi đá dẫy đầy mọi nhơ nhóp xấu xa mà bỗng trở nên rộng lớn, nghiêm đẹp, ánh lên màu vàng ròng… không có gì là lạ! Mọi thứ không phải tự cõi đất mà tự cõi tâm đó vậy!


Duy-ma-cật bảo Văn-thù: “Chúng ta nên cùng đến viếng Phật, cùng với chư Bồ-tát lễ kính và cúng dường Phật.”

“Lành thay! Nên đi lắm, nay đã phải lúc lắm vậy.” Văn-thù đáp.


Duy-ma-cật liền dùng sức thần nâng hết cả đại chúng với tòa sư tử của mỗi vị, đặt lên lòng bàn tay phải của mình, rồi đi đến chỗ Phật ngự…


Phật bảo Xá-lợi-phất: “Ông có thấy Bồ-tát Đại sĩ hiện sức thần tự tại chăng?”. “Dạ, con đã thấy. Thật vượt quá sức tưởng tượng, vượt ngoài sự đo lường của con.” Xá-lợi-phất thưa.


“Bồ-tát Đại sĩ” đây là chỉ Duy-ma-cật. Một lời khen dành cho vị Bồ-tát tại gia, cũng nhằm động viên khuyến khích tất cả các vị Bồ-tát tại gia tương lai kia!


Với pháp giải thoát bất khả tư nghì, sự sự vô ngại thì “nhét núi Tu di cao lớn vào trong một hột cải; đem hết nước bốn biển mà để vào trong một lỗ chân lông…; bứt lấy cõi thế gian Tam thiên đại thiên cũng như người ta bứt cái vòng của thợ lò gốm, đặt cõi ấy trong lòng bàn tay, ném nó ra khỏi các cõi thế giới nhiều như cát sông Hằng…” thì có khó gì!


Với cái thấy biết Vô tướng thực tướng, Không, Duyên sinh… thì núi Tu di với hạt cải có gì ngăn ngại nhau? Ở một cõi không có thời gian, chẳng có không gian, một là tất cả, tất cả là một, thì còn tính đếm, đo lường nữa mà chi!


 


Lúc ấy, A-nan bạch Phật: “Thế Tôn! Nay có một hương thơm chưa từng có. Đó là hương thơm gì vậy?”

Phật bảo: “Ấy là hương thơm nơi lỗ chân lông của các vị Bồ-tát kia tỏa ra.”

Xá-lợi-phất bảo A-nan: “Từ nơi các lỗ chân lông của chúng tôi, giờ cũng phát ra mùi thơm ấy.


Thế mới biết, người ta dễ được “thơm lây” khi gần người đức hạnh! Thế mới biết vì sao nên gần gũi thiện tri thức. Giới đức là căn bản trên đường tu tập. Giới đức mới mang lại hương thơm, một thứ hương thơm bay cao, bay xa, bay ngược chiều gió. Nhưng giới đức không thôi chưa đủ, còn cần phải có định, có huệ. Chỉ hương thơm không thôi dễ tự mãn. Cho nên khi các vị Bồ-tát cõi Chúng Hương xin xuống Ta-bà “thực địa” một phen thì Phật Hương Tích đã phải dặn kỹ: Thu mình nhỏ lại, khiêm tốn, giảm bớt… mùi thơm, nói lời ái ngữ, lợi hành và đồng sự với chúng sanh ở cõi Ta-bà, đừng có khinh dễ, đừng có ngạo mạn!


Chính các vị Bồ-tát từ cõi Chúng Hương sau này đã chắp tay bạch Phật: “Thế Tôn! Khi mới thấy cõi này, chúng con có ý cho là thấp kém. Bây giờ chúng con tự hối trách, lìa bỏ ý nghĩ ấy. Tại sao vậy? Pháp môn phương tiện của chư Phật là không thể nghĩ bàn. Vì độ chúng sanh, cho nên các ngài tùy theo chỗ thích hợp của họ mà hiện ra các nước Phật khác nhau”.


Phật từng dạy: “Các loài chúng sanh là cõi Phật của Bồ-tát. Bồ-tát tùy theo chỗ giáo hóa chúng sanh mà giữ lấy cõi Phật. Tùy theo chỗ điều phục chúng sanh mà giữ lấy cõi Phật. Tùy các chúng sanh muốn dùng cõi nước nào để vào trí huệ Phật mà giữ lấy cõi Phật. Tùy các chúng sanh muốn dùng cõi nước nào để phát khởi căn Bồ-tát mà giữ lấy cõi Phật”.


Khi các vị Bồ-tát phương xa xin “ra tay nghĩa hiệp” nơi cõi Ta-bà ngũ trược này thì Phật đã bảo: Thôi đi! Xin cám ơn! Và ngay đó, vô số Bồ-tát “tùng địa dũng xuất” đã xuất hiện (Pháp Hoa).  Bồ- tát xuất thân từ cộng đồng thì quen phong tục tập quán, ngôn ngữ địa phương, nhờ vậy mà họ dễ giao tiếp, dễ hướng dẫn, làm gương… Đó chính là  phương pháp tiếp cận dựa vào cộng đồng ( Community-based approach) như đã nói mới mang lại hiệu quả bền vững.


Mùi thơm được mang về từ cõi Chúng Hương, vốn xin từ một thứ thức ăn, chút cơm dư của Phật Hương Tích, về làm “Phật sự” ở căn thất Duy-ma-cật.


 


A-nan bạch Phật: “Chưa từng có vậy! Thế Tôn, như thứ cơm ấy mà có thể làm Phật sự chăng?”.


Thực ra A-nan đâu có lạ gì chuyện “Phật sự”! Hỏi chẳng qua là hỏi để các vị Bồ-tát tại gia tương lai kia mở rộng tầm mắt! Họ vốn là các bậc vương tôn công tử, thiếu gia, con nhà trưởng giả thường vẫn nghĩ rằng làm “Phật sự” hẳn phải làm những việc gì to lớn, vĩ đại, như xây chùa thật to, đúc chuông thật lớn, dựng tượng thật uy nghi, sơn son thếp vàng rực rỡ…!


Phật dạy: “Đúng vậy, đúng vậy! A-nan, hoặc có cõi Phật dùng ánh sáng quang minh của Phật mà làm Phật sự… Có cõi dùng cây Bồ-đề mà làm Phật sự. Có cõi dùng y phục, cơm và đồ ăn của Phật mà làm Phật sự. Có cõi dùng vườn hoa, rừng cây, đền đài mà làm Phật sự…  Có cõi dùng hư không mà làm Phật sự, chúng sinh muốn nương theo duyên ấy mà vào luật hạnh. Có cõi dùng những ví dụ, như: chiêm bao, ảo hóa, bóng dáng, tiếng dội, hình lộ trong gương, mặt trăng dưới nước, dợn sóng khi trời nắng… mà làm Phật sự. Có cõi dùng âm thanh, lời nói, văn tự mà làm Phật sự. Hoặc có cõi Phật thanh tịnh dùng những việc: tịch mịch, không lời, không thuyết, không chỉ, không ghi, không làm, vô vi mà làm Phật sự. A-nan! Như vậy đó, mọi cách đi đứng, nằm ngồi, tới lui của Phật, thảy thảy hành vi, không chi chẳng là Phật sự”.


Thì ra vậy! Nhất thiết pháp giai thị Phật pháp. Một cái quơ roi, một tiếng hét, một chiếc lá rụng, một tiếng ngói vỡ, một ánh mắt nhìn hay một sự im lặng… cũng làm Phật sự được quá chớ!


A-nan! Có bốn thứ ma, tám muôn bốn ngàn thứ phiền não, làm cho chúng sinh phải nhọc nhằn mệt mỏi. Chư Phật liền dùng những pháp ấy mà làm Phật sự. Đó gọi là vào pháp môn của tất cả chư Phật”.


Hóa ra ngay các thứ ma, các thứ phiền não… cũng đều có thể làm Phật sự. Những gì người đời sợ hãi, buồn khổ, lo âu… thì với các vị Bồ-tát, đều là cơ hội để làm Phật sự, thành tựu chúng sanh. Cho nên mới nói Phiền não là Bồ-đề, hoa sen mọc trong biển lửa.


Công đức của chư Phật Như Lai vẫn là bình đẳng, nhưng vì giáo hóa chúng sanh nên các ngài hiện ra những cõi Phật khác nhau. Các nước Phật, đất đai nhiều thứ khác nhau, nhưng hư không chẳng có nhiều thứ. Cũng như vậy, chư Phật sắc thân nhiều dạng khác nhau, nhưng cái huệ vô ngại của các ngài thì chẳng khác nhau”.


“…giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, đại từ, đại bi, các sở hành oai nghi như đi, đứng, nằm, ngồi, thuyết pháp giáo hóa, thành tựu chúng sinh, làm cho trong sạch cõi Phật, đầy đủ các Phật pháp, thời chư Phật đều bình đẳng như nhau. Cho nên gọi các ngài là Tam-miệu Tam-phật-đà, cũng gọi là Đa-đà-a-già-độ, cũng gọi là Phật-đà”.


Tam-miệu Tam-phật-đà là Chánh biến tri; Đa-đà-a-già-độ là Tathagata, Như Lai. Cho nên chư Phật còn được gọi là Như Lai, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiên nhân sư, Điều ngự trượng phu v.v…


 


Lúc ấy, các vị Bồ-tát từ thế giới Chúng Hương đồng chắp tay: “Dạ, kính bạch Thế Tôn! Xin ngài ban cho chút ít Phật pháp. Khi trở về, chúng con sẽ nhớ tưởng Như Lai.


Phật dạy: “Có pháp môn giải thoát gọi là Tận Vô Tận, các ông nên tu học. Sao gọi là Tận? Ấy là pháp hữu vi. Sao gọi là Vô Tận? Ấy pháp vô vi. Bồ-tát thì phải “Chẳng dứt hữu vi, chẳng trụ vô vi” (Bất tận hữu vi, bất trụ vô vi).


“Các ông nên tu học” ở đây Phật không chỉ nói đến các vị Bồ-tát đến từ cõi Chúng Hương mà cho toàn thể đại chúng, các vị Bồ-tát, các Đại đệ tử, nhất là các Bồ-tát tại gia tương lai, nhằm nhắc nhở nhiệm vụ chủ yếu của Bồ-tát là “Bất tận hữu vi, bất trụ vô vi”.


Khuynh hướng của người tu học khi “chứng ngộ” dễ thấy “phạm hạnh đã tròn đầy”, muốn “đặt gánh nặng xuống”, bước vào cõi “Vô sanh”, Niết bàn tịch diệt. Phần khác cũng ngại con đường tu học quá khó, quá ngược, không chắc chúng sanh hiểu được, làm được.


Ngay cả Phật khi đắc đạo dưới cội Bồ-đề cũng nghĩ: “Giáo Pháp mà Như Lai đã chứng ngộ quả thật thâm sâu huyền diệu, khó nhận thức, khó lãnh hội, vắng lặng, cao siêu, không nằm trong phạm vi luận lý, tế nhị, chỉ còn bậc thiện trí mới thấu hiểu”.


Người còn mang nặng tham ái và sân hận không dễ gì thấu triệt. Người tham ái chìm đắm trong đêm tối, không thấy được Giáo Pháp, vì lòng tham ái bao phủ như đám mây mờ đen nghịt, vì Giáo Pháp đi ngược dòng với tham ái. Giáo Pháp sâu kín, thâm diệu, khó nhận thức và rất tế nhị”.


Ba lần Phạm thiên khẩn khoản đức Thế Tôn mới dùng thiên nhãn quan sát thế gian, nhận thấy chúng sanh kẻ ít người nhiều đều có bụi trong mắt, người thông minh sáng suốt, kẻ ngu muội tối tăm…như trong đầm sen, sen xanh, đỏ, trắng lẫn lộn,có những cây mọc từ trong nước, trưởng thành trong nước, có cây ló dạng trên mặt nước, có cây vượt lên khỏi mặt nước, không vướng chút bùn nhơ..


Đức Phật bấy giờ tuyên bố: Cửa Vô Sanh Bất Diệt đã rộng mở cho chúng sanh. Hãy để cho ai có tai muốn nghe đặt trọn niềm tin tưởng…” (Đức Phật và Phật pháp, Narada).


DUYMACAT hinh 2


Pháp hữu-vi sao gọi là Tận? Bởi vì pháp hữu-vi là pháp còn tạo tác, còn hành vi  tạo nghiệp, còn sanh diệt, tái diễn trong Tam giới. Pháp hữu vi là… vô thường, như mộng, huyễn, bào ảnh… trước sau gì cũng dứt, cũng tận! Pháp hữu vi do duyên mà sanh, hết duyên thì dứt.  Nó chỉ là “giả tạm”, vốn hư vọng: “phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”! Cho nên kinh Kim Cang khuyên: “Ưng tác như thị quán”! Thấy rõ nó vậy, vô thường, khổ, không, vô ngã thì không nên đeo bám, không nên dính mắc, nên xa lìa, nên nhàm chán thì mới được… giải thoát!


Nhưng đó là dạy cho chúng sanh chớ với Bồ-tát thì khác! Bồ-tát là chúng sanh đã giác ngộ, nguyện cứu độ vô biên chúng sanh khác còn đang ngụp lặn trong cõi Ta bà ô trược nên…Bồ-tát thì không từ bỏ hữu vi, vẫn “đeo bám” hữu vi để giúp đời!


Bồ-tát thì đã “Phát khởi sâu vững tâm Nhất thiết trí, không hề xao lãng đối với chí quyết thành Phật”, “chẳng lìa đức đại từ, chẳng bỏ đức đại bi…”


Nên Bồ-tát phải có nhiệm vụ “Giáo hóa chúng sanh chẳng hề mệt chán. Thường xét nghĩ việc tùy thuận thi hành bốn pháp thâu nhiếp. Hộ trì chánh pháp chẳng tiếc thân mạng. Gieo trồng các căn lành chẳng hề mệt chán. Tâm trí thường được an ổn, vững chãi, đem phương tiện hướng về Phật quả. Cầu pháp chẳng biếng nhác. Thuyết pháp chẳng hiểm tiếc. Vào chốn sinh tử nhưng không sợ sệt chi cả. Đối với sự vinh nhục lòng không lo buồn, không mừng vui. Chẳng khinh kẻ chưa tu học…”.


“Tại các cảnh thiền định, tưởng đó như các tầng địa ngục. Đối với cuộc sinh tử luân hồi, tưởng đó như vườn cảnh điện đài. Không đắm mê thiền duyệt mà quên nhiệm vụ, coi sáu nẻo luân hồi thênh thang “một cõi đi về”!


Bồ tát thực hành lục độ ba-la-mật: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, thiền định, trí huệ: Thí xả những vật sở hữu của mình, đủ đầy cái tâm tưởng cầu quả vị của đấng Nhất thiết trí. Thấy kẻ phá hủy giới cấm, khởi lên cái tư tưởng cứu hộ. Đối với các ba-la-mật, tưởng như cha mẹ. Đối với các pháp đạo phẩm, tưởng như quyến thuộc. Nảy nở các căn lành, không hề có giới hạn. Lấy những việc nghiêm sức cõi nước trong sạch để thành tựu cõi Phật của mình. Trừ bỏ mọi việc xấu ác, giữ sạch thân, miệng, ý. Trải vô số lần sinh tử, tâm ý vẫn dũng mãnh.


” … Thường cầu đức tánh vô niệm, trí huệ thật tướng. Thi hành lẽ biết đủ, ít tham cầu, nhưng chẳng bỏ pháp thế gian. Chẳng chê bỏ oai nghi cốt cách, nhưng có thể tùy tục mà khởi ra huệ thần thông, dìu dắt chúng sinh”…” Tu bốn tâm vô lượng (Từ bi hỷ xả),  Tâm ý không phóng dật, chẳng bỏ mất các việc lành”.


Tri túc, kham nhẫn, không phóng dật, thấy biết chân không mà diệu hữu, tùy tục mà khởi huệ thần thông, dìu dắt chúng sanh… đó là vai trò của Bồ-tát.


“Thi hành những pháp như vậy, gọi là Bồ Tát “bất tận hữu vi”.


 


Pháp vô-vi sao gọi là Vô tận? Bởi pháp vô vi là pháp thanh tịnh, vắng lặng, bất  động, niết bàn, diệt tuyệt nhân quả, dứt hẳn phiền não, thoát ly Tam giới, chấm dứt sanh tử luân hồi.


“Sao gọi là Bồ Tát chẳng trụ vô vi? Đó là, tu học lẽ không, nhưng chẳng lấy lẽ không làm chứng đắc. Vì nếu lấy lẽ không làm chứng đắc thì sẽ mắc thứ bệnh nặng của Bồ-tát: bệnh chấp không!


Tu học vô tướng, vô tác, nhưng chẳng lấy vô tướng, vô tác làm chứng đắc.


Bồ-tát thấy chân không mà diệu hữu. Thực tướng nằm sau giả tướng. Tướng như thị, tánh như thị, thể như thị, lực như thị…!


Quán lẽ vô thường, nhưng chẳng chán cội lành. Quán những nỗi khổ thế gian, nhưng chẳng ghét việc sinh tử. Quán lẽ vô ngã, nhưng dạy người chẳng chán. Quán lẽ tịch diệt, nhưng chẳng tịch diệt mãi mãi. Quán lẽ xa lìa, nhưng thân tâm tu thiện. Quán lẽ không có chỗ về, nhưng quay về các pháp lành. Quán lẽ không sinh, nhưng đem việc sinh sống mà gánh vác tất cả chúng sinh.


Quán lẽ không có phiền não, nhưng chẳng đoạn tuyệt các phiền não! Nói khác đi, Bồ-tát phải biết sống với phiền não, nhờ đó biết “thấu cảm” với nhân sinh, nếu không, dễ thành kẻ “vô cảm”! Sống với phiền não nhưng không bị dính mắc với phiền não!


“Tu các pháp như vậy, gọi là Bồ Tát “bất trụ vô vi”…


Rồi Phật khẳng định: “Lại nữa, nhờ có đủ phước đức, nên Bồ Tát chẳng trụ vô vi. Nhờ có đủ trí huệ, nên chẳng rời hữu vi. Nhờ đại từ bi, nên chẳng trụ vô vi.


Nhờ tròn bổn nguyện, nên chẳng rời hữu vi. Nhờ tụ hội các phương thuốc pháp, nên chẳng trụ vô vi. Nhờ khéo tùy bệnh mà cho thuốc, nên chẳng rời hữu vi.


Nhờ biết bệnh của chúng sinh, nên chẳng trụ vô vi. Nhờ trị dứt bệnh của chúng sinh, nên chẳng rời hữu vi. Các vị Bồ-tát, khi đã tu xong các pháp ấy thì chẳng muốn rời “hữu vi”, chẳng muốn trụ “vô vi”. Đó là pháp môn giải thoát Tận Bất tận. Các ông nên tu học pháp môn ấy.”


Các vị Bồ Tát cõi Chúng Hương nghe Phật thuyết thời pháp ấy rồi, đều rất hoan hỷ, đảnh lễ nơi chân Phật, khen là chưa từng có, và nói rằng: “Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã có thể ở cõi này mà thực hành phương tiện một cách khéo léo.”


A-nan khi ngộ được chơn tâm mầu nhiệm cũng đã phát nguyện:

Đời ác trựơc tôi thề vào trước

Còn một chúng sanh chưa thành Phật

Thì tôi không nhận hưởng Niết Bàn !

Ai bảo A-nan không là một Đại Bồ-tát?


(10-11-2015)


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 13, 2015 05:21

November 12, 2015

“ĂN CHAY VÀ SỨC KHỎE”

Ghi chú: Hòa thượng Thích Giác Toàn tức Nhà thơ Trần Quê Hương có nhã ý mời tôi có buổi giao lưu thân mật về Ăn chay và Sức khỏe trong Chương trình “Văn hóa ẩm thực xanh – Sức khỏe – Chia sẻ tình yêu thương” tại Pháp viện Minh Đăng Quang vào chiều Chủ nhật  15/11/2015 lúc 15h.



Chương trình tổ chức Buffet chay trong 3 ngày, 13-15/11 có ông Yan Can Cook “biểu diễn”, trổ tài nấu thức ăn chay cho chúng ta.


Rảnh, đến chơi nhé!


Thân mến,


ĐHN


 


THƯ MỜI THAM DỰ TỌA ĐÀM “ĂN CHAY VÀ SỨC KHỎE”


Kính gửi: Chư Tôn đức Tăng Ni và quý Phật tử


Trong khuôn khổ chương trình buffet chay với chủ đề:


“VĂN HÓA ẨM THỰC XANH – SỨC KHỎE – CHIA SẺ TÌNH YÊU THƯƠNG”


tổ chức tại Pháp viện Minh Đăng Quang 3 ngày: 13,14,15 tháng 11 năm 2015 (từ 15h00 – 20h30) (nhằm ngày mùng 2,3,4 tháng 10 năm Ất Mùi),


An chay va SK (hinh) Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc sẽ có buổi tọa đàm về “Ăn chay và Sức khỏe”

Vào lúc: 15h00 – 16h30, ngày 15 tháng 11 năm 2015 (Chủ Nhật)

Địa điểm: Pháp viện Minh Đăng Quang – 505 Xa lộ Hà Nội, phường An Phú, quận 2, TP.HCM.

Kính mong các chư Tôn đức Tăng Ni và các quý vị Phật tử sắp xếp thời gian về tham dự buổi tọa đàm.

Trân trọng kính mời và kính chúc quý vị an lành – vạn sự kiết tường!

BAN TỔ CHỨC


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 12, 2015 16:22

November 2, 2015

Thông báo vài sinh hoạt bạn bè

Xa Loi Nói chuyện “THIỀN” ở chùa Xá Lợi, Tp HCM:

Đó là buổi nói chuyện về Thiền với  Sức khỏe người có tuổi


của Bs Đỗ Hồng Ngọc lúc 19h ngày Thứ bảy, 7 tháng 11 tại Chùa Xá Lợi, 89 Bà Huyện Thanh Quan, quận 3, Tp.HCM.


Dành riêng cho những người… có tuổi (từ 35 đến 65).


Tuy nhiên trên hoặc dưới tuổi đó cũng có thể dự… thính!


Rảnh ghé vui nhé!


 


 


 


Ra mắt sách:

Dã Quỳ Thương Nhớ, tập thơ Trần Vấn Lệ


viết riêng cho Dalat và Dran… nhớ thương!


 


IMG_Da quỳ TVL


lúc 9h00 sáng Chủ nhật ngày 08/11/2015 tại Cafe Mộc CĂN NHÀ XƯA số 31B đường 3/4 , P. 3, Đà Lạt (Đồi Lộng Gió, đối diện bến xe Đà Lạt.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 02, 2015 21:35

October 29, 2015

Viết cho người thầy thuốc trẻ (2)

 


Ghi chú: Một số các em vừa tốt nghiệp Bác sĩ y khoa Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Tp HCM, đã chọn nhiệm sở về các Bô môn muốn trao đổi cùng tôi vài kinh nghiệm về Dạy và Học. Xin gởi đến các em các bài viết dành cho các giảng viên lớp “người lớn” trước đây để tham khảo.


Khi tiếp xúc với sinh viên, dù là mới vào trường, cũng nên nhớ rằng họ đã là “người lớn”, cần tôn trọng và thấu cảm.


Thân mến,


Đỗ Hồng Ngọc.


 


7 điều cần nhớ để Dạy sao cho… hay!

BS Đỗ Hồng Ngọc (*)


1.  Giảng viên phải luôn chú trọng đến “bề ngoài” của mình:


Tự tin/ Nhiệt tình/ Cởi mở và đáng tin cậy.


Ăn mặc đúng mực, nghiêm trang;


Đi, đứng, ngồi, cử động hai tay phù hợp.


2.  Quan tâm tới môi trường học tập: khung cảnh, cách sắp đặt chỗ ngồi cho học viên, giảng viên. Chú ý phần âm thanh,  ánh sáng, phương tiện nghe nhìn, học cụ cần thiết…


3.  Cần biết rõ đối tượng là ai? muốn học gì? tại sao?


Từ đó xác định Mục tiêu và Nội dung.


4.  Vạn sự khởi đầu nan.  Ba phút mở đầu có tính quyết định. Phải tạo động cơ, chú ý cách “phá băng”: giới thiệu về mình/ kể một câu chuyện/ một trò chơi, câu đố/ vài slides sinh động/ nêu vấn đề thời sự có liên quan/ vài khái niệm mới lạ…     Tóm lại, làm cho học viên “tỉnh ngủ” và lôi kéo sự chú ý của họ.


5.  Đi từ điều đã biết đến điều chưa biết. Tìm giai thoại, chuyện kể phù hợp để minh họa, dẫn dắt. Nối kết các khái niệm khô khan.


6.   Ngôn ngữ: Cần sáng sủa, Rõ ràng. Phù hợp (chú ý tiếng địa phương).  Tốc độ vừa phải. Biết ngừng/ nhấn, điều tiết nhịp điệu, tốc độ. Làm sao cho người ngồi xa nhất cũng phải nghe, phải thấy được.


7.  Hiện nay với kỹ thuật vi tính, làm một bài giảng với slides khá dễ dàng, nhưng giảng viên nhớ đừng để bị “máy móc hóa”! Nhớ rằng slides không thể thay thế giảng viên. Không nên lạm dụng kỹ thuật. Không để phương tiện nghe nhìn thay thế mình!


Chú ý: Slides không phải để đọc, mà chủ yếu để gợi ý.  Vì thế không nên viết nguyên câu. Mỗi dòng đều cần giải thích/ mở rộng bởi giảng viên.


Slides nhỏ quá, nhiều chữ quá không đọc được sẽ bỏ qua. Người học không thể vừa nghe vừa đọc cùng lúc. Không nên dùng chữ kiểu cọ, bay bướm, nhảy nhót, khó đọc (giảng viên trẻ hay “chơi” slides!).


Một vài nguyên tắc chung: Trên mỗi slide không nên quá 1 khái niệm, không quá 2 kiểu chữ, không quá 3 điều để nhớ, không quá nhiều hàng chữ, và mỗi hàng cũng không quá nhiều chữ, vì nhiều chữ sẽ đọc không kịp. Khi học viên phải tập trung đọc thì không nghe giảng kịp.


Mỗi slide được trình bày trung bình 1 phút. Do đó cần tính kỹ số lượng slides cho mỗi buổi giảng, cần thay đổi linh hoạt, sẵn sàng bỏ bớt (giảng viên mới học làm slides ham chiếu nhiều!).


Không nên chiếu slides quá nhanh, không kịp nghe, không kịp hiểu. Nhưng chậm quá, rì rà, thì dễ chán!


……………………………………………….


(*) Nguyên Giám đốc Trung tâm Truyền thông & Giáo dục sức khỏe Tp.HCM


Trưởng Bộ môn Khoa học hành vi – Giáo dục sức khỏe,  ĐHYK Phạm Ngọc Thạch.


 


7 đặc điểm của “người lớn” đi học?

BS Đỗ Hồng Ngọc


1. Người lớn đi học luôn có mục đích rõ ràng (trừ khi bị ép buộc!).

Nếu để họ tham gia xây dựng “kế hoạch học tập” và “tự đánh giá” thì lớp sẽ tăng tính chủ   động, hiệu quả sẽ cao hơn.


2. Khi có động cơ thì họ học sẽ tốt hơn, với tinh thần tự nguyện và tự giác. Cần tạo động cơ và điều kiện giúp họ học tốt.

3.  Người lớn có nhiều kinh nghiệm sống, từng trải. Họ thích học từ kinh   nghiệm sống, thực tế, không lý thuyết suông. Họ quan tâm việc ứng dụng. Nội dung phải thực tế, cụ thể.

4.  Người lớn có nhiều việc để lo: cơm áo gạo tiền, gia đình, xã hội…  Chương trình cần linh hoạt.

5.  Người lớn thường thiếu tự tin, sợ bị mất mặt, bị “quê” giữa mọi người. Nếu được đặt câu hỏi bằng giấy, nặc danh, thì tốt hơn hỏi trực tiếp!

6.  Người lớn bảo thủ. Dạy điều gì mới thì phải giải thích “tại sao” thay vì chỉ dạy “cách nào”. Liên hệ kiến thức, kỹ năng mới với những kinh nghiệm cũ. Từ dễ đến khó, từ ít đến nhiều.


7.  Cần quan tâm thể chất: chỗ ngồi thoải mái, ánh sáng đầy đủ, âm thanh rõ ràng, giải lao giữa giờ v.v…


Nên dành thời gian tìm hiểu kinh nghiệm trước của học viên, rồi kết nối kinh nghiệm đó với bài học hiện tại. Dành nhiều thời gian cho thảo luận. Áp dụng nhiều phương pháp Giáo dục chủ động trong giảng dạy để đỡ chán và hiệu quả cao hơn.


(2009, cập nhật 2015)


 


 


 


 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 29, 2015 18:50

Duy-ma-cật 10: PHẬT HƯƠNG TÍCH

Thấp thoáng lời Kinh


 


Duy-ma-cật 10:  Phật Hương Tích

Đỗ Hồng Ngọc


 


Lúc ấy, Xá-lợi-phất nghĩ bụng: “Sắp đến giờ thọ thực rồi. Các vị Bồ-tát này sẽ ăn thức gì đây?”.


“Các vị Bồ-tát này” dĩ nhiên đó là Bảo Tích và năm trăm vị vương tôn công tử, thiếu gia con nhà viên ngoại, là những Bồ-tát tại gia tương lai, đối tượng đích của buổi huấn luyện đặc biệt tại cái thất trống trơn của Duy-ma-cật ở thành Tỳ-da-ly hôm đó.


Lần nào cũng vậy, cứ đến lúc mọi người đang bay bổng trên chín từng mây với những lý luận cao vời thì Xá-lợi-phất lại kéo ngay xuống mặt đất! Một lần ông đặt câu hỏi hỏi: “Các vị Bồ tát này rồi sẽ ngồi ở đâu?”. Một câu hỏi tưởng chẳng ăn nhập gì vào chuyện lớn đang bàn luận, thế nhưng, đó là một câu hỏi vô cùng quan trọng nhằm để xác định vai trò, vị trí của các Bồ-tát tại gia tương lai này. “Ngồi đâu?” nói lên nhiệm vụ chính của họ. Họ sẽ trở thành các Pháp sư, là “thầy giảng pháp” để giải thoát chúng sinh, để tạo cõi Phật thanh tịnh nơi cõi Ta bà đầy ô trược. Muốn vậy, họ phải “vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai” cái đã rồi mới xứng đáng “ngồi tòa Như Lai”! Và Duy-ma-cật đã mang về những “tòa sư tử” nghiêm chỉnh, cao vời để họ… hì hục trèo lên!



duymacat hinh 10 Bây giờ, giữa lúc mọi người đang sôi nổi hào hứng bàn những chuyện “trên trời” nào Hữu lậu với Vô lậu, nào Hữu vi với Vô vi, nào Động nào Niệm, nào Sinh tử Niết bàn… thì Xá-lợi-phất, vị đệ tử trí tuệ bậc nhất của Phật, một lần nữa lại đưa mọi người về “mặt đất”:   “Sắp đến giờ ăn rồi. Các vị Bồ Tát này sẽ ăn thức gì đây?”.


Ăn không phải là chuyện hệ trọng số một sao? Phật tới giờ ăn mà còn phải khoác y, ôm bình bát vào thành khất thực, mang về đạo tràng ăn uống xong xuôi đâu đó rồi mới rửa chân lên ngồi… nhập định trước khi thuyết giảng Kim Cang đó sao?


Thực ra câu hỏi của Xá-lợi-phất “các vị Bồ Tát này sẽ ăn thức gì đây” mang một ý nghĩa khác: các vị Bồ tát tại gia tương lai này sẽ được nuôi dưỡng bằng “thức ăn”gì đây để có thể trưởng thưởng tâm Bồ đề mà thực hiện tốt các hoạt động của một vị Bồ-tát chân chánh nhằm “thành tựu chúng sanh”. Nếu không được nuôi dưỡng đúng đắn, sau lúc hào hứng bồng bột ban đầu, sẽ rơi rụng dần rất đáng tiếc!


Duy-ma-cật lên tiếng: “ Xin đợi cho giây lát, tôi sẽ khiến quý vị được thứ thức ăn chưa từng có.”.


Thứ thức ăn chưa từng có ư? Với các vị vương tôn công tử, thiếu gia, con nhà trưởng giả  này thì cao lương mỹ vị có gì là lạ, tổ yến hồng sâm, nem công chả phượng có gì là lạ.


Họ háo hức chờ đợi Duy-ma-cật mang lại thứ thức ăn “chưa từng có” là gì đây!


Thì ra… Duy-ma-cật mang đến một mùi hương! Một mùi hương thơm. Thứ “thức ăn” xin được từ cõi Chúng Hương của Phật Hương Tích!


Cõi Chúng Hương? Đó là một nơi mọi thứ đều làm bằng hương thơm, từ lầu gác, đất bằng, hoa viên, thức ăn nước uống… thứ nào cũng thơm lừng…!


Có điều, xa lắm, và không dễ đến!


Duy-ma-cật liền nhập vào Tam-muội, dùng sức thần thông khiến cho đại chúng nhìn thấy về hướng trên, cách đây nhiều cõi Phật liên tiếp nhau như số cát của bốn mươi hai con sông Hằng, có một cõi nước tên là Chúng Hương, hiện có đức Phật hiệu là Hương Tích ngự tại đó. Nước ấy có mùi thơm bậc nhất đối với các mùi thơm của người ta và chư thiên ở các thế giới chư Phật mười phương. Khắp cõi ấy, mùi thơm tạo ra lầu gác. Người ta đi trên đất bằng mùi thơm. Các cảnh hoa viên và vườn tược đều bằng mùi thơm. Từ nơi thức ăn, mùi thơm bay tỏa ra khắp vô lượng thế giới mười phương. Lúc ấy, Phật Hương Tích với chư Bồ Tát vừa ngồi lại với nhau sắp thọ thực. Đại chúng đều nhìn thấy như vậy.

Duy-ma-cật quay sang hỏi các vị Bồ-tát có mặt: “Các nhân giả! Vị nào có thể đến chỗ đang dùng cơm của đức Phật ấy?”. Ai nấy đều lặng thinh.

Duy-ma-cật nói: “Đại chúng các vị ở đây, không có chi phải thẹn!

Văn-thù nhắc nhẹ: “Như Phật có dạy: Đừng khinh người chưa học .”


Đừng khinh người chưa học. Đó là bài học đầu tiên mà Văn Thù và Duy-ma-cật vừa sắm vai (role playing) để truyền đạt. Ấy là lòng Khiêm tốn, sự Tôn trọng, sự không phân biệt.


Que lửa nhỏ có thể làm cháy khu rừng to, con rắn nhỏ có thể là rắn độc!…


 


Phật dạy có bốn loại thức ăn để nuôi dưỡng thân và tâm. Đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực, thức thực. Đoàn thực, thức ăn nuôi thân được nói trước tiên. Không có thân sao có tâm. Không có sắc sao có thọ tưởng hành thức ? Tứ đại ngũ uẩn quan trọng quá chứ! Nó là một « bảo tháp » để tâm quay về nương tựa! Một tâm hồn minh mẫn trong một thân thể tráng kiện. Nhìn 32 tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Phật mà coi, chắc chắn khác hẳn cái thời lang thang khổ hạnh, suýt chết, tâm thần lãng đãng, thân thể chỉ còn xương bọc da, sờ tay vào bụng thì đụng phải cột sống ! Nhờ một chén sữa mà tỉnh giấc dưới cội Bồ đề. Từ đó, Thành đạo. Từ đó, Chuyển pháp luân. Nhưng suốt đời Phật, ba y một bát, tiết độ, kham nhẫn, tri túc. Ngày nay người ta dễ chạy theo lợi dưỡng, món ngon vật lạ, để rồi béo phì, tiểu đường, tăng huyết áp, tim mạch, gút… khổ thân!


Mỗi khi gặp một vị Phật, sau khi cung kính đảnh lễ, thì câu chào hỏi đầu tiên bao giờ cũng là: “Việc ăn uống thức ngủ của Ngài ra sao ? Ngài ít bệnh ít não chăng? Khí lực được an ổn chăng?” Nghĩa là luôn luôn thăm hỏi một vị Phật, một vị Như Lai về những nhu cầu tồn tại của cuộc sống (physical needs): Ăn, uống, ngủ, nghỉ, bệnh đau, phiền não, hít thở…


Còn xúc thực, tư niệm thực… ngày nay mới thật đáng ngại. Sách báo, phim ảnh, truyền hình, công nghệ thông tin ngày càng phát triển càng mang đến những nguy cơ cao về đời sống tinh thần của con người. Dĩ nhiên không phải lỗi tại sự tiến bộ của khoa học.


 


Trở lại với thứ thức ăn chưa từng có: một mùi hương! Một thứ hương thơm đủ để nuôi cả thân và tâm bất tận. Đó chính là Giới đức. Thứ hương thơm có thể bay cao, bay xa, bay ngược chiều gió! Thứ hương thơm đó thực sự cần thiết cho các vị Bồ-tát tại gia tương lai bấy giờ!


Hương thơm giới đức không thể có trong một ngày một bữa. Phải được huân tập lâu ngày chày tháng. Phải từ bố thí, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ. Giới từ luật nghi mà có nhưng giới cũng từ định, từ huệ. Hương thơm phải tích chứa từ từ mới đầy dần lên, mới sung mãn, tràn trề.


Cho nên Phật Hương Tích xuất hiện. Các vị Phật thật dễ thương. Lúc nào cũng sẵn sàng xuất hiện khi có ai đó cần đến ! Đức Phật Hương Tích lấy cái bát ở cõi Chúng Hương, đơm đầy cơm thơm, trao cho vị hóa Bồ Tát mang về cho Duy-ma-cật làm « Phật sự ». Phải đích thân Phật Hương Tích san sẻ món « cơm thơm » đó trao cho vị hóa Bồ-tát. Một pháp thí.


Phật dạy: “ Có cõi Phật dùng ánh sáng quang minh của Phật mà làm Phật sự… Có cõi dùng cây Bồ-đề mà làm Phật sự. Có cõi dùng cơm và đồ ăn của Phật mà làm Phật sự.  Có cõi dùng những ví dụ, như: chiêm bao, ảo hóa, bóng dáng, tiếng dội, hình hiện trong gương, mặt trăng dưới nước, bóng nắng… mà làm Phật sự. Có cõi dùng âm thanh, lời nói, văn tự mà làm Phật sự. Hoặc có cõi Phật thanh tịnh dùng những việc: tịch mịch, không lời, không thuyết, không chỉ, không ghi, không làm, vô vi mà làm Phật sự ».


Hương thơm phải được hun đúc. Phải được rèn tập. Phải nhẫn nhục, tinh tấn, phải thiền định. Một hành giả sống trong chánh định thì sẽ có chánh kiến, chánh tư duy, từ đó dẫn tới chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng. Bát chánh đạo là một vòng tròn ngũ phần Pháp thân : Giới hương, Định hương, Huệ hương, Giải thoát hương và Giải thoát tri kiến hương.


 


Lúc ấy, Duy-ma-cật dặn vị hóa Bồ-tát rằng: “Ông hãy đến phía cõi trên kia, cách đây những cõi Phật liên tiếp nhau nhiều như số cát bốn mươi hai sông Hằng. Có một nước tên là Chúng Hương. Đức Phật hiệu là Hương Tích, với chư Bồ-tát, vừa ngồi lại với nhau sắp thọ thực. Khi ông đến đó rồi, nói: ‘Duy-ma-cật đảnh lễ sát chân Thế Tôn, cung kính vô lượng, hỏi thăm việc ăn uống thức ngủ của ngài. Ngài ít bệnh ít não chăng? Khí lực được an ổn chăng? Duy-ma-cật muốn được chút thức ăn thừa của Thế Tôn để làm Phật sự tại thế giới Ta-bà…”


Mùi thơm của chút cơm được san sẻ từ cõi Chúng Hương đã bay khắp thành Tỳ-da-ly và cõi thế giới tam thiên đại thiên. Lúc ấy, mọi người ở thành Tỳ-da-ly, nghe mùi thơm ấy, lấy làm khoái lạc thân thể và tâm ý, thảy đều khen là việc chưa từng có. Có vị trưởng giả chủ tên là Nguyệt Cái, dẫn theo tám mươi bốn ngàn người cùng đến, vào nhà Duy-ma-cật. Các vị thần đất đai, thần hư không cùng các vị thiên tiên cõi Dục giới và Sắc giới, nghe mùi thơm ấy, cũng đều hiện đến, vào nhà Duy-ma-cật… Hương thơm, một thứ Pháp hỷ, đến từ thực hành Giới Định Huệ, thực hành thiền định nên đã mang đến an lạc cho tất cả mọi người: « Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ ».


Duy-ma-cật mời: “Các nhân giả, hãy dùng món cơm cam-lộ của Như Lai, do lòng đại bi hun đúc mà thành”. Thứ « thức ăn chưa từng có” đó không sợ thiếu, luôn đủ cho tất cả mọi người, vì đó là một thứ « vô tận hương » đến từ bên trong của mỗi chúng sanh!

Khi Phật Hương Tích san sẻ chút cơm thơm trao cho vị hóa Bồ-tát, chín triệu vị Bồ-tát ở cõi Chúng Hương đồng nói rằng: “Chúng con muốn đi đến thế giới Ta-bà, cúng dường đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Chúng con cũng muốn viếng thăm Duy-ma-cật và đại chúng Bồ-tát.”


Phật Hương Tích nói: “Có thể đi được, nhưng các ông nên kiềm giữ mùi thơm nơi thân, đừng để cho chúng sinh cõi kia khởi tâm lầm lạc tham trước. Lại nữa, các ông nên xả bỏ hình thể đang có của mình, đừng để những người cầu đạo Bồ Tát ở cõi Ta-bà kia sinh lòng xấu hổ. Lại nữa, đối với họ các ông đừng có lòng khinh chê mà tạo ra tư tưởng trở ngại. Tại sao vậy? Các cõi nước mười phương đều như hư không”.


Che giấu cái đức. Nhũn nhặn khiêm tốn. Nói lời ái ngữ. Không có lòng khinh chê. Xả bỏ hình tướng bên ngoài, hòa đồng với mọi người… Đó là “tứ nhiếp pháp”. Phật Hương Tích dặn dò.


Vị hóa Bồ-tát nhận lấy phần cơm, cùng với chín triệu vị Bồ-tát trong phút chốc vèo đến chỗ Duy-ma-cật.


 


Duy-ma-cật hỏi các vị Bồ-tát đến từ cõi Chúng Hương: “Đức Như Lai Hương Tích thuyết pháp bằng cách nào?”


Đức Như Lai ở cõi chúng tôi chẳng thuyết pháp bằng văn tự. Ngài chỉ dùng các mùi thơm, làm cho chư thiên và người ta đắc nhập luật hạnh. Bồ-tát mỗi vị đều ngồi nơi cội cây thơm, nghe mùi thơm vi diệu kia, liền thành tựu hết thảy các phép Tam-muội Đức tạng. Được các phép Tam-muội ấy rồi thì hết thảy những công đức của hàng Bồ-tát đều tự nhiên đầy đủ.”   


Chẳng cần phải nói năng cho phiền hà, gây tranh cãi, hý luận. Chỉ cần hương thơm của giới đức, tự nó tỏ rạng, dẫn dắt “chư thiên và người ta đắc nhập luật hạnh” không khó.


Rồi họ hỏi lại:“Hiện nay, đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni thuyết pháp bằng cách nào?”

Duy-ma-cật đáp: “Ở cõi này, chúng sanh cang cường khó dạy. Cho nên Phật nói với họ những lời cang cường đặng điều phục họ. Như nói về sáu nẻo luân hồi: địa ngục, súc sinh,  ngạ quỷ… Nói về Nghiệp báo của thân, khẩu, ý; Nói về Nhân quả của Sát sanh, Trộm cắp, Tà dâm, Vọng ngữ; nói về Tham sân si; về keo lận, phá giới, sân nhuế, giải đãi, loạn ý, ngu si…Thế này nên làm, thế này không nên làm. Thế này phạm tội, thế này lìa tội. Thế này trong sạch, thế này dơ nhớp. Thế này phiền não, thế này không có phiền não. Thế này tà đạo, thế này chánh đạo. Thế này hữu vi, thế này vô vi. Thế này thế gian, thế này Niết-bàn v.v…


Duy-ma-cật kết luận: “Bởi chúng sanh cõi này là những kẻ khó dạy, tâm họ như loài khỉ vượn, cho nên Phật phải dùng biết bao phương cách mà chế ngự tâm họ, rồi mới điều phục được họ! Phật phải dùng tất cả những lời khổ thiết mới có thể khiến họ vào luật.”


Nghe vậy, các Bồ-tát cõi Chúng Hương đều khen: “Chưa từng có! Như đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni, ngài che khuất cái sức tự tại vô lượng của mình mà độ thoát chúng sinh. Còn chư Bồ-tát đây cũng lao nhọc khiêm nhường lắm, các ngài đem lòng đại bi vô lượng mà sanh nơi cõi Phật này.”


Duy-ma-cật giải thích thêm: “Chư Bồ-tát ở cõi này tuy vậy một đời mà làm việc nhiêu ích cho chúng sanh, còn hơn ở cõi khác trong trăm ngàn kiếp mà làm điều thiện. Tại sao vậy? Ở thế giới Ta-bà này có mười việc thiện mà ở những cõi tịnh độ không có”.


“Những gì là mười? Dùng bố thí mà nhiếp phục kẻ bần cùng. Dùng tịnh giới mà nhiếp phục kẻ hủy cấm. Dùng nhẫn nhục mà nhiếp phục kẻ giận hờn. Dùng tinh tấn mà nhiếp phục kẻ biếng nhác. Dùng thiền định mà nhiếp phục kẻ loạn ý. Dùng trí huệ mà nhiếp phục kẻ ngu si. (Lục độ Ba-la-mật) Nói lẽ trừ nạn mà độ khỏi tám nạn. Dùng pháp Đại thừa mà độ người. Dùng các thiện căn cứu tế những kẻ không có đức. Thường dùng bốn pháp thâu nhiếp (Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự) mà giúp cho chúng sanh được thành tựu. Đó là mười việc.”


Nói những điều này Duy-ma-cật vừa nhắc lại bài học vừa động viên, khuyến khích các vị Bồ-tát tại gia tương lai kia đừng có thối chí ngã lòng khi gặp khó khăn. Sen chỉ mọc tốt trong bùn.


Các vị Bồ-tát ấy hỏi: “Ở thế giới này, Bồ-tát thành tựu bao nhiêu pháp, đức hạnh mới được không tỳ vết, sinh về tịnh độ?


Duy-ma-cật đáp: “Ở thế giới này, Bồ-tát thành tựu tám pháp, đức hạnh mới được không tỳ vết, sinh về tịnh độ”. Cõi Tịnh độ đây là cõi Phật Asuc, Phật bất động, ở Phương đông.

“Những gì là tám? Làm lợi ích cho chúng sinh mà chẳng mong báo đáp (Từ) . Chịu các khổ não thay cho tất cả chúng sinh (Bi), đem những công đức do mình tạo ra mà thí hết cho chúng sinh (Hỷ). Đem lòng bình đẳng mà thương yêu các chúng sinh, khiêm cung hạ mình một cách vô ngại (Xả) . Chẳng ganh ghét những kẻ khác khi họ được cúng dường. Không lấy phần lợi nhiều về mình. Thường xét lỗi mình, chẳng nói lỗi người. Hằng quyết một lòng cầu các công đức”.

Các Bồ-tát Chúng Hương khi nghe biết vậy đã hết lòng khâm phục, mong được Phật Thích Ca ban cho một pháp thí và Phật đã thuyết giảng về vai trò của một vị Bồ-tát: “Bất tận hữu vi / Bất trụ vô vi”.


Phật dạy Bảo Tích:“ Bồ-tát vì muốn giúp cho chúng sanh được thành tựu nên nguyện giữ lấy cõi Phật. Nhưng nếu muốn xây cất nơi hư không thì không thể được. Việc nguyện giữ lấy cõi Phật đó, chẳng phải là việc xây cất nơi hư không.”.


Hãy giữ lấy mùi hương như “Giữ thơm quê Mẹ”.


 


Lư hương xạ nhiệt


Pháp giới mông huân…


(Lò hương vừa đốt


Cõi Pháp nức xông…”


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 29, 2015 02:37

Viết cho người thầy thuốc trẻ (1)

 


Viết cho người thầy thuốc trẻ


Trước hết, cần có một tấm lòng…

y duc hinh Có lẽ nghề y là một nghề hết sức đặc biệt, liên quan đến sinh mạng của con người nên phải được huấn luyện rất lâu, rất kỹ, mà giai đoạn đầu đã phải mất khoảng 6 – 8 năm. Sau đó, còn phải học thêm 3 – 4 năm nữa để có thể thành một thầy thuốc có đủ khả năng hành nghề chuyên khoa. Rồi phải thêm chừng 10 năm kinh nghiệm nữa mới có thể gọi là thấu đáo, vững vàng trong nghề nghiệp. Trong suốt 10 năm đào tạo huấn luyện “cơ bản” như thế, người thầy thuốc đã bị “vo tròn bóp méo” thế nào, để rồi sau này trong cuộc sống ta thường thấy mọi người cười họ “méo mó nghề nghiệp”!



Trong huấn luyện, họ phải rèn tập những kỹ năng gần như “máy móc hóa”: một làn dao, một mũi kim đều không thể ngẫu hứng tình cờ. Họ cũng phải học cả những thái độ, cử chỉ, cách ứng xử với từng trường hợp – giờ giấc hoạt động của họ được lên khuôn – chương trình hóa một cách chính xác… Rồi cả cách ăn mặc, cách nói năng. Rồi những tiêu chuẩn, những đòi hỏi trong phẩm chất đạo đức.


Họ chịu trách nhiệm về phần xác – và cả một phần hồn – của thân chủ. Một sự chậm trễ thờ ơ của họ có thể làm chết người, một sự cẩu thả đùa cợt trong lời nói có thể gây nỗi đau đớn cho người khác. Chỉ có họ mới đang đêm khuya người ta dựng dậy để nghe mô tả về phân, về nước ối, về sự khó ở của người khác… Nhưng cũng chỉ có họ, mới được người ta tin cậy mà thổ lộ tất cả “tâm can”, những đau đớn thể chất, tinh thần – bởi vì họ đã thề trước ông tổ của nghề nghiệp là không bao giờ tiết lộ bí mật của người bệnh. Có những điều người bệnh không thể nói với ai – dù là cha mẹ, vợ chồng, con cái – mà chỉ nói được với người thầy thuốc.


Để rèn luyện một nghề nghiệp như thế, họ ngay từ những ngày đầu đã được khoác lên người chiếc áo blouse trắng, bỏ đi bộ quần áo quen thuộc, nếp sống cũ ở ngoài kia. Họ mày mò với xác chết, với các bộ xương người, họ qua lại trong môi trường đầy không khí trang nghiêm, trách nhiệm cao – sơ sẩy là chết người – làm quen với mùi máu, mủ, phân và nước tiểu, nước ối…, tập nghe tiếng rên la, tập nhìn con người trần trụi, tênh hênh với những sự thực phũ phàng, với những đớn đau của nó. Để rồi ngày tháng dần qua, họ đổi thay lúc nào không hay, họ nói năng trịnh trọng, họ nhìn như quan sát, họ hỏi như điều tra, họ bình tĩnh đến lạnh lùng, họ che giấu cảm xúc rất khéo léo – nghĩa là họ thành một con người khác: một bác sĩ, một người “thầy thuốc”!


Mối quan hệ giữa thầy thuốc với bệnh nhân là mối quan hệ rất đặc biệt. Người bệnh đến với thầy thuốc không chỉ tìm kiếm những thông tin liên quan đến bệnh tật, đến thuốc men, mà còn mang theo cả những nỗi băn khoăn, lo lắng và sợ hãi…


Thầy thuốc không chỉ là một chuyên viên tư vấn (consultant) về y học mà còn phải là một chuyên viên tham vấn (counsellor) về sức khỏe,về tâm lý bởi người bệnh đến với họ vì tin tưởng rằng người thầy thuốc ngoài việc chữa bệnh còn có thể an ủi, giúp đỡ họ.


Người bệnh cũng rất nhạy cảm với những “truyền thông không lời” trong mối giao tiếp đặc biệt này. Chỉ cần nhìn nét mặt, cử chỉ, nghe giọng nói, cái vỗ vai, cái bắt tay… cũng được bệnh nhân hiểu bao nhiêu điều…


Cần nhớ rằng giao tiếp là một “trị liệu”, truyền thông là một “trị liệu”. Người thầy thuốc cần có một nền tảng văn hóa đủ rộng để được gọi là “bác sĩ”!


Do vậy, người thầy thuốc trước hết, cần có một tấm lòng!


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 29, 2015 02:06

 
Viết cho người thầy thuốc trẻ
Trước hết, cần có một tấm...

 


Viết cho người thầy thuốc trẻ


Trước hết, cần có một tấm lòng…

y duc hinh Có lẽ nghề y là một nghề hết sức đặc biệt, liên quan đến sinh mạng của con người nên phải được huấn luyện rất lâu, rất kỹ, mà giai đoạn đầu đã phải mất khoảng 6 – 8 năm. Sau đó, còn phải học thêm 3 – 4 năm nữa để có thể thành một thầy thuốc có đủ khả năng hành nghề chuyên khoa. Rồi phải thêm chừng 10 năm kinh nghiệm nữa mới có thể gọi là thấu đáo, vững vàng trong nghề nghiệp. Trong suốt 10 năm đào tạo huấn luyện “cơ bản” như thế, người thầy thuốc đã bị “vo tròn bóp méo” thế nào, để rồi sau này trong cuộc sống ta thường thấy mọi người cười họ “méo mó nghề nghiệp”!



Trong huấn luyện, họ phải rèn tập những kỹ năng gần như “máy móc hóa”: một làn dao, một mũi kim đều không thể ngẫu hứng tình cờ. Họ cũng phải học cả những thái độ, cử chỉ, cách ứng xử với từng trường hợp – giờ giấc hoạt động của họ được lên khuôn – chương trình hóa một cách chính xác… Rồi cả cách ăn mặc, cách nói năng. Rồi những tiêu chuẩn, những đòi hỏi trong phẩm chất đạo đức.


Họ chịu trách nhiệm về phần xác – và cả một phần hồn – của thân chủ. Một sự chậm trễ thờ ơ của họ có thể làm chết người, một sự cẩu thả đùa cợt trong lời nói có thể gây nỗi đau đớn cho người khác. Chỉ có họ mới đang đêm khuya người ta dựng dậy để nghe mô tả về phân, về nước ối, về sự khó ở của người khác… Nhưng cũng chỉ có họ, mới được người ta tin cậy mà thổ lộ tất cả “tâm can”, những đau đớn thể chất, tinh thần – bởi vì họ đã thề trước ông tổ của nghề nghiệp là không bao giờ tiết lộ bí mật của người bệnh. Có những điều người bệnh không thể nói với ai – dù là cha mẹ, vợ chồng, con cái – mà chỉ nói được với người thầy thuốc.


Để rèn luyện một nghề nghiệp như thế, họ ngay từ những ngày đầu đã được khoác lên người chiếc áo blouse trắng, bỏ đi bộ quần áo quen thuộc, nếp sống cũ ở ngoài kia. Họ mày mò với xác chết, với các bộ xương người, họ qua lại trong môi trường đầy không khí trang nghiêm, trách nhiệm cao – sơ sẩy là chết người – làm quen với mùi máu, mủ, phân và nước tiểu, nước ối…, tập nghe tiếng rên la, tập nhìn con người trần trụi, tênh hênh với những sự thực phũ phàng, với những đớn đau của nó. Để rồi ngày tháng dần qua, họ đổi thay lúc nào không hay, họ nói năng trịnh trọng, họ nhìn như quan sát, họ hỏi như điều tra, họ bình tĩnh đến lạnh lùng, họ che giấu cảm xúc rất khéo léo – nghĩa là họ thành một con người khác: một bác sĩ, một người “thầy thuốc”!


Mối quan hệ giữa thầy thuốc với bệnh nhân là mối quan hệ rất đặc biệt. Người bệnh đến với thầy thuốc không chỉ tìm kiếm những thông tin liên quan đến bệnh tật, đến thuốc men, mà còn mang theo cả những nỗi băn khoăn, lo lắng và sợ hãi…


Thầy thuốc không chỉ là một chuyên viên tư vấn (consultant) về y học mà còn phải là một chuyên viên tham vấn (counsellor) về sức khỏe,về tâm lý bởi người bệnh đến với họ vì tin tưởng rằng người thầy thuốc ngoài việc chữa bệnh còn có thể an ủi, giúp đỡ họ.


Người bệnh cũng rất nhạy cảm với những “truyền thông không lời” trong mối giao tiếp đặc biệt này. Chỉ cần nhìn nét mặt, cử chỉ, nghe giọng nói, cái vỗ vai, cái bắt tay… cũng được bệnh nhân hiểu bao nhiêu điều…


Cần nhớ rằng giao tiếp là một “trị liệu”, truyền thông là một “trị liệu”. Người thầy thuốc cần có một nền tảng văn hóa đủ rộng để được gọi là “bác sĩ”!


Do vậy, người thầy thuốc trước hết, cần có một tấm lòng!


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 29, 2015 02:06

Thư gởi bạn xa xôi (10.15)

Thư gởi bạn xa xôi (10.15)


 


Đúng là có nhiều chuyện “tào lao” để kể cho bạn nghe. Vui thôi mà, như bạn dặn.


IMG_1176 tre con1. Thứ bảy trước, mình trốn đi Vũng Tàu mấy hôm. Trốn, là trốn những bận bịu nọ kia, những căng thẳng này khác. Trốn cũng bởi vì cái đầu gối sưng đau. Bắt đầu kiếm chuyện rồi. Lụp cụp rồi. Trốn để đi nhúng nước biển mấy hôm xem sao. Quả là tốt!



Lâu nay mình ít có dịp đi xe đò. Lần này có vợ chồng Phùng Minh Bảo-Thùy Linh cùng đi thì đi theo cho biết. Xưa các bạn trẻ thường đi theo mình, nay đến lúc mình đi theo lại! Gọi là có đi có lại.


Bảo và Linh là người đã giúp mình làm trang www.dohongngoc.com mấy năm nay có nhà ở Vũng Tàu nên thỉnh thoảng mời chú Ngọc ra chơi. Ba của Linh cũng vừa “thoát” một vụ mổ tim đang nghỉ ngơi ngoài đó “để hai ông già có dịp trò chuyện cho vui”. Ba Linh bị đau nhói ở tim, đến một bệnh viện tư khám, kêu phải mổ ngay, gia đình thấy ngại, đưa đến một bệnh viện khác, cũng bảo phải mổ, phải đặt sten ngay. Mình bèn giới thiệu đến một vị bác sĩ chuyên khoa có nhiều kinh nghiệm, được thăm khám kỹ lưỡng các thứ rồi bảo… chưa cần phải mổ! Dùng thuốc, thay đổi lối sống, theo dõi thêm cái đã. Từ ngày ra Vũng Tàu chơi với con cháu, ngày ngày tắm biển, ăn uống thanh đạm, bớt hút thuốc lá… tình trạng đã tốt hơn nhiều. Gia đình Bảo-Linh có lối sống khá tốt: ăn uống đạm bạc, rau giá thì tự trồng, trái cây thì mua tận vườn nhà quen trên núi, không dùng phân hóa học, thuốc trừ sâu; cá tôm thì mua tươi từ biển vừa đánh bắt lên…


Chiều vừa đến Vũng Tàu, hai chú cháu đi bộ xuống biển nhúng nước. Còn chút nắng ấm. Bãi vắng. Có phần sạch hơn xưa. Mình nhét vội ít tiền vào túi quần tắm, định lát nữa kiếm café. Nhưng ô kìa, bắp nướng, khoai nướng bày bán ven bãi biển… thơm lừng. Tắm xong, lên mua khoai nướng thì trời ơi, sóng đã cuốn sạch hết tiền mang theo! Kinh nghiệm: đừng bỏ tiền trong túi lúc tắm biển!


IMG_1167 lanrung


Sáng hôm sau, một mình xuống Lan Rung. Biển vắng tanh vì không là ngày cuối tuần. Chỉ có mấy nhóc nhỏ chạy chơi loanh quanh. Vừa nhắp café vừa sửa bài báo cho kịp gởi tuần sau. Rồi cầm lòng không được, lại xuống nhúng nước, thả nổi một chút vậy.


Hôm sau ra biển sớm, thấy trên bãi vắng có vài người dùng dụng cụ “rà mìn” đi rà khắp bãi biển. Mình hỏi, người ta rà để nhặt đinh, sợ du khách dẫm đạp phải không? Cười: Còn lâu! Người ta rà vàng đó chứ. Nhiều du khách tắm biển làm rớt dây chuyền, nhẫn vàng, đồng hồ… Thì ra thế!


Chiều đi thăm hai ngôi chùa cổ trong phố rồi ghé thăm một cái cốc nhỏ ở Nghinh Phong.


IMG_1208 linhPhát hiện một cái quán café cạnh hồ. Ngôi nhà ngói đỏ xa xa thật dễ thương. Hóa ra Vũng Tàu cũng còn những nơi café yên tĩnh như vậy chứ không phải chỗ nào cũng nhạc ầm ỉ.


IMG_1219 (Ớt)2. Chuyện “Ớt… cứt chim”. “Cà phê cứt chồn” thì bạn đã nghe biết nhiều rồi phải không? Hiện nay người ta đã “công nghiệp hóa” cà phê cứt chồn bằng cách nuôi cả bầy chồn, cho ăn cà phê để lấy phẩm vật. Giá một ly café cứt chồn rất đắt!


Bữa rồi BS Trần thị MH, cô học trò cũ của mình cùng với cô em là Thạc sĩ tâm lý Trần thị TN đem đến tặng mình một chậu “Ớt cứt chim” mang từ Sa Đéc lên. Ớt cứt chim do chim… rớt hột mà có chứ không phải do người trồng. Tuyệt quá phải không? Hai cô biết mình mê ớt mà, nên chịu khó khệ nệ mang về tặng thầy. Ớt cứt chim nhỏ xíu mà cay xé họng, mọc từng chùm, vươn thẳng lên trời (chỉ thiên?), mới vài ba hôm thì ớt đã tươm màu, trái vàng, trái hồng, trái xanh, trái đỏ, trái tím… tùy tuổi ớt. Cứ vài ba hôm thì mình “thu hoạch” một lần, cất đó, ăn lai rai. Nhưng thú nhất là thỉnh thoảng sáng sớm, trước khi đến trường hay đến… chùa, bưng tô mì gói nóng hổi ra ngồi gốc ớt vừa ăn vừa ngắm. Lựa ngắt từng trái cho vào miệng hít hà. Dĩ nhiên, chẳng khoa học dinh dưỡng gì ở đây cả. Nhưng yên tâm, thế nào trên báo chí cũng sẽ có những bài bảo trời ơi rằng thì là ăn ớt rất tốt, bổ tim, bổ phổi, bổ thận tráng dương, có khả năng chống gốc tự do gì gì đó, giúp trẻ mãi không già! Đó là ớt thường chớ Ớt cứt chim thì càng quý hiếm, hiệu quả càng cao!


Hẹn thư sau nhé,


Đỗ Hồng Ngọc

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 29, 2015 01:28

Đỗ Hồng Ngọc's Blog

Đỗ Hồng Ngọc
Đỗ Hồng Ngọc isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Đỗ Hồng Ngọc's blog with rss.